Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

SKKN một số biện pháp rèn kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.16 MB, 19 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1 Lí do chọn đề tài:
Trẻ em là niềm hạnh phúc của mỗi gia đình, là tương lai của dân tộc. Việc
bảo vệ và chăm sóc giáo dục trẻ em là trách nhiệm của xã hội và của mỗi gia
đình, Bác Hồ thân yêu của chúng ta từng nói:
“Trẻ em như búp trên cành
Biết ăn, biết ngủ, biết học hành là ngoan.” [1]
Trẻ em phải được sống và được dạy dỗ trong một xã hội tràn ngập tình
thương với những điều tốt đẹp luôn hiện diện xung quanh. Ngoài ra, các bé phải
được học về lòng yêu cuộc sống, yêu thiên nhiên, yêu mọi người quanh mình.
Từ những điều hết sức giản đơn ấy, sẽ dần giúp các em yêu thêm mảnh đất quê
hương mà mình đang sống. Các em phải được dạy dỗ để có thể phân biệt tốt xấu,
đúng sai. Nhưng, chúng ta cũng không nên quá gò ép để rồi để các em đánh rơi
mất tuổi thơ, có những suy nghĩ già dặn không phù hợp với lứa tuổi chỉ cần “biết
ăn, biết ngủ, biết học hành là ngoan”. Giáo dục trẻ ngay từ khi còn nhỏ là vô
cùng quan trọng trong sự nghiệp hình thành và phát triển nhân cách toàn diện
cho trẻ sau này. Bác Hồ cũng nói: “Không có giáo dục thì không nói gì đến kinh
tế văn hóa”[2]. Sản phẩm của giáo dục là con người mà con người là mục tiêu,
động lực của sự phát triển đất nước trong tương lai đó chính là thế hệ trẻ. Trong
những năm gần đây, giáo dục Mầm non đang nhận được sự quan tâm rất lớn của
các cấp các ngành và của toàn xã hội điều đó chứng minh giáo dục mầm non là
nền tảng vững chắc trong tương lai của đất nước.
Chính vì vậy, việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ đóng một vai trò quan
trọng và rất cần thiết trong sự hình thành và phát triển tâm hồn của trẻ thơ một
cách có định hướng, giúp trẻ biết quý trọng bản thân mình, từ đó nuôi dưỡng
những giá trị cuộc sống, giúp trẻ cân bằng cuộc sống trong các lĩnh vực: nhận
thức, thể chất, trí tuệ và thẩm mỹ, từ đó xây dựng cho trẻ những kỹ năng sống
biết hoà nhập với môi trường xung quanh.
Kỹ năng sống là những kỹ năng cần thiết cho hành vi đẹp lành mạnh. Kỹ
năng sống chính là chiếc chìa khoá vàng cho sự sống còn, sự phát triển và sự
thành công của mỗi con người. Có thể nói kỹ năng sống chính là phương tiện


không thể thiếu để giúp trẻ tích cực, chủ động, sáng tạo, tự tin vững vàng trước
mọi khó khăn thử thách trong cuộc sống. Dạy kỹ năng sống cho trẻ là dạy những
thói quen sinh hoạt rất thường ngày trong giao tiếp và ứng xử giữa trẻ với con
người và sự vật xung quanh trẻ. Đó cũng là những cảm nhận, những cảm xúc
của con người trước sự thay đổi của môi trường xung quanh.
Là một giáo viên mầm non, bản thân luôn quan tâm, gần gũi, động viên,
khích lệ, nắm vững đặc điểm tâm sinh lý của trẻ, đến việc làm thế nào để dạy
cho trẻ những kỹ năng sống hình thành những phẩm chất đạo đức tốt đẹp cho trẻ.
Thực tế tại lớp mẫu giáo 5 - 6 tuổi tôi được phân công phụ trách,các cháu
rất mạnh dạn, tự tin, thích đến trường lớp và thích tham gia vào các hoạt động…
Song, để trẻ có kỹ năng sống trong môi trường tập thể thì còn nhiều hạn chế:
1


chẳng hạn như kỹ năng giao tiếp với mọi người xung quanh; kỹ năng học tập và
làm việc theo nhóm bạn trong lớp, kỹ năng thích nghi với những điều kiện học
tập ở môi trường mới còn nhiều bỡ ngỡ và quan trọng là kỹ năng tự giải quyết
các vấn đề thực tế, kỹ năng tự phục vụ của trẻ còn thiếu chủ động bởi trẻ được
sự quan tâm bao bọc rất lớn của bố mẹ... một số trẻ chưa tự mặc quần áo, tự cất
đồ dùng khi đến lớp, tự xúc ăn, đánh răng, rửa mặt… Chính vì vậy, cần phải làm
gì? Làm như thế nào và giáo dục trẻ ra sao? Bằng những biện pháp nào để hình
thành kỹ năng sống tốt nhất cho trẻ là điều mà bản thân tôi luôn băn khoăn và
suy nghĩ. Với vai trò là người mẹ thứ hai của các cháu tại trường mầm non tôi
luôn luôn trăn trở và quyết định lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Một số biện pháp
rèn kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi ở trường mầm non Vĩnh Long”.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Nhằm hình thành và củng cố cho trẻ những kỹ năng cơ bản trong cuộc
sống hàng ngày tại trường mầm non, từ đó giúp trẻ có thêm vốn kinh nghiệm,
được trải nghiệm, được tích lũy để làm cơ sở cho trẻ có khả năng lĩnh hội những
giá trị của cuộc sống, của con người giúp trẻ được phát triển toàn diện về các

mặt đức, trí, thể, mỹ...
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Một số biện pháp rèn kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi ở trường
mầm non Vĩnh Long.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
Trong đề tài này, tôi đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp quan sát sư phạm.
- Phương pháp dùng lời.
- Phương pháp dùng trò chơi, trải nghiệm.
- Phương pháp phối kết hợp giữa gia đình và nhà trường.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
2.1. Cơ sở lý luận:
Giáo dục kỹ năng sống là một quá trình tác động sư phạm có mục đích, có
kế hoạch nhằm hình thành năng lực hành động tích cực, có liên quan tới kiến
thức và thái độ, giúp cá nhân có ý thức về bản thân, giao tiếp, quan hệ xã hội,
thực hiện công việc, ứng phó hiệu quả với các yêu cầu thách thức của cuộc sống
hàng ngày…Kỹ năng sống được hình thành theo nhiều cách khác nhau, tùy vào
môi trường sống và giáo dục…
Trong giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non, mẫu giáo, đó là những
hoạt động tích cực, hướng vào những hoạt động cá nhân hoặc một nhóm trẻ với
mục đích giúp trẻ có thể ứng phó hiệu quả với các tình huống, thách thức trong
cuộc sống hàng ngày. Định hướng của giáo dục kỹ năng sống cho trẻ là giúp trẻ
làm chủ bản thân, ứng xử phù hợp với cộng đồng và xã hội, thích nghi, học tập
hiệu quả, nâng cao sức khỏe tinh thần và thể chất, ứng phó tích cực trong các
2


tình huống của cuộc sống. Giáo dục kỹ năng sống là rất quan trọng và cần thiết
cho trẻ nhỏ. Giáo dục kỹ năng sống giúp cho trẻ phát triển nhân cách, thể chất,
tình cảm, giao tiếp, ngôn ngữ, tư duy một cách toàn diện, là nền tảng để trẻ tự tin

bước vào giai đoạn tiểu học.
- Về thể chất: Giáo dục kỹ năng sống giúp cho trẻ tăng cường thể chất, sự
kiên trì, bền bỉ, tháo vát… thông qua các bài học và các hoạt độẻ tự tin bước vào giai đoạn tiểu
học.
- Về thể chất: Giáo dục kỹ năng sống giúp cho trẻ tăng cường thể chất, sự kiên trì, bền bỉ, tháo vát… thông
qua các bài học và các hoạt động vận động trong quá trình dạy kỹ năng sống. Trẻ sẽ được rèn luyện sự dẻo

iệm,

biết yêu thương, biết ơn công lao của cha mẹ.
- Về giao tiếp - ngôn ngữ: Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ giúp trẻ tự tin,
giao tiếp hiệu quả, đặc biệt rèn luyện cho trẻ biết lắng nghe, nói chuyện lễ phép,
hòa nhã.
- Về nhận thức: Giáo dục kỹ năng sống giúp cho trẻ có một nền tảng kiến
thức, ham mê hiểu biết, khám phá, xây dựng cho trẻ niềm ham mêm học tập suốt
đời.
- Giáo dục kỹ năng sống giúp trẻ có bước đệm chuẩn bị sẵn sàng cho giai
đoạn các cấp học học sau này: Việc giáo dục kỹ năng sống từ sớm giúp trẻ có
khả năng thích nghi với sự thay đổi môi trường sống, khả năng hòa nhập nhanh,
giúp trẻ tự tin bước vào lớp 1.
Dạy kỹ năng sống cho trẻ mầm non là một nội dung giáo dục vô cùng
quan trọng và cần thiết đối với chúng ta, dạy kỹ năng sống cho trẻ là nhằm giúp
trẻ có những kinh nghiệm trong cuộc sống sau này của trẻ, trẻ biết được những
điều mình nên làm và những điều mình không nên làm, trẻ biết được điều hay lẽ
phải, biết được cái thiện, cái ác hướng tới chân, thiện, mỹ. Khi trẻ đã có kỹ năng
sống ngay từ buổi đầu đời, sẽ là hành trang tiếp bước trong tương lai của trẻ.
Câu thành ngữ: “Tiên học lễ, hậu học văn”[3] của cha ông ta từ ngàn xưa đã để
lại đến bây giờ vẫn còn nguyên giá trị thực tiễn. Lễ phép là nét đẹp văn hóa được
đặt lên hàng đầu khi đánh giá về một con người. Trong thời đại hiện nay, sự phát
triển của kinh tế - xã hội đang đặt ra những yêu cầu ngày càng cao đối với hệ

thống giáo dục, đòi hỏi nền giáo dục phải đào tạo ra những con người “phát triển
về trí tuệ, cường tráng về thể lực, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo
đức”.[4] Trong đó giáo dục kỹ năng sống là cốt lõi của nền tảng giáo dục.
Trẻ lứa tuổi mầm non là lứa tuổi đang dần hình thành và phát triển về mọi
mặt, việc dạy kỹ năng sống cho trẻ là vô cùng quan trọng, đặc biệt với trẻ độ tuổi
5 - 6 tuổi, ở độ tuổi này, nhận thức cũng như về mặt giao tiếp, khả năng làm việc
theo nhóm và ý thức tự biết tham gia vào các hoạt động cùng với các bạn trong
lớp. Tuy nhiên hiện nay do sự phát triển nền kinh tế nhiều gia đình rất quan tâm
đến con cái nhưng lại không có thời gian để trò chuyện vui chơi cùng con hoặc
hạn chế việc tiếp xúc giao tiếp của con với mọi người xung quanh dẫn đến một
số trẻ bị tự kỷ, thiếu tự tin, không mạnh dạn khi tham gia các hoạt động cùng các
bạn trong lớp và trẻ có thể còn chưa tự mình làm một số việc đơn giản như tự
thay quần áo, đánh răng, rửa mặt…Vì vậy, việc dạy kỹ năng sống cho trẻ đang
3


trở thành vấn đề cấp bách và cần thiết trong hệ thống giáo dục nói chung và giáo
dục mầm non nói riêng.
Là một giáo viên phụ trách lớp 5 tuổi tại trường Mầm non Vĩnh Long, bản
thân tôi nhận thấy việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ nhằm mục đích phát triển
khả năng giao tiếp, khả năng thích nghi với cuộc sống sinh hoạt, với môi trường
tự nhiên và xã hội. Trẻ biết tự phục vụ và tự bảo vệ bản thân, biết giải quyết
những vấn đề cần thiết mà trẻ cần làm. Chính vì vậy, bản thân sẽ cố gắng tìm tòi
học hỏi, đúc rút kinh nghiệm, tìm biện pháp tốt nhất làm sao để giáo dục kỹ năng
sống cho trẻ hiệu quả nhất.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến
kinh nghiệm.
2.2.1. Đặc điểm chung:
Trường mầm non Vĩnh Long được cải tạo trên nền trường cấp 1 cũ, các
phòng học nhỏ, khu vui chơi giải trí cho các cháu chật hẹp, có nhiều cây xanh

chiếm một số diện tích sân trường cũng làm ảnh hưởng đến các hoạt động vui
chơi học tập của trẻ. Các cháu đa phần là con em nông dân, bố mẹ các cháu làm
ruộng không có nhiều thời gian và điều kiện để quan tâm chăm sóc con em
mình. Dân trí còn thấp số hộ nghèo và cận nghèo còn rất nhiều, chính vì những
điều kiện đó cũng làm ảnh hưởng đến sự phát triển về mọi mặt của trẻ.
Trường có tất cả 40 cán bộ giáo viên trong đó: Ban giám hiệu 3, 37 giáo
viên, 100% có trình độ đạt chuẩn. Số học sinh trong trường là 686 cháu: 10
nhóm trẻ và 20 lớp mẫu giáo.
Năm học 2018 – 2019 tôi được nhà trường phân công dạy lớp mẫu giáo 5
- 6 tuổi B. Hai lớp mẫu giáo có 1 cô phụ, tổng số cháu lớp tôi là 36 cháu: 19 nam
và 17 nữ. Với đặc điểm tình hình như vậy khi thực hiện đề tài này tôi thấy có
một số thuận lợi và khó khăn sau:
2.2.2. Thuận lợi – khó khăn.
* Thuận lợi:
Tôi luôn được sự quan tâm của Ban giám hiệu nhà trường, tạo điều kiện
cho tôi được học hỏi bồi dưỡng chuyên môn, tự nghiên cứu tài liệu, học hỏi trao
đổi với đồng nghiệp. Bản thân luôn yêu nghề mến trẻ, ham học hỏi nâng cao
chuyên môn, trau dồi kiến thức để ngày càng tiến bộ hơn.
Tôi đã tốt nghiệp trường Đại học hệ chính quy, đã học qua một số chương
trình giảng dạy và dạy kĩ năng sống cho trẻ qua từng các hoạt động của trẻ.
Bản thân đã có 6 năm công tác tại trường và đã phụ trách các khối lớp
mẫu giáo nắm được tâm sinh lý của từng lứa tuổi mẫu giáo, có tinh thần trách
nhiệm cao, có khả năng nhận thức, học hỏi đồng nghiệp.
Lớp học được trang bị tivi và mạng internet tạo điều kiện để cô cung cấp
những kỹ năng sống cho trẻ thông qua các video, hình ảnh và trẻ tiếp nhận một
cách hứng thú.
4


Nhà trường phối hợp với phụ huynh mua sắm đầy đủ đồ dùng phục vụ cá

nhân của trẻ.
Tỷ lệ trẻ đi học chuyên cần được duy trì ổn định từ 90% trở lên, đây cũng
là điều kiện thuận lợi để giáo viên rèn kỹ năng sống cho trẻ tại nhóm lớp.
* Khó khăn:
Tuy có nhiều thuận lợi song vẫn còn không ít những khó khăn trong quá
trình tổ chức thực hiện công tác giảng dạy, cụ thể như sau:
Điều kiện của Nhà trường còn hạn chế nên chưa thể đầu tư để trẻ tham gia
trải nghiệm các hoạt động ngoại khóa nhằm phát triển kỹ năng sống cho trẻ.
Không gian lớp còn chật hẹp chưa đảm bảo cho các hoạt động; các điều
kiện về cơ sở vật chất và trang thiết bị còn có những khó khăn nhất định trong
việc tổ chức các hoạt động tập thể, các trò chơi... nhằm rèn luyện, giáo dục nề
nếp, thói quen, các kỹ năng sống cho trẻ, cũng như các điều kiện khác phục vụ
cho việc chăm sóc giáo dục trẻ.
Một số cháu đang sống trong điều kiện gia đình khó khăn bố mẹ đi làm xa
phải sống ở nhà với ông bà nên việc giáo dục rèn luyện các cháu về kỹ năng
sống và giao tiếp còn hạn chế.
Ngày nay công nghệ thông tin phổ biến, nhiều phụ huynh cho trẻ lạm
dụng quá nhiều vào internet, ti vi, các trò chơi điện tử và điều kiện về thời gian
để bố mẹ dành cho con cái còn hạn chế. Một số trẻ được bố mẹ, người lớn trong
gia đình nuông chiều quá mức nên trẻ không có tính tự lập, ích kỷ và lãnh cảm
với môi trường xung quanh...
Nhận thức của một số phụ huynh còn hạn chế thường phó mặc cho giáo
viên và có những phụ huynh lại quan tâm quá mức khiến cho việc rèn kỹ năng
sống cho trẻ bị lệch lạc. Chính vì vậy ảnh hưởng rất nhiều đến sự hình thành và
phát triển nhân cách ban đầu cho trẻ.
2.2.3. Kết quả khảo sát thực trạng kỹ năng sống của trẻ trước khi
thực hiện đề tài:
Từ thực trạng trên tôi đã lựa chọn những tiêu chí khảo sát để đánh giá kỹ
năng sống của trẻ lớp tôi trực tiếp giảng dạy với tổng số 23 trẻ:
Kết quả khảo sát lần 1 ( trước khi áp dụng các biện pháp)

