Tải bản đầy đủ (.docx) (5 trang)

CHỦ NGHĨA hậu HIỆN đại là gì

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (34.08 KB, 5 trang )

CHỦ NGHĨA HẬU HIỆN ĐẠI LÀ GÌ ?

Thời Hiện Đại, cái từ có âm hưởng chừng như sẽ tồn tại mãi mãi, đã nhanh chóng
trở thành một điều thuộc về quá khứ. Kỹ nghệ hoá đã nhanh chóng nhường bước
cho Hậu-kỹ nghệ hoá, lao động trong nhà máy đã chuyển về tư gia và văn phòng;
trong lãnh vực nghệ thuật, truyền thống của Cái Mới đang dẫn đến sự kết hợp của
nhiều truyền thống. Ngay cả những người tự cho mình là những nghệ sĩ và kiến
trúc sư hiện đại cũng đang nhìn ngoái ra sau hay hai bên cạnh để quyết định xem
những phong cách và giá trị nào họ sẽ tiếp tục.

Thời hậu hiện đại là thời đại của sự lựa chọn không ngừng. Đó là một thời đại
không có sự chính thống nào có thể được tiếp nhận mà không có sự tự ý thức và
châm biếm (irony), bởi vì tất cả mọi truyền thống dường như đều có những giá trị
nhất định. Điều này phần nào là hệ quả của cái gọi là sự bùng nổ thông tin, sự tiếp
cận của những kiến thức được hệ thống hoá, hệ thống truyền thông và điều khiển
học toàn cầu. Đó là một thời đại không phải chỉ thuộc về những người giàu có,
những kẻ chỉ biết thu thập, những kẻ du hành chiết trung qua thời gian với thật
nhiều khả năng lựa chọn, nhưng hầu như thuộc về mọi cư dân ở thành thị. Chủ
nghĩa đa nguyên, cái “chủ nghĩa” của thời đại chúng ta, vừa là một vấn đề lớn vừa
là một cơ hội lớn: nơi mỗi người đàn ông trở thành một công dân thế giới và mỗi
người đàn bà là một cá nhân được giải phóng; nơi sự lẫn lộn và lo âu trở thành tâm
thế chủ đạo và sự bắt chước trở thành một hình thức phổ thông của nền văn hoá đại
chúng. Đây là cái giá mà chúng ta phải trả cho thời hậu hiện đại, nó cũng nặng nề
như tính chất đơn điệu, giáo điều và nghèo nàn của thời hiện đại. Nhưng, mặc dù
có nhiều nỗ lực ở Iran và nhiều nơi khác trên thế giới, người ta không thể trở lại
với nền văn hoá và hình thức kỹ nghệ trước đây, nhằm áp đặt một tôn giáo duy bản
luận hay ngay cả một thứ chính thống giáo hiện đại được. Một khi hệ thống truyền
thông toàn cầu và hình thức sản xuất điều khiển học đã xuất hiện, chúng sẽ sáng
tạo nên nhu cầu của chúng và ngay cả chiến tranh nguyên tử cũng không thể đảo
ngược được.



Thách đố đối với những Hamlet hậu hiện đại, đương đầu bởi một sự giàu có đến
choáng ngợp, là lựa chọn và kết hợp những truyền thống tinh tuyển, là chiết trung
(động từ “chiết trung”, “to eclet” xuất phát từ danh từ “chủ nghĩa chiết trung”,
eclecticism) những khía cạnh của quá khứ và hiện đại, những khía cạnh có vẻ thích
hợp nhất đối với công việc chúng ta đang làm. Những sự sáng tạo như là hệ quả
của việc làm này, nếu thành công, sẽ là một sự tổng hợp đặc sắc của truyền thống;
còn không thì cũng giống như thêm một món vào bữa ăn. Giữa sự kết hợp đầy tính
phát minh và sự nhai lại lộn xộn, những nhà hậu hiện đại ra khơi, thường bị lạc
hướng và thất bại, nhưng thỉnh thoảng họ cũng nhận ra sự hứa hẹn lớn lao của một
nền văn hoá đa nguyên với rất nhiều tự do. Chủ nghĩa hậu hiện đại trên căn bản là
một thứ hỗn hợp mang tính chiết trung của bất cứ truyền thống nào với những gì
vừa mới qua: nó vừa là sự kế tục vừa là sự siêu việt hoá của chủ nghĩa hiện đại.
Những tác phẩm xuất sắc nhất của nó có đặc điểm là mang tính lưỡng mã (doublecoded) và tính châm biếm (irony), tạo thành một đặc điểm của sự lựa chọn rộng
rãi, xung đột và bất liên tục của truyền thống, bởi vì tính đa tạp này tô đậm rất rõ
nét chủ nghĩa đa nguyên của chúng ta. Phong cách lai ghép của chủ nghĩa hậu hiện
đại đối lập với chủ nghĩa thiểu tố (minimalism) của ý thức hệ hậu kỳ hiện đại chủ
nghĩa (Late-modernism) và phục hồi những gì vốn dựa trên một thị hiếu hay một
tín điều độc đoán.

