Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

Vẻ đẹp độc đáo của người lính trong bài thơ tây tiến của quang dũng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (34.34 KB, 7 trang )

Vẻ đẹp độc đáo của người lính trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng

Có người đã từng nói: Nếu chọn 5 tác giả tiêu biểu nhất của thời kỳ chiến
tranh chống Pháp( 1945-1954) thì chắc hẳn sẽ không có Quang Dũng, nhưng nếu
chọn 5 bài thơ tiêu biểu nhất của thời kỳ chiến tranh chống Pháp này thì nhất định
bài thơ “ Tây Tiến “ của Quang Dũng sẽ đứng ở hàng danh dự. Một nhận xét mà
theo tôi nó rất thỏa đáng đối với một bài thơ hay như thế.
“ Tây Tiến” là một bài thơ hay nhất, xuất sắc nhất, không chỉ trong đời thơ
Quang Dũng , mà là cho cả thời kỳ thơ ca kháng chiến chống Pháp.Với bài thơ này
khi đọc lên độc giả thấy trần ngập một nỗi nhớ Tây Tiến ( Đoàn binh). Do nỗi nhớ
như thế, cho nên hình tượng trung tâm của bài thơ là người lính. Và người lính Tây
Tiến được Quang Dũng vẽ lên bằng một nét độc đáo, mang vẻ đẹp kiêu hùng, hào
hoa và đầy thơ mộng.
Đoàn quân Tây Tiến được thành lập năm 1947, phần lớn là nhưng học sinh, sinh
viên, trí thức Hà Nội tuổi mới đôi mươi mặc áo lính đi lên chiến trường miền Tây
đầy gian nan, khổ ải. Cái chiến trường miền Tây ấy lại gắn bó với đoàn quân Tây
Tiến suốt chặng đường dài hành quân. Trong thời gian chiến đấu, sống chung cùng
đoàn quân Tây Tiến đã làm cho Quang Dũng càng thêm gắn bó với đồng đội, với
núi rừng miền Tây đầy khốc liệt, dữ dội, song cũng không kém phần thơ mộng. Và
do yêu cầu công tác Quang Dũng phải xa đoàn quân Tây Tiến. Xa Tây Tiến được
một thời gianQuang Dũng cảm thấy nhớ cồn cào, da diết, cháy bỏng.Nỗi nhớ ấy
được tích tụ theo năm tháng dần lớn lên và có nguy cơ nổ tung , bật trào ra thành
thơ:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi
Rồi cứ từ đó tứ thơ tuôn trào như suối chảy ven dòng sông Đáy thơ mộng,
hiền hòa năm 1948.
Đi suốt bài thơ “Tây Tiến” ta thấy có hai hình tượng là đoàn quân và thiên
nhiên núi rừng Tây Bắc. Đoàn quân ấy, thiên nhiên ấy hòa quện vào nhau tạo nên
nét đa thanh cho bài thơ. Có thiên nhiên dữ dội, mới có những con người oai hùng;



có thiên nhiên mơ mộng, mới có những con người mộng mơ…Người lính nổi lên
giữa thiên nhiên với một vẻ đẹp lung linh, kỳ diệu.
Vẻ đẹp độc đáo của người lính Tây Tiến, trước hết là một vẻ đẹp bi mà
không lụy. Đó là một vẻ đẹp kiêu hùng của người lính một ra đi không bao giờ trở
lại.Đã mang áo lính,mang chí lớn quyết quét sạch quân thù ra ngoài biên ải thì có
lẽ nào lại nản lòng, có lẽ nào lại không kiêu hùng. Tuy rằng biết khi ra đi là phải
chịu nhiều gian khổ, hy sinh, nhưng người lính ấy vẫn ra đi không hẹn ngày trở về.
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường lát hoa về trong đêm hơi.
Chặng đầu hành quân cũng khá vất vả mà cũng khá nên thơ. “Đoàn quân
mỏi” bị lấp đi bởi những màn sương giăng giăng mờ ảo như thực, như hư.Đoàn
quân ấy ta tưởng tượng như đang đi trên mây khói điệp trùng để rồi thoảng hiện ra
một ‘ đêm hơi”, “ hoa về” ở Mường Lát thật dịu nhẹ, tha thiết.
Cảnh thiên nhiên núi rừng Tây Bắc rất dữ dội, khắc nghiệt. Cho nên đoàn
quân Tây Tiến đa số là người Hà Thành này phải đối chọi với biết bao nguy nan
đang dình dập trên đường hành quân và có những người phải tách khỏi đội hình
nằm lại phía sau:

Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ, bở quên đời.
Đây là một cái chết rất nhẹ nhàng, thanh thoát mang dáng quân hành rất đậm
nét, một cái chết thanh thàn nhẹ tựa lông hồng. Những người còn lại, lại tiếp tục
hành quân và cũng gặp không biết bao nhiêu là nguy khốn:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Sống chung với loài thú dữ, nhất là cọp thì đó quả là một tinh thần gan góc
của người lính. Chất anh hùng ấy như toát lên bao nhiêu phẩm chất kiên trung của



người lính và đặc biệt là người lính nơi thành phố lần đầu tiên lên rừng núi mà đã
phải đến địa danh Mường Hịch nghe cọp gầm gào suốt đêm thì thật là khiếp sợ.
Cảnh núi rừng hoang dại, ma thiêng nước độc đã làm cho người lính phải lao đao
khốn khó chống lại với bệnh tật, nhất là bệnh sốt rét:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Một hiện thực hiện lên thật khốc liệt và đau đớn, bệnh sốt rét đã làm cho
những người lính trọc hết tóc, tiều tụy đến kinhnguwowif khi da xanh nhợt nhạt vì
bệnh tật.Neeuskhoong cosba chữ “ dữ oai hùm” thì hẳn câu thơ đã mieeutar người
lính vaofcais biluyj. Nhờ có ba chữ ấy mà miêu tả cái bi như vậy nhưng vẫn giữ
được hiện thực tàn khốc của bệnh tật. Song cũng nhờ cái bệnh tật đoa Quang Dũng
đã đẩy caisbi lên cái tráng làm cho người chiến sĩ ốm mà chẳng yếu. Đó chính là
con mắt nhìn thẳng vào những mất mát do chiến tranh mà Quang Dũng đã không
hề né tránh. Đặc biệt khi cái chết nổi lên rõ mồn một dọc dài biên giới mà họ vẫn
còn “ chẳng tiếc đời xanh”:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
“ Mồ viễn xứ” rải rác khắp biên cương làm ớn lạnh khi người ta chứng kiến.
Một câu thơ mang đầy nét sầu thảm, đau thương. Những cái chết chất ngất, rải ra
suốt dọc dài biên giới như những cô hồn không nơi nương tựa.Song với Quang
Dũng nhìn thẳng vào hiện thực đó để nhận thấy sự dũng cảm của người lính cứ
mỗi lúc lại trào dâng. Do đó “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”, có lẽ cũng là
một ý tưởng một ra đi thì không bao giờ trở lại.Câu thơ này gợi cho ta nhớ tới câu
thơ của Thâm Tâm và câu thơ của Nguyễn Đình Thi:
Chí nhớn không về bàn tay không?
( Tống biệt hành)



