Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Những nét độc đáo trong truyện ngắn thuốc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (56.65 KB, 15 trang )

Trong di sản văn học của Lỗ Tấn, Thuốc là truyện ngắn đặc biệt và luôn giữ một vị
trí quan trọng, độc đáo trong cách thức kết cấu, tổ chức không gian, bố trí nhân vật
và tái hiện nhân vật.
Lỗ Tấn
Với kết cấu bốn phần, mạch lạc tạo ra cảm giác kết cấu khai – thừa – luận – kết
hay khai – thừa – chuyển – hợp tương tự như kết cấu của một bài thơ cổ điển, được
đánh số thứ tự từ I đến IV, câu chuyện mang tiêu đề vừa thực vừa biểu trưng –
Thuốc – được chia thành hai không gian rất đặc trưng gắn với nhan đề tác phẩm:
không gian quán trà nhà lão Hoa với ba phần và không gian nghĩa địa với phần còn
lại mà độ dài không kém ba phần kia là bao.

Phần khai truyện, tương ứng với phần khai đề của một bài thơ cổ điển, được mở ra
từ không gian thứ nhất bằng một buổi sáng sớm, chưa sáng hẳn song cũng đã
chuyển sang một ngày mới với nội dung chính là mua thuốc. Đó là “một đêm thu
gần về sáng, trăng lặn rồi, nhưng mặt trời chưa mọc”. Bóng tối bao trùm lên không
gian ấy, trời không trăng cũng chẳng có sao nên “ngoài những giống đi ăn đêm,
còn thì ngủ say cả”. Để xua đi cái bóng tối ấy, lão Hoa, chủ nhân của ngôi nhà vừa
để ở vừa để bán hàng, đã “đánh diêm, thắp cái đèn nhầy nhụa những dầu là dầu” để
tạo ra một thứ ánh sáng “trắng xanh sáng khắp hai gian quán trà”. Ánh sáng ấy
không làm cho ngôi nhà ấm lên, hay sáng thêm mà chỉ làm cho nó chìm ngập sâu
hơn vào bóng tối đang phủ dày xung quanh, khiến sự trầm lắng có chiều sâu và
hoàn cảnh buồn bã thê thảm hơn. Ánh sáng ấy cũng mang tính chất khác thường.
Đã thế sau khi thắp ngọn đèn lồng, lão Hoa lại “tắt ngọn đèn con”, tắt luôn thứ
“ánh sáng trắng xanh” đầy vẻ ma quái, hăm dọa ấy. Cảm giác về bóng tối bao trùm
lại hiện ra khi lão bước ra “ngoài đường, trời tối om và hết sức vắng”. Trong bóng
tối ấy, lão đi vừa với tràn trề hi vọng, vừa nơm nớp lo cho gói bạc cồm cộm trong
túi. Lão đi đến nơi sẽ có phương thuốc diệu kì chữa bệnh cho con lão, phương
thuốc được truyền khẩu trong dân gian song không phải ai cũng biết, kể cả lão
Hoa.



Sự dịch chuyển thời gian được đánh dấu bằng: “Trời cũng sáng dần và đường cũng
càng lâu càng rõ” và lão cũng đến được nơi lão cần đến: một ngã ba đường nơi có
“một cửa hiệu còn đóng kín mít”. Tại đó, như một người lạc đường vào một xứ sở
mới, lão “ngước đầu nhìn xung quanh” và “thấy bao nhiêu người kì dị hết sức, cứ
hai ba người một, đi đi lại lại như những bóng ma. Nhưng nhìn kĩ thì lại chẳng lấy
gì làm quái lạ nữa”. Đúng là lão đang rơi vào trạng thái trông gà hóa cuốc, thần
hồn nát thần tính mà tất cả cũng chỉ vì phương thuốc mà nhà lão đang rất cần để
chữa bệnh cho con. Thứ ánh sáng ở đây tạo cho lão cái nhìn ảo giác, vừa thực vừa
hư mà cho dù không viết một lời bình nào nhưng tác giả cũng hé lộ cho ta thấy
trạng thái tâm lí lưỡng phân của lão Hoa. Nếu có ai đó nhìn lão thì cũng nhìn bằng
“ánh mắt cú vọ ngời lên, như người đói lâu ngày thấy cơm” hoặc nhìn lão với đôi
mắt “sắc như hai lưỡi dao chọc thẳng vào lão”. Những cặp mắt ấy cùng với những
cái nhìn kia gia tăng sức nặng cho phương thuốc“đặc biệt lắm”, đó là “một chiếc
bánh bao nhuốm máu” mà lão nhìn rõ là “đỏ tươi, máu còn nhỏ từng giọt từng
giọt”. Tác giả kể một cách tuần tự, không vội vã, như thể đang theo nhịp của từng
giọt máu đang nhỏ xuống. Màu đỏ của máu tương phản với sắc phục màu đen của
người bán bánh tạo ra ấn tượng hãi hùng, vừa huyền bí vừa mang sắc thái mỉa mai
và đây là hai màu sắc đặc trưng mà lão Hoa nhận ra cũng như tác giả nhấn mạnh
cho độc giả biết.

Việc mua bán đã xong và lão đã có trong tay “cái gói bánh”, lão nâng niu nó như
“nâng niu đứa con của gia đình mười đời độc đinh”. Có “gói bánh ấy” lão hoàn
thành trách nhiệm làm cha, và lại cũng báo hiếu được cho tổ tiên, cứu cho dòng dõi
nhà mình không dứt dòng tuyệt giống theo triết lí của đạo Khổng. Hình ảnh mặt
trời lại xuất hiện: “Mặt trời đã mọc, chiếu sáng con đường lớn đi về nhà lão, và
cũng chiếu sáng cái biển mục nát trên cái nhà bia ở ngã ba đường sau lưng lão, có
đề bốn chữ thếp vàng đã nhạt màu Cổ… Đình Khẩu”. Tác giả dường như cố tình
bỏ mất một chữ, song thực ra chỉ nhằm để chứng minh thêm rằng vầng dương đang
chiếu sáng kia cũng chỉ là vầng dương yếu ớt, không đủ để soi rọi cả bốn chữ mà
chỉ đủ chiếu sáng có ba.



