Tải bản đầy đủ (.doc) (90 trang)

Thực trạng thu nộp quỹ BHXH và một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả thu nộp quỹ BHXH Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (409.91 KB, 90 trang )

Lời mở đầu
Nh mọi quốc gia trên thế giới, BHXH Việt Nam trong những
năm qua đợc xem là một trong những chính sách rất lớn của Nhà n-
ớc, luôn đợc sự quan tâm và chỉ đạo kịp thời của Đảng và Nhà n ớc;
điều này có thể dễ dàng lý giải bởi BHXH không chỉ liên quan đến
hàng triệu lao động mà còn bởi nó có ý nghĩa rất lớn đối với cả
những ngời phụ thuộc vào các đối tợng trên. BHXH chẳng những có
ý nghĩa về mặt kinh tế - xã hội mà còn có ý nghĩa nhân đạo sâu sắc,
chính sách này thể hiện trình độ văn minh, tiềm lực kinh tế và khả
năng tổ chức quản lý của Nhà nớc.
Khi đất nớc chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang
nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị tr -
ờng có sự quản lý của Nhà nớc theo định hớng XHCN thì việc bao
cấp toàn bộ cho hoạt động BHXH tỏ ra không còn phù hợp với tình
hình mới. Để từng bớc đổi mới công tác tổ chức quản lý BHXH,
chính phủ đã ra Nghị định 12/CP ngày 26/01/1995 về việc ban hành
điều lệ BHXH và Nghị định 19/CP ngày 16/02/1995 về việc thành
lập BHXH Việt Nam và các quyết định khác kèm theo về việc ban
hành quy chế tổ chức và hoạt động của BHXH Việt Nam. Với mục
đích thống nhất việc quản lý và thực hiện các chế độ BHXH nhằm
đảm bảo tốt hơn lợi ích của ngời lao động thì BHXH Việt Nam đã
đợc thành lập trên cơ sở thống nhất các tổ chức BHXH ở trung ơng
và địa phơng thuộc hệ thống Bộ Lao động - TB&XH và Tổng Liên
đoàn lao động Việt Nam nhằm giúp Thủ tớng chính phủ chỉ đạo
công tác quản lý quỹ BHXH và thực hiện chế độ chính sách BHXH
theo pháp luật hiện hành. Và để giải quyết tốt vấn đề trên đảm bảo
nguồn quỹ chi trả các chế độ BHXH cho các đối tợng đợc hởng trợ
cấp BHXH thì việc nâng cao hiệu quả thu quỹ đồng thời duy trì và
phát triển nguồn quỹ là đòi hỏi bức bách khiến em đi đến lựa chọn
nghiên cứu đề tài: "Thực trạng thu nộp quỹ BHXH và một số biện
pháp nhằm nâng cao hiệu quả thu nộp quỹ BHXH Việt Nam hiện nay"


1
Những nội dung chính của đề tài:
Lời mở đầu
Phần I. Khái quát chung về BHXH và quỹ BHXH
Phần II. Thực trạng công tác thu nộp quỹ BHXH Việt Nam
trong thời gian qua.
Phần III. Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả thu nộp
quỹ BHXH
Lời kết
Mặc dù em đã rất cố gắng nghiên cứu nhng do trình độ và kinh
nghiệm còn nhiều hạn chế nên không tránh khỏi những thiếu sót. Vì
vậy em rất mong nhận đợc sự góp ý, xây dựng của các thầy cô giáo
và các bạn
Em xin chân thành cảm ơn ./.
Hà Nội, ngày 4 tháng 11 năm 2000
Tác giả
Nông Hữu Tùng
2
pHầN THứ NHấT
khái quát CHUNG Về BHXH Và QUỹ BHXH
I. Tính tất yếu khách quan hình thành và phát triển BHXH
1. Sự tồn tại khách quan của BHXH
Con ngời muốn tồn tại và phát triển trớc hết phải ăn, mặc, ở và
đi lại v.v... Để thoả mãn những nhu cầu tối thiểu đó, ngời ta phải
lao động để làm ra những sản phẩm cần thiết. Khi sản phẩm đ ợc tạo
ra ngày càng nhiều thì đời sống con ngời ngày càng đầy đủ và hoàn
thiện, xã hội ngày càng văn minh hơn. Nh vậy, việc thoả mãn những
nhu cầu sinh sống và phát triển của con ngời phụ thuộc vào chính
khả năng lao động của họ. Nhng trong thực tế, không phải lúc nào
con ngời cũng chỉ gặp thuận lợi, có đầy đủ thu nhập và mọi điều

kiện sinh sống bình thờng. Trái lại, có rất nhiều trờng hợp khó khăn
bất lợi, ít nhiều ngẫu nhiên phát sinh làm cho ngời ta bị giảm hoặc
mất thu nhập hoặc các điều kiện sinh sống khác. Chẳng hạn, bất
ngờ bị ốm đau hay bị tai nạn trong lao động, mất việc làm hay khi
tuổi già khả năng lao động và khả năng tự phục vụ bị suy giảm
v.v... Khi rơi vào những trờng hợp này, các nhu cầu cần thiết trong
cuộc sống không vì thế mà mất đi, trái lại có cái còn tăng lên, thậm
chí còn xuất hiện thêm một số nhu cầu mới nh: cần đợc khám chứa
bệnh và điều trị ốm đau; tai nạn thơng tật nặng cần phải có ngời
chăm sóc nuôi dỡng v.v... Bởi vậy, muốn tồn tại và ổn định cuộc
sống, con ngời và xã hội loài ngời phải tìm ra và thực tế đã tìm ra
nhiều cách giải quyết khác nhau nh: san sẻ, đùm bọc lẫn nhau trong
nội bộ công đồng; đi vay, đi xin hoặc dựa vào sự cứu trợ của Nhà n -
ớc v.v... Rõ ràng, những cách đó là hoàn toàn thụ động và không
chắc chắn.
Khi nền kinh tế hàng hoá phát triển, việc thuê mớn nhân công
trở nên phổ biến. Lúc đầu ngời chủ chỉ cam kết trả công lao động,
3
nhng về sau đã phải cam kết cả việc bảo đảm cho ngời làm thuê có
một số thu nhập nhất định để họ trang trải những nhu cu thiết yếu
khi không may bị ốm đau, tại nạn, thai sản v.v... Trong thực tế,
nhiều khi các trờng hợp trên không xảy ra và ngời chủ không phải
chi ra một đồng nào. Nhng cũng có khi xảy ra dồn dập, buộc họ
phải bỏ ra một lúc nhiều khoản tiền lớn mà họ không muốn. Vì thế,
mâu thuẫn chủ - thợ phát sinh, giới thợ liên kết đấu tranh buộc giới
chủ thực hiện cam kết. Cuộc đấu tranh này diễn ra ngày càng rộng
lớn và có tác động nhiều mặt đến đời sống kinh tế xã hội. Do vậy,
Nhà nớc đã phải đứng ra can thiệp và điều hoà mâu thuẫn. Sự can
thiệp này một mặt làm tăng đợc vai trò của Nhà nớc, mặt khác buộc
cả giới chủ và giới thợ phải đóng góp một khoản tiền nhất định