Ít nhất đây là những gì làm tôi xem chủ nghĩa hậu hiện đại là một trào lưu văn hoá
và là một thời kỳ lịch sử. Nhưng, như bạn đọc sẽ khám phá, từ và khái niệm [hậu
hiện đại chủ nghĩa] thay đổi trong suốt năm mươi qua và chỉ sáng tỏ dần trong
khoảng mười năm vừa qua mà thôi. Chủ nghĩa hậu hiện đại được xem là tiến bộ
trong một số lãnh vực, bị kết án là phản động và hoài cổ trong một số lãnh vực
khác; nó được ủng hộ vì tính chất hiện thực trong kỹ thuật và xã hội, nhưng nó lại
bị kết tội là có tính chất thoát ly. Thậm chí, thỉnh thoảng chủ nghĩa hậu hiện đại bị
lên án vì tính chất hoang tưởng của nó nhưng những người bảo vệ nó lại xem chính
sự thất bại ấy là một ưu điểm. […]


Rõ ràng Leslie Fiedler là nhà văn đầu tiên đã sử dụng tiếp đầu ngữ ‘hậu’ (post) một
cách tích cực vào năm 1965 khi ông lặp đi lặp lại như một thứ bùa chú và gắn nó


với nhiều khuynh hướng cấp tiến đương thời như: “hậu nhân văn, hậu nam tính,
hậu da trắng, hậu anh hùng… hậu Do Thái”. Những điểm xuất phát vô chính phủ
và sáng tạo từ thuyết chính thống cũng như những sự tấn công vào tính đặc tuyển,
tính kinh viện và những sự đàn áp mang tính thanh giáo của chủ nghĩa hiện đại đã
dẫn đến cuộc phiêu lưu hào hứng đầu tiên của văn hoá hậu hiện đại như Andreas
Huyssen đã chỉ ra vào năm 1984, mặc dù Fiedler và những người khác vào thập
niên 60 đã không bao giờ đưa ra lập luận này và cũng không bao giờ ý niệm hoá
truyền thống. Điều này phải chờ đến thập niên 70 và những bài viết của Ihab
Hassan, trong thời kỳ các phong trào cấp tiến mà Fiedler cổ vũ, oái oăm thay, đã
trở thành lỗi thời, phản động, hoặc chết hẳn.

Vào giữa thập niên 1970, Ihab Hassan tự xem mình như là phát ngôn viên của chủ
nghĩa hậu hiện đại (một thuật ngữ thường bị lược bỏ trong phê bình văn học). Ông
gắn liền danh hiệu này với những tư tưởng thử nghiệm trong nghệ thuật và tính
chất siêu kỹ thuật trong kiến trúc – như của William Burroughs và Buckminster
Fuller, “Tính chất vô chính phủ, Cạn kiệt / Im lặng… Giải-sáng tạo / Giải cơ cấu /
Phản đề… Liên văn bản…”, nói tóm những khuynh hướng mà tôi, cùng với nhiều
người khác sau này xem như là đặc trưng của thời hậu kỳ hiện đại (Late-Modern).
Trong văn chương và rồi trong triết học, vì những bài viết của Jean-Francois
Lyotard và khuynh hướng lược bỏ giải cơ cấu với thời Hậu hiện đại, thuật ngữ hậu
hiện đại thường bị buộc chặt vào với những gì Hassan gọi là ‘tính bất liên tục, tính
bất định và tính nội tại’. Cái tựa đề kỳ lạ trong cuốn sách ERRING, A Postmodern
A/Theology của Mark C. Taylor là đặc trưng của thể loại này vốn xuất phát từ
Derrida và giải cơ cấu. Trong giới triết gia cũng có khuynh hướng xem tất cả các
nhà tư tưởng hậu thực chứng như là những nhà hậu hiện đại bất kể họ có hay
không có điều gì chung ngoài sự bài bác chủ nghĩa thực chứng logic hiện đại. Như

vậy có hai ý nghĩa khá khác nhau đối với thuật ngữ [hậu hiện đại] và có một sự lẫn
lộn phổ quát không được xác định đối với công chúng. Chính điều này và những
tiền đề của một vài cuộc hội thảo gần đây về vấn đề liên hệ đã dẫn đến đề tài [bài
viết này]: “Chủ nghĩa hậu hiện đại là gì?” Nó là câu hỏi và cũng là câu trả lời mà
tôi muốn đưa ra và người ta phải nhìn thấy sự phát triển và vận động liên tục của
câu trả lời ấy bao hàm ý nghĩa là không có câu trả lời xác định nào có thể khả hữu,
ít nhất là cho đến khi nó ngừng vận động.