Số lượng nhân vật trong truyện có thể nói là nhiều, song hiện hình rõ rệt chỉ có
bốn. Trước hết là vợ chồng lão Hoa chủ quán hiện ra chỉ với những động tác mà
không có nét ngoại hình nào. Hai vợ chồng rất kiệm lời, thể hiện sự nhất trí nhưng
đầy băn khoăn nghi ngại mà cả vợ lẫn chồng đều không dám nói ra. Vì thế khi cầm
gói bạc để đi mua thuốc, tay lão Hoa cứ “run run”, và cả khi đưa tiền để lấy chiếc
bánh bao đẫm máu người tay lão cũng “run run”, khi gặp người lạ thì lão “trố mắt
lên”. Nhân vật Thuyên được giới thiệu bằng “một cơn ho” và lời dặn dò của lão
Hoa mà không hiện ra cụ thể, song qua cách giới thiệu như vậy độc giả đã nắm bắt
được lí do ra đi vào buổi tờ mờ sáng, khi còn chưa rõ mặt người, của lão Hoa với
gói bạc dành dụm được từ lâu. Cơn ho còn là động lực thúc đẩy lão Hoa phải đi,
vừa tạo ra sự thấp thỏm đợi chờ của bà Hoa. Một nhân vật khác được miêu tả qua
bộ “áo quần đen ngòm”, song có khác hơn một chút là hắn có cặp “mắt sắc như hai
lưỡi dao” với cử chỉ và cách nói dứt khoát: “Này! Tiền trao cháo múc, đưa đây!”.
Nhân vật này hiện ra với cách thức của một kẻ đao phủ chuyên nghiệp, lọc lõi
chuyên buôn máu người chết. Hắn cũng chẳng nói nhiều và cũng biết chẳng cần
nói nhiều nhưng đã nói thì lời của hắn phải là mệnh lệnh.

Số nhân vật khác hiện dưới dạng các đám đông “tụm năm tụm ba” mà không thể
biết số lượng là bao. Ngoài ra, còn “mấy người lính” được phân biệt không phải
qua tên người hay khuôn mặt mà qua dấu hiệu quần áo có đính“miếng vải tròn màu
trắng ở vạt áo trước và vạt áo sau”. Đây là loại nhân vật được định danh bằng kí
hiệu qui ước, song cũng thuộc loại nhân vật đám đông. Tất cả họp thành một cái
chợ đặc biệt. Kẻ bán, bán loại thuốc “đặc biệt”,còn người mua tuy ngại ngùng song
không thể không mua. Cái vô giá của mặt hàng ấy không phải ở chất liệu bánh mì
làm nên chiếc bánh bao mà ở chỗ nó được tẩm máu phạm nhân chết chém. Người
phải chết đã chết rồi nhưng phần cơ thể của họ, hiện hình qua những giọt máu đỏ
tươi còn rỏ dài theo bước chân của kẻ bán, tạo nên một nghịch cảnh trớ trêu, đầy
nước mắt. Số lượng người đến mua không đếm được song không phải là ít ỏi dưới

mức bình thường, càng cho thấy rõ hơn nỗi đau của đám dân chúng cuồng tín mê
muội mà tác giả ngầm gửi gắm trong câu chuyện.


Con đường mà lão Hoa đi bắt đầu từ nhà lão và kết thúc tại ngã ba đường, nơi có
“ngôi nhà còn đóng cửa kín mít” mà lão đã đứng chờ để mua phương thuốc thần
diệu, nơi những người “tụm năm tụm ba lúc nãy” “dồn lại một chỗ”, “xô nhào tới
như nước thủy triều”, “quây lại thành một nửa vòng tròn”. Con đường đưa lão trở
về hiển nhiên cũng chính là con đường ấy, song điều khác biệt là đám người “tụm
năm tụm ba” kia, đám người “quây thành nửa vòng tròn” kia đã biến mất từ lúc
nào và thay vào đó chỉ là tấm bia có “cái biển mục nát”, bốn chữ chỉ còn ba. Sức
gợi của mạch văn ở đây là rất lớn mà nếu chỉ đọc bàng bạc lướt qua thì chắc hẳn sẽ
bỏ rơi những giá trị nhận thức cần thiết không chỉ để hiểu câu chuyện mà còn để
hiểu thời đại mà câu chuyện đề cập tới nữa. Đám người biến mất tăm mất dạng ở
ngã ba đường, lão Hoa cũng chỉ đến ngã ba đường rồi quay lại. Ngã ba đường nơi
người ta bán bánh bao tẩm máu người, nơi người ta tận dụng cái chết để tạo thành
thuốc “đặc biệt”, nơi nuôi dưỡng niềm tin mù quáng và cuồng tín. Ngã ba đường là
nơi người ta phải chọn lựa, song sự chọn lựa của lão Hoa chỉ là quay về nhà với
niềm tin vào chiếc bánh tẩm máu người mang sức mạnh thần bí. Ngã ba đường này
vừa thực lại vừa hư, một ngã ba đường với cái nhà bia tưởng niệm với cái biển đề
mục nát. Ngã ba đường kiểu này thường gắn với hình tượng con đường vốn tiêu
biểu cho tài năng và trí tuệ của Lỗ Tấn.

