Tải bản đầy đủ (.pdf) (44 trang)

XÃ HỘI HỌC GIA ĐÌNH BẠO LỰC GIA ĐÌNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (947.48 KB, 44 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ


TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN
XÃ HỘI HỌC GIA ĐÌNH

TÌM HIỂU NHẬN THỨC VÀ THÁI ĐỘ CỦA SINH
VIÊN KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN
VĂN VỀ VẤN ĐỀ BẠO LỰC GIA ĐÌNH

Cần Thơ, tháng 4 năm 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ


TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN

TÌM HIỂU NHẬN THỨC VÀ THÁI ĐỘ CỦA SINH
VIÊN KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN
VĂN VỀ VẤN ĐỀ BẠO LỰC GIA ĐÌNH
GVHD: Nguyễn Ngọc Lẹ

Nhóm thực hiện:
1. Đặng Văn Pháp
2. Nguyễn Thị Kiều
3. Trần Thị Thuý Hằng
4. Lâm Thị Châm
5. Bùi Thị Kim Huệ


6. Thái Thành Tài


Mục lục
Chương 1 ................................................................................................................. 8
Giới thiệu ................................................................................................................ 8
1.1.

Tính cấp thiết của đề tài .................................................................................. 8

1.2.

Tổng quan tài liệu ......................................................................................... 10

1.3.

Mục đích ...................................................................................................... 12

1.4.

Nhiệm vụ ...................................................................................................... 12

1.5.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 12

1.5.1. Đối tượng nghiên cứu ................................................................................ 12
1.5.2. Đối tượng khảo sát .................................................................................... 12
1.5.3. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................... 12
1.6.


Giả thuyết nghiên cứu ................................................................................... 12

1.7.

Câu hỏi nghiên cứu ....................................................................................... 13

1.8.

Thao tác hóa khái niệm ................................................................................. 13

1.9.

Khung phân tích ........................................................................................... 14

Chương 2 ............................................................................................................... 15
Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ............................................................. 15
2.1. Cơ sở lý luận và lý thuyết liên quan ................................................................. 15
2.1.1. Một số khái niệm cơ bản .............................................................................. 15
2.1.2. Một số lý thuyết liên quan............................................................................ 17
2.3. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 18
2.3.1. Phương pháp thu thập số liệu ....................................................................... 18
Chương 3 ............................................................................................................... 21
Kết quả nghiên cứu và thảo luận ............................................................................ 21
3.1. Tổng quan địa bàn nghiên cứu ......................................................................... 21
3.2. Mô tả mẫu nghiên cứu .................................................................................... 22
3.3. Thực trạng BLGĐ ở Việt Nam hiện nay ......................................................... 23
3.4. Nhận thức của sinh viên ................................................................................. 24
3.5. Nhận thức và thái độ của sinh viên ................................................................. 26
3.6. Nguyên nhân................................................................................................... 28

3


3.7. Hậu quả .......................................................................................................... 29
Chương 4 ............................................................................................................... 33
Kết luận và kiến nghị ............................................................................................. 33
4.1. Kết luận ........................................................................................................... 33
4.2. Kiến nghị ......................................................................................................... 33
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................... 36

4


DANH SÁCH BẢNG

Bảng 3.1. Thông tin đáp viên .............................................................................. 22
Bảng 3.2. Sinh viên tham gia tìm hiểu BLGĐ ...................................................... 25
Bảng 3.3. Mức độ đồng ý của sinh viên về hành vi BLGĐ ................................... 35

5


DANH SÁCH HÌNH
Hình 1.1. Sơ đồ hóa khái niệm ..................................................................... 10
Hình 1.2. Khung phân tích............................................................................. 11
Hình 3.1. Khu vực sinh sống của đáp viên ..................................................... 20
Hình 3.2. Sự hiểu biết của sinh viên về các hình thức BLGĐ ....................... 22
Hình 3.3. Sự hiểu biết của sinh viên về nguyên nhân BLGĐ ....................... 23
Hình 3.4. Sự hiểu biết của sinh viên về hậu quả BLGĐ ................................. 25
Hình 3.5. Sự hiểu biết của sinh viên về hậu quả BLGĐ ................................. 27


6


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BĐG

Bình đẳng giới

BGD & ĐT
BLGĐ

Bộ Giáo dục và Đào tạo
Bạo lực gia đình

PCBLGĐ
BVH TT&DL

Phòng chống bạo lực gia đình
Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch

ĐHCT
KHXH & NV

Đại học Cần Thơ
Khoa học Xã hội và Nhân văn

LHQ
VNCPT ĐBSCL


Liên Hợp Quốc
Viện nghiên cứu đồng bằng Sông Cửu Long

7


Chương 1
Giới thiệu
1.1.
Tính cấp thiết của đề tài
Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi nuôi dưỡng nhân cách và hình thành sự
phát triển của con người, có thể nói gia đình là hình ảnh thu nhỏ của xã hội. Chính vì
thế, yếu tố gia đình rất quan trọng đối với sự phát triển của xã hội. Một xã hội phát triển
toàn diện, bền vững là xã hội đó không tồn tại bạo lực, nó được thể hiện qua phương
diện gia đình. Thế nhưng, Bạo lực gia đình (BLGĐ) ở Việt Nam hiện nay vẫn còn tồn
tại và xảy ra các vụ bạo lực ngày càng tăng lên. Chính bạo lực là nguyên nhân dẫn đến
nhiều gia đình rơi vào tình trạng khủng hoảng, dần dần đi đến đỗ vỡ hạnh phúc.
Bên cạnh đó, trong các gia đình mối quan hệ giữa vợ chồng và con cái là một tình
cảm thiêng liêng, ấm áp, đem lại hạnh phúc cho gia đình nhằm đáp ứng những nhu cầu
tình cảm và vật chất cho các thành viên trong gia đình. Vì lẽ đó, mà mỗi con người
chúng ta đều tìm thấy sự bình yên, ấm áp và an toàn khi được sống và trở về với gia
đình của những tháng ngày xa cách và những bộn bề, hối hả của cuộc sống.
Giống như một xã hội học phương Tây nhận định: dù tồi tàn đến đâu nhưng không
nơi nào trên thế giới có thể sánh được với mái ấm gia đình. Bởi xã hội, dù có tốt đẹp
đến đâu, có đến mức lý tưởng thì vẫn trộn lẫn giữa hai gam màu trắng - đen.
Ở đâu đó trong cuộc sống này, gia đình đã và đang trở thành “địa ngục của mỗi gia
cảnh”, là những nỗi đau thương của hành vi BLGĐ. Chính từ những hành vi ấy, đã đẩy
gia đình vào nghịch cảnh, tình trạng khủng hoảng, dần dần đi đến đổ vỡ hạnh phúc gia
đình. Do vậy, để đảm bảo hạnh phúc và duy trì sự tồn tại phát triển của gia đình thì việc

lên án và xóa bỏ những hành vi bạo lực trong gia đình là yếu tố đóng vai trò quan trọng.
Nhất là trong bối cảnh xã hội hiện nay, khi mọi người đang hướng tới sự tự do, bình
đẳng, dân chủ, tiến bộ và văn minh thì không thể chấp nhận tình trạng BLGĐ, bởi đó là
hành vi không chỉ gây tổn thương đến sức khỏe, danh dự của thành viên trong gia đình
mà còn vi phạm đến chuẩn mực xã hội, vi phạm luật pháp và bình đẳng giới. Những vấn
đề nêu trên đã đặt ra cho xã hội một nhiệm vụ cấp bách là làm thế nào để ngăn chặn tình
trạng BLGĐ hiện nay.
Tháng 11/2006 và tháng 11/2007, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Luật Phòng,
chống BLGĐ. Ngay sau đó, Chính phủ Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản pháp quy
hướng dẫn thực hiện và triển khai thực hiện Luật Phòng, chống BLGĐ. Mặc dù đã có
nhiều cố gắng, nhưng hiệu quả của công tác phòng, chống BLGĐ chưa cao, Luật Phòng,
chống BLGĐ chưa thực sự đi vào cuộc sống,
Thực tế các chương trình can thiệp hiện nay tại Việt Nam trong thời gian qua chưa
quan tâm đến vai trò và sự tham gia của nam giới trong việc xóa bỏ BLGĐ. Trong khi
8


đó, các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng nam giới đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc
phòng, chống BLGĐ, vì họ chủ yếu là người gây ra BLGĐ và bạo lực với phụ nữ. Nam
giới là nguyên nhân chủ yếu của BLGĐ thì họ phải là một phần quan trọng của giải
pháp. Nếu nam giới không vào cuộc, không được nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi
thì vấn đề BLGĐ tại Việt Nam vẫn còn là một vấn đề nhức nhối và thách thức lớn.
Vì vậy, BLGĐ luôn là một vấn đề xã hội thu hút nhiều sự quan tâm của các chuyên
gia. Tuy nhiên, các nghiên cứu BLGĐ ở nước ta chủ yếu nghiên cứu dạng bạo lực của
chồng đối với vợ, vì ở dạng này đang được diễn ra phổ biến trong xã hội hiện nay.
Theo nhận định của tổ chức Y tế thế giới thì phần lớn BLGĐ xảy ra là bạo lực của
chồng đối với vợ (khoảng 95%). Như vậy, bạo lực giới trong gia đình hiện nay diễn ra
rất phức tập, đa chiều, đan xen nhiều hình thức bạo lực khác nhau: bạo lực của chồng
đối với vợ hoặc và bạo lực của vợ đối với chồng…Vì vậy, các dạng BLGĐ vẫn là “tâm
điểm” cần được quan tâm, khai thác ở nhiều khía cạnh đặc biệt là dưới góc nhìn xã hội

học.
Sinh viên KHXH & NV nói chung, sinh viên Khoa KHXH & NV trường ĐHCT
nói riêng phải đảm bảo kiến thức chuyên môn - nghiệp vụ mà phải quan tâm đến các
vấn đề xã hội, đặc biệt là vấn đề BLGĐ hiện nay. Việc tiếp cận các vấn đề trong cộng
đồng, nên kiến thức về xã hội nhân văn là rất cần thiết cho sinh viên. Đặc biệt, là các
năng lực tiếp cận cộng đồng và các kỹ năng thiết yếu để phân tích sâu về khả năng và
đánh giá các năng lực của sinh viên, đặc biệt là các sinh viên học các ngành thuộc
KHXH & NV.
Qua đó thúc đẩy và nâng cao vai trò của sinh viên trong quá trình tự xây dựng
kiến thức. Thực vậy, thông qua việc nhận thức, thái độ của sinh viên trong việc chuyển
đổi và áp dụng kiến thức đã học vào thực tế, góp phần thu hẹp khoảng cách lý luận và
thực tiễn, đặc biệt trong bối cảnh nghề nghiệp tương lai và giảm bớt thực trạng BLGĐ.
Bài báo cáo này sẽ chỉ ra những yếu tố có liên quan đến việc duy trì các hành vi
BLGĐ đối với phụ nữ như bất bình đẳng trong các quan hệ giới, yếu tố gốc rễ của nạn
bạo lực này; các nguyên cớ trực tiếp như tình trạng say rượu, những mâu thuẫn trong
làm ăn, trong sinh hoạt và khó khăn về kinh tế. Những hậu quả tiêu cực do BLGĐ đối
với phụ nữ gây ra đối với cá nhân, gia đình, cộng đồng và xã hội sẽ được nhóm phân
tích một cách chi tiết. Nhóm nghiên cứu sẽ tìm ra các tác hại của các hành vi BLGĐ đối
với phụ nữ, sự tham gia của sinh viên vào công cuộc đấu tranh chống lại các hành vi
bạo lực này có ý nghĩa rất lớn. Một số vấn đề sinh viên cần quan tâm là: có quan niệm
đúng đắn về bình đẳng giới; có hiểu biết rõ ràng về các hành vi BLGĐ và các biện pháp
nhằm phòng, chống BLGĐ; tham gia tích cực vào các hoạt động phòng, chống BLGĐ.

9


Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, cũng như xuất phát từ nhu cầu
thực tiễn, nhóm đề xuất nghiên cứu đề tài “Tìm hiểu nhận thức và thái độ của sinh
viên Khoa Khoa học Xã hội và Nhân Văn về vấn đề Bạo lực gia đình”, với đề tài
này chúng tôi hy vọng sẽ có cách nhìn mới về BLGĐ dưới góc nhìn xã hội học.

1.2.
Tổng quan tài liệu
Trong những năm gần đây, BLGĐ đã và đang trở thành một trong những vấn đề
được quan tâm hàng đầu của giới nghiên cứu trên lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn.
Vì vậy, có rất nhiều công trình nghiên cứu, các cuộc hội thảo, các bài báo và sách chuyên
khảo, tham khảo của nhiều tác giả về BLGĐ thể hiện những góc nhìn khác nhau.
Lê Thị Quý, (năm 1994). “BLGĐ ở Việt Nam hiện nay” đăng trên tạp chí khoa
học và phụ nữ. Bài viêt đã tập trung phân tích nguyên nhân dẫn đến tình trạng bạo lực
giới trong gia đình như: kinh tế; văn hóa xã hội; nhận thức và vai trò của vợ và chồng
trong gia đình.
TS. Vũ Mạnh Lợi và cộng sự (năm 1999). “Bạo lực trên cơ sở giới” của được tiến
hành ở ba địa điểm: Thành phố Hà Nội, Thành phố Huế, Thành Phố Hồ Chí Minh, đã
cho thấy thái độ phẫn nộ của cộng đồng, những chế tài của xã hội và sự tẩy chay của cá
nhân đối với hiện tượng bạo lực giới trong gia đình ở nước ta hiện nay. Đồng thời đưa
ra nhận định về xu hướng vận động của xã hội này trong những năm tới.
Năm 2001, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam thực hiện đề tài “BLGĐ đối với phụ
nữ ở Việt Nam”. Đề tài đã phân tích những hậu quả nghiêm trọng của nạn bạo lực giới
trong gia đình đối với phụ nữ và phản ứng của nạn nhân bị bạo lực trước những hành vi
vô nhân tính đó.
Trong báo cáo của tổ chức phi Chính phủ Việt Nam về thực hiện công ước xóa bỏ
tất cả các hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ của Mạng giới và phát triển
(GENCOMNET), năm 2006 Công ước đó đưa ra chương trình đầu tiên đề cập đến bạo
lực trong gia đình và phân tích một số thách thức mà Việt Nam phải đối mặt trước vấn
nạ này trong thời gian sắp tới.
TS. Lê Thị Quý và cộng sự, (năm 2007). “BLGĐ một sự sai lệch hệ giá trị”. Đây
là kết quả của công trình nghiên cứu thực tiễn tại ba địa điểm: Thái Bình, Phú Thọ và
Thành phố Hà Nội. cuốn sách này đã chỉ ra rằng BLGĐ là một sự lệch chuẩn về mặt đạo
đức xã hội, về những giá trị của thời đại mà chúng ta đang đề cao.
Phòng, chống BLGĐ trong đó có PCBLGĐ đối với phụ nữ đã được đề cập trong
một số văn bản pháp luật của nước ta như: Hiến pháp 1992, Luật Hôn nhân và gia đình

năm 2000, Bộ luật Dân sự năm 2005, Bộ luật Tố tụng Dân sự, Bộ luật Hình sự năm
1999, Bộ luật Tố tụng Hình sự 2003, Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Pháp
lệnh xử lý vi phạm hành chính, Pháp lệnh người cao tuổi… Những văn bản pháp luật
trên đã có rất nhiều quy định về phòng, chống BLGĐ, góp phần quan trọng trong bảo
10


vệ người phụ nữ khỏi BLGĐ. Để công tác PCBLGĐ có hiệu quả hơn nữa, ngày 21 tháng
11 năm 2007, Quốc hội khoá XII của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã
thông qua Luật Phòng, chống BLGĐ.
Luật Phòng, chống BLGĐ ra đời là một bước tiến tích cực, có ý nghĩa rất lớn để
chúng ta tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về PCBLGĐ, bảo vệ quyền con người,
bảo vệ người phụ nữ, tiếp tục sự nghiệp giải phóng người phụ nữ, xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Luật Phòng,
chống BLGĐ lần đầu tiên ra đời như tiếng chuông lớn cảnh tỉnh những ai đang có hành
vi BLGĐ đối với phụ nữ, gửi đến tất cả các chủ thể trong xã hội một thông điệp rõ ràng
rằng BLGĐ nói chung và BLGĐ đối với phụ nữ là trái với đạo đức, đi ngược lại truyền
thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc, trái với ý chí chung của xã hội, là vi phạm pháp luật,
vi phạm những chuẩn mực chung của xã hội và phải chịu sự trừng phạt của xã hội, của
pháp luật.
Cụ thể hoá các quy định của Hiến pháp 1992, nội dung PCBLGĐ đối với phụ nữ được
quy định trong nhiều văn bản pháp luật khác. Tiêu biểu là những quy định trong Bộ luật Hình
sự năm 1999 là một trong những văn bản đó. Bộ luật Hình sự là căn cứ để xác định hành vi
BLGĐ nào là hành vi phạm tội. Điều 130, Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định tội xâm phạm
quyền bình đẳng của phụ nữ: "người nào dùng vũ lực hoặc có hành vi nghiêm trọng khác cản
trở phụ nữ tham gia hoạt động chính trị, kinh tế, khoa học, văn hoá, xã hội, thì bị phạt cảnh
cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến một năm". Cùng
với Bộ luật Hình sự, Luật Tổ chức Chính phủ cũng quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Chính
phủ: "thực hiện chính sách và biện pháp bảo đảm quyền bình đẳng nam nữ về mọi mặt chính
trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và gia đình; bảo vệ, chăm sóc bà mẹ và thực hiện quyền trẻ em;

giúp đỡ người già, người khuyết tật và trẻ em có hoàn cảnh khó khăn đặc biệt; có biện pháp
ngăn ngừa và chống mọi hành vi bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em, xúc phạm nhân phẩm phụ
nữ và trẻ em". (Khoản 4, điều 12, Luật Tổ chức Chính phủ).
Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 là một trong những văn bản pháp
luật quan trọng trong việc xây dựng, hoàn thiện và bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình
tiến bộ, xây dựng chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử của các thành viên trong gia đình,
kế thừa và phát huy truyền thống đạo đức tốt đẹp của gia đình Việt Nam nhằm xây dựng
gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững. Luật Hôn nhân và gia đình
Việt Nam còn là phương tiện hữu hiệu trong việc PCBLGĐ. Luật đã có nhiều điều khoản
quy định trực tiếp và gián tiếp đến việc PCBLGĐ. Tuy nhiên, xét một cách tổng quát,
những quy định đó vẫn còn sơ sài, tản mạn ở nhiều văn bản khác nhau, thiếu tính cụ thể
và chưa có những quy định pháp lý đặc thù.

11


Nhìn chung, các công trình nghiên cứu nêu trên cho thấy bạo lực trong gia đình ở
Việt Nam những năm gần đây đã trở thành một vấn đề xã hội nghiêm trọng và ngày
càng phổ biến. Đồng thời bằng các phương pháp nghiên cứu xã hội học đã đưa ra những
kết quả minh chứng cho hiện tượng BLGĐ hiện nay. Từ đó đưa ra những giải pháp,
phòng chống hiện tượng tiêu cực này trong gia đình, góp phần xóa bỏ tình trạng bất bình
đẳng giới giữa nam và nữ trong gia đình, tiến tới xây dựng gia đình Việt Nam “no ấm,
bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc”.
Qua đó, tổng quan tài liệu trong và ngoài nước sẽ là nền tảng giúp nhóm nghiên
cứu kế thừa các kết quả nghiên cứu, cũng như phát hiện những hướng đi mới cho đề tài.
Trong đề tài này, nhóm nghiên cứu dựa trên lý thuyết xung đột của Richard Gelles M.
Straus để tìm hiểu các yếu tố giới tác động đến BLGĐ hiện nay. Bên cạnh đó, dựa vào
khung lý thuyết để đưa ra các yếu tố giới ảnh hưởng đến BLGĐ, đồng thời tìm ra các
giải pháp để giảm hiện trạng này.
1.3.

Mục đích
Phân tích và khái quát hóa thực trạng BLGĐ ở nước ta hiện nay qua nhận thức của
sinh viên; tìm hiểu nguyên nhân và phân tích hậu quả của hành vi bạo lực trong gia đình
đối với nạn nhân bạo lực nói riêng và sự phát triển xã hội nói chung. Trên cơ sở đó, kiến
nghị một số giải pháp chủ yếu nhằm phòng, chống bạo lực giới trong gia đình ở nước ta
hiện nay.
1.4.
Nhiệm vụ
Nhiệm vụ 1: Đánh giá thực trạng BLGĐ dựa trên nhận thức của sinh viên.
Nhiệm vụ 2: Phân tích nguyên nhân và hậu quả của BLGĐ.
Nhiệm vụ 3: Đề xuất, kiến nghị một số giải pháp nhằm phòng, chống BLGĐ và
xây dựng bình đẳng giới trong gia đình Việt Nam hiện nay.
1.5.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

1.5.1. Đối tượng nghiên cứu
Nhận thức và thái độ của sinh viên Khoa Khoa học Xã hội và Nhân Văn về vấn đề
BLGĐ hiện nay.
1.5.2. Đối tượng khảo sát
Sinh viên Khoa Khoa học Xã hội và Nhân văn Trường Đại học Cần Thơ.
1.5.3. Phạm vi nghiên cứu
Sinh viên trực thuộc bốn bộ môn: Xã hội học, Thông tin thư viện, Ngữ Văn, Du
Lịch – Đại lý – Lịch sử của Khoa Khoa học Xã hội và Nhân văn.
1.6.
Giả thuyết nghiên cứu
Sinh viên Khoa Khoa học Xã hội và Nhân văn có thái độ và nhận thức đúng đắn
về hiện tượng BLGĐ hiện nay.
12



1.7.
Câu hỏi nghiên cứu
Câu hỏi 1: Thực trạng của BLGĐ diễn ra như thế nào?
Câu hỏi 2: Nguyên nhân dẫn đến BLGĐ là gì?
Câu hỏi 3: Sinh viên hiểu như thế nào về BLGĐ hiện nay?
Câu hỏi 4: Hậu quả của BLGĐ ảnh hưởng như thế nào đến xã hội?
Câu hỏi 5: Giải pháp nào để khắc phục tình trạng BLGĐ hiện nay?
1.8.

Thao tác hóa khái niệm
Bạo lực gia đình

Tinh
thần

Thể chất

Sức
khỏe

Tính
mạng

Tình
dục

Kinh tế

Danh

dự

Tâm


Chiếm đoạt
tài sản

Quan hệ
tình dục

Gia đình

tình cảm

Hôn nhân

Quyết thống

Nuôi dưỡng

Giáo dục

Các yếu tố tác động

Môi trường

Nhu cầu

Kinh tế


Tư tưởng

Hình 1.1. Sơ đồ hóa khái niệm
(Nguồn: Nhóm nghiên cứu thực hiện, 2019)

13

Nhận thức


1.9.

Khung phân tích

Bối cảnh kinh tế - xã hội

Đặc điểm cá nhân
- Giới

Hệ lụy xã

BLGĐ

hội

- Khóa

- Hành vi


- Ngành học

- Tần suất

- Cảm xúc
- Giá trị

- Không gian

đạo đức

- Thời gian

- Phát triển

- Phương tiện

xã hội bền

Yếu tố cộng đồng

vững

Yếu tố truyền thông

Yếu tố giới
Giải pháp

Hậu quả
- Tinh thần

- Thể chất

Hình 1.2. Khung phân tích
(Nguồn: Nhóm nghiên cứu thực hiện, 2019)

14


Chương 2
Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
2.1. Cơ sở lý luận và lý thuyết liên quan
2.1.1. Một số khái niệm cơ bản
2.1.1.1. Gia đình
Dưới góc độ xã hội học, gia đình được coi là tế bào xã hội. Không giống bất cứ
nhóm xã hội nào khác, gia đình đan xen các yếu tố sinh học, kinh tế, tâm lý, văn
hóa…những mối liên hệ cơ bản của gia đình bao gồm vợ chồng, cha mẹ và con, ông bà
và cháu, những mối liên hệ khác: cô, dì, chú, bác với cháu, cha mẹ chồng và con dâu,
cha mẹ vợ và con rễ…Mối quan hệ gia đình được thể hiện ở khía cạnh như: có đời sống
tình dục, sinh con và nuôi dạy con cái, lao động tạo ra của cái vật chất để duy trì đời
sống gia đình và đóng góp cho xã hội. Mối liên hệ này có thể dựa trên những căn cứ
pháp lý hoặc có thể dựa trên những căn cứ thực tế một cách tự nhiên, tự phát. Theo đó
gia đình được định nghĩa “là một thiết chế xã hội đặc thù, một nhóm xã hội thu nhỏ mà
các thành viên của nó gắn bó với nhau bởi quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc
quan hệ con người bởi tính cộng đồng về sinh hoạt trách nhiệm đạo đức với nhau nhằm
đáp ứng nhu cầu riêng của thành viên cũng như để thể hiện tính tất yếu của xã hội về
phát triển sản xuất con người”.
Dưới góc độ pháp lý, gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau hôn
nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh nghĩa vụ và quyền
giữa họ với nhau theo quy định của luật này (Điều 8, Luật Hôn nhân và gia đình năm
2000). Tuy nhiên, trong thực tế đời sống cũng có nhiều cách hiểu khác nhau về khái

niệm gia đình: gia đình là tập hợp những người cùng có tên trong sổ hộ khẩu; gia đình
là tập hợp những người cùng chung sống với nhau dưới một mái nhà. Từ những góc độ
nghiên cứu khác nhau, gia đình được chia tách thành nhiều dạng thức khác nhau: gia
đình hiện đại và gia đình truyền thống, gia đình hạt nhân và gia đình đa thế hệ; gia đình
khuyết thiếu và gia đình đầy đủ.
2.1.1.2. Bạo lực gia đình
Theo quy định tại Luật phòng, chống BLGĐ 2007 02/2007/QH12 thì: “BLGĐ là
hành vi cố ý của thành viên gia đình gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về thể
chất, tinh thần, kinh tế đối với thành viên khác trong gia đình.”.
Khoản 1 Điều 2 Luật phòng, chống BLGĐ năm 2007 quy định các hành vi BLGĐ
bao gồm:

15


a) Hành hạ, ngược đãi, đánh đập hoặc hành vi cố ý khác xâm hại đến sức khoẻ,
tính mạng;
b) Lăng mạ hoặc hành vi cố ý khác xúc phạm danh dự, nhân phẩm;
c) Cô lập, xua đuổi hoặc gây áp lực thường xuyên về tâm lý gây hậu quả nghiêm
trọng;
d) Ngăn cản việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong quan hệ gia đình giữa ông, bà và
cháu; giữa cha, mẹ và con; giữa vợ và chồng; giữa anh, chị, em với nhau;
đ) Cưỡng ép quan hệ tình dục;
e) Cưỡng ép tảo hôn; cưỡng ép kết hôn, ly hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện,
tiến bộ;
g) Chiếm đoạt, huỷ hoại, đập phá hoặc có hành vi khác cố ý làm hư hỏng tài sản
riêng của thành viên khác trong gia đình hoặc tài sản chung của các thành viên gia đình;
h) Cưỡng ép thành viên gia đình lao động quá sức, đóng góp tài chính quá khả
năng của họ; kiểm soát thu nhập của thành viên gia đình nhằm tạo ra tình trạng phụ
thuộc về tài chính;

i) Có hành vi trái pháp luật buộc thành viên gia đình ra khỏi chỗ ở.
2.2.1.2. Bạo lực gia đình trên cơ sở giới
Bạo lực trên cơ sở giới là một hình thức phân biệt đối xử; bạo lực nhằm vào một
phụ nữ vì người đó là phụ nữ hoặc gây ra sự mất công bằng đối với phụ nữ. BLG bao
gồm các hành động gây đau đớn về thể xác, tinh thần hay tình dục, bao gồm cả sự đe
dọa thực hiện những hành động này, sự cưỡng bức hay tước đoạt tự do dưới các hình
thức khác nhau (CEDAW, 1992).
2.2.1.3. Nhận thức
Nhận thức là hành động hay quá trình tiếp thu kiến thức và những am hiểu thông
qua suy nghĩ, kinh nghiệm và giác quan, bao gồm các qui trình như tri thức, sự chú ý, trí
nhớ, sự đánh giá, sự ước lượng, sự lí luận, sự tính toán, việc giải quyết vấn đề, việc đưa
ra quyết định, sự lĩnh hội và việc sử dụng ngôn ngữ. Theo "Từ điển Bách khoa Việt
Nam", nhận thức là quá trình biện chứng của sự phản ánh thế giới khách quan trong ý
thức con người, nhờ đó con người tư duy và không ngừng tiến đến gần khách thể. Theo
quan điểm triết học Mác-Lênin, nhận thức được định nghĩa là quá trình phản ánh biện
chứng hiện thực khách quan vào trong bộ óc của con người, có tính tích cực, năng động,
sáng tạo, trên cơ sở thực tiễn.
16


2.1.2. Một số lý thuyết liên quan
2.1.2.1. Lý thuyết xung đột
Lý thuyết xung đột chú trọng sự xung đột giữa vợ và chồng. Đặc biệt trong phạm
vi nghiên cứu xã hội học gia đình thì lý thuyết xung đột chỉ ra những mâu thuẫn chủ yếu
tồn tại giữa vợ và chồng dẫn đến những hậu quả khó lường, đó là BLGĐ.
Trong quá trình thực hiện mục tiêu lợi ích trong gia đình có những mâu thuẫn nhất
định và trong nhiều trường hợp thì những mâu thuẫn nhỏ có thể tích tụ dần dần, trở thành
BLGĐ. Vẫn biết xung đột là điều không thể tránh khỏi trong xã hội cũng như trong gia
đình, nhưng những mâu thuẫn nào đi nữa thì lý thuyết này cũng chỉ ra xung đột trong
hôn nhân gia đình, sẽ giúp họ tránh khỏi những xung đột và chia tách của gia đình.

Với lý thuyết xung đột nghiên cứu dưới góc độ gia đình ta thấy xung đột trong gia
đình chủ yếu là do phân phối lao động và cấu trúc xã hội có tính cạnh tranh, đây là
nguyên nhân chính dẫn đến bạo lực về kinh tế (về mặt xã hội).
Lý thuyết xung đột cho thấy, các xung đột là sự sỡ hữu quyền lực và lợi ích cá
nhân. Thông thường, trong gia đình cá nhân nào nắm quyền lực cao nhất thì sẽ đạt được
mục đích của mình trong cuộc xung đột. Theo B. Strong quyền lực bắt nguồn từ bốn
nguồn gốc:
Tính pháp lý, chính danh: khi mỗi gia đình cãi nhau người chồng muốn áp đặt ý
kiến của mình “vì tôi là chủ nhà” thì niềm tin của người nói có quyền ra quyết định ý
kiến. Như một số gia đình, người chồng có tính gia trưởng thì có quyền kiểm soát mọi
thứ, bao gồm cả thân thể, có thể tùy ý đánh đập, chửi mắng.
Tiền bạc: tiền bạc có quyền quyết định mạnh mẽ, là cơ sở cho quyền lực. Ví dụ:
nếu người vợ hoặc người chồng quản lý tài chính trong gia đình thì xung đột gia đình,
kiểm soát mọi hoạt động sẽ do người nắm tài chính sẽ có quyền quyết định.
Cưỡng bức về thể xác: thông thường xảy ra là do người chồng đối với vợ, ảnh
hưởng thể chất của cá nhân.
Quyền lực về tình yêu và tính dục: là hành vi gây ra mà không có sự đồng ý cho
phép của người kia “cưỡng ép”.
Theo Richard Gelles M. Straus, mâu thuẫn và bạo lục gia đình là khá phổ biến.
Điều đó là do gia đình, là một nhóm xã hội có những đặc trưng duy nhất góp phần tạo
ra một khung cảnh có xu hướng dẫn đến mâu thuẫn và bạo lực. Theo quan điểm của
David Mace, mâu thuẫn xung đột trong gia đình là tất yếu mà còn là sự cần thiết để nâng
cao chất lượng đời sống hôn nhân.
Trong giới hạn nghiên cứu của vấn đề BLGĐ thì lý thuyết xung đột được ứng dụng
một cách triêt để nhất. Lý thuyết này dự đoán rằng việc đối đầu và mâu thuẫn gia đình
chỉ xảy ra khi có sự cạnh tranh giữa những người có liên quan trong tình trạng thiếu hụt
các nguồn lực (kinh tế, tinh thần…) những tiềm ẩn của mâu thuẫn cá nhân, nhóm này
17



với cá nhân nhóm khác. Đây chính là vấn đề mất cân bằng xã hội khi đó tất yếu xảy ra
xung đột.
Như vậy, lý thuyết xung đột đã giải thích được phần nào về vấn đề BLGĐ đã xảy
ra nhiều trong xã hội, với lý thuyết này nhà nghiên cứu đã cho chúng ta biết thấy được
cái nhìn sơ bộ của vấn đề này.
2.1.2.2. Lý thuyết tương tác biểu trưng
Áp dụng thuyết này vào nghiên cứu vấn đề của gia đình cụ thể là lý giải vấn đề
BLGĐ đối với phụ nữ, cụ thể là quan hệ vợ-chồng sự biến đổi quan hệ đó dưới sự tác
động của một số yếu tố bên ngoài và việc lý giải bằng cách giao tiếp, bởi phương tiện
giao tiếp ở đây là: ngữ điệu, cử chỉ, động tác…BLGĐ đối với phụ nữ cũng dược xem
xét dưới quan hệ tương tác giữa vợ và chồng thông qua giao tiếp, những ngữ điệu lời
nói, cử chỉ hành động, động tác của người chống với người vợ. Nhưng các phương tiện
giao tiếp giữa người chổng với người vợ không phải là những giao tiếp bình thường vốn
có của nó mà được biến đổi theo cách mà người đàn ông cho rằng đó là cách hữu hiệu
nhất để ra mệnh lệnh đối với người vợ. Dưới đây là một số cách giao tiếp hằng ngày của
chồng đối với vợ khi có bạo lực xảy ra.
- Có hành vi đe dọa hoặc dọa dẫm có chủ đích (ví dụ như: trừng mắt, la hét hoặc
đập phá hoặc nép đồ hoặc đe dọa khác)
- Tát, đẩy, xô hoặc ném vật gây sát thương.
- Đánh bằng tay, đá hoặc đánh bằng vật gây sát thương
- Lắc, bóp cổ, gây bỏng có chủ đích hoặc sử dụng dao, vũ khí
- Sàm sỡ hoặc ép thực hiện hành vi tình dục ngoài ý muốn
Từ cách tiếp cận thuyết tương tác biểu trưng có thể cho chúng ta thấy vấn đề bạo
lực đối với phụ nữ là xuất phát từ sự tương tác giữa vợ và chồng trong giao tiếp hằng
ngày sự nảy sinh đó có thể được bắt nguồn từ một số yếu tố như: sự khác biệt về trình
độ học vấn, tuổi, mức sống. Chính những yếu tố này tạo nên những hành vi mang tính
lệch chuẩn.
2.3. Phương pháp nghiên cứu
2.3.1. Phương pháp thu thập số liệu
2.3.1.1. Thu thập số liệu sơ cấp

Lược khảo tài liệu, các công trình nghiên cứu khoa học đã có trong và ngoài nước
liên quan đến nhận thức và thái độ của sinh viên về vấn đề BLGĐ, các quy định của
Luật giáo dục đại học, các mô hình nghiên cứu về BLGĐs. Số liệu thống kê về sinh
viên và thông tin của khoa, trường được cập nhật trên Cổng hệ thống thông tin của
trường Đại học Cần Thơ.

18


Đồng thời, đề tài còn sử dụng các thông tin trong các giáo trình, các sách báo, tư
liệu, tạp chí chuyên ngành, các thống kê xã hội, các thông tin trên internet,… trên tình
thần tiếp thu có chọn lọc và sáng tạo, phát triển.
Đề tài đã sử dụng các tư liệu, các thông tin về Khoa – Trường và các thông tin
chuyên ngành từ các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài nghiên cứu tại các
trường Đại học trong nước như: Đại học Hoa Sen, Đại học Quốc Gia và Đại học Cần
Thơ.
2.3.1.2. Thu thập số liệu thứ cấp
Các hoạt động khảo sát được tiến hành khảo sát, thời gian khảo sát từ tháng 3/2019
đến tháng 5/2019. Nội dung khảo sát chủ yều tập trung về các hiện tượng BLGĐ qua
nhận thức của sinh viên. Đối tượng được chọn khảo sát là 40 sinh viên Khoa KHXH &
NV của các ngành (Văn học 10 sinh viên, Xã hội học 10 sinh viên, Việt nam học 10
sinh viên, Thông tin học 10 sinh viên) và chủ yếu là sinh viên năm thứ hai, năm thứ ba
và năm thứ tư.
Trong quá trình thu thập số liệu tại địa bàn kết hợp với phỏng vấn sâu và bảng
hỏi, nhóm nghiên cứu còn sử dụng phương pháp quan sát lắng nghe, nhìn trong khi
phỏng vấn để qua đó thu thập được thông tin về các hiện tượng liên quan đến mục tiêu
nghiên cứu của đề tài. Đồng thời, qua sát thái độ của người trả lời nhằm đánh giá chính
xác của thông tin thu được.
2.3.1.4. Phương pháp chọn mẫu nghiên cứu
Phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên, đề tài còn sử dụng bảng hỏi để tiến hành

phỏng vấn cấu trúc 40 mẫu được chọn. Vì phương pháp này là phương pháp thu thập
thông tin định lượng cho ra các kết quả nghiên cứu cụ thể nên phương pháp này thường
xuyên được sử dụng trong các nghiên cứu khoa học. Do hạn chế về thời gian và chi
phí, nên chỉ lấy số mẫu điển hình.
Các kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ là những khái quát về thực trạng vấn đề
nghiên cứu, đưa ra những con số thống kê cụ thể nhằm tạo nên tính khoa học cho đề
tài nghiên cứu.
2.3.1.5. Phương pháp xử lý và phân tích số liệu
Sử dụng phần mềm thống kê SPSS 22.0 đề xử lý số liệu điều tra. Sau khi xử lý
được số liệu điều tra tiến hành kiểm định thang đo bằng hệ số Cronbach’s Alpha,
ANOVA để phân tích dữ liệu. Mặc khác, sử dụng phần mềm Excel để vẽ các biểu bảng
và sơ đồ nghiên cứu.

19


 Phương pháp kiểm định Cronbach’ Alpha:
Sử dụng phần mềm thống kê SPSS 22.0 để xử lý số liệu điều tra. Sau khi xử lý
được số liệu điều tra tiến hành thống kê mô tả, kiểm định thang đo bằng hệ số
Cronbach’ Alpha.
Việc sử dụng phương pháp kiểm định thang đo bằng hệ số nhằm xác định và loại
bỏ các nhân tố không phù hợp, không có ảnh hưởng đến khung lý thuyết nghiên cứu.
Hệ số tin cậy Cronbach’ Alpha cho biết các đo lường có liên kết với nhau hay không;
nhưng không cho biết biến quan sát nào cần bỏ đi và biến quan sát nào giữ lại. Khi đó,
việc tính toán hệ số tương quan giữa biến tổng sẽ giúp loại ra những biến quan sát
không đóng góp nhiều cho sự mô tả của khái niệm cần đo (Hoàng Trọng, Chu Nguyễn
Mộng Ngọc, 2008).
Ngoài ra, độ tin cậy của thang đo được đánh giá bằng phương pháp nhất quán nội
tại qua hệ số Cronbach’ Alpha. Sử dụng phương pháp hệ số tin cậy này trước khi phân
tích nhân tố EFA để loại các biến không phù hợp (Nguyễn Đình Thọ, Nguyễn Thị Mai

Trang, 2009).
 Phương pháp Phân tích ANOVA
Phương pháp phân tích phương sai ANOVA được dùng khi nghiên cứu ảnh hưởng
của biến nguyên nhân định tính lên biến kết quả định lượng, phương pháp này so sánh
trung bình của nhiều nhóm (3 nhóm trở lên).
Giả thuyết

như sau:

tức là biến nguyên nhân định

tính không có tác động gì lên kết quả của biến định lượng.
Đối thuyết

: biến nguyên nhân định tính ảnh hưởng đến biến định lượng.

Dữ liệu đầu vào gồm 1 biến phân loại và một biến định lượng.