hàng tháng đợc tính toán chặt chẽ dựa trên cơ sở xác suất rủi ro xảy
ra đối với ngời làm thuê. Số tiền đóng góp của cả chủ và thợ hình
thành một quỹ tiền tệ tập trung trên phạm vi quốc gia. Quỹ này còn
đợc bổ sung từ ngân sách Nhà nớc khi cần thiết nhằm đảm bảo đời
sống cho ngời lao động khi gặp phải những biến cố bất lợi. Chính
nhờ những mối quan hệ ràng buộc đó mà rủi ro, bất lợi của ngời lao
động đợc dàn trải, cuộc sống của ngời lao động và gia đình họ ngày
càng đợc đảm bảo ổn định. Giới chủ cũng thấy mình có lợi và đợc
bảo vệ, sản xuất kinh doanh diễn ra bình thờng, tránh đợc những
xáo trộn không cần thiết. Vì vậy, nguồn quỹ tiền tệ tập trung đợc
thiết lập ngày càng lớn và nhanh chóng. Khả năng giải quyết các
phát sinh lớn của quỹ ngày càng đảm bảo.
Toàn bộ những hoạt động với những mối quan hệ ràng buộc
chặt chẽ trên đợc thế giới quan niệm là BHXH đối với ngời lao
động. Nh vậy BHXH ra đời và phát triển là một tất yếu khách quan
và ngày càng phát triển cùng với sự phát triển của mỗi quốc gia,
mọi thành viên trong xã hội đều thấy cần thiết tham gia BHXH, nó
trở thành quyền lợi và nhu cầu của ngời lao động và đợc thừa nhận
là nhu cầu tất yếu khách quan.
2. Quá trình phát triển của BHXH
4
2.1. Sơ lợc lịch sử hình thành và phát triển chính sách về
BHXH trên thế giới
BHXH đã có từ lâu và thực sự trở thành hoạt động mang tính
xã hội từ đầu thế kỷ 19. Bộ luật đầu tiên về chế độ bảo hiểm đ ợc
hình thành ở Anh vào năm 1819 với tên gọi "Luật nhà máy" và tập
trung vào bảo hiểm cho ngời lao động làm việc trong các xởng thợ.
Vào năm 1883, luật bảo hiểm ốm đau hình thành ở Đức. Cũng tại
Đức, một số các luật khác đợc hình thành, sau đó chẳng hạn luật tai
nạn lao động hình thành năm 1884; luật bảo hiểm ngời già và tàn

tật do lao động hình thành năm 1889. Đến nay BHXH đợc thực hiện
trên rất nhiều nớc và trở thành một bộ phận quan trọng trong hoạt
động của Liên hợp quốc. Một tổ chức quốc tế lớn nhất thế giới hiện
nay. Trong tuyên ngôn của Liên hợp quốc thông qua ngày 10 tháng
12 năm 1948 có ghi: "Tất cả mọi ngời, với t cách là thành viên của
xã hội, có quyền hởng BHXH. Quyền đó đặt cơ sở trên sự thoả mãn
các quyền về kinh tế, xã hội và văn hoá cần cho nhân cách và sự tự
do phát triển con ngời".. Để thể chế hoá tinh thần đó, tổ chức lao
động quốc tế ILO (một tổ chức cơ cấu trong liên hợp quốc) đã đ a ra
Công ớc 102 quy định về tiêu chuẩn tối thiểu của BHXH và những
khuyến nghị các nớc thành viên về việc thực hiện các tiêu chuẩn
này.
2.2. Khái quát về sự hình thành và phát triển chính sách
BHXH ở Việt Nam
Nh ở phần trên, BHXH phát triển gắn liền với sự phát triển của
nền kinh tế hàng hoá, ở Việt Nam trong gần một thế kỷ cai trị, bọn
thực dân Pháp hầu nh không đề ra đợc những gì để bảo vệ các
quyền cơ bản của con ngời. Không thực hiện đợc chế độ chính sách
về BHXH đối với ngời lao động Việt Nam. Ngay sau cách mạng
tháng 8 thành công trên cơ sở Hiến pháp năm 1946 của nớc Việt
Nam dân chủ cộng hoà, Chính phủ đã ban hành một loạt các sắc
5
lệnh quy định về các chế độ trợ cấp ốm đau, tai nạn, hu trí cho công
nhân viên chức Nhà nớc (có Sắc lệnh 29/SL ngày 12/3/1947; Sắc
lệnh 76/SL ngày 20/5/1950 và Sắc lệnh 77/SL ngày 22/5/1950). Cơ
sở pháp lý tiếp theo của BHXH đợc thể hiện trong Hiến pháp năm
1959. Hiến pháp năm 1959 của nớc ta đã thừa nhận công nhân viên
chức có quyền đợc trợ cấp BHXH. Quyền này đợc cụ thể hoá trong
Điều lệ tạm thời về BHXH đối với công nhân viên chức Nhà nớc,
ban hành kèm theo Nghị định 218/CP ngày 27/12/1961 và Điều lệ

đãi ngộ quân nhân ban hành kèm theo Nghị định 161/CP ngày
30/10/1964 của Chính phủ. Suốt trong những năm tháng kháng
chiến chống xâm lợc, chính sách BHXH nớc ta đã góp phần ổn định
về mặt thu nhập, ổn định cuộc sống cho công nhân viên chức, quân
nhân và gia đình họ, góp phần rất lớn trong việc động viên sức ngời
sức của cho thắng lợi của cuộc kháng chiến chống xâm l ợc thống
nhất đất nớc.
Từ năm 1986, Việt Nam tiến hành cải cách kinh tế và chuyển
đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị tr -
ờng. Sự thay đổi về cơ chế kinh tế đòi hỏi có những thay đổi t ơng
ứng về chính sách xã hội nói chung và chính sách BHXH nói riêng.
Hiến pháp năm 1992 đã nêu rõ: "Nhà nớc thực hiện chế độ BHXH
đối với công chức Nhà nớc và ngời làm công ăn lơng, khuyến khích
phát triển các hình thức BHXH khác đối với ng ời lao động". Trong
văn kiện Đại hội VII của Đảng cộng sản Việt Nam cũng đã chỉ rõ,
cần đổi mới chính sách BHXH theo hớng mọi ngời lao động và các
đơn vị kinh tế thuộc các thành phần kinh tế đều có nghĩa vụ đóng
góp BHXH, thống nhất tách quỹ BHXH ra khỏi ngân sách. Tiếp đến
Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VIII cũng đã nêu lên "Mở rộng chế
độ BHXH đối với ngời lao động thuộc các thành phần kinh tế". Nh
vậy, các văn bản trên của Đảng và Nhà nớc là những cơ sở pháp lý
quan trọng cho việc đổi mới chính sách BHXH nớc ta theo cơ chế
thị trờng. Ngay sau khi Bộ luật lao động có hiệu lực từ ngày
1/1/1995, Chính phủ đã ban hành Nghị định 12/CP ngày 26/1/1995
về Điều lệ BHXH đối với ngời lao động trong các thành phần kinh
6
tế. Nội dung của bản điều lệ này góp phần thực hiện mục tiêu của
Đảng và Nhà nớc đề ra, góp phần thực hiện công bằng và sự tiến bộ
xã hội, góp phần làm lành mạnh hoá thị trờng lao động và đồng thời
đáp ứng đợc sự mong mỏi của đông đảo ngời lao động trong các

thành phần kinh tế của cả nớc.
II. Những nội dung chủ yếu của BHXH
1. Khái niệm BHXH
Bảo hiểm xã hội là một trong những chính sách xã hội quan
trọng của Đảng và Nhà nớc. Chính sách BHXH đã đợc thể chế hoá
và thực hiện theo Luật. BHXH là sự chia sẻ rủi ro và các nguồn quỹ
nhằm bảo vệ ngời lao động khi họ không còn khả năng làm việc.
"Bảo hiểm xã hội là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần
thu nhập cho ngời lao động khi họ bị mất hoặc giảm khoản thu nhập
từ nghề nghiệp do bị mất hoặc giảm khả năng lao động hoặc mất
việc làm do những rủi ro xã hội thông qua việc hình thành, sử dụng
một quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên tham gia BHXH,
nhằm góp phần đảm bảo an toàn đời sống của ngời lao động và gia
đình họ, đồng thời góp phần bảo đảm an toàn xã hội". Chính vì vậy,
đối tợng của BHXH chính là thu nhập của ngời lao động bị biến
động giảm hoặc mất đi do bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất
việc làm của những ngời lao động tham gia BHXH.
Đồi tợng tham gia BHXH là ngời lao động và ngời sử dụng lao
động. Tuy vậy, tuỳ theo sự phát triển kinh tế xã hội cuả mỗi nớc
mà đối tợng này có thể là tất cả hoặc một bộ phận những ngời lao
động nào đó.
Dới giác độ pháp lý, BHXH là một loại chế độ pháp định bảo
vệ ngời lao động, sử dụng nguồn tiền đóng góp của ngời lao động,
ngời sử dụng lao động và sự tài trợ, bảo hộ của Nhà nớc, nhằm trợ
cấp vật chất cho ngời đợc bảo hiểm và gia đình trong trờng hợp bị
giảm hoặc mất thu nhập bình thờng do ốm đau, tai nạn lao động,
bệnh nghề nghiệp, thai sản, thất nghiệp, hết tuổi lao động theo quy
định của pháp luật, hoặc chết.
7
Quỹ bảo hiểm xã hội dành chi trả các chế độ trợ cấp và quản lý

