Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Tài liệu ôn thi tốt nghiệp trung cấp chính trị 2023 quản lý nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (270.71 KB, 20 trang )

LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
1. Khái niệm chung về quản lý hành chính nhà nước.
1.1. Khái niệm quản lý
Dưới góc độ khoa học, khái niệm về “quản lý” có nhiều cách tiếp cận khác nhau. Với ý nghĩa thông thường, phổ biến thì quản lý có thể hiểu là hoạt động tác động một
cách có tổ chức và định hướng của chủ thể quản lý tới những đối tượng quản lý để điều chỉnh chúng vận động và phát triển theo những mục tiêu nhất định đã đề ra.
Với cách hiểu trên, quản lý bao gồm các yếu tố sau:
- Chủ thế quản lý: là tác nhân tạo ra các tác động quản lý. Chủ thể có thể là cá nhân hoặc tổ chức. Chủ thể quản lý tác động lên đối tượng quản lý bằng các công cụ, hình
thức và phương pháp thích hợp, cần thiết và dựa trên cơ sở những nguyên tắc nhất định.
- Đối tượng quản lý (khách thể quản lý): Tiếp nhận sự tác động của chủ thể quản lý.
- Mục tiêu quản lý: là cái đích cần phải đạt tới tại một thời điểm nhất định do chủ thể quản lý đề ra. Đây là căn cứ để chủ thể quản lý thực hiện các tác động quản lý cũng
như lựa chọn các hình thức, phương pháp thích hợp.
1.2. Khái niệm quản lý nhà nước
Quản lý nhà nước xuất hiện cùng với sự xuất hiện của nhà nước, gắn với chức năng, vai trò của nhà nước trong xã hội có giai cấp. Quản lý nhà nước tiếp cận với nghĩa
rộng nhất bao gồm toàn bộ các hoạt động: hoạt động lập pháp của cơ quan lập pháp, hoạt động hành chính (chấp hành và điều hành) của hệ thống hành pháp và hoạt động tư
pháp của hệ thống tư pháp.
1.3. Quản lý hành chính nhà nước.
Trong quản lý nhà nước nói chung, hoạt động quản lý hành chính là hoạt động có vị trí trung tâm, chủ yếu. Đây là hoạt động tổ chức và điều hành để thực hiện các chức
năng, nhiệm vụ cơ bản nhất của nhà nước trong quản lý xã hội.
Có thể hiểu quản lý hành chính nhà nước là hoạt động thực thi quyền hành pháp của nhà nước, đó là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực nhà nước
trên cơ sở pháp luật đối với hành vi hoạt động của con người và các quá trình xã hội, do các cơ quan trong hệ thống hành chính nhà nước từ trung ương đến cơ sở tiến
hành để thực hiện những mục tiêu, chức năng và nhiệm vụ của nhà nước.
Định nghĩa trên có ba nội dung cơ bản:
- Quản lý hành chính nhà nước là hoạt động thực thi quyền hành pháp: hành pháp là một trong ba nhánh quyền lực của nhà nước: Lập pháp, hành pháp và tư pháp.
- Quản lý hành chính là sự tác động có tổ chức và có định hướng: Trong quản lý hành chính nhà nước, chức năng tổ chức rất quan trọng,vì không có tổ chức thì không thể
quản lý được. Nhà nước phải tổ chức cả triệu người và mỗi người đều có vị trí tích cực đối với xã hội, đóng góp phần của mình để tạo ra lợi ích cho xã hội. Quản lý hành chính
nhà nước có tính định hướng vì thông qua tác động quản lý của mình các chủ thể quản lý hành chính nhà nước định hướng hành vi con người và các quá trình xã hội theo những
quỹ đạo, mục tiêu nhất định.
- Quản lý hành chính nhà nước được tiến hành trên cơ sở pháp luật và theo nguyên tắc pháp chế: Quản lý hành chính nhà nước là hoạt động thực thi quyền lực nhà nước,
sử dụng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước nhưng phải trong khuôn khổ của pháp luật. Đây là một trong những nguyên tắc cơ bản của nhà nước pháp quyền.
2. Các tính chất và đặc điểm cơ bản của quản lý hành chính nhà nước ở nước ta.
2.1. Các tính chất cơ bản của quản lý hành chính nhà nước


2.1.1. Tính chính trị XHCN.
Nền hành chính nhà nước là bộ phận quan trọng trong hệ thống chính trị XHCN, là công cụ để thực hiện quyền lực chính trị của giai cấp công nhân và nhân dân lao động
trong xã hội. Hoạt động hành chính nhà nước nhằm thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng để đạt được những mục tiêu chính trị của quốc gia.
2.1.2. Tính dân chủ XHCN
Bản chất của nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, do đó nhân dân là chủ thể tối cao của đất nước. Tuy nhiên,
Nhà nước XHCN được nhân dân uỷ quyền, thay mặt nhân dân thực hiện quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội một cách tập trung, thống nhất. Hoạt động hành chính nhà
nước phải chịu sự kiểm tra, giám sát của nhân dân, phải đảm bảo quyền làm chủ thực sự của nhân dân trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
2.1.3. Tính khoa học và nghệ thuật.
Trong quá trình phát triển của xã hội, hoạt động quản lý không chỉ là một khoa học mà còn là một nghệ thuật. Quản lý là một khoa học vì nó có tính quy luật, có các
nguyên lý và các mối quan hệ tương hỗ với các môn khoa học khác. Quản lý là một nghệ thuật vì nó gắn với tài nghệ, bản lĩnh, nhân cách, trí tuệ, kinh nghiệm... của người quản
lý.
Quản lý hành chính nhà nước là biểu hiện quan trọng và tập trung nhất của toàn bộ hoạt động của nhà nước trong quá trình phát triển kinh tế và đời sống xã hội. Chính vì
vậy, người CBCC phải có kiến thức về những quy luật khách quan của hoạt động quản lý nói chung và quản lý nhà nước nói riêng.
2.1.4. Tính chất bao quát ngành, lĩnh vực.
Đối tượng của quản lý hành chính nhà nước là tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội: chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng... Quản lý hành chính nhà
nước không chỉ là tổ chức, điều chỉnh từng lĩnh vực mà còn phải liên kết, phối hợp các lĩnh vực thành một thể thống nhất để đảm bảo xã hội phát triển đồng bộ, cân đối, có hiệu
quả đáp ứng nhu cầu của các thành viên trong xã hội. Tuy nhiên, quản lý toàn bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội không có nghĩa là các cơ quan hành chính nhà nước can thiệp
vào mọi khía cạnh, mọi quan hệ xã hội mà chỉ điều chỉnh, tác động vào các quan hệ xã hội đã được pháp luật xác định.
2.2. Các đặc điểm cơ bản của quản lý hành chính nhà nước.
Khi nói đến đặc điểm của quản lý hành chính nhà nước là nói đến những nét đặc thù của quản lý hành chính nhà nước để phân biệt với các dạng quản lý xã hội khác. Với
cách tiếp cận như trên, quản lý hành chính nhà nước dưới chế độ XHCN ở nước ta có các đặc điểm cơ bản sau đây:
- Quản lý hành chính nhà nước mang tính quyền lực đặc biệt, tính tổ chức cao và tính mệnh lệnh đơn phương của nhà nước.
Hoạt động quản lý hành chính nhà nước luôn mang tính quyền lực nhà nước và được đảm bảo bằng sức mạnh của nhà nước. Tính quyền lực là đặc điểm cơ bản nhất để
phân biệt hoạt động quản lý hành chính nhà nước với các hoạt động quản lý mang tính xã hội khác.
- Quản lý hành chính nhà nước có mục tiêu chiến lược, có chương trình và có kế hoạch để thực hiện mục tiêu.
Trong quản lý, việc đề ra mục tiêu được coi là chức năng đầu tiên và cơ bản. Mục tiêu quản lý là căn cứ để các chủ thể quản lý đưa ra những tác động thích hợp với những
hình thức và phương pháp phù hợp. Để đạt mục tiêu mà Đảng đề ra, các cơ quan hành chính nhà nước cần phải xây dựng chương trình kế hoạch dài hạn, trung hạn và ngắn hạn
và tổ chức thực hiện.
- Quản lý hành chính nhà nước là hoạt động chấp hành - điều hành trên cơ sở pháp luật nhưng có tính chủ động, sáng tạo và linh hoạt trong việc điều hành và xử lý
các công việc cụ thể.

- Quản lý hành chính nhà nước có tính liên tục và tương đối ổn định trong tổ chức và hoạt động.
Nền hành chính nhà nước có nghĩa vụ phục vụ nhân dân một cách thường xuyên cho nên quản lý hành chính nhà nước phải đảm bảo tính liên tục để thoả mãn nhu cầu
hàng ngày của nhân dân, của xã hội và phải có tính ổn định cao để đảm bảo hoạt động không bị gián đoạn trong bất kỳ tình huống chính trị - xã hội nào.
- Quản lý hành chính nhà nước có tính hệ thống thứ bậc chặt chẽ, là một hệ thống thông suốt từ Trung uơng đến cơ sở, cấp dưới phục tùng cấp trên, thực hiện
mệnh lệnh và chịu sự kiểm tra thường xuyên của cấp trên (đặc điểm này có điểm khác với hệ thống các cơ quan dân cử và hệ thống các cơ quan xét xử).
- Quản lý hành chính nhà nước dưới chế độ XHCN không có sự cách biệt tuyệt đối về mặt xã hội giữa người quản lý và người bị quản lý. Bởi vì, thứ nhất, trong quản
lý xã hội thì con người vừa là chủ thể vừa là đối tượng của quản lý. Mặt khác, dưