Tải bản đầy đủ (.docx) (2 trang)

Tác giả tản đà

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (63.92 KB, 2 trang )

Tác giả Tản Đà - Ngữ Văn 12
Bình chọn:

CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP CỦA TẢN ĐÀ



Trình bày ngắn gọn nội dung từng tập thơ của Tố Hữu - Ngữ Văn 12



Nói không với những tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục - Ngữ Văn...



Tác giả Phan Bội Châu - Ngữ Văn 12



Phong cách nghệ thuật thơ Tố Hữu - Ngữ Văn 12

Xem thêm: Nghị luận xã hội lớp 12 Học trực tuyến Môn Văn học

I. CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP CỦA TẢN ĐÀ
Tản Ðà tên thật là Nguyễn Khắc Hiếu. Ông sinh ngày 08 tháng 5 năm 1888, ở làng Khê
Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây.
Ông xuất thân từ một gia đình thuộc dòng dõi phong kiến quí tộc. Cha là Nguyễn Danh Kế, từng
làm quan đến Án sát, Ngự sử, Anh cả là Nguyễn Tái Tích đỗ phó bảng, làm Ðốc học, sau tham
gia ban Tu thư, làm Hiệu trưởng trường Qui Thức, là những tổ chức do Pháp lập ra để đối phó
vào phong trào Ðông Kinh nghĩa thục. Mẹ ông là một cô đào hát có tài có sắc, lấy lẽ Nguyễn
Danh Kế lúc ông làm Tri phủ Lý Nhân. Từ lúc nhỏ Nguyễn Khắc Hiếu đã theo cha và anh sống


ở những nơi họ làm việc, ở Nam Ðịnh, Sơn Tây, Vĩnh Yên.
Tản Ðà từng theo học chữ nho. Ông cũng là một trong những học trò đầu tiên của trường Qui
Thức. Ông đi thi mãi nhưng không đỗ đạt gì cả.
Ông là một nhà nho rời nông thôn ra thành thị. Cuộc sống thành thị lúc bấy giờ đã ảnh hưởng
đến tư tưởng, tình cảm và thái độ trước cuộc sống hiện tại của ông.
Ông là người đầu tiên đã mạnh dạn bước vào một nghề mới: Nghề viết văn, xem việc sáng tác
như một cách kiếm sống “Nôm na phá nghiệp kiếm ăn xoàng”. Ông từng tham gia vào hoạt
động báo chí: làm chủ bút cho tờ Hữu Thanh, thành lập tờ An Nam tạp chí. Tản Ðà mất ngày
07 tháng 6 năm 1939 ở Ngã Tư Sở trong cảnh nghèo nàn, túng thiếu.
2. Sự nghiệp sáng tác :
Tản Ðà bắt đầu sáng tác từ năm 1913. Ðến năm 1915 ông mới bắt đầu công bố tác phẩm của
mình trên tờ Ðông Dương tạp chí”
Tác phẩm của ông gồm nhiều thể loại :
- Tác phẩm phiên dịch : Ðại học, Ðàn bà Tàu, Kinh thi, Liêu trai chí dị.
- Tác phẩm luận thuyết : Khối tình bản chính, Khối tình bản phụ, Ðài gương.
- Thơ : Lên sáu, lên tám, Khối tình con I, II
- Tiểu thuyết và truyện ngắn : Giấc mộng con, Giấc mộng lớn, Thề non nước, Trần ai tri kỷ, Kiếp
phong trần.
- Kịch : Thần tiền.
Lúc sinh thời Tản Ðà rất tự hào về văn xuôi của mình, ông từng nói : “Văn đã nhiều thay lại lắm
lối. Thế nhưng độc giả, những người nghiên cứu lại đánh giá cao những tác phẩm thơ của ông.


II.- NỘI DUNG VĂN THƠ CỦA TẢN ĐÀ:
1. Tinh thần dân tộc trong thơ văn Tản Ðà :
Tản Ðà là một nhà nho đứng ngoài cuộc đấu tranh cứu nước của dân tộc lúc bấy giờ. Tuy
nhiên, ở ông vẫn tiềm tàng một tình yêu quê hương đất nước thiết tha. Tản Ðà không nâng
lòng yêu nước của mình tới mức độ có thể xông vào chiến trận, cùng đồng bào cả nước đánh
đuổi kẻ thù xâm lược nhưng Tản Ðà luôn có ý thức lo đời và mong muốn được giúp đời. Tản
Ðà thường thắc mắc và cảm thấy lo âu trước tình trạng lạc hậu đáng sơû về kinh tế, xã hội của

đất nước.
“Tính năm sinh đã 4000 nghìn dư
Bước tiến hóa lừ đừ sau mọi kẻ”.
(Bài hát chúc báo sống)
Ông rất đau xót khi nhận ra sự suy tàn của Hán học, lo lắng cho đạo đức thánh hiền sẽ có ngày
đi đến chỗ bị tiêu vong (Hủ nho lo việc đời). Trước thực trạng của đất nước, Tản Ðà cất lời than
não nuột :
“Giời chưa mở mắt biết mai sau thế nào
Bây giờ đất thấp mà giời cao !"
(Sẩm chợ)
Ông luôn tiếc nuối quá khứ vàng son của dân tộc. Bài “Con quốc và con chẫu chuộc” đã thể
hiện điều này :
“Bờ ao trên bụi có con quốc
Ở dưới lại có con chẫu chuộc
Hai con cùng ở cùng hay kêu
Một con kêu thảm một con kêu nhuốc
Chuộc kêu đắc ý gặp tuần mưa
Quốc kêu đau lòng thương xuân qua
Cùng một bờ ao, một bụi rậm
Phong cảnh không khác tình khác xa”.
Ông nhớ về những chiến công hiển hách của tổ tiên
“Ôi ! Lý Trần Lê đâu mất cả
Mà thấy hươu nai đứng đỉnh chơi”.
(Chơi trại hàng hoa)
Có những lúc ông còn công nhiên ca ngợi những người anh hùng dân tộc đương thời (viếng
Ðình Công Tráng). Ông đã tỏ rõ thái độ căm thù đối với những kẻ bán nước, làm tay sai cho
giặc. Ông từng làm thơ mỉa mai Hoàng Cao Khải.
“Hoạ mi, ai vẽ nên mi ?
Trông mi mi đẹp, hót thì mi hay
Ai đưa mi đến chốn này ?

Nước trong gạo trắng mi ngày ăn chơi
Lồng son cửa đỏ thảnh thơi
Mi bay mi nhảy sướn
Xem thêm tại: />


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×