20


Chương 3
Kết quả nghiên cứu và thảo luận
3.1. Tổng quan địa bàn nghiên cứu
Khoa Khoa học Xã hội và Nhân văn được thành lập tháng 9 năm 2009 trên cơ sở
tách ra từ Khoa Sư phạm và Trung tâm Học liệu. Khoa có nhiệm vụ đào tạo và nghiên
cứu về lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn phục vụ cho sự phát triển vùng Đồng
bằng sông Cửu Long và cả nước.
Khi mới thành lập Khoa có 6 bộ môn, 6 chuyên ngành đào tạo Đại học gồm các
ngành: Ngôn ngữ Anh, Biên - Phiên dịch tiếng Anh, Ngôn ngữ Pháp, Việt Nam học

(Hướng dẫn viên du lịch), Văn học, Thông tin học và một ngành cao học: Văn học
Việt Nam.
Từ tháng 4 năm 2015 bộ môn Anh văn và Pháp văn tách qua khoa Ngoại ngữ.
Khoa Khoa học Xã hội và Nhân văn còn lại 4 bộ môn: Ngữ văn, Lịch sử - Địa lí – Du
lịch, Thông tin Thư viện, Xã hội học. Có 4 chuyên ngành đào tạo Đại học: Việt Nam
học (Hướng dẫn viên du lịch), Văn học, Thông tin học, Xã hội học.
Chuyên ngành Xã hội học: Giúp cho sinh viên có thể hiểu thêm các vấn đề xã
hội về BLGĐ, từ đó có cơ sở để phục vụ việc học tập, làm bài nghiên cứu. Đồng thời
rèn luyện kỹ năng khảo sát cho sinh viên Xã hội học đối với vấn đề BLGĐ thông qua
phỏng vấn các hộ dân.
Chuyên ngành Văn học: Giúp cho sinh viên có được cái nhìn bao quát về các
vấn để xảy ra, đặc biệt là vấn đề BLGĐ, từ đó tạo điều kiện để sinh viên có thêm
ngọn lửa cảm hứng để viết nên các tác phẩm có giá trị, truyền tải thông điệp không
bạo lực đối với mọi người.
Chuyên ngành Việt Nam học: Giúp sinh viên tự tin, năng động, bồi đắp kỹ năng
sống. Đặc biệt, thông qua các chương trình đào tạo, sinh viên có thể thực hành những
kỹ năng của nghề hướng dẫn viên du lịch vừa biết thêm nhiều kiến thức mới từ cộng
đồng.
Chuyên ngành Thông tin học: Đào tạo ra những chuyên gia thông tin. Là người
có bản lĩnh vững vàng, năng động, sáng tạo, thành thạo nghiệp vụ thông tin và giao
tiếp với cộng đồng; nhanh nhạy trong việc phát hiện, xác định nhu cầu tin của người
dùng tin khác nhau; phát hiện nguồn tin; luôn đạt hiệu quả cao trong việc khai thác,
thu thập, tổ chức xử lý tạo dựng các sản phẩm thông tin.
Công tác nghiên cứu khoa học: Cán bộ và Sinh viên Khoa đã tích cực tham gia
hoạt động nghiên cứu khoa học với những kết quả đạt được là hoàn thành nhiều đề
21


tài nghiên cứu cấp Trường, cấp Tỉnh. Ngoài ra, Cán bộ của Khoa còn tham gia các đề
tài NCKH với ĐH Bạc Liêu, Viện NCPT ĐBSCL, Hội KHXH & NV TP. Cần Thơ

và các đề tài hợp tác quốc tế, v.v….
Hợp tác quốc tế: Khoa thường xuyên có các chương trình hợp tác với các trường
Đại học, các tổ chức giáo dục quốc tế. Tiếp nhận các Chuyên gia, tình nguyện viên
nước ngoài sang công tác, giảng dạy. Xúc tiến các chương trình hợp tác trao đổi Giáo
viên, sinh viên với các trường (Cổng thông tin ĐHCT, 2018).
3.2. Mô tả mẫu nghiên cứu
Nhóm nghiên cứu đã khảo sát 40 sinh viên các khóa (khóa 42, khóa 43, khóa
44) của bốn ngành học: Xã hội học, Văn học, Thông tin học, Việt nam học. Mỗi
ngành học nhóm nghiên cứu đã chọn 10 sinh viên. Sau khi sàng lọc và kiểm tra các
phiếu, chúng tôi nhận thấy các phiếu đều đảm bảo yêu cầu nên chúng tôi đã thực hiện
xử lí 40 mẫu điều tra. Cụ thể như sau:
Bảng 3.1. Thông tin đáp viên (n=40)

Ngành

Nam

Nữ

Khóa 42

Khóa 43

Khóa 44

Xã hội học

5

5


4

3

3

Việt Nam học

6

4

3

3

4

Văn học

5

5

4

4

2


Thông tin học

4

6

5

2

3

(Nguồn: Nhóm nghiên cứu thực hiện, 2019)

Trên thực tế khảo sát mẫu nghiên cứu bao gồm: 50% nam, 50% nữ. Số liệu cho
thấy, tỉ lệ được khảo sát giữa nam và nữ bằng nhau trong tổng số mẫu nghiên cứu.
Trong đó, sinh viên khóa 42 là 16 sinh viên (chiếm 40%), khóa 43 là 12 sinh viên
(chiếm 30%) và khóa 44 là 12 sinh viên (chiếm 30%). Do chọn mẫu thuận tiện nên số
lượng sinh viên giữa các khóa không tương đồng, trong đó sinh viên khóa 42 chiếm
cao nhất (40%).

22


Về khu vực sinh sống:
Sinh viên sống ở nông thôn chiếm tỉ lệ cao 75%, vì phần lớn các bạn sinh viên
sống chủ yếu từ các tỉnh khác. Tỉ lệ sinh viên sống ở khu vực đô thị chiếm 25%.

25%


75%

Nông thôn

Thành thị

Hình 3.1. Khu vực sinh sống của đáp viên (n=40)
(Nguồn: Nhóm nghiên cứu thực hiện, 2019)

3.3. Thực trạng BLGĐ ở Việt Nam hiện nay
Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi nuôi dưỡng nhân cách và hình thành sự
phát triển của con người, có thể nói gia đình là hình ảnh thu nhỏ của xã hội. Chính vì
thế, yếu tố gia đình rất quan trọng đối với sự phát triển của xã hội. Một xã hội phát triển
toàn diện, bền vững là xã hội đó không tồn tại bạo lực, nó được thể hiện qua phương
diện gia đình. Thế nhưng, BLGĐ ở Việt Nam hiện nay vẫn còn tồn tại và xảy ra các vụ
bạo lực ngày càng tăng lên. Chính bạo lực là nguyên nhân dẫn đến nhiều gia đình rơi
vào tình trạng khủng hoảng, dần dần đi đến đỗ vỡ hạnh phúc. Bạo lực giới đặc biệt đối
với phụ nữ và trẻ em gái là vấn đề mang tính toàn cầu và xảy ra ở mỗi quốc gia, mọi
tầng lớp xã hội trong đó có Việt Nam.
Theo Nghiên cứu quốc gia về BLGĐ đối với phụ nữ ở Việt Nam được Chính phủ
Việt Nam và Liên hợp Quốc công bố ngày 25 tháng 11 năm 2010 cho thấy: Hơn một
nửa phụ nữ tại Việt Nam đều có nguy cơ bị bạo lực tại một thời điểm nào đó trong cuộc
đời. Tất cả những phụ nữ cho biết đã trải qua bạo lực thể chất và tình dục thì đồng thời
cũng chịu bạo lực tinh thần. Nếu kết hợp dữ liệu của cả 3 hình thức bạo lực cho thấy
58% phụ nữ đã từng trải qua cả bạo lực thể chất, tình dục và tinh thần. 27% phụ nữ cho
biết đã chịu ít nhất một trong 3 hình thức bạo lực này trong 12 tháng qua. Một nghiên
cứu 2010 cho biết mỗi năm có khoảng 1000 vụ xâm hại tình dục trẻ em, 87 % nạn nhân
bị bạo lực chưa tìm kiếm sự hỗ trợ từ các dịch vụ công hoặc người có thẩm quyền, 60%
phụ nữ bị bạo lực không nắm được luật phòng chống BLGĐ (nguồn VTV VN về BLG).