phí đợc hình thành từ đóng góp của ngời lao động, chủ sử dụng lao
động và nguồn hỗ trợ của Nhà nớc.
Quỹ BHXH đợc Nhà nớc bảo hộ để tồn tại và phát triển. Mục
đích chính của các chế độ BHXH là trợ cấp vật chất cho ngời bảo
hiểm khi gặp rủi ro đã đợc quy định trong luật.
2. Những nguyên tắc của BHXH
2.1. BHXH là sự bảo đảm về mặt xã hội để ngời lao động có
thể duy trì và ổn định cuộc sống khi bị mất sức lao động tạm thời
(ốm đau, thai sản, tai nạn lao động v.v... ).
Đây là nguyên tắc đảm bảo ý nghĩa và tính chất của bảo hiểm.
Nó vừa mang giá trị vật chất, vừa mang tính xã hội. Điểm này đợc
thể hiện trớc hết là sự bảo đảm bằng vật chất (qua các chế độ
BHXH). Mức bảo đảm về vật chất cũng là yếu tố quan trọng ảnh h-
ởng tới yếu tố tham gia vào BHXH và vì vậy ảnh hởng đến sự phát
triển của sự nghiệp này. Về mặt xã hội, theo nguyên tắc này, BHXH
lấy số đông bù số ít, lấy quãng đời lao động thực tế có thu nhập là
cơ số để bảo đảm cho quãng đời không tham gia vào lao động (mất
sức lao động hay cao tuổi).
2.2. BHXH vừa mang tính bắt buộc, vừa mang tính tự nguyện
Tính bắt buộc thể hiện ở nghĩa vụ tham gia tối thiểu (thời gian
mức đóng bảo hiểm v.v...). Nh vậy, Nhà nớc đóng vai trò tổ chức,
định hớng để ngời lao động và ngời sử dụng lao động hiểu đợc
nghĩa vụ và trách nhiệm hợp lý tham gia vào các quan hệ về BHXH.
Điều này đợc thể chế hoá trong Bộ luật Lao động và các văn bản
pháp quy khác về BHXH. Tính tự nguyện có ý nghĩa khuyến khích
mức tham gia, các loạI hình và chế độ bảo hiểm, mà ng ời lao động
có thể tham gia trên cơ sở sự phát triển của hệ thống BHXH của
một số nớc trong từng giai đoạn nhất định. Nguyên tắc này cho
phép BHXH có điều kiện để phát triển và mở rộng hơn.
2.3. Xác định đúng đắn mức tối thiểu của các chế độ BHXH

Vấn đề này có quan hệ trực tiếp đến các khía cạnh có liên quan
đến việc thiết kế các chính sách và nội dung cụ thể của từng chế độ
8
BHXH. Mức tối thiểu của các chế độ BHXH là mức đóng định kỳ
(hàng tháng), mức thời gian tối thiểu để tham gia và đợc hởng các
chế độ BHXH cụ thể. Các mức tối thiểu này, khi thiết kế th ờng dựa
vào tiền lơng tối thiểu, tiền lơng bình quân, quảng đời lao động
v.v... Mặt khác, mức tối thiểu còn phải tính đến giá trị của các chế
độ BHXH mà ngời tham gia đợc hởng. Nguyên tắc này liên quan
trức tiếp đến việc tạo nguồn, xây dựng quỹ BHXH, và khuyến khích
ngời lao động và các tầng lớp xã hội tham gia.
2.4. BHXH phải đảm bảo sự thống nhất và liên tục cả về mức
tham gia và thời gian thức hiện, đảm bảo quyền lợi của ng ời lao
động
Nguyên tắc này đảm bảo sự thích hợp của BHXH trong cơ chế
thị trờng, trong đó sự di chuyển và biến động lao động có thể xảy
ra, thậm trí mang tính thờng xuyên. Sự thay đổi nơI làm việc và
thay đổi hợp đồng lao động cả vể nội dung đối, tác v.v tạo ra
những giai đoạn có thể vệ thời gian và không gian của quá trình
làm việc. Điều này có thể xảy ra trong cả các quan hệ về BHXH.
Việc đảm bảo cho ngời tham gia BHXH có thể duy trì quan hệ một
cách liên tục theo thời gian có tham gia và thống nhất về các chế độ
sẽ tạo ra sự linh hoạt cần thiết và thuận tiên cho ngời lao động tham
gia vào các quan hệ BHXH tốt hơn, đầy đủ và tích cực hơn. Do vậy,
mức tham gia và thời gian thực tế tham gia là căn cứ chủ yếu nhất
đẻ duy trì quan hệ BHXH đối với ngời lao động.
2.5. Công bằng trong BHXH
Đây là nguyên tắc rất quan trọng songcũng rất phức tạp trong
chính sách BHXH. Quan hệ BHXH đợc thực hiên trong một thời
gian dài, cả trong và ngoài quá trình lao động. Trong quá trình đó

có thể có sự thay đổi diễn ra. Mức và thời gian tham gia của từng
ngời và mức hởng lơng của họ cũng có thể không giống nhau. Việc
theo rõi và ghi nhận các vấn đề này không đơn giản nhất là trong
điều kiện một hệ thống BHXH đang còn có những khác biệt về đối
tợng thành phần và khu vực tham gia ở nớc ta hiện nay. Do vậy đảm
9
bảo công bằng trong BHXH là rất cần thiết nhng rất khó đảm bảo
tính tuyệt đối .
Sự công bằng, trớc hết là phải đặt trong trong quan hệ giữa
đóng góp và đợc hởng. Điều này đợc thể hiên trong nội dung và
điều kiên tham gia trong từng chế độ về BHXH. Xét trên góc độ
khác, công bằng còn đặt trongcác quan hệ xã hội giữa những ng ời
tham gia BHXH trong từng khu vực hay giữa các vùng, địa bàn,
ngành nghề khác nhau v.v dựa trên nguyên tắc tính xã hội của bảo
hiểm.
Trên đây là những nguyên tắc phải tính đến khi thiết kếvà thực
hiện các quan hệ và các chế độ về BHXH.
3. Bản chất của BHXH
Bản chất của BHXH đợc thể hiện ở những nội dung chủ yếu sau
đây:
- BHXH là nhu cầu khách quan, đa dạng và phức tạp của xã
hội, nhất là trong xã hội mà sản xuất hàng hoá hoạt động theo cơ
chế thị trờng, mối quan hệ thuê mớn lao động phát triển đến một
mức độ nào đó. Kinh tế càng phát triển thì BHXH càng đa dạng và
hoàn thiện. Vì thế có thể nói kinh tế là nền tảng của BHXH hay
BHXH không vợt quá trạng thái kinh tế của mỗi nớc.
- Mối quan hệ giữa các bên trong BHXH phát sinh trên cơ sở
quan hệ lao động và diễn ra giữa 3 bên: Bên tham gia BHXH, bên
BHXH và bên đợc BHXH. Bên tham gia BHXH có thể chỉ là ngời
lao động hoặc cả ngời lao động và ngời sử dụng lao động. Bên