đầu năm học 2018 – 2019
TT

1

Nội dung khảo sát
Kỹ năng giao tiếp tự tin, mạnh dạn với
bạn bè, người thân và mọi người xung
quanh

Tổng
số trẻ

36

Đạt

Chưa đạt

Số
cháu

Tỷ lệ Số
(%)
cháu

19

57


17

Tỷ lệ
(%)

43

5


2

Kỹ năng tự phục vụ và tự bảo vệ bản
thân trẻ

36

19

57

17

43

3

Kỹ năng hoạt động theo nhóm và khả
năng hợp tác thông qua các hoạt động
của trẻ


36

19

57

17

43

4

Kỹ năng bộc lộ cảm xúc, thái độ thông
qua các hoạt động tại nhóm lớp

36

19

57

17

43

5

Khả năng tự lập, chủ động tự tin, tính
đoàn kết, nhường nhịn, biết chơi cùng

nhau trong lớp.

36

19

57

17

43

Từ kết quả khảo sát trên cho thấy kỹ năng sống của trẻ trong môi trường
mầm non còn có những hạn chế nhất định. Trong quá trình nghiên cứu và tìm ra
các giải pháp, biện pháp tôi thấy được sở dĩ kết quả thực trạng trước khi áp dụng
các giải pháp biện pháp là do một số nguyên nhân, hạn chế sau:
Trong các hoạt động của trẻ hàng ngày chưa chú trọng phát triển ký năng
giao tiếp cho trẻ, chưa thường xuyên rèn luyện kỹ năng sống đơn giản cho trẻ ;
chưa linh hoạt, sang tạo trong việc lồng ghép những kỹ năng sống vào các môn
học và các hoạt động trong ngày cho trẻ; chưa chú trọng đến việc rèn kỹ năng
thích nghi với cuộc sống sinh hoạt, môi trường tự nhiên và xã hội cho trẻ thông
qua các hoạt động trong và ngoài trường học; phụ huynh chưa thực sự quan tâm
đến đặc điểm tâm sinh lý của con em mình; chưa hiểu và quan tâm đến công
việc của các cô ở trường. Là giáo viên phụ trách lớp tôi đã có kế hoạch và đề ra
các biện pháp sau:
2.3. Các giải pháp – biện pháp thực hiện.
2.3.1: Quan tâm chú trọng phát triển kỹ năng giao tiếp cho trẻ:
Có thể nói rằng, kỹ năng giao tiếp là một trong những kỹ năng rất quan
trọng đối với sự phát triển ngôn ngữ của trẻ, không chỉ quan trọng và cần thiết
đối với trẻ trong trường mầm non, mà ngay ở trong gia đình và toàn xã hội đều

rất quan trọng đối với cuộc sống sau này của trẻ. Trẻ có kỹ năng giao tiếp tốt tạo
được sự tự tin trong mỗi người nói chung và đối với trẻ nói riêng, thông qua giao
tiếp trẻ có thể diễn đạt hết được nhu cầu và mong muốn của trẻ đến với mọi
người, đây chính là yếu tố thuận lợi để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Vì thế
ngoài những kỹ năng sẵn có ở trẻ thì tôi luôn quan tâm áp dụng nhiều biện pháp
khác nhau để phát triển kỹ năng giao tiếp cho trẻ.
* Giáo dục kỹ năng giao tiếp với bạn bè:
Giáo dục kỹ năng giao tiếp với bạn bè là yếu tố cần thiết đối với trẻ thơ,
đây chính là một thế giới thu nhỏ của xã hội chúng ta ngày nay, là nơi đa văn
hóa, đa tính cách và cũng đa sở thích. Môi trường này tạo cơ hội cho trẻ được
học tập, được giao lưu học hỏi và có cơ hội để khám phá những sở thích, những
mối quan hệ của trẻ với trẻ trong lớp, trong trường. Cụ thể, khi tôi tổ chức cho
6


trẻ học tập, vui chơi tôi đã tạo được nhiều cơ hội để trẻ được giao lưu với bạn bè,
theo nhóm theo tổ...
Ví dụ 1: Trong giờ hoạt động góc tôi tổ chức cho trẻ chơi những trò chơi
bán hàng, trẻ này là người mua hàng, và những trẻ khác là người bán hàng, hay
đóng vai bác sĩ và bệnh nhân khám bệnh, nấu ăn.
Thông qua những vai chơi trong trò chơi đóng vai tạo cơ hội cho trẻ được
giao tiếp với nhau trẻ thể hiện ngôn ngữ của mình một cách đầy đủ, trẻ biết chào
hỏi, biết cảm ơn, xin lỗi, thể hiện được cảm xúc vui buồn…Và với những trẻ còn
nhút nhát tôi có thể cùng trẻ thể hiện vai chơi của mình, luôn định hướng ngôn
ngữ giao tiếp hoặc có thể hướng cho những trẻ có khả năng giao tiếp tốt hơn
chơi cùng bạn, như vậy trẻ cảm thấy tự tin và dần dần trẻ có thể tự mình chủ
động giao tiếp cùng các bạn khác một cách dễ dàng.
Ví dụ 2: Khi dạy trẻ khám phá khoa học “Dinh dưỡng cho trẻ” tôi yêu cầu
các nhóm tự thảo luận và cùng nhau tìm ra câu trả lời theo yêu cầu của cô như
các con có nhận xét gì về các loại thực phẩm này…tôi có thể khuyến khích trẻ,