Trong thời niên thiếu của nó, vào thập niên 1960, văn hoá hậu hiện đại mang tính
duy lý và phê phán, một vị trí thiểu số được thiết lập, chẳng hạn, bởi các nghệ sĩ
nhạc Pop và các lý thuyết gia chống lại quan điểm giảm trừ nghệ thuật hiện đại,
chống lại chủ nghĩa duy mỹ đang thống trị các thiết chế như Viện Bảo tàng Nghệ
Thuật Hiện đại. Trong kiến trúc, Team Ten, Jane Jacobs, Robert Venturi và nhóm
Advocacy Planners đã tấn công nền kiến trúc hiện đại chính thống vì tính chất đặc
tuyển, sự phá huỷ đô thị, tính chất quan liêu và ngôn ngữ giản dị hoá của nó.
Khoảng thập niên 1970, khi những truyền thống này lớn mạnh và thay đổi và chủ
nghĩa hậu hiện đại trở thành một thuật ngữ chỉ một loạt các khuynh hướng, phong
trào trở thành bảo thủ, duy lý và kinh viện hơn. Nhiều thủ lãnh của thập niên 1960
như Andy Warhol đánh mất chức năng phê phán và bị đồng hoá vào thị trường
nghệ thuật hay các hoạt động thương mại. Trong thập niên 1980, tình hình lại thay
đổi. Chủ nghĩa hậu hiện đại cuối cùng đã được giới chuyên môn, giới kinh viện và
xã hội nói chung chấp nhận. Nó đã trở thành một phần của những thành tựu [văn
hoá] như là bố mẹ của nó, chủ nghĩa hiện đại, và người anh kề cận của nó, chủ
nghĩa hiện đại hậu kỳ, và trong phê bình văn học, nó cũng nổi lên trong ý nghĩa
tương tự như là trong kiến trúc và các truyền thống nghệ thuật.

John Barth (1980) và Umberto Eco (1983), cùng với nhiều tác giả khác, định nghĩa
chủ nghĩa hậu hiện đại như một cách viết trong đó người ta có thể dùng các hình
thức truyền thống một cách châm biếm (irony) hay hoán vị (displaced) để diễn tả

các chủ đề bất diệt. Nó ghi nhận tính chất vững chắc của chủ nghĩa hiện đại – sự
thay đổi trong thế giới quan do Nietzsch, Einstein, Freud, v.v… mang lại – nhưng,
như John Barth đã nói, nó hy vọng vượt thoát khỏi những phương tiện và độc giả
giới hạn vốn là những đặc trưng của tiểu thuyết hiện đại: “Tác giả hậu hiện đại lý
tưởng của tôi không bài bác mà cũng không bắt chước các bậc phụ huynh hiện đại
của họ trong thế kỷ 20 hay các bậc tổ phụ tiền hiện đại của họ trong thế kỷ 19. Hắn
có nửa đầu của thế kỷ dưới dây nịt chứ không phải trên lưng. Không sa vào sự đơn
giản hoá đạo lý hay nghệ thuật, những cách viết vụng về, thói hối lộ, những sự
ngây thơ thực sự hay giả vờ, hắn khao khát nhắm tới một thứ hư cấu mang tính
chất dân chủ hơn là những kỳ quan nghệ thuật hiện đại chủ nghĩa (theo định nghĩa
và sự phán đoán của tôi) như Stories and Texts for Nothing của Beckett hay Pale


Fire của Nabokov. Hắn có thể không hy vọng vươn tới và làm xúc động những
người sùng mộ James Michener và Irving Wallace, đừng nói gì đến những kẻ mù
chữ do bị tràn ngập bởi các phương tiện thông tin đại chúng. Tuy nhiên hắn nên hy
vọng vươn tới và làm vui mừng, ít nhất một phần thời gian, vượt ra ngoài phạm vi
của cái Mann thường gọi là những tín đồ Ky tô giáo sơ khởi (Early Christians):
những kẻ sùng mộ chuyên nghiệp nền nghệ thuật cao cấp. […]

Nhưng bởi vì ý nghĩa và truyền thống của nó [chủ nghĩa hậu hiện đại] thay đổi,
người ta không những chỉ xác định khái niệm mà còn phải chỉ ra thời điểm và bối
cảnh chung quanh khái niệm ấy. Có thể nói lại thế này: tôi gọi chủ nghĩa hậu hiện
đại là một thứ chủ nghĩa nhị nguyên đầy nghịch lý, hay một cái mã kép (double
coding), một tên gọi lai ghép cho thấy chủ nghĩa hậu hiện đại là một sự kế tục của
chủ nghĩa hiện đại và những sự siêu việt hoá của nó. Chủ nghĩa hậu hiện đại theo
quan điểm của Hassan, theo cách nhìn này, hầu như chỉ là hậu kỳ hiện đại, sự tiếp
nối của chủ nghĩa hiện đại trong hình thức tận cùng hay phóng đại của nó mà thôi.
Vài nhà văn và nhà phê bình, như Barth và Eco, đồng ý với định nghĩa này trong
khi nhiều người khác, gồm cả Hassan và Lyotard, sẽ không đồng ý. Trong cả sự

đồng ý hay không đồng ý, sự hiểu biết và tranh luận này, có một tính chất biện
chứng mềm dẻo giống nhau thể hiện trong phong trào mà người ta nghi ngờ là sẽ
có những bước ngoạt bất ngờ trước khi nó kết thúc. Một điều chúng ta có thể chắc
chắn là: bất cứ lời khai tử nào cũng quá sớm trước khi các chủ nghĩa hiện đại bị
biến mất.

Phan Việt Thuỷ chuyển ngữ



×