BHXH (Bên nhận nhiệm vụ BHXH) thông thờng là cơ quan chuyên
trách do Nhà nớc lập ra và bảo trợ. Bên đợc BHXH là ngời lao động
và gia đình họ khi có đủ các điều kiện ràng buộc cần thiết.
- Những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất
việc làm trong BHXH có thể là những rủi ro ngẫu nhiên trái với ý
muốn chủ quan của con ngời nh: ốm đau, tai nạn lao động, bệnh
nghề nghiệp... Hoặc cũng có thể là những trờng hợp xảy ra không
10
hoàn toàn ngẫu nhiên nh: Tuổi già, thai sản v.v.... Đồng thời những
biến cố đó có thể diễn ra cả trong và ngoài quá trình lao động.
- Phần thu nhập của ngời lao động bị giảm hoặc mất đi khi gặp
phải những biến cố, rủi ro sẽ đợc bù đắp hoặc thay thế từ một
nguồn quỹ tiền tệ tập trung đợc tồn tích lại. Nguồn quỹ này do bên
tham gia BHXH đóng góp là chủ yếu, ngoài ra còn đ ợc sự hỗ trợ từ
phía Nhà nớc.
- Mục tiêu của BHXH là nhằm thoả mãn những nhu cầu thiết
yếu của ngời lao động trong trờng hợp bị giảm hoặc mất thu nhập,
mất việc làm. Mục tiêu này đã đợc tổ chức lao động quốc tế (ILO)
cụ thể hoá nh sau:
+ Đền bù cho ngời lao động những khoản thu nhập bị mất để
đảm bảo nhu cầu sinh sống thiết yếu của họ.
+ Chăm sóc sức khoản và chống bệnh tật.
+ Xây dựng điều kiện sống đáp ứng các nhu cầu của dân c và
các nhu cầu đặc biệt của ngời già, ngời tàn tật và trẻ em.
Với những mục tiêu trên, BHXH đã trở thành một trong những
quyền con ngời và đợc Đại hội đồng Liên hợp quốc thừa nhận và
ghi vào Tuyên ngôn Nhân quyền ngày 10/12/1948 rằng: "Tất cả mọi
ngời với t cách là thành viên của xã hội có quyền hởng bảo hiểm xã
hội, quyền đó đợc đặt cơ sở trên sự thoả mãn các quyền về kinh tế,
xã hội và văn hoá nhu cầu cho nhân cách và sự tự do phát triển con

ngời".
ở nớc ta, BHXH là một bộ phận quan trọng trong chính sách
bảo đảm xã hội. Ngoài BHXH, chính sách bảo đảm xã hội còn có
cứu trợ xã hội và u đãi xã hội.
Cứu trợ xã hội là sự giúp đỡ của Nhà nớc và xã hội về thu nhập
và các điều kiện sinh sống khác đối với mọi thành viên trong xãhội,
trong nhng trờng hợp bị bất hạnh, rủi ro, nghèo đói, khôngđủ khả
năng để tự lo cuộc sống tối thiểu của bản thânvà gia đình. Sự giúp
đỡ này dợc thể hiện bằng các nguồn quỹ dự phòng của Nhà nớc,
11
bằng tiền hoặc hiện vật đíng góp của các tổ chức xã hội và những
ngời hảo tâm.
Ưu đãi xã hội là sự đãi ngộ đặc biệt về cả vật chất và tinh thần
của Nhà nớc, của xã hội nhằm đền đáp công lao đối với những ng ời
hay một bộ phận xã hội có nhiều cống hiến cho xã hội. Chẳng hạn
những ngời có công với nớc, liệt sỹ và thân nhân liệt sỹ, thơng
binh,bệnh binh v.v... đều là những đối tợng đợc hởng sự đãi ngộ của
Nhà nớc, của xã hội, u đãi xã hội tuyệt nhiên không phải là sự bố
thí, ban ơn, mà nó là một chính sách xã hội có mục tiêu chính trị -
kinh tế - xã hội, góp phần củng cố thể chế chính trị của Nhà n ớc tr-
ớc mắt và lâu dài, đảm bảo sự công bằng xã hội.
Mặc dù có nhiều điểm khác nhau về đối t ợng và phạm vi, song
BHXH, cứu trợ xã hội và u đãi xã hội đều là những chính sách xã
hội không thể thiếu đợc trong một quốc gia. Những chính sách này
luôn bổ sung cho nhau, hỗ trợ nhau và tất cả đề góp phần đảm bảo
an toàn xã hội.
4. Chức năng của BHXH
BHXH có những chức năng chủ yếu sau đây:
- Thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho ngời lao động
tham gia bảo hiểm khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do mất khả

năng lao động hoặc mất việc làm. Sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp
này chắc chắn sẽ xảy ra vì suy cho cùng, mất khả năng lao động sẽ
đến với tất cả mọi ngời lao động khi hết tuổi lao động theo các điều
kiện quy định của BHXH. Còn mất việc làm và mất khả năng lao
động cũng sẽ đợc hởng trợ cấp BHXH với mức hởng phụ thuộc vào
các điều kiện cần thiết, thời điểm và thời hạn đợc hởng phải đúng
quy định. Đây là chức năng cơ bản nhất của BHXH, nó quyết định
nhiệm vụ, tính chất và cả cơ chế tổ chức hoạt động của BHXH.
- Tiến hành phân phối và phân phối lại thu nhập giữa những
ngời tham gia BHXH. Tham gia BHXH không chỉ có ng ời lao động
mà cả những ngời sử dụng lao động. Các bên tham gia đều phải
đóng góp vào quỹ BHXH. Quỹ này dùng để trợ cấp cho một số ng ời
12
lao động tham gia khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập. Số l ợng những
ngời này thờng chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số những ngời tham
gia đóng góp. Nh vậy, theo quy luật số đông bù số ít, BHXH thực
hiện phân phối lại thu nhập theo cả chiều dọc và chiều ngang. Phân
phối lại giữa những ngời lao động có thu nhập cao và thấp, giữa
những ngời khoẻ mạnh đang làm việc với những ngời ốm yếu phải
nghỉ việc v.v... Thực hiện chức năng này có nghĩa là BHXH góp
phần thực hiện công bằng xã hội.
- Góp phần kích thích ngời lao động hăng hái lao động sản xuất
nâng cao năng suất lao động cá nhân và năng suất lao động xã hội.
Khi khoẻ mạnh tham gia lao động sản xuất, ng ời lao động đợc chủ
sử dụng lao động trả lơng hoặc tiền công. Khi ốm đau, thai sản, tai
nạn lao động, hoặc khi về già đã có BHXH trợ cấp thay thế nguồn
thu nhập bị mất. Vì thế cuộc sống của họ và gia đình họ luôn đợc
đảm bảo ổn định và có chỗ dựa. Do đó, ngời lao động luôn yên tâm,
gắn bó tận tình với công việc, với nơi làm việc. Từ đó, họ rất tích
cực lao động sản xuất, nâng cao năng suất lao động và hiệu quả