đặt câu hỏi có vấn đề tại sao? như thế nào? có ý nghĩa gì?... để trẻ cùng nhau suy
nghĩ và tìm cách giải quyết. Ngoài ra, tôi còn sưu tầm một số câu chuyện, bài
thơ mang tính giáo dục. Giúp trẻ hiểu về các nhân vật trong câu chuyện, bài thơ
cách dùng từ ngữ để giao tiếp với nhau như thế nào?
Ví dụ 3: Cho trẻ đóng kịch truyện “Ba cô gái”, “Chú dê đen”, “Ai đáng
khen nhiều hơn”…Thông qua nội dung, ngôn ngữ của các nhân vật trong chuyện
trẻ hiểu sẽ tạo được cảm xúc tình cảm thân thiện và từ đó giúp trẻ tự tin trong
giao tiếp.
Tính cách mỗi trẻ mỗi khác, có những trẻ hoạt động rất hiếu động nhưng
cũng có những trẻ chậm chạp, thụ động hoặc quá nóng nảy...Vì thế, tôi luôn nắm
rõ đặc điểm tâm lý của trẻ để có thể rèn kỹ năng giao tiếp cho trẻ theo nhiều
phương pháp khác nhau để tránh sảy ra những va chạm về tính cách của mỗi trẻ.
Ví dụ 4: “Giao tiếp bằng nét mặt, bằng việc làm như giúp bạn nhặt đồ
chơi...hoặc nở một nụ cười thật tự nhiên”. Đây cũng chính là việc rèn kỹ năng
giao tiếp cho trẻ...Trong thực tế khi làm được điều này tôi nhận thấy kỹ năng
giao tiếp của trẻ linh hoạt hơn, năng động hơn và tự tin hơn trong bất cứ hoàn
cảnh nào trẻ cũng có thể nhận được sự thân thiện và gần gũi với bạn bè.
* Giáo dục kỹ năng giao tiếp với mọi người xung quanh:
Trẻ không chỉ phát triển giao tiếp thông qua những người thân trong gia
đình mà chúng ta còn dạy trẻ giao tiếp tốt với mọi người xung quanh là yếu tố để
phát huy khả năng giao tiếp cho trẻ.
Ví dụ 1: Thường xuyên cho trẻ giao tiếp với các cô, bác, bạn bè xung
quanh, biết chào hỏi lễ phép “Cháu chào bác ạ, cháu chào ông ạ” hay “Cháu cảm
ơn cô, cảm ơn chú” khi người lớn cho quà hay làm giúp trẻ một việc nào đó, khi
bạn bị ốm bố mẹ cần dạy trẻ biết quan tâm chia sẻ với bạn bè qua những lời nói
âu yếm tình cảm như: Bạn có đau không? Bạn có mệt không... Còn với trẻ chưa
có kỹ năng giao tiếp nhiều với cô, với bạn tôi thường xuyên gần gũi trẻ hơn, trò
7



chuyện với trẻ nhiều hơn về những người thân của trẻ, về thế giới xung quanh từ
đó trẻ sẽ mạnh dạn hơn khi tiếp xúc và giao tiếp với cô, với bạn bè và người
khác.
Ngoài ra tôi còn sưu tầm những bài thơ, câu truyện, bài hát có nội dung
giáo dục về lễ giáo với nội dung cụ thể như: Bài thơ: Che mưa cho bạn, Phải là
hai tay, Cảm ơn xin lỗi, và phô tô gửi cho phụ huynh để phụ huynh nắm được và
giúp trẻ học thuộc các bài thơ đó. Qua đó giúp trẻ có những hành vi và kỹ năng
tốt qua các bài thơ, câu truyện: Bà ốm, yêu bà, Thương ông, bó hoa tặng cô, tay
ngoan…
Ngoài ra tôi còn cho trẻ tham gia trò chơi đóng vai để trải nghiệm những kỹ
năng chào hỏi và giao tiếp.
Tạo tình huống cụ thể để giúp trẻ giải quyết và chọn cách giao tiếp với
người lớn cho phù hợp.
Ví dụ 2: Trong bữa ăn hàng ngày tôi dạy trẻ biết ở trường mời cô giáo,
bạn bè “cháu mời cô mời cơm”, “tôi mời các bạn mời cơm”, ở nhà mời ông bà,
bố mẹ, anh chị...mời cơm.
Khi tập trung rèn kỹ năng giao tiếp cho trẻ tôi nhận thấy rằng trẻ đã có
những kỹ năng giao tiếp với bạn bè, người thân...trẻ đã có những kỹ năng giao
tiếp chuẩn mực, ngôn ngữ của trẻ rõ ràng mạch lạc, ý thức trong giao tiếp của trẻ
được nâng lên, tình cảm của trẻ dành cho bạn bè, bố mẹ, người thân cũng trở nên
gần gũi và thân thiện hơn.
2.3.2. Rèn kỹ năng thích nghi với cuộc sống sinh hoạt, môi trường tự
nhiên và xã hội thông qua môi trường trong trường, lớp học và các hoạt
động ngoại khóa:
Rèn kỹ năng thích nghi với cuộc sống sinh hoạt, môi trường tự nhiên và
xã hội là kỹ năng cần thiết trong sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ.
Vì nếu kỹ năng giao tiếp là bước đệm thì thích nghi chính là bước tiếp theo để
hình thành kỹ năng sống với môi trường bên ngoài cho trẻ. Nếu trẻ có kỹ năng
thích nghi tốt thì cuộc sống sau này của trẻ sẽ hoàn toàn tự chủ, hướng tới một
mục đích tốt đẹp và tương lai tự chủ đó là những kết quả tốt cho cuộc sống của