Phần thừa đề diễn ra ngay trong ngôi nhà – quán trà ấy mà ta có thể tóm gọn nội
dung bằng cụm từ dùng thuốc. Ánh sáng cũng không sáng hơn cho dù có “ngọn lửa
đỏ sẫm bốc lên” từ trong gian bếp, tuy nhiên với ánh sáng ấy cũng đủ để nhận ra
“trên đĩa có vật gì tròn tròn, đen thui” qua màu đen của vỏ chiếc bánh bao bị “cháy
sém” và “làn hơi trắng” bốc ra từ chiếc bánh bị bẻ làm đôi, tiếp đó là ruột bánh
bằng “bột mì trắng”. Hành động diễn ra ở đây không nhiều nhưng đều được thể
hiện một cách rất cẩn trọng, đầy xác tín. Hình ảnh “thằng Thuyên đang ngồi ăn

cơm ở cái bàn dãy phía trong, mồ hôi trán nhỏ từng giọt to tướng, chiếc áo kép
dính vào sống lưng, hai xương vai gồ lên thành chữ “bát” in nổi” trong mở đầu
đoạn II với cách thức “Thuyên nghe tim mình đập mạnh không sao cầm nổi, đưa
tay vuốt ngực” khi kết thúc phần II, gợi ra cảm giác mong manh, vô nghĩa của
phương thuốc “đặc biệt lắm” mà lão Hoa mua về. Ngoài màu đen của vỏ chiếc
bánh bị cháy sém và màu trắng của làn hơi bốc lên từ chiếc bánh bị bẻ đôi mà làn
hơi đó cũng mang lại cảm giác rợn người là màu chủ đạo, ở đây còn xuất hiện mùi
vị qua sự cảm nhận của nhân vật Năm Gù: “Thơm ghê quá”, song đó là “mùi thơm


quái lạ tràn ngập cả quán trà”, mùi thơm tỏa ra từ chiếc bánh bao tẩm máu người
được bọc lá sen để nướng. Cái “mùi thơm quái lạ” này càng tăng thêm ấn tượng
cho phương thuốc đặc biệt, vừa tạo ra niềm tin cho vợ chồng lão Hoa vừa đe dọa
cảm thức tâm linh của họ.

Số lượng nhân vật ở đây cũng chỉ có bốn song vợ chồng lão Hoa chủ quán cũng
chỉ được giới thiệu qua các động tác, cử chỉ là chủ yếu, ngoại trừ hình ảnh “bà Hoa
từ trong bếp chạy ra, giương to đôi mắt, đôi môi run run”. Còn thằng Thuyên đứa
con còn lại của một gia đình “mười đời độc đinh” được giới thiệu kĩ hơn. Trước hết
là hình dáng với “hai xương vai gồ lên thành chữ “bát” in nổi” cho thấy căn bệnh
của nó đã vô phương cứu chữa và vì thế sự tuyệt vọng của gia đình càng tăng hơn.
Rồi các động tác ăn bánh của nó, ngoan ngoãn hiền lành, bảo ăn thì ăn, bảo uống
thì uống, bảo nằm thì nằm, không hề hé răng nửa lời bởi nó chẳng còn đủ sức mà
nói mà phô nữa, tới mức mới vừa nuốt khỏi cổ nó cũng quên tuốt luôn “mùi vị”
của cái bánh mà nó vừa nhai nuốt, bởi lẽ nó cũng đã mất đi cảm giác ngon miệng,
bởi bệnh đã trầm trọng lắm rồi. Cách hành động của Thuyên được thể hiện rõ nhất
lúc hắn cầm chiếc bánh: “Thuyên cầm lấy vật đen thui, nhìn một lúc, có cảm giác
rất lạ không biết thế nào mà nói, như đang cầm tính mệnh của chính mình trong
tay”. Cái “lạ” trở thành cảm giác chung được mọi nhân vật nhận biết nhưng cả cha
mẹ lẫn đứa con đều không nói cho nhau nửa lời về chuyện đó. Cái “lạ” dường như

chứa đựng một điều gì đó bí ẩn, khác thường, mà tuy nhận ra cái khác thường ấy,
khác thường bởi đó là chiếc bánh bao tẩm máu người, song cả lão Hoa lẫn bà Hoa
đều có cảm giác như là vật thiêng cứu mạng. Cách trả lời duy nhất của thằng
Thuyên là “ho”, là những “cơn ho”. Cho nên khi thấy đứa con ăn có vẻ ngon lành
thì hai ông bà cứ “trố mắt lên” như thể đang đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên
khác hoặc giả cũng có thể quá đỗi lo sợ vì đứa con đang ăn nhanh để mà chết chứ
không phải để kéo dài cuộc sống thì cả hai đều không thể nói ra lời nên đành phải
“trố mắt” mà nhìn vậy. Hình ảnh “lão Hoa đứng một bên, bà Hoa đứng một bên”,
còn ở giữa là đứa con tạo ra cảm giác như thể hai người đó đang đứng hai bên
chiếc quan tài trong một đám tang. Cảnh tượng đó thật hãi hùng song có tính biểu
tượng rất lớn và kèm theo đó là nỗi đau tuyệt vọng, vừa của người đang sống mòn
mỏi vô vọng lẫn của cả người đang chết dần một cách tuyệt vọng. Tác giả khi miêu
tả hai ông bà này cũng chỉ đặc tả trạng thái bất bình thường của họ qua đôi mắt mà
cụm từ được sử dụng nhiều nhất là “trố mắt lên”, còn khi phải hành động thì luôn


“run run”. Bà Hoa “run run” sợ chồng không mua được thuốc, lão Hoa “run run”
khi đón nhận chiếc bánh bao tẩm máu người từ tên đao phủ. Hoàn cảnh mà cả hai
bị đặt vào thật hết sức thương tâm.

Nhân vật thứ tư xuất hiện trong phần này là nhân vật có tên: “cậu Năm Gù”- cái
tên này trước hết là một số thứ tự tạo ra ấn tượng về kiểu nhân vật vô danh, kiểu
nhân vật mang kí hiệu qui ước, kèm theo đặc điểm nhân dạng qua biểu hiện tật
nguyền của con người đó: nhân vật bị “gù”. Xét về bản chất, đây là loại nhân vật
vô công rồi nghề, thể hiện ở chỗ: “cậu ta ngày nào cũng lê la ở cái quán này,
thường đến sớm nhất mà cũng về muộn hơn ai hết”. Cái mà cậu ta cảm nhận được
là mùi vị bốc ra từ gian bếp. Cái mùi đối với vợ chồng lão Hoa là “quái lạ” thì lại
được nhân vật cảm nhận thành mùi cơm rang: “Thơm ghê nhỉ !”. Sự tật nguyền của
cơ thể chưa đủ, tác giả cho nhân vật này tật nguyền luôn cả khứu giác. Con người
này, bao giờ cũng đến sớm nhất và ra về muộn nhất, tại nơi mà một con bệnh đang

hấp hối khiến cho không gian ngôi nhà – quán trà trở thành không gian đầy tử khí,
nơi đó sự sống đang dần bị mất đi, cái chết đang lấn tới, bởi cái chết không chỉ
hiện diện trong ngôi nhà – quán trà đó mà còn cả cái chết được mua, mang từ ngoài
về. Nhưng những con người đó không chỉ chết dần về mặt thể xác mà điều quan
trọng hơn là họ đang chết cả về tâm hồn lẫn trí tuệ.