kinh tế. Chức năng này biểu hiện nh một đòn bẩy kinh tế kích thích
ngời lao động nâng cao năng suất lao động cá nhân và kéo theo là
năng suất lao động xã hội.
- Gắn bó lợi ích giữa ngời lao động với ngời sử dụng lao động,
giữa ngời lao động với xã hội. Trong thực tế lao động sản xuất, ng -
ời lao động và ngời sử dụng lao động vốn có những mâu thuẫn nội
tại, khách quan về tiền lơng, tiền công, thời gian lao động v.v...
Thông qua BHXH, những mâu thuẫn đó sẽ đợc điều hoà và giải
quyết. Đặc biệt, cả hai giới này đều thấy nhờ có BHXH mà mình có
lợi và đợc bảo vệ. Từ đó làm cho họ hiểu nhau hơn và gắn bó lợi ích
đợc với nhau. Đối với Nhà nớc và xã hội, chi cho BHXH là cách
thức phải chi ít nhất và có hiệu quả nhất nhng vẫn giải quyết đợc
khó khăn về đời sống cho ngời lao động và gia đình họ, góp phần
làm cho sản xuất ổn định, kinh tế, chính trị và xã hội đ ợc phát triển
và an toàn hơn.
13
5. Tính chất của BHXH
BHXH gắn liền với đời sống của ngời lao động, vì vậy nó có
một số tính chất cơ bản sau:
- Tính tất yếu khách quan trong đời sống xã hội
Nh ở phần trên đã trình bày, trong quá trình lao động sản xuất
ngời lao động có thể gặp nhiều biến cố, rủi ro khi đó ngời sử dụng
lao động cũng rơi vào tình cảnh khó khăn không cảm nh: sản xuất
kinh doanh bị gián đoạn, vấn đề tuyển dụng lao động và hợp đồng
lao động luôn phải đợc đặt ra để thay thế v.v... Sản xuất càng phát
triển, những rủi ro đối với ngời lao động và những khó khăn đối với
ngời sử dụng lao động càng nhiều và trở nên phức tạp, dẫn đến mối
quan hệ chủ - thợ ngày càng căng thẳng. Để giải quyết vấn đề này,
Nhà nớc phải đứng ra can thiệp thông qua BHXH. Và nh vậy,
BHXH ra đời hoàn toàn mang tính khách quan trong đời sống kinh

tế xã hội của mỗi nớc.
- BHXH có tính ngẫu nhiên, phát sinh không đồng đều theo
thời gian và không gian. Tính chất này thể hiện rất rõ ở những nội
dung cơ bản của BHXH. Từ thời điểm hình thành và triển khai, đến
mức đóng góp của các bên tham gia để hình thành quỹ BHXH. Từ
những rủi ro phát sinh ngẫu nhiên theo thời gian và không gian đến
mức trợ cấp BHXH theo từng chế độ cho ngời lao động v.v...
- BHXH vừa có tính kinh tế, vừa có tính xã hội, đồng thời còn
có tính dịch vụ.
Tính kinh tế thể hiện rõ nhất là ở chỗ, quỹ BHXH muốn đ ợc
hình thành, bảo toàn và tăng trởng phải có sự đóng góp của các bên
tham gia và phải đợc quản lý chặt chẽ, sử dụng đúng mục đích. Mức
đóng góp của các bên phải đợc tính toán rất cụ thể dựa trên xác suất
phát sinh thiệt hại cuả tập hợp ngời lao động tham gia BHXH. Quỹ
BHXH chủ yếu dùng để trợ cấp cho ngời lao động theo các điều
kiện của BHXH. Thực chất, phần đóng góp của mỗi ng ời lao động
là không đáng kể, nhng quyền lợi nhận đợc là rất lớn khi gặp rủi ro.
Đối với ngời sử dụng lao động việc tham gia đóng góp vào quỹ
14
BHXH là để bảo hiểm cho ngời lao động mà mình sử dụng. Xét dới
góc độ kinh tế, họ cũng có lợi vì không phải bỏ ra một khoản tiền
lớn để trang thải cho những ngời lao động bị mất hoặc giảm khả
năng lao động. Với Nhà nớc BHXH góp phầm làm giảm gánh nặng
cho ngân sách đồng thời quỹ BHXH còn là nguồn đầu t đáng kể cho nền
kinh tế quốc dân.
BHXH là bộ phận chủ yếu của hệ thống bảo đảm xã hội, vì vậy
tính xã hội của nó thể hiện rất rõ nét. Xét về lâu dài, mọi ng ời lao
động trong xã hội đều có quyền tham gia BHXH. Và ng ợc lại,
BHXH phải có trách nhiệm bảo hiểm cho mọi ngời lao động và gia
đình họ, kể cả khi họ còn đang trong độ tuổi lao động. Tính xã hội

của BHXH luôn gắn chặt với tính dịch vụ của nó. Khi nền kinh tế -
xã hội ngày càng phát triển thì tính dịch vụ và tính chất xã hội hoá
của BHXH cũng ngày càng cao.
6. Những quan điểm cơ bản về BHXH
Khi thực hiện BHXH, Các nớc đều phải lựa chọn hình thức, cơ
chế và mức độ thoả mãn các nhu cầu BHXH phù hợp với tạp quán,
khả năng trang trải và đình hớng phát triển kinh tế - xã hội của n ớc
mình. Đồng thời, phải nhận thức thống nhất các quan điểm về
BHXH sau đây:
6.1. Chính sách BHXH là một bộ phận cấu thành và là bộ
phần quan trọng nhất trong chính sách BHXH
Mục đích chủ yếu của chính sách này nhằm đảm bảo đời sống
cho ngời lao động và gia đình họ, khi ngời lao động bị giảm hoặc
mất thu nhập do bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm.
ở nớc ta, BHXH nằm trong hệ thống các chính sách và xã hội của
Đảng và Nhà nớc. Thực chất, đây là một trong những loại chính
sách đối với ngời lao động nhằm đáp ứng một trong những quyền
và nhu cầu hiển nhiên của con ngời , nhu cầu an toàn về việc làm,an
toàn lao động,an toàn xã hội v.v... Chính sách BHXH còn thể hiện
trình độ văn minh, tiềm lực và sức mạnh kinh tế, khả năng tổ chức
và quản lý của mỗi quốc gia. Trong một chừng mực nhất định,nó
15
còn thể hiện tính u việt của một chế độ xã hội. Nếu tổ chức và thực
hiện tốt chính sách BHXH sẽ là động lực to lớn phát huy tiềm năng
sáng tạo của ngời lao động trong quá trình phát triển kinh tế - xã
hội của đất nớc.
6.2. Ngời sử dụng lao động phải có nghĩa vụ và trách nhiệm
BHXH cho ngời lao động
Ngời sử dụng lao động thực chất là các tổ chức, các doanh
nghiệp và các cá nhân có thuê mớn lao động. Họ phải có nghĩa vụ

đóng góp vào quỹ BHXH và có trách nhiệm thực hiện các chế độ
BHXH đối với ngời lao động mà mình sử dụng theo đúng luật pháp
quy định. Ngời sử dụng lao động muốn ổn định sản xuất kinh doanh
thì ngoài việc phải chăm lo đầu t để có thiết bị hiện đại, công nghệ
tiên tiến còn phải chăm lo tay nghề và đời sống cho ngời lao động
mà mình sử dụng. Khi ngời lao động làm việc bình thờng thì phải
trả lơng thoả đáng cho họ. Khi họ gặp rủi ro, bị ốm đau, tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp v.v... trong đó có rất nhiều tr ờng hợp gắn
với quá trình lao động với những điều kiện lao động cụ thể của
doanh nghiệp thì phải có trách nhiệm BHXH cho họ. Chỉ có nh vậy,
ngời lao động mới yên tâm, tích cực lao động sản xuất, phát huy
sáng kiến cải tiến kỹ thuật góp phần nâng cao năng suất lao động
và tăng hiệu quả kinh tế cho doanh nghiệp.
6.3. Ngời lao động đợc bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi đối
với BHXH, không phân biệt nam nữ, dân tộc, tôn giáo, nghề
nghiệp v.v...
Điều đó có nghĩa là mọi ngời lao động trong xã hội đều đợc h-
ởng BHXH nh tuyên ngôn dân quyền đã nêu,đồng thời bình đẳng về
nghĩa vụ đóng góp và quyền lợi trợ cấp BHXH. Ng ời lao động khi
gặp rủi ro không mong muốn và không phải hoàn toàn hay trực tiếp
do lỗi của ngời khác thì trớc hết đó là rủi ro của bản thân. Vì thế,
muốn đợc BHXH tức là muốn nhiều ngời khác hỗ trợ cho mìnhlà
dàn trải rủi ro của mình cho nhiều ngời khác thì tự mình phải gánh
chịu trực tiếp và trớc hết. Điều đó có nghĩa là ngời lao động phải có
trách nhiệm tham gia BHXH để tự bảo hiểm cho mình.
16
Tuy nhiên, nghĩa vụ và quyền lợi của ngời lao động về BHXH
còn tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội, vào các mối quan hệ
kinh tế, chính trị, xã hội ổn định thì ngời lao động tham gia và đợc
hởng trợ cấp BHXH ngày càng đông.

6.4. Mức trợ cấp BHXH phụ thuộc vào các yếu tố
- Tình trạng mất khả năng lao động
- Tiền lơng lúc đang đi làm
- Tuổi thọ bình quan của ngời lao động
- Điều kiện kinh tế - xã hội của đất nớc trong từng thời kỳ.
Tuy nhiên, về nguyên tắc trợ cấp BHXH phải thấp hơn lúc đang
đi làm, nhng thấp hơn cũng phải đảm bảo mức sống tối thiểu.
Quan điểm này vừa phải phản ánh tính cộng đồng xã hội, vừa
phản ánh nguyên tắc phân phối lại quỹ BHXH cho những ng ời lao
động tham gia BHXH. Trợ cấp BHXH là loại trợ cấp thay thế tiền l -
ơng. Mà tiền lơng là khoản tiền mà ngời sử dụng lao động trả cho
ngời lao động khi họ thực hiện đợc những công việc hoặc định mức
công việc nào đó. Nghĩa là, chỉ ngời lao động có sức khoẻ bình th-
ờng, có việc làm bình thờng và thực hiện đợc nhất định mới có tiền
lơng. Khi đã bị ốm đau, tai nạn hay tuổi già không làm việc đợc mà
trớc đó có tham gia BHXH thì chỉ có trợ cấp BHXH và trợ cấp đó
không thể bằng tiền lơng do lao động tao ra đợc. Mức trợ cấp bằng
hoặc cao hơn tiền lơng thì không một ngời lao động nào phải có
gắng tìm kiếm việc làm và tích cực làm việc để có lơng, mà ngợc
lại sẽ lợi dụng BHXH để đợc nhận trợ cấp. Hơn nữa cách lập quỹ
BHXH theo phơng thức dàn trải rủi ro cũng không cho phép trả trợ
cấp BHXH bằng lúc đang làm việc. Và nh vậy thì chẳng khác gì ng-
ời lao động bị rủi ro và qua rủi ro của mình dàn trải hết cho những
ngời khác.
Nh vậy, mức trợ cấp BHXH phải thấp hơn mức tiền lơng lúc
đang đi làm. Tuy nhiên, do mục đích bản chất và ph ơng thức BHXH
thì mức trợ cấp thấp hơn cũng không thể thấp hơn mức sống tối
thiểu.
17
6.5. Nhà nớc quản lý thống nhất chính sách BHXH, tổ chức

bộ máy thực hiện chính sách BHXH
Bởi vì, BHXH là một bộ phần cấu thành các chính sách xã hội,
nó vừa là nhân tố ổn định, vừa là nhân tố động lực phát triển kinh tế
- xã hội. Cho nên, vai trò của Nhà nớc là rất quan trọng. Thực tế đã
chỉ rõ, nếu không có sự can thiệp của Nhà nớc, nếu không có sự
quản lý vĩ mô của Nhà nớc thì mối quan hệ giữa ngời lao động và
ngời sử dụng lao động sẽ không đợc duy trì bền vững, mối quan hệ
ba bên trong BHXH sẽ bị phá vỡ.
Hơn nữa, BHXH đợc thực hiện thông qua một quy trình, từ việc
hoạch định chính sách, đảm bảo vật chất đến việc xét trợ cấp v.v...
Vì vậy, Nhà nớc quản lý toàn bộ quy trình này, hay có những giới
hạn về mức độ và phạm vi.
Trớc hết, phải khảng định rằng việc hoạch định chính sách
BHXH là khâu đầu tiên và quan trọng nhất. Sự quản lý của Nhà n ớc
về vấn đề này thể hiện ở việc xây dựng các dự án luật, các văn bản
pháp quy về BHXH và ban hành thực hiện. Sau đó là hớng dẫn, kiểm
tra, thanh tra các tổ chức, cá nhân thực hiện chính sách.
Đối với việc đảm bảo vật chất cho BHXH thì vai trò của Nhà n-
ớc phụ thuộc vào chính sách BHXH do Nhà nớc quy định. Có những
mô hình về bảo đảm vật chất cho BHXH do ngân sách Nhà nớc
cung cấp thì vai trò quản lý Nhà nớc là trực tiếp và toàn diện, nếu
nguồn đảm bảo trợ cấp do ngời sử dụng lao động, ngời lao động và
Nhà nớc đóng góp thì Nhà nớc tham gia quản lý.
Để quản lý BHXH, Nhà nớc sử dụng các công cụ chủ yếu nh
luật pháp và bộ máy tổ chức. Nhìn chung, hầu hết các nớc trên thế
giới, việc quản lý vĩ mô BHXH đều đợc Nhà nớc giao cho Bộ Lao
động hoặc bộ xã hội trực tiếp điều hành.
18
III. Quỹ BHXH
1. Khái niệm

Sự ra đời, tồn tại và phát triển quỹ BHXH phụ thuộc vào trình
độ phát triển kinh tế - xã hội của từng quốc gia vào điều kiện lịch
sử trong thời kỳ nhất định của đất nớc. Trình độ kinh tế - xã hội
càng phát triển thì các chế độ BHXH dợc áp dụng càng mở rộng,
nhu cầu thoả mãn về BHXH đối với ngời lao động càng đợc nâng
cao và khi kinh tế phát triển,ngời lao động có thu nhập cao, càng có
điều kiện tham gia BHXH.
Quỹ BHXH là một quỹ tiền tệ tập trung giữ vị trí là khâu tài
chính trung gian trong hệ thống tài chính quốc gia. Nó ra đời tồn
tại và gắn với mục đích bảo đảm ổn định cuộc sống cho ngời lao
động và gia đình họ khi gặp rủi ro làm giảm hoặc mất thu nhập từ
lao động, mà không nhằm mục đích kinh doanh kiếm lời. Nh vậy,
Quỹ BHXH là quỹ tài chính độc lập, tập trung nằm ngoài Ngân sách
Nhà nớc.
2. Nguồn quỹ BHXH
Quỹ BHXH đợc hình thành chủ yếu từ các nguồn sau đây:
- Ngời sử dụng lao động đóng góp.
- Ngời lao động đóng góp
- Nhà nớc đóng góp và hỗ trợ thêm.
- Các nguồn khác nh: cá nhân và các tổ chức từ thiện ủng hộ,
lãi do đầu t phần quỹ nhàn rỗi...
Trong nền kinh tế hàng hoá, trách nhiệm tham gia đóng góp
BHXH cho ngời lao động đợc phân chia cho cả ngời sử dụng lao
động và ngời lao động trên cơ sở quan hệ lao động. Điều này không
phải là sự phân chia rủi ro, mà là lợi ích giữa hai bên. Về phía ng ời
sử dụng lao động, sự đóng góp một phần BHXH cho ng ời lao động
sẽ tránh đợc thiệt hại kinh tế do phải chi ra một khoản tiền lớn khi
có rủi ro xảy ra đối với ngời lao động mà mình thuê mớn. Đồng thời
nó góp phần giảm bớt tình trạng tranh chấp, kiến tạo đ ợc mối quan
19