trẻ sau này.
Có thể nói, môi trường tự nhiên là môi trường quan trọng nhất trong sự
hình thành nhân cách cho trẻ, chính vì vậy để tạo cho trẻ thích nghi với môi
trường thì trước hết môi trường sống phải là một môi trường trong sạch, lành
mạnh, thân thiện và gần gũi đối với trẻ.
Trước hết tôi luôn quan tâm hình thành và rèn kỹ năng tự lập cho trẻ.
Chẳng hạn như khi thời tiết thay đổi trẻ có thể tự lựa chọn các trang phục phù
hợp với thời tiết. Cho trẻ trải nghiệm với sự thay đổi của thời tiết.
Ví dụ 1: “Cho trẻ tắm nắng tập thể dục vào những buổi sáng” kể cả thời
tiết mùa đông và mùa hè cũng là một biện pháp giúp trẻ thích nghi cao, có sức
đề kháng cao trước mọi diễn biến phức tạp của thời tiết và các hiện tượng tự
8


nhiên. Đồng thời, tôi luôn chú ý nhắc nhở phụ huynh chú ý giữ ấm cho trẻ về
mùa đông, thoáng mát về mùa hè để đảm bảo sức khỏe cho trẻ.
Ví dụ 2: Tôi tổ chức cho trẻ tham gia nhặt lá cây, nhổ cỏ trong vườn, tưới
nước cho cây, chơi các trò chơi với cát, nước để cho trẻ được tiếp xúc với những
điều kiện tự nhiên. Đây là một hoạt động thường xuyên mà tôi và trẻ thường hay
làm ở trường, thông qua những hoạt động này trẻ tỏ ra rất thích thú, qua đây tôi
cũng giáo dục cho trẻ biết bảo vệ môi trường của mình, trẻ được thoả mãn nhu
cầu vui chơi và phát triển trí tò mò, óc sáng tạo ở trẻ. Trẻ có thể chơi với cát, đất
trong một chừng mực vừa phải vì điều đó giúp cho các bé vừa thỏa mãn được
tính năng động, vừa nâng cao khả năng đề kháng. Tuy nhiên, sự giám sát của
người lớn rất quan trọng và người lớn chỉ can thiệp khi có những dấu hiệu của sự
nguy hiểm không an toàn. Điều đó không chỉ giúp trẻ mạnh dạn và tự tin hơn mà
còn giúp trẻ sẽ hạn chế được tính ỷ lại sảy ra không đáng có ở trẻ.
(

Hình ảnh cô cho trẻ tham gia nhổ cỏ cho vườn rau)

Ngoài việc rèn cho trẻ thích nghi tốt với môi trường tự nhiên thì việc rèn
kỹ năng thích nghi với môi trường xã hội là quan trọng và cần thiết nên tôi đã
tham mưu với Ban giám hiệu nhà trường hỗ trợ kinh phí, phối hợp với phụ
huynh của lớp tổ chức các hoạt động ngoại khóa cho trẻ theo tháng để trẻ được
trải nghiệm thực tế, trải nghiệm các kỹ năng tự phục vụ, kỹ năng ứng phó với
mọi người và xã hội, từ đó dần hình thành, trang bị và tích lũy những kỹ năng
cần thiết cho trẻ.
Ví dụ 3: Cô tổ chức cho trẻ đi thăm quan nhà văn hoá thôn, tượng đài liệt
sĩ, đình làng Hồ Nam hoặc nhắc nhở khi trẻ đi chơi công viên với bố mẹ phải
biết chào hỏi người lớn lễ phép, biết bỏ rác đúng nơi quy định, biết xếp hàng chờ
đến lượt, biết ứng sử và có những hành vi văn minh, lịch sự nơi công cộng; tạo
dựng những tình huống giáo dục kỹ năng sống cho trẻ thông qua sự giúp đỡ của
9


một người nào đó “lạ” đối với trẻ để trẻ được trải nghiệm và phát huy ở trẻ khả
năng ứng phó với những tình huống như: người lạ cho quà, người lạ bắt đi,...
Bằng những việc làm này chúng ta có thể giúp trẻ quen dần với nơi cộng
cộng, những nơi có đông người qua việc cho trẻ tham gia các giờ học dạo chơi
tham quan, tham gia các hoạt động ở trường, các hoạt động ngoại khóa. Ngoài
ra, trong việc hòa nhập với xã hội, chúng ta cũng cần tập cho trẻ những thói quen
ứng xử với một phong cách văn minh, lịch sự. Đây là một thói quen mà hầu hết
người lớn chúng ta không để ý khi cho trẻ tham gia vào các hoạt động trong môi
trường xã hội. Người lớn chúng ta cần phải làm gương và rèn cho trẻ có thói
quen ngay từ nhỏ về cách ứng xử văn hóa nơi công cộng tạo cho trẻ có tính kỷ
luật khi tiếp xúc với môi trường xã hội.
Có thể nói, rèn kỹ năng thích nghi với cuộc sống sinh hoạt, môi trường tự
nhiên và xã hội cho trẻ là điều kiện tốt nhất để hình thành các kỹ năng cơ bản
ban đầu cho trẻ, để trẻ có những hành trang kiến thức về môi trường tự nhiên và
xã hội khi trẻ tham gia và các hoạt động. Từ đó trẻ không bị xa rời với thực tế

mà còn biết ứng xử văn minh lịch sự và có kỷ luật, đoàn kết tương trợ và giúp đỡ
mọi người.
2.3.3. Rèn kỹ năng tự chăm sóc tự phục vụ và bảo vệ bản thân:
Việc dạy trẻ biết tự chăm sóc, tự phục vụ và bảo vệ bản thân chính là
chúng ta đã dạy trẻ, rèn cho trẻ tính chủ động, tính tự lập và biết mình phải làm
gì cho bản thân mà không phải phụ thuộc vào người khác trong mọi hoàn cảnh
của cuộc sống sau này.
Ví dụ 1: Dạy trẻ biết tự mặc quần áo, biết tự xúc cơm ăn, tự lau dọn bàn
ghế giúp cô, rửa tay trước khi ăn, sau khi đi vệ sinh...Khi học tập trẻ biết tự lựa
chọn đồ dùng phù hợp như sách vở... hoặc khi người lớn giao việc thì trẻ biết
cách sắp xếp công việc đúng theo khả năng của mình...