Không gian ngôi nhà – quán trà ấy tiếp tục được mở ra trong phần III – phần luận
đề hay chuyển đề của câu chuyện, với số lượng người có vẻ tấp nập hơn, ồn ào hơn
nhưng cũng buồn bã hơn. Nội dung câu chuyện được bàn ở đây là công dụng của
thứ thuốc “đặc biệt” và nguồn gốc của thứ thuốc ấy. Ánh sáng cũng không sáng
hơn, chỉ đủ để phân biệt màu huyền trên chiếc áo và chiếc thắt lưng của nhân vật
Cả Khang. Ngoài cậu Năm Gù vốn đã ngồi sẵn từ lâu ở đấy, xuất hiện thêm một
người có “râu hoa râm”– nhân vật không có tên mà chỉ được định danh bằng đặc
điểm cơ thể – sẽ đóng vai người khơi mở ra câu chuyện được bàn ở đây.

Nhân vật Cả Khang với cái tên mang vẻ quyền uy kẻ cả trong làng, thể hiện luân lí
tôn ti thứ bậc của văn hóa Trung Hoa, được mọi người trong quán “cung kính”,


được miêu tả qua trang phục áo “không cài khuy”, “xộc xệch”, vào quán chẳng
thèm chào hỏi đã nói “oang oang” như thể trấn áp những người khác, với lối nói
dồn dập chứa nhiều câu hỏi, với giọng điệu kể công, ban ơn. Nhân vật này còn
được miêu tả bằng một đặc điểm nhân dạng đặc biệt “người mặt thịt ngang phè”,
khi nói thì “những thớ thịt trên mặt nổi từng cục”và cách nói cũng khác thường, kẻ
cả: “cứ giương cổ nói oang oang”. Nhân vật này bốn lần “cam đoan thế nào cũng
khỏi” và một lần khẳng định như đinh đóng cột “nhất định sẽ khỏi thôi mà”. Bởi
theo lão thì sự hiệu nghiệm của phương thuốc nằm ở chỗ nó còn “nóng hôi
hổi”,“lấy về còn nóng hôi hổi” và “ăn cũng còn nóng hôi hổi”, kèm theo đó là một
sự so sánh thẳng thừng, không úp mở “bánh bao tẩm máu người như thế, lao gì mà
ăn chẳng khỏi”. Bí mật của phương thuốc “đặc biệt lắm” đã xuất đầu lộ diện.

Thằng Thuyên, người trực tiếp sử dụng thứ thuốc ấy, không nói không rằng, chỉ lấy
tiếng ho để minh họa. Nó phải “ho lên” để “phụ họa”, nó phải “hai tay ôm lấy
ngực, ho lấy ho để”, nó phải “thừa dịp ho cố mạng”. Còn động tác của nó thì “bước
chậm rãi”, người thì “mồ hôi ướt đầm, trên đầu hơi bốc phừng phừng”. Đặt hai
nhân vật này trong quan hệ đối sánh thì công dụng của thứ thuốc “đặc biệt” nổi bật
lên mà tác giả cũng chẳng cần thêm lời bình luận. Đồng thời cũng khu biệt được
kiểu người Cả Khang. Điều này càng được khắc họa rõ hơn bằng chính lời của hắn,
khi trả lời câu hỏi của người “râu hoa râm”.

Nhân vật người có “râu hoa râm”, là đại diện cho một tầng lớp xã hội đông đảo
hiện diện trong Thuốc và được đặt đối sánh với “anh chàng trạc hai mươi tuổi” để
từ đó làm nổi bật khả năng nhận thức cũng như để minh chứng cho sự u mê lầm lạc
của lớp người như thế. Cùng loại với nhân vật “râu hoa râm” này trước hết là ông
bà Hoa, là lão Nghĩa “đề lao” “mắt đỏ như mắt cá chép” và hiển nhiên là cả lão Cả
Khang. Nhân vật “râu hoa râm” tuy có nhận ra vẻ bất thường trên nét mặt lão Hoa,
nhưng cũng không phân định được là ông ta có ốm thật hay không, lại còn đưa ra
câu bình tán có vẻ thức thời nhưng lại không đúng đối tượng: “đánh cái đồ ấy,
thương hại cái gì?” cho dù có biết “người bị chém hôm nay là người họ Hạ”. Đây
là kiểu nhân vật u u mê mê, muốn hiểu không được hiểu, muốn biết không được
biết, kiểu người tự mình mò mẫm tìm đường đi. Bởi thế dù nhân vật có đi tới
khẳng định: “Lão Nghĩa mà đáng thương hại à?” thì vế tiếp theo của lời phát ngôn
ấy: “Điên! Hắn điên thật rồi!” lại càng nhấn mạnh thêm tính chất thức tỉnh qua việc
“vỡ nhẽ” của con người này.


Cho dù được gọi kèm theo đại từ “bác” qua cửa miệng của bà Hoa song Cả Khang
là kiểu người cơ hội, vụ lợi, chuyên rình mò kiếm chác từ cái chết của người khác,
coi thường mạng sống của người khác: “Cái thằng nhãi con ấy không muốn sống
nữa, thế thôi. Lần này tớ chẳng nước mẹ gì. Đến cái áo nó cởi ra , cũng lão Nghĩa,
cái lão đề lao, mắt đỏ như mắt cá chép ấy, lấy mất”. Cái chết của Hạ Du dưới con

mắt của lão Cả Khang thì đấy là một dịp may hiếm có mà “may nhất có thể nói là
ông Hoa nhà này, thứ đến cụ Ba. Cụ ta được thưởng hai mươi lạng bạc trắng xóa,
một mình bỏ túi tất, chẳng mất cho ai một đồng kẽm!”. Ba lần Cả Khang nhấn
mạnh với ông Hoa và với những người đang có mặt ở đấy: “may phúc cho nhà
ông”, “phúc nhà ông”, “thằng Thuyên nhà ông may phúc thật” mà tất cả đều dồn tụ
vào chỗ “đấy là nhờ tôi biết tin sớm”. Quả là một tay săn lùng xác chết để kiếm lời
điển hình của xã hội u mê và phần thưởng mà hắn được hai ông bà chủ quán ngoài
sự “cảm ơn hết lời” của bà Hoa, thì bà còn bỏ thêm vào chén trà của hắn “một quả
trám” như là một cách báo đáp ơn nghĩa theo cách của những người nghèo khổ.

Hắn tán thưởng cách kiếm tiền nhanh chóng của cụ Ba: “Cụ Ba đến là khôn! Giá
cụ ta không đem thằng cháu ra thú thì cả nhà mất đầu hết. Nay thì được bao nhiêu
là bạc!”. Trong cách tán thưởng ấy còn thấy rõ sự tiếc rẻ của hắn vì hắn chẳng có
một cơ hội nào tương tự. Hắn gọi Hạ Du bằng những từ ngữ ngạo mạn, khinh rẻ:
“thằng quỉ sứ”, “thằng nhãi con”, là “giặc”, coi những người dưới tuổi hắn “chẳng
ra cái thá gì hết”. Một mình Cả Khang “nói oang oang” độc chiếm diễn đàn của cử
tọa nơi quán trà ấy. Hắn vừa là người phân giải, vừa là kẻ phán quyết phải trái theo
cách của hắn hiểu và suy nghĩ hành động theo đúng cách nghĩ, cách hiểu ấy, nghĩa
là phải đem những người có quan điểm: “thiên hạ nhà Mãn Thanh chính là của
chúng ta”, những người bênh vực cho lẽ phải, nộp cho chính quyền để lấy về, để
được thưởng, chí ít là “hai mươi lạng bạc trắng xóa”. Hắn thu lời bằng cách bán cả
lương tâm và tình nghĩa và chính là hậu duệ đích thực của cụ Ba mà hắn thường
nhắc đi nhắc lại với một vẻ vừa đề cao vừa ganh tị bởi hắn cũng chẳng hề thua
kém. Hai lần hắn nói “thật đáng thương hại” và hai lần “đáng thương hại” tương
hợp với bốn lần “cam đoan thế nào cũng khỏi” của hắn, cho thấy kiểu người lầm
lạc đang càng ngày càng chìm sâu vào trong mê muội cuồng tín, song càng ngày
càng gây ra tác hại lớn cho xã hội bởi lẽ hắn là “kẻ cả trong làng”. Câu nói “Lần


này tớ chẳng nước mẹ gì” và “Nay thì được bao nhiêu là bạc!”cho thấy bản chất

đích thực của hắn.

Nhân vật cậu Năm Gù xuất hiện ra ở đây như là kiểu người vừa có vẻ a dua vừa có
nhận thức nhất định. Đây là kiểu người ngoại lệ vì tật nguyền, trở thành vô công
rồi nghề, bất lực trước mọi việc ở đời nhưng cũng đủ khả năng để nhận biết mọi
thứ mà trước hết là sự ốm yếu của ông Hoa là bởi đứa con bệnh tật, nhận biết “lão
Nghĩa là tay võ nghệ rất cừ”, và khi nghe xong câu chuyện Cả Khang kể thì gật gù:
“Điên thật rồi”. Cách xưng hô của tác giả ở đây cũng thể hiện một sự trân trọng đối
với con người tật nguyền nhưng có óc suy nghĩ và hiểu biết này. Ông gọi nhân vật
này bằng “cậu”.

Nhân vật “trạc hai mươi tuổi” không có danh tính, cũng không có đặc điểm ngoại
hình nhưng lại là biểu tượng cho một cách nghĩ khác, cho một thế hệ khác. Anh ta
không đơn giản chỉ nghe câu chuyện về cái chết của Hạ Du một chiều. Anh ta chỉ
tán thưởng con người mà Cả Khang coi là “nhãi con”, là “giặc” ấy khi được biết
người tử tù ấy “nằm trong tù rồi mà còn dám rủ lão đề lao làm giặc”. Anh ta cũng
“vỡ nhẽ” khi được biết kẻ “đáng thương hại” chính là lão Nghĩa và cũng đi tới
khẳng định điều đó là:“Điên thật”.

Vấn đề tại sao khi nhắc tới câu nói của người tử tù coi lão Nghĩa là người “đáng
thương hại” thì cả người có “râu hoa râm” lẫn cậu Năm Gù và anh chàng “trẻ tuổi”
này đều nói là “điên”? Lão Nghĩa tuy chỉ xuất hiện qua lời kể của Cả Khang song
lại rất tiêu biểu cho loại người công cụ trong xã hội ấy. Loại người này là công cụ
sát nhân của các thế lực thống trị, chẳng biết phải trái, lại càng không biết đến công
lí là gì. Loại người công cụ ấy có tác hại rất lớn, lại càng không thể giác ngộ, cũng
không thể tự thức tỉnh. Loại người chìm đắm trong mê muội cuồng tín, lầm đường
lạc lối ấy quả là “đáng thương hại” thật. Nhưng hướng tới loại đối tượng ấy để giác
ngộ tuyên truyền mà người tử tù đã làm là không ổn. Huống hồ, cái áo mà người tử
tù cởi ra lão cũng nhanh chóng “lấy mất”. “Điên” ở đây đồng nghĩa với việc không