Người ra đi đầu không ngoảnh lại
( Đất nước)
Bản chất anh hùng đó chiếu rọi vào cái bi lại càng thấy thêm phần bi
tráng:
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
“ Về đất”- một câu nói thật nhẹ nhàng, thanh thàn. “ Về đất” là về với nơi yên
nghỉ cuối cùng khi con người đã hoàn thành xong sứ mênh lịch sử vẻ vang của
mình. Hình ảnh ‘áo bào” thật đẹp, mang dáng dấp cổ kính nên thơ. Quang Dũng
dùng hình ảnh này có lẽ là để cho câu thơ có dáng vẻ trang nhã, làm vợi đi nỗi đau
khi người lính phải từ biệt cõi trần.
Người tử chiến nếu không so le với lý tưởng tiến bộ nhất của thời đại mình
thì cái chết đó sẽ được đời đời ghi nhớ. Sự ghi nhớ tiếc nuối ấy không chỉ đối với
con người, mà sự ghi nhớ , tiếc nuối còn thấm cả vào cả vật vô tri, vô giác. Ở Tây
Tiến trước sự hy sinh của người lính sông Mã cũng thấy hãng hụt, gầm gào thương
nhớ và gầm gào căm ghét kẻ thù xiết bao, muốn cuốn phăng đi những kẻ cướp
nước, xóa tan đi đêm trường nô lệ.
Chất anh hùng không phải là một nét riêng của nhà thơ Quang Dũng đã thể hiện
trong bài thơ “ Tây Tiến” này, mà chất anh hùng của người lính trong thời đại đao
binh đã được khá nhiều nhà thơ, nhà văn khai thác.Tuy nhiên, để có một chất anh
hùng bi tráng của người lính Tay Tiến thông qua bài thơ cùng tên của thi sĩ Quang
Dũng thì dường như nhưng xtcas phẩm khác là không có.Cho nên, chất anh hùng
bi tráng ở “ Tây Tiến” vẫn được coi là một vẻ đẹp hết sức độc đáo.
Chất anh hùng gắn liền với lãng tử thì chất anh hùng đó càng nên thơ. “
Tây Tiến” của thi sĩ Quang Dũng đã hòa chộ hai phẩm chất đó vào nhau để tạo cho
người lính vốn đã anh hùng thì lại càng anh hùng hơn, ấy là nét đẹp hào hoa, mơ
mộng. Có thể nói nét đẹp hào hoa, mơ mộng là một nét đẹp độc đáo trong nét đẹp
độc đáo của người chiến binh Tây Tiến. Chúng ta sẽ bắt gặp một “ hội đuốc hoa”
hết sức phong tình, ý vị:
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa



Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khen lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ.
Một cảnh sinh hoạt aamms áp tình quân dân. Cảnh sinh hoạt đó thật hiếm có
trong lửa đạn chiến tranh. Ở đây cảnh sinh hoạt thật dịu nhẹ như một bức tranh sơn
thủy hữu tình thật lãng mạn, thật nên thơ biết bao.’ Doang trại bừng lên hội đuốc
hoa”kéo theo mọi tầm hồn vào cuộc vui ca hát, thả hồn cho gió trăng, chơi vơi
cùng sương gió, đắm say từng nốt nhạc, ý thơ. Đặc biệt khi trong đêm hội đuốc hoa
lại có những nàng sơn nữ xinh xắn rực rỡ sắc màu đã chắp cánh cho tâm hồn người
lính vốn đã đắm say thì lại càng đắm say, mơ mộng. Hai tiếng ‘ kìa em” hiện lên
như một nét lếnh loáng, mơ hồ làm cho khoảng không dìu dịu mơ những ảnh mắt,
nụ cười tình tứ khiến cho những nàng sơn nữ phải “e ấp” theo teengs khèn” man
điệu”.Cảnh sinh hoạt “ hội đuốc hoa” chỉ diễn ra đơn giản như vậy, song nó mang
đậm tính trữ tình khiến cho người lính khoác ba lô đi dọc khắp chiến trường vẫn
còn mang theo như là động lực, càng thôi thúc người lính chiến đấu đến cùng với
kẻ thù. Cái khát khao trở lại cuộc sống thanh bình sinh hoạt vui tươi, rộn ràng như
thế càng bùng cháy khát vọng lập chiến công của người lính. Một thoáng mơ
mộng, một thoáng lãng mạn cũng là vũ khí, thứ vũ khí vô hình mà lại hữu hình.
Cảnh sinh hoạt “ hội đuốc hoa” ngân theo khoảng không đi theo người lính tới tận
thủ đô Viên Chăn của nước bạn Lào, và thế là người lính lại ngợp hồn thơ, run rún
cho những ước mơ chơi vơi tan vào khoảng không đầy mùi khói lửa của chiến
trang để nhớ về nơi thanh bình:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.
Những hình ảnh” người đi Châu Mộc”, “ hồn lau nẻo bến bờ”, “ dáng người
trên độc mộc”, “ hoa đong đưa” được người lính nhớ tới bằng cả tâm hồn thơ trẻ

của mình nâng con người trở nên lãng mạn hơn.