10


( Hình ảnh cô hướng dẫn trẻ lau mặt ở trường mầm non Vĩnh Khang)
Dạy cho trẻ khả năng tự chăm sóc, tự phục vụ và bảo vệ bản thân là dạy
trẻ tính kỷ luật, tính tự chủ biết giúp đỡ người thân trong gia đình và mọi người
xung quanh. Bởi vì nếu trẻ không biết tự chăm sóc mình thì sẽ không cảm nhận
được sự vất vả, sự quan tâm của mọi người dành cho mình, biết được điều này
thì trẻ sẽ biết chia sẻ, gắn bó và biết dành tình cảm mà người thân đã cho mình.
Có thể nói là việc dạy trẻ trong ăn uống cũng là một cách bảo vệ bản thân trẻ tốt
nhất.
Ví dụ 2: Đôi khi trẻ có những sở thích đặc biệt về ăn uống, chỉ thích ăn vài
loại thực phẩm nhất định, uống vài loại sữa hay thức uống nhất định. Tôi đã
thường xuyên chú trọng giáo dục trẻ biết ăn nhiều loại thực phẩm, món ăn khác
nhau đảm bảo đầy đủ các chất dinh dưỡng thì cơ thể mới khỏe mạnh.
Ngoài việc dạy trẻ biết tự phục vụ chăm sóc bản thân thì tôi còn dạy trẻ
biết lao động tự phục vụ như trong các giờ học, giờ vui chơi.
Ví dụ 3: Trẻ tự biết lấy và cất đồ dùng theo yêu cầu và đúng nơi quy định.

Dạy trẻ cách bảo vệ bản thân để tránh xảy ra tại nạn thương tích trong ăn
uống như sặc cơm, sặc cháo, các dị vật trong ăn uống... trong sinh hoạt đảm bảo
an toàn trong trường học, trong gia đình và mọi lúc mọi nơi, đây cũng là tạo cho
trẻ có ý thức tự giác và khả năng bảo vệ bản thân.
Ví dụ 4: Các mối nguy hiểm trẻ cần bảo vệ như: gas, bàn là, điện, nước
nóng, dao kéo...
Ngoài ra tôi còn chú trọng giáo dục cho trẻ biết được các mối nguy hiểm
đối với môi trường tự nhiên và xã hội để trẻ có ý thức và cách phòng tránh khi
bắt gặp các mối nguy hiểm như: bắt cóc, bắt nạt, lạc đường... cần phải đội mũ
bảo hiểm khi tham gia giao thông để tránh tai nạn...Các mối nguy hiểm bất ngờ:
Cháy nổ, kẹt thang máy, chó cắn, ong đốt, ngộ độc...biết về các hiện tượng tự nhiên
như động đất, lũ lụt, bị sa vào vũng lầy, đuối nước... thông qua các video hoặc
hình ảnh qua tivi để trẻ hứng thú tiếp nhận và khắc sâu ghi nhớ hơn.
Các mối nguy hiểm có thể sảy ra đối với trẻ, vì thế chúng ta cần chú trọng
giúp trẻ biết tránh xa và không đến gần những mối nguy hiểm đó, mặt khác các
mối nguy hiểm này đều có nguy cơ xảy ra nếu chúng ta không giáo dục trẻ kịp
thời để trẻ biết cách phân biệt và tự bảo vệ. Thông qua kỹ năng này nhà trường,
giáo viên và trẻ đã có thể phòng tránh tai nạn thương tích cho trẻ trong trường
Mầm non cũng như ở nhà và ở nơi công cộng.
2.3.4 Phát triển kỹ năng hoạt động theo nhóm và khả năng hợp tác
thông qua các hoạt động của trẻ:
Trong các hình thức tổ chức dạy học thì hình thức dạy trẻ hoạt động theo
nhóm hiện nay đang được rất nhiều giáo viên lựa chọn và sử dụng, đặc biệt đối
với trẻ 5 - 6 tuổi thì khả năng hoạt động theo nhóm của trẻ là rất lớn. Trẻ thường
yêu thích trò chơi do mình tự lựa chọn và tự đề ra cách chơi, tự phân nhóm. Vì
vậy để việc giáo dục mang tính hiệu quả cao, tôi đã tiến hành bài dạy thông qua
11