Từ năm (2011-2015) cứ mỗi ngày ở VN lại có 64 phụ nữ, 10 trẻ em, 7 người cao
tuổi là nạn nhân của BLGĐ => là kết quả thống kê của GD- BVHTT & DL sau gần 9
23


năm áp dụng luật phòng chống BLGĐ. Trong tổng 157.859 vụ BLGĐ phát hiện từ năm
2011-2015 nạn nhân là phụ nữ (16-59 tuổi) chiếm 117.206 trường hợp (74.24%), 17.586
là trẻ em (11.14%), 14.017 trường hợp là người già (8.91%). Các số liệu đưa ra đã làm
nổi bật lên một thực trạng là đa số phụ nữ VN là bị bạo lực nhiều hơn là người già và
trẻ em. Tại một vùng ở VN, cứ 10 phụ nữ thì có 4 người nhận thấy gia đình không phải
là nơi an toàn. Mặc dù BLGĐ là một hiện tượng rất phổ biến nhưng vấn đề này vẫn bị
giấu giếm nhiều.
Rõ ràng là BLGĐ đã gây nên những hậu quả nghiêm trọng đối với sức khỏe, thể
chất và tinh thần của người phụ nữ. Ở Việt Nam, cứ bốn phụ nữ từng bị chồng bạo hành
thể chất hoặc tình dục thì có một người cho biết họ phải chịu đựng những vết thương
trên cơ thể và hơn một nửa trong số này cho biết họ đã bị thương tích nhiều lần. So với
những phụ nữ chưa từng bị bạo hành thì những người đã từng bị chồng bạo hành có
nhiều khả năng bị bệnh tật và sức khỏe kém hơn gần hai lần và khả năng nghĩ đến việc
tự tử nhiều hơn gấp ba lần. Nghiên cứu đã cho rằng bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em
gái không chỉ là những gì bạn biết, đó là một biểu hiện của bạo lực giới. Bạo lực đối với
phụ nữ nó xuất hiện khắp nơi làm tổn hại thể chất, rối loạn sức khỏe, tinh thần, sức khỏe
sinh sản... Nó còn gây ra những tổn thất về kinh tế xã hội và tăng nguy cơ dẫn đến các
loại bạo lực khắc. Theo LHQ gần 1/3 phụ nữ bị bạo lực cho biết công việc của họ bị
gián đoạn bởi người chồng phụ nữ từng bị bạo lực TB thiệt hại rằng 20% thu nhập tiềm
năng hàng tháng.
Tháng 11/2006 và tháng 11/2007, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Luật Phòng,
chống BLGĐ. Ngay sau đó, Chính phủ Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản pháp quy
hướng dẫn thực hiện và triển khai thực hiện Luật Phòng, chống BLGĐ. Mặc dù đã có
nhiều cố gắng, nhưng hiệu quả của công tác phòng, chống BLGĐ chưa cao, Luật Phòng,
chống BLGĐ chưa thực sự đi vào cuộc sống,

Thực tế các chương trình can thiệp hiện nay tại Việt Nam trong thời gian qua chưa
quan tâm đến vai trò và sự tham gia của nam giới trong việc xóa bỏ BLGĐ. Trong khi
đó, các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng nam giới đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc
phòng, chống BLGĐ, vì họ chủ yếu là người gây ra BLGĐ và bạo lực với phụ nữ. Nam
giới là nguyên nhân chủ yếu của BLGĐ thì họ phải là một phần quan trọng của giải
pháp. Nếu nam giới không vào cuộc, không được nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi
thì vấn đề BLGĐ tại Việt Nam vẫn còn là một vấn đề nhức nhối và thách thức lớn.
3.4. Nhận thức của sinh viên
Sinh viên Khoa Khoa học Xã hội và Nhân văn luôn quan tâm đến các vấn đề xã
hội, cụ thể là vấn đề BLGĐ hiện nay mà nhóm đã khảo sát được. Kết quả cho thấy đến
87% sinh viên của Khoa biết về BLGĐ và các loại BLGĐ hiện nay. Bên cạnh đó, 13%
sinh viên chưa biết về hiện trạng BLGĐ. Các sinh viên chưa biết về BLGĐ đa số sống
24


ở khu vực thành thị, lối sống ở đây theo kiểu “đèn nhà ai nấy sáng” nên sinh viên không
biết đến hoặc tiếp cận được các loại bao lực trong gia đình hay sinh viên thờ ơ với các
vấn đề xã hội.
100,00%
90,00%
80,00%
70,00%
60,00%
50,00%
40,00%
30,00%
20,00%
10,00%
0,00%
xã hội học

bạo lực thể xác

việt nam học
bạo lực tình dục

văn học

thông tin học

bạo lực tinh thần

bạo lực xã hội

Hình 3.2. Sự hiểu biết của sinh viên về các hình thức BLGĐ (n=40)
(Nguồn: Nhóm nghiên cứu thực hiện, 2019)

Qua khảo sát số liệu trên cho thấy, sinh viên thuộc ngành Xã hội học hiểu rõ về
các loại BLGĐ. Vì phương pháp học tập của các sinh viên ngành này được tiếp cận
nhiều học phần khác nhau, và cả học phần tìm hiểu về các vấn đề xã hội bao gồm
BLGĐ, giới và các vấn đề liên quan đến chuyên ngành.
Bên cạnh đó, sinh viên ba ngành còn lại cũng khá am hiểu về BLGĐ, và các bạn
cũng từng tìm hiểu về BLGĐ qua bài giảng của giảng viên ở các buổi metting, thảo
luận và các cuộc thi do Hội sinh viên tổ chức để tìm hiểu về vấn đề này. Khi khảo sát,
có tới 78% sinh viên của Khoa đã từng tham gia từ 02 lần đến 05 lần về các buổi tuyên
truyền, hoặc Meeting, hay được nghe trên lớp về phòng chống BLGĐ.
Bảng 3.2. Sinh viên tham gia tìm hiểu BLGĐ (n=40)

Ngành

Metting


Hội thi

Bài giảng

Xã hội học

9

4

10

Văn học

8

3

2

Thông tin học

8

4

2

Việt Nam học


7

5

4

(Nguồn: Nhóm nghiên cứu thực hiện, 2019)

25


×