Hào hoa, phong nhã, mơ mộng là những nét hết sức tài tử của người chiến
binh Tây Tiến. Người chiến binh Tây Tiến trong trận địa thì anh dũng xông pha,
trong mơ mộng thì lãng mạn bay bổng. Tuy nhiện sự mơ mộng của người lính Tây
Tiến chủ yếu là mơ mộng một cách lãng mạn, song cũng có những cái mơ mộng
cũng hết sức hiện thực:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Những câu thơ kiểu như thế này một thời đã làm cho Quang Dũng phải gánh
chịu biết bao nhiêu họa. Và tất nhiên bản thân những câu thơ đó cũng bị tơi bời
“trận đánh”, hết những cây bút nọ, lại đến cây bút kia chỉ trích là “ tiểu tư sản”, “
buồn rớt”, “ mộng rớt”. Có lẽ cũng chính vì vậy, mà sau này người ta đem ra suy
xét lại, khẳng định nội dung lại thì những câu thơ bị “ lên bờ, xuống ruộng” một
thời thì giờ đây lại là những câu thơ ngọc ngà nhất. Nói như vậy là tôi không có ý
nói tới những câu thơ tầm thường, đơn giản đã từng bị phê phán một thời mà nay
lại trở thành những câu thơ hay được như thơ của Bút Tre chẳng hạn.
Hai câu thơ được lọc qua một tâm hồn hào hoa, mơ mộng, lãng tử thì nó cũng
mang một dáng dấp như vậy:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Chất anh hùng lại hiện lên khi một ước vọng lại ngân dài, khát khao chiến
thắng. Đôi” mắt trừng” “ gửi qua biên giới” là đôi mắt dữ dội, quắc lên vẻ anh
hùng muốn giết giặc lập công. Đó là một ước mơ lớn mà bất kỳ một người lính Tây
Tiến nào cũng nghĩ tới: chỉ mong diệt được nhiều thù bảo vệ quê hương xóm làng.
Song người lính Tây Tiến cũng mang nỗi nhớ của mình nhớ về người thiếu nữ Hà
Nội, đó chính là vũ khí làm cho cái mơ ước giết giặc lập công càng cháy bỏng hơn.
Với những kỷ niệm một thuở cắp sách tới trường cùng với người yêu dấu, với nụ
hôn vụng dại sẽ là hành trang lấn lướt cuộc chiến tranh đầy gian nan khổ ải. Chế

Lan Viên đã từng nói về một kỷ niệm như thế:
Kỷ niệm có gì? Một chiếc hôn
Cũng là vũ khí mười năm ta đánh giặc


Ai thử lao qua cuộc chiến tranh mà không có nơi mơ mộng thì khó có thể
nhân sức mạnh nội lực và lại càng khó có thể có những chiến công hiển hách. Vì
vậy sự mơ mộng của người lính Tây tiến ở đây tuy nó có mang một nỗi buồn vì
phải xa quê hương, xa người yêu . Nhưng nỗi buồn đó là một nỗi buồn sầu hận trút
lên đầu kẻ thù xâm lăng.
Vẻ đẹp hào hoa,phong nhã, lịch lãm, mơ mộng là một vẻ đẹp hết sức độc đáo và
chỉ có ở “ Tây Tiến” của thi sĩ Quang Dũng mới có.
Người chiến binh Tây Tiến hiện lên trong bài thơ cùng tên của Quang Dũng
mang một vẻ đẹp hết sức độc đáo: kiêu hùng, hào hoa, mơ mộng. Vẻ đẹp độc đáo
đó của người lính đã kết hợp hài hòa với nhau tạo cho người lính Tây Tiến không
những là người chiến sĩ trong trận mạc, mà còn là người chiến sĩ trong tâm hồn
nghệ sĩ. Do đó, chỉ có những người lính mang cả hai vẻ đẹp như vậy mới băng qua
cuộc chiến tranh hết sức lạc quan và tin tưởng ở ngày mai chiến thắng./.
.



×