đúng hướng, không đúng đối tượng, do đó, dẫn tới sự “vỡ nhẽ” của nhiều người.
Đây cũng chính là sự thức tỉnh của người có “râu hoa râm”, của cậu Năm Gù và
của anh chàng “trạc tuổi hai mươi”. Họ đã có những suy nghĩ khác về cái chết của
Hạ Du, về cái chết của con người mà máu của người đó được biến thành thứ thuốc
“đặc biệt” chữa bệnh lao trong xã hội Trung Hoa lúc bấy giờ. Họ đã nghĩ tới cái
“đặc biệt” nhưng bất thường của loại thuốc đó. Và tuy không ai nói ra hay bàn tới
công dụng của thứ thuốc mà Cả Khang mách bảo cho ông bà Hoa song họ đều tỏ ra
nghi ngờ công dụng của nó và cũng thể hiện sự xót xa về cái chết của Hạ Du. Ánh
sáng lương tri đã được thắp lại và cho dù không gian ngôi nhà – quán trà không
sáng thêm nhưng nhiều con người có mặt ở đó đã bắt đầu sáng tâm sáng dạ. Công
dụng của thứ thuốc “đặc biệt” và cái chết của Hạ Du được nối với nhau liền mạch
và tạo ra một sự chuyển hóa mới về tâm tư, về nhận thức. Câu chuyện được trao
đổi ở phần III này do đó, đóng vai trò phần luận đề, bàn bạc, mở rộng các ý nghĩa
khác nhau, tạo ra sự chuyển hóa trong tiếp nhận như trong kết cấu của một bài thơ
cổ điển.

Vợ chồng lão Hoa, và thằng Thuyên, đứa con bệnh tật, niềm mong mỏi cuối cùng
của gia đình “mười đời độc đinh”, đóng vai trò làm nền cho câu chuyện diễn ra
trong ngôi nhà – quán trà của họ. Đây là các nhân vật tĩnh, nếu không nói là bất
động trong bức tranh ấy, cho dù họ có “đi đi lại lại”, “xách chiếc ấm đồng lớn” để
“pha trà”. Âm thanh phát ra từ họ là tiếng ho của thằng Thuyên. Ho, được hiểu,
ngoài việc là biểu hiện của trạng thái bệnh tật, còn là một kiểu phát ngôn không
thành lời, thành câu thành chữ song có âm thanh mà ta có thể liên hệ với tiếng ho
của bà Elmire trong vở kịch Tartuffe của Molière, nhưng lại có sức mạnh đặc biệt,
một mặt vừa mỉa mai những lời “cam đoan nhất định khỏi” của lão Cả Khang, mặt
khác vừa phủ nhận công năng của loại thuốc “đặc biệt” đó. Tiếng ho của thằng
Thuyên và giọng nói “oang oang” của Cả Khang cứ đan xen lẫn nhau, tạo thành
một hòa âm đau đớn, vang lên từ không gian ngột ngạt đầy tử khí đó. Câu chuyện
chỉ diễn ra trong chưa đầy một ngày, bắt đầu từ thời điểm tờ mờ sáng và kết thúc

sau đó vài giờ, song lại hàm chứa những tầng ý nghĩa sâu xa, buộc người đọc phải
nghiền ngẫm nghĩ suy về thuốc ở đây là gì? Có phải chỉ là thuốc chữa bệnh thể xác
đơn thuần hay là thuốc cần để chữa trị căn bệnh tinh thần, chữa trị vấn đề nhận
thức mà không chỉ có những người có “râu hoa râm” cậu Năm Gù hay anh chàng
“trạc hai mươi tuổi” kể cả Hạ Du nữa cũng đang cần đến ?


Phần IV đóng vai trò phần kết hay phần hợp của câu chuyện và được thay bằng
một không gian khác: không gian nghĩa địa. Nhân vật chính của bức tranh này là
hai bà mẹ. Họ đều có điểm chung là có con bị chết trẻ, họ cùng đến nghĩa địa để
viếng con. Những người con của họ đều được chôn tại “miếng đất dọc chân thành
phía Tây vốn là đất công”. Điều khác biệt là những đứa con ấy được chôn ở hai
phía của nghĩa địa được ngăn cách bằng “con đường mòn, nhỏ hẹp, cong queo” do
“những người hay đi tắt giẫm mãi mà thành”. Con đường tạo ra bởi thói quen, bởi
thành kiến ngự trị lâu ngày, thói quen ăn sâu thành nếp nghĩ trong đầu óc mọi
người, bởi thế con đường này không chỉ để đi mà con đường này còn là con đường
của thành kiến, được tạo ra bằng sự u mê, dẫn tới sự đối xử không bình thường,
thành sự ngăn cách tự nhiên, bất khả kháng của những con người trong xã hội ấy.
Đứa con của bà Hoa được chôn ở “phía tay phải” nơi dành cho “những người
nghèo”, còn đứa con của bà Hạ thì chôn ở phía tay trái, nơi dành cho “những người
chết chém hoặc chết tù”. Con đường trở thành ranh giới ước định giữa “dân” và
“giặc”. Điểm nổi bật lên từ nghĩa địa này là “cả hai nơi, mộ dày khít, lớp này lớp
khác, như bánh bao nhà giàu ngày mừng thọ” mà từ đó toát lên ý nghĩa biểu trưng
là các nhà giàu, tức tầng lớp thống trị trong xã hội Trung Hoa thời đó, tồn tại trên
sự hi sinh xương máu của “dân” và của “giặc”, “dân” bị bóc lột, bị bần cùng hóa
mà chết dần chết mòn trong đói khổ, còn nếu chống đối thì bị qui là “giặc” và tất
yếu là phải chết. Cả hai loại chết đều cùng vì khổ đau, vì bị áp bức nhưng lại bị
phân biệt đối xử rõ ràng qua hai nửa của nghĩa địa được ngăn cách bằng con đường
của thành kiến mê muội ấy. Điều đó thể hiện qua hình ảnh “bà kia ngập ngừng
không dám bước tới nữa, sắc mặt xanh xao bỗng đỏ lên vì xấu hổ”, bởi lẽ phần mộ

của con bà nằm bên phía dành cho người “chết tù hoặc chết chém” tuy “nấm mộ”
của con bà “với nấm mộ của thằng Thuyên nằm cùng một hàng, chỉ cách con
đường mòn ở giữa”.

Việc vượt qua ranh giới định kiến ấy mang một ý nghĩa biểu tượng quan trọng
song để có điều ấy thì phải có một biến cố. Đó là vòng hoa trên mộ Hạ Du, “một
vòng hoa, hoa hồng hoa trắng xen lẫn nhau, nằm khoanh trên nấm mộ khum
khum”. Vòng hoa ấy đã làm cho bà Hạ “tay chân hơi run lên, rồi loạng choạng lùi
lại mấy bước, mắt trợn trừng ngơ ngác” mà nhìn thấy sự việc đó bà Hoa “cầm lòng


không đậu” đã “bước sang bên kia đường mòn”. Như vậy động lực thúc đẩy bà
Hoa vượt qua con đường ranh giới giữa những ngôi mộ của người chết nghèo với
những ngôi mộ của người chết chém chính là tình thương. Có thể bà Hoa không
biết chiếc bánh bao mà con bà đã ăn với hi vọng khỏi bệnh song điều đó không
thành, đã được tẩm bằng máu của chính Hạ Du, nhưng nếu bà có biết sự thật đó
thì, trước hết, bà đau nỗi đau đồng cảm, nỗi đau của những bà mẹ mất con, cho nên
bà “sợ bà kia thương con quá” mà “phát điên”. Và rồi cũng như bà Hạ, bà Hoa
ngạc nhiên: “Cả hai bà, mắt mờ từ lâu rồi, nhưng nhìn những cánh hoa trắng hoa
hồng kia thì còn thấy rõ”. Để so sánh, “bà Hoa vội nhìn về phía mộ con mình và
những nấm mộ khác xung quanh, chỉ thấy vài nụ hoa không sợ lạnh, bé tí, trắng
trắng, xanh xanh”. Sự so sánh đó đã khiến bà ngạc nhiên và sự ngạc nhiên đó lại
càng được tăng lên qua phát ngôn của bà Hạ: “Hoa không có gốc, không phải dưới
đất mọc lên! Ai đã đến đây? Trẻ con không thể đến chơi. Bà con họ hàng nhất định
là không ai đến rồi!… Thế này là thế nào? Rõ ràng vòng hoa ấy không phải ngẫu
nhiên mà là vòng hoa có chủ và được đặt vào mộ Hạ Du một cách có chủ ý. Song
ai là chủ nhân của vòng hoa ấy thì cả hai bà đều không biết được và bà Hạ chỉ luôn
nghĩ đến nỗi oan khuất của con mình. Nỗi oan mà chính bà con họ hàng của bà đã
gây ra và càng không ai dám đến đó nữa để khỏi phải liên lụy. Bà cũng chưa nghĩ
được xa hơn đến những đồng đội, đồng chí của Hạ Du, tới những người cùng chí

hướng với Hạ Du. “Hoa không nhiều lắm, xếp thành vòng tròn tròn, không lấy gì
làm đẹp, nhưng cũng chỉnh tề”, trở thành biểu tượng của sự thống nhất ý chí, của
sự đoàn kết, của một niềm tin mới được khơi dậy. Khác với đám người “tụm năm
tụm ba” tại ngã ba đường trên kia mà cũng chỉ xếp được nửa vòng tròn thì ở đây
vòng tròn đã rõ nét, đã liền khối, và cho dù chưa tròn lắm song cũng đã định hình.
Tất cả khơi gợi trong tâm trí bà Hạ một điều gì đó, một cảm thức nào đó khó tả.
Câu hỏi: “Thế là thế nào nhỉ?” cứ trăn đi trở lại trong lòng bà Hạ, song nó đã có
định hướng bằng một hình tượng đầy biểu trưng khác, đó là hình ảnh con quạ. Có
thể bà Hoa cũng không biết tên bà Hạ cũng như bà Hạ không biết tên bà Hoa. Sự
gặp gỡ của họ chỉ là ngẫu nhiên vì tiết thanh minh, theo truyền thống văn hóa
Trung Hoa, ai cũng đi tảo mộ, thăm mộ. Nhưng tác giả đã cố ý xếp đặt để cho họ
gặp nhau vào thời điểm hợp lí đó và vào tiết thanh minh mùa xuân, cho dù lúc ấy
“trời vừa rạng” thì hơi ấm tình người của họ kết hợp với vòng hoa bất ngờ trên mộ
Hạ Du cũng sưởi ấm cho họ, khơi dậy cho họ một niềm tin vào một cái gì đó mới
mẻ mà họ cũng chưa biết được. Không gian ở đây cũng rộng lớn hơn và tuy vẫn
phảng phất màu sắc ảm đạm vì là nghĩa trang nhưng điều khác biệt là không gian


này đã có thêm chiều cao vươn tới, nó không còn bị giới hạn và ngột ngạt như
không gian ngôi nhà – quán trọ. Tính chất ảm đạm, thê lương của không gian nghĩa
trang cũng được giảm bớt khi sự sống mới bắt đầu trở lại, khi con người đã nhận ra
được con đường tất yếu mà họ phải đi, khi tình người được nối lại, khi khối đoàn
kết dân tộc thống nhất được tạo ra.

Con quạ là một hình ảnh đặc biệt và có ý nghĩa biểu trưng trong phần kết truyện.
Khi đang cố nhìn ngó xung quanh để xem ai đã đến đặt vòng hoa lên mộ con bà thì
bà Hạ chỉ nhìn thấy “một con quạ đen đậu trên cành khô trụi lá”. Tiếng khóc của bà
Hạ cất lên sau đó là lời kết án, theo luật nhân quả báo ứng trong tâm thức của
những người dân bình thường: “chúng nó giết con thì rồi chúng nó sẽ bị báo ứng
thôi”. Con quạ trong văn hóa Trung Hoa có một ý nghĩa khác với quan niệm dân

gian của Việt Nam. Ở Việt Nam, con quạ là kẻ tham ăn, vì thế nó đã phải mang bộ
lông màu đen suốt đời, là biểu tượng của điềm dữ, thường gắn liền với những bất
hạnh của con người. Con quạ vốn là loài chim phổ biến ở các nước xứ lạnh. Trong
văn hóa Trung Hoa cũng như trong văn hóa Nhật Bản, con quạ là biểu tượng của
“đức hiếu thảo”(1), cho nên lời cầu khẩn của bà Hạ: “Nếu hồn con quả thật đang ở
đây nghe lời mẹ nói thì con ứng vào con quạ kia, đến đậu vào nấm mộ con cho mẹ
xem, con ơi!” cũng cho thấy quan niệm văn hóa đặc biệt đó. Cho dù “con quạ vẫn
đậu trên cành khô trụi lá, rụt cổ lại, im lìm như đúc bằng sắt” thì trong cảm thức bà
Hạ vẫn sống dậy một niềm tin. Ngoài ra, người Hán xem quạ như một dấu hiệu
thần kì để tái lập trật tự xã hội, người Nhật xem quạ là biểu tượng của tình cảm gia
đình. Đối với người Trung Hoa, quạ là con chim của mặt trời, là hiện thân của mặt
trời, là “kim ô” mà câu chuyện Hậu Nghệ bắn mặt trời luôn được truyền tụng đã
cho thấy điều đó. Số là thượng đế phái mười con quạ mang ánh sáng từ cây dâu
của mặt trời đi khắp bốn phương tám hướng, nhưng chúng thường tụ tập với nhau
một chỗ khiến cho mặt đất nứt nẻ, bốc cháy. Hậu Nghệ đã bắn chết chín con, chỉ
còn một con sợ quá trốn biệt sau phải nhờ con gà cất tiếng gáy để gọi về.

Hình ảnh hai bà già cùng đi về, bên nhau, có thể sóng đôi hoặc kẻ sau người trước,
song đều cùng về, tạo ra sự tiếp nối mà ghép tên của hai bà, Hoa và Hạ, thì sẽ có
ngay tên gọi của Trung Hoa hùng mạnh, thống nhất và thái bình cổ xưa: đất nước


Hoa Hạ. Họ cùng bước trên một con đường chung, con đường đó không có ngã ba
nào. Kết hợp hình ảnh hai người cùng đi ấy với hình ảnh con quạ cất lên một tiếng
kêu “rất to”, rồi “xòe đôi cánh, nhún mình” và “vút bay thẳng về phía chân trời
xa”, “như một mũi tên” và gắn với kiểu thức tư duy của Trung Hoa coi quạ là mặt
trời thì con quạ bay lên đồng nghĩa với mặt trời đã mọc, là dấu hiệu của một trật tự
xã hội mới đã xuất hiện, thì ta sẽ thấy rõ hơn niềm tin của Lỗ Tấn vào tương lai,
vào sự thức tỉnh của những người dân vốn trước đây mê muội, đã từng sử dụng
bánh bao tẩm máu người để làm thuốc. Họ đã thức tỉnh, họ đã biết cùng sát cánh

bên nhau. Con đường ngăn cách hai loại người chết trong cùng một nghĩa địa
không còn là ranh giới ngăn cách hai bà mẹ nữa. Ranh giới ấy đã bị xóa nhòa.
Vòng hoa trên mộ Hạ Du trở thành vòng hoa biểu trưng cho sự chiến thắng, của
tình người vốn bị cuồng tín, mê muội chia cắt nay đã lại nối liền thành một khối
thống nhất. Một sức mạnh mới đã hình thành. Phần IV mang lại cho độc giả những
kết luận quan trọng mà tác giả gửi gắm và gợi mở một tương lai, thắp sáng và thức
tỉnh mọi người, bằng sự hợp nhất những con người vốn bị chia rẽ.

Câu chuyện nhẹ nhàng, không có xung đột gay cấn, song với cách thức tổ chức
theo hệ thống khai – thừa – luận – kết, khai – thừa – chuyển – hợp, đã tạo thành
một cốt truyện hoàn chỉnh, chặt chẽ, mang nhiều ý nghĩa sâu sắc, vừa đẹp về mặt
kết cấu, tổ chức nghệ thuật, vừa chuyển tải được một nội dung mang tính cách
mạng cao. Câu chuyện được tái hiện trong hai không gian khác nhau, mỗi không
gian đều có những nét riêng, độc đáo, đều nhằm nhấn mạnh một khía cạnh riêng
của chủ đề. Câu chuyện diễn ra trong hai không gian đều có khung thời gian được
kể là một buổi sáng, tạo ra một kiểu trùng lặp nhằm nhấn mạnh sự thay đổi về nhận
thức của con người. Điều khác biệt là buổi sáng của không gian thứ nhất thuộc về
mùa thu, mùa của sự tàn tạ, héo hon, của sự buồn bã chia li, còn buổi sáng của
không gian thứ hai gắn với mùa xuân, mùa của sự sống trỗi dậy, mùa của sự sinh
sôi nảy nở, cho dù trong không gian thứ hai có hình ảnh cành cây khô trụi lá,
nhưng “những cây dương liễu” đã “đâm ra được những mầm non bằng nửa hạt
gạo”. Sự chuyển đổi các không gian theo mùa, do đó, cũng tạo ra ý tưởng về sự
phát triển đi lên, tạo ra niềm tin và khơi dậy niềm lạc quan tin tưởng, tạo ra ấn
tượng về sự thay đổi cuộc đời mang tính chất chu kì “bĩ cực thái lai” của truyền
thống tâm thức Trung Hoa. Vì thế Thuốc vẫn luôn là một trong những sáng tạo
nghệ thuật tài ba của nhà văn Lỗ Tấn. Thứ thuốc mà quần chúng nghèo khổ Trung


Hoa cần có đã được chỉ ra. Đấy cũng là thứ thuốc mà độc giả thu nhận được qua
thông điệp nghệ thuật của nhà văn1


____________

(1) Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới. Nxb. Đà Nẵng – Trường Viết văn Nguyễn
Du, 1997, tr.750.

Nguồn: Viện văn học (Lê Nguyên Cẩn)



×