hệ tốt đẹp giữa chủ - thợ. Về phía ngời lao động, đóng góp một
phần để BHXH cho mình vừa biểu hiện sự tự gánh chịu trực tiếp rủi
ro của chính mình, vừa có ý nghĩa ràng buộc nghĩa vụ và quyền lợi
một cách chặt chẽ.
Mối quan hệ chủ - thợ trong BHXH thực chất là mối quan hệ
lợi ích. Vì thế, cũng nh nhiều lĩnh vực khác trong quan hệ lao động,
BHXH không thể thiếu đợc sự tham gia đóng góp của Nhà nớc. Trớc
hết là các luật lệ của Nhà nớc về BHXH là những chuẩn mực pháp
lý cho cả ngời lao động và ngời sử dụng lao động đều phải tuân
theo, những tranh chấp chủ - thợ trong lĩnh vực BHXH có cơ sở
vững chắc để giải quyết. Ngoài ra, bằng nhiều hình thức, biện pháp
và mức độ can thiệp khác nhau, Nhà nớc không chỉ tham gia đóng
góp và hỗ trợ thêm cho quỹ BHXH, mà còn chở thành chỗ dựa để
đảm bảo cho hoạt động BHXH chắc chắn và ổn định.
Phần lớn các nớc trên thế giới, quỹ BHXH đều đợc hình thành
từ các nguồn trên. Tuy nhiên, phơng thức đóng góp và mức đóng
góp của các bên tham gia BHXH có khác nhau.
Về phơng thức đóng góp BHXH của ngời lao động và ngời sử
dụng lao động hiện vẫn còn hai quan điểm. Quan điểm thứ nhất cho
rằng, phải căn cứ vào mức lơng và quỹ lơng của cơ quan, doanh
nghiệp. Quan điểm thứ hai lại nêu lên, phải căn cứ vào mức thu
nhập cơ bản của ngời lao động đợc cân đối chung cho toàn bộ nền
kinh tế quốc dân để xác định mức đóng góp.
Về mức đóng góp BHXH, một số nớc quy định ngời sử dụng
lao động phải chịu toàn bộ chi phí cho chế độ tai nạn lao động,
Chính phủ trả chi phí y tế và trợ cấp gia đình, các chế độ còn lại cả
ngời lao động và ngời sử dụng lao động cùng đóng góp mỗi bên
một phần bằng nhau. Một số nớc khác lại quy định, Chính phủ bù
thiếu cho quỹ BHXH hoặc chịu toàn bộ chi phí quản lý BHXH v.v...
Mức đóng góp BHXH ở một số nớc trên thế giới

Tên nớc Chính phủ Tỷ lệ đóng góp của
ngời lao động so
Tỷ lệ đóng góp
của ngời sử dụng
20
với tiền lơng (%) lao động so với
quỹ lơng (%)
CHLB Đức Bù thiếu
14,8 ữ 18,8 16,3 ữ 22,6
CH Pháp Bù thiếu 11,82 19,68
Inđônêxia Bù thiếu 3,0 6,5
Philipin Bù thiếu
2,85 ữ 9,25 6,85 ữ 8,05
Malaixia Chi toàn bộ chế độ
ốm đau, thai sản
9,5 12,75
(Nguồn: BHXH ở một số nớc trên thế giới)
Mức đóng góp BHXH là yếu tố quyết định sự cân đối thu chi
quỹ BHXH. Vì vậy, quỹ này phải đợc tính toán trên cơ sở khoa học.
Trong thực tế, việc xác định mức đóng góp BHXH là một nghiệp vụ
chuyên sâu của BHXH và ngời ta thờng sử dụng các phơng pháp
toán học khác nhau để xác định. Khi xác định mức đóng góp
BHXH, có thể có những căn cứ tính toán khác nhau:
- Dựa vào tiền lơng và thang lơng để xác định mức trợ cấp
BHXH, từ đó có cơ sở để xác định mức đóng góp.
- Quy định mức đóng góp BHXH trớc rồi từ đó xác định mức hởng.
- Dựa vào nhu cầu khách quan của ngời lao động để xác định
mức hởng, rồi từ mức hởng BHXH này có thể xác định đợc mức
đóng góp.
Mặc dù chỉ thuần tuý mamg tính kỹ thuật nhng xác định mức

đóng góp BHXH lại khá phức tạp vì nó liên quan tới cả ngời lao
động, ngời sử dụng lao động và Nhà nớc. Liên quan đến khả năng
cân đối thu nhập của ngời lao động và kiều kiện phát triển kinh tế
xã hội của đất nớc. Tuy nhiên, khi xác định mức đóng góp BHXH
vẫn phải đảm bảo nguyên tắc: cân bằng thu chi, lấy số đông bù số ít
và có dự phòng. Mức đóng góp xác định phải đợc cân đối với mức
hởng, với nhu cấu BHXH và điều chỉnh sao cho tối u nhất.
Mức đóng góp BHXH đợc cấu thành từ 3 bộ phận và đợc xác
định theo công thức:
P = f1 + f2 + f3
Trong đó: P - Mức đóng góp BHXH
f1- Đóng góp thuần tuý trợ cấp BHXH
21
f2- Đóng góp dự phòng
f3- Đóng góp quản lý
Đóng góp thuần tuý trợ cấp BHXH cho cả các chế độ ngắn hạn
và dài hạn. Đối với các chế độ BHXH ngắn hạn việc đóng và h ởng
BHXH xảy ra trong thời gian ngắn (thờng là 1 năm) nh: ốm đau,
thai sản, tai nạn lao động nhẹ... Vì vậy, số đóng góp BHXH phải đủ
cho số phát sinh chi trả trong năm. Đối với các chế độ BHXH dài
hạn nh: Hu trí mất ngời nuôi dỡng, tai nạn lao động hoặc bệnh nghề
nghiệp nặng v.v... quá trình đóng góp và quá trình hởng tơng đối
độc lập với nhau và diễn ra trong khoảng thời gian nhất định. Cho
nên, sự công băng giữa đóng góp và hởng BHXH phải đợc dàn trải
trong cả thời kỳ dài. Vì thế, ngoài đóng góp thuần tuý phải có đóng
góp dự phòng để đảm bảo quỹ BHXH có dự trữ đủ lớn.
Nh vậy, để xác định đợc mức đóng góp và mức hởng BHXH
phải dựa vào nhiều yếu tố và nhiều thông tin khác nhau về nguồn
lao động, cơ cấu nguồn lao động theo tuổi, giới tính, ngành nghề
v.v... ngoài ra còn phải xác định và dự báo đợc tuổi thọ bình quân

của quốc gia; xác suất ốm đau, tai nạn, tử vong của ngời lao động
v.v...
3. Mục đích sử dụng quỹ BHXH
Quỹ BHXH đợc sử dụng chủ yếu cho 2 mục đích sau đây:
- Chi trả và trợ cấp cho các chế độ BHXH
- Chi phí cho sự nghiệp quản lý BHXH.
3.1. Các chế độ BHXH đợc áp dụng phổ biến trên thế giới
Theo khuyến nghị của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) quỹ
BHXH đợc sử dụng để trợ cấp cho các đối tợng tham gia BHXH
nhằm mục đích ổn định cuộc sống cho bản thân và gia đình họ, khi
đối tợng tham gia bảo hiểm gặp rủi ro. Thực chất là trợ cấp cho 9
chế độ mà tổ chức này đã nêu lên trong Công ớc 102 tháng 6 năm
1952 tại Giơnevơ:
1. Chăm sóc y tế
2. Trợ cấp ốm đau
3. Trợ cấp thất nghiệp
22
4. Trợ cấp tuổi già
5. Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
6. Trợ cấp gia đình
7. Trợ cấp sinh đẻ
8. Trợ cấp khi tàn phế
9. Trợ cấp cho ngời còn sống (trợ cấp mất ngời nuôi dỡng)
9 chế độ trên hình thành một hệ thống các chế độ BHXH. Tuỳ
theo điều kiện kinh tế - xã hội mà mỗi nớc tham gia công ớc
Giơnevơ thực hiện khuyến nghị đó ở mức độ khác nhau, nhng ít
nhất phải thực hiện đợc 3 chế độ. Trong đó, ít nhất phải có một
trong 5 chế độ: (3); (4); (5); (8); (9). Mỗi chế độ trong hệ thống
trên khi xây dựng đều dựa trên những cơ sở kinh tế xã - hội; tài
chính; thu nhập; tiền lơng v.v... Đồng thời, tuỳ từng chế độ khi xây

dựng còn phải tính đến yếu tố sinh học; tuổi thọ bình quân của
quốc gia; nhu cầu dinh dỡng; xác xuất tử vong v.v...
Hệ thống các chế độ BHXH có những đặc điểm chủ yếu sau đây:
+ Các chế độ đợc xây dựng theo luật pháp mỗi nớc.
+ Hệ thống các chế độ mang tính chất chia sẻ rủi ro, chia sẻ tài chính.
+ Mỗi chế đọ đợc chi trả đều căn cứ chủ yếu vào mức đóng góp
của các bên tham gia BHXH.
+ Phần lớn các chế độ là chi trả định kỳ.
+ Đồng tiền đợc sử dụng làm phơng tiện chi trả và thanh quyết
toán.
+ Chi trả BHXH là quyền lợi của mỗi chế độ BHXH.
+ Mức chi trả còn phụ thuộc vào quỹ dự trữ. Nếu quỹ dự trữ đ-
ợc đầu t có hiệu quả và an toàn thì mức chi trả sẽ cao và ổn định.
Tuy nhiên, cơ sở để xác định điều kiện hởng BHXH phải tính
đến một loạt các yếu tố liên quan đến toàn bộ hệ thống các chế độ
cũng nh tựng chế độ BHXH cụ thể. Chẳng hạn, khi xác định điều
kiện trợ cấp BHXH tuối già phải dừa vào cơ sớ sinh học là tuổi đời
và giới tính của ngời lao động là chủ yếu. Bởi vì tuổi già để hởng
trợ cấp hu trí của mỗi giới, mỗi vùng, mỗi quốc gia có những khác
biệt nhất định. Do đó, có những nớc quy định: Nam 60 tuổi và nữ
23
55 tuổi sẽ đợc nghỉ hu. Nhng cũng có những nớc quy định: Nam 65
tuổi và nữ 60 tuổi v.v... Hoặc khi xác định điều kiên h ởng trợ cấp
cho chế độ tai nan lao động và bệnh nghề nghiệp phải tính đến các
yếu tố nh: điều kiên và môi trơng lao động; bảo hộ lao động v.v...
Các yếu tố này thờng có quan hệ và tác động qua lại với nhau ít
nhiều ảnh hởng tới điều kiện BHXH của từng chế độ và toàn bộ hệ
thống các chế độ BHXH.
Thời gian hởng trợ cấp và mức hởng trợ cấp BHXH nói chung
phụ thuộc vào từng trờng hợp cụ thể và thời gian đóng bảo hiểm của

ngời lao động, trên cơ sở tơng ứng giữa đóng và hởng. Đồng thời
mức trợ cấp còn phụ thuộc vào khả năng thanh toán chung của từng
quỹ tài chính BHXH; mức sống chung của các tầng lớp dân c và ng-
ời lao động. Nhng về nguyên tắc, mức trợ cấp này không cao hơn
mức tiền lơng hoặc mức tiền công khi ngời lao động đang làm việc
và nó chỉ bằng một tỷ lệ phần trăm nhất định so với tiền lơng hay
tiền công. ở các nớc kinh tế phát triển do mức lơng cao, nên tỷ lệ
này thờng thấp và ngợc lại ở những nớc đanh phát triển do mức tiền
lơng còn thấp nên phải áp dụng một tỷ lệ khá cao. Ví dụ: ở Pháp,
mức trợ cấp hu trí chỉ bằng 50% của mức lơng bình quân 10 năm
cao nhất (với điều kiện đóng BHXH đủ 37,5 năm). ốm đau đợc trợ
cấp bằng 50% tiền lơng, thời gian nghỉ ốm đợc hởng trợ cấp không
quá 12 tháng. Sinh con đợc hởng trợ cấp bằng 90% tiền lơng trong
vòng 16 tuần v.v... Còn ở Philipin, mức trợ cấp hu trí từ 42% đến
102%tuỳ thuộc vào nhóm lơng khác nhau. ốm đau đợc hởng 65%,
sinh con đợc nghỉ 45 ngày và đợc hởng bằng 100% tiền lơng v.v...
Tuy vậy, việc các nớc qui định trợ cấp BHXH bằng tỷ lệ phần
trăm tiền lơng so với tiền lơng hay tiền công thờng dẫn đến bội chi
quỹ BHXH. Vì vậy, một số nớc đã phải tìm cách khắc phục nh: trả
ngay một lần khi nghỉ hu (Nhật bản một lần khi nghỉ hu là 15 triệu
yên; ấn Độ, Malaixia, Inđônêxia trả một lần bằng tổng số tiền mà
chủ và thợ đã đóng góp cộng với lãi) hoặc suốt đời đóng theo tỷ lệ
phần trăm của một mức thu nhập quy đinh và hởng cũng theo tỷ lệ
phần trăm của mức quy định.
Ngoài việc chi trả trợ cấp theo các chế độ BHXH, quỹ BHXH
còn đợc sử dụng cho chi phí quản lý nh: tiền lơng chi trả cho ngũng
24
ngời làm việc trong hệ thống BHXH; khấu hao tài sản cố định, văn
phòng phẩm và một số khoản chi khác v.v... Phần quỹ nhàn rỗi phải
đợc đem đầu t sinh lời. Mục đích đáu t quỹ BHXH là nhằm bảo toàn

và tăng trởng nguồn quỹ.
Qúa trình đầu t quỹ BHXH phải đảm bảo nguyên tắc: an toàn,
có lợi nhuận, có khả năng thanh toán và đảm bảo lợi ích kinh tế -
xã hội.
3.2. Các chế độ BHXH đang đợc thực hiện ở Việt Nam hiện
nay
Theo điều 2 của Điều lệ BHXH Việt Nam, BHXH nớc ta hiện
nay bao gồm 5 chế độ:
1. Chế độ trợ cấp ốm đau
2. Chế độ trợ cấp thai sản
3. Chế độ trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
4. Chế độ hu trí
5. Chế độ tử tuất
So với trớc đây, chế độ trợ cấp mất sức lao động bị loại bỏ. Nội
dung của 5 chế đọ nêu trên đợc quy định thống nhất trong chơng II
của Điều lệ. Mỗi chế độ BHXH khi xây dựng đều căn cứ vào một
loạt những cơ sở nh: sinh học; kinh tế - xã hội; điều kiện và môi tr -
ờng lao động v.v...
4. Cơ chế quản lý quỹ BHXH
4.1. Một số nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và quản lý quỹ BHXH
Để thực hiện tốt mục đích của quỹ BHXH, trong quá trình quản lý điều
hành hoạt động quỹ BHXH cần quán triệt những nguyên tắc cơ bản sau đây:
- Tài chính BHXH là một quỹ tồn tại và hoạt động độc lập, cơ chế thu,
chi của quỹ phải luôn bảo đảm cân đối, phải bảo toàn và phát triển quỹ để
bảo đảm quyền lợi cho ngời tham gia BHXH. Vì thế, tổ chức quản lý điều
hành quỹ BHXH phải đợc tổ chức độc lập thống nhất trong phạm vi cả nớc
trên cơ sở pháp luật của Nhà nớc đã ban hành và chịu sự kiểm tra, giám sát,
quản lý của Nhà nớc về chấp hành pháp luật BHXH đối với các bên tham gia
BHXH. Tổ chức BHXH Việt Nam có hoạt động độc lập thì mới có điều kiện
25

×