trò chơi giờ học, trò chơi đóng vai, diễn kịch…Với niềm say mê tự khám phá trẻ

đã tiếp thu kiến thức thực tế để vận dụng trong cuộc sống, mỗi trẻ sẽ giới thiệu
nhiều kết quả bất ngờ. Giáo viên đưa ra những bài tập, những thử thách, trò chơi
mang tính chất tập thể đòi hỏi trẻ phải tự tìm nhóm, tự hợp tác bàn luận trong
nhóm để hoàn thành yêu cầu của cô. Đây chính là ý thức tập thể, tính đoàn kết
khi trẻ tham gia hoạt động theo nhóm.
Ví dụ: Cho trẻ tham gia các trò chơi dân gian, mèo đuổi chuột, bịt mắt bắt
dê, câu chuyện cáo và thỏ, hay trong giờ học tôi đã đặt câu hỏi yêu cầu tổ, nhóm
trả lời, tự khắc trẻ sẽ tự tập hợp nhóm của mình để bàn bạc thống nhất để đưa
ra kết quả.
Như trong giờ học khám phá khoa học “Một số đồ dùng trong gia đình”
tôi đã tổ chức cho trẻ hoạt động theo nhóm ngoài việc phát huy tính tích cực, chủ
động và sáng tạo trong hoạt động của mình, trẻ có thể bàn nhau để tìm cho tổ
mình nhóm đồ dùng mà cô yêu cầu...
Rồi trong hoạt động góc tôi hướng trẻ chơi theo nhóm và trẻ có thể bầu
nhóm trưởng để phân công công việc cho nhau, tạo sự đoàn kết và ý thức trách
nhiệm của từng thành viên khi được giao nhiệm vụ.
Bằng những hình thức khác nhau tôi luôn khuyến khích trẻ hoạt động theo
nhóm để từ đó trẻ có những kỹ năng độc lập, nhanh nhẹn hoạt bát và có khả
năng làm thủ lĩnh độc lập trong cuộc sống sau này của trẻ. Khi trẻ tham gia vào
một hoạt động nhóm đòi hỏi trẻ phải có sự làm việc nghiêm túc, phải phân công
rõ ràng để đạt được kết quả. Tôi luôn động viên để trẻ thấy được sự nỗ lực của
cả nhóm trong quá trình trẻ làm việc theo nhóm. Khi nhận xét tôi đã chú trọng để
trẻ cảm nhận được mỗi thành viên trong nhóm đều rất quan trọng và đều đã làm
việc rất tốt. Dù kết quả đó có đạt yêu cầu hay không đạt yêu cầu thì trẻ vẫn cảm
thấy giá trị của sự đoàn kết giữa các thành viên trong nhóm, tự biết động viên và
an ủi, tạo niềm vui cho nhau thông qua kết quả tập thể đạt được.
Việc dạy cho trẻ kỹ năng, hoạt động theo nhóm và tự giải quyết các vấn đề
cần thiết ở môi trường thực tế hiện nay là một điều hết sức cần thiết, đặc biệt là ở
lứa tuổi Mầm non. Ví dụ: Khi cho trẻ cùng tập bài tập đồng diễn; ném vòng cổ
chai; ném bóng vào rổ… từ những kinh nghiệm truyền thụ về kiến thức cơ bản

và lòng nhiệt tình, tâm huyết mà tôi đã truyền đạt cho trẻ, trẻ đã biết phối kết
hợp với nhau trong các động tác ngoài ra còn biết tự mình giải quyết những tình
huống sảy ra, biết sáng tạo linh hoạt trong các phần thi, biết nhắc nhở bạn trong
khi thực hiện bài tập mà không có cô giáo.
2.3.5. Giáo dục trẻ kỹ năng sống thông qua các hoạt động khác trong
ngày:
Đối với trẻ thơ cháu nào cũng muốn tham gia vào tất cả các hoạt động
trong ngầy để trải nghiệm trong cuộc sống, vì vậy tôi luôn khuyến khích, động
viên tất cả các trẻ tham gia chơi càng đông càng vui để tạo cho trẻ tính độc lập
và học hỏi lẫn nhau từ đó tạo cho trẻ có tinh thần tập thể. Từ đó hình thành cho
12


trẻ những kỹ năng đơn giản nhất để khi trước khi bước vào một hoạt động nào
đó trẻ có thể dễ dàng làm được.
Ngoài hoạt động chung, hoạt động vui chơi ra tôi còn hướng dẫn dạy trẻ
kỹ năng sống thông qua các hoạt động khác như:
- Trong giờ đón trả trẻ: Tôi cùng các giáo viên khác trò chuyện với trẻ,
giáo dục trẻ kỹ năng giao tiếp, kỹ năng tự cất giầy dép, ba lô đúng nơi quy định
ngoài ra tôi còn dạy trẻ biết chào hỏi, biết nói lời xin lỗi, biết nói cảm ơi, không
nói leo khi người khác nói, không tự tiện lấy đồ và sử dụng đồ của người khác…
- Trong giờ thể dục sáng: Tôi hướng dẫn trẻ cách đứng thẳng hàng, bạn
sau nhường bạn trước, có tính chủ động biết vị trí của mình ở đâu trong hàng, đi
theo hàng lối, không chen lấn xô đẩy bạn…

( Hình ảnh cô và trẻ tập thể dục sáng ở trường mầm non Vĩnh Khang )
- Trong giờ chơi, hoạt động góc: Tôi hướng dẫn trẻ tự chọn nhóm với
nhau để chơi, tự thỏa thuận các vai chơi trong nhóm để biết được trong nhóm
chơi nhiệm vụ của mình là làm gì.
- Trong giờ chơi, hoạt động ngoài trời: Tôi đưa kỹ năng sống tự tin: Một

trong những kỹ năng đầu tiên mà giáo viên cần chú tâm là phát triển sự tự tin,
lòng tự trọng của trẻ. Nghĩa là giúp trẻ cảm nhận được mình là ai, cả về cá nhân
cũng như trong mối quan hệ với những người khác. Kỹ năng sống này giúp trẻ
luôn cảm thấy tự tin trong mọi tình huống ở mọi nơi.
- Trong giờ vệ sinh: Tôi dạy trẻ các kỹ năng tự phục vụ như: Rửa mặt,
rửa tay bằng xà phòng, cách trải tóc, cách gấp quần áo và đi vệ sinh đúng nơi
quy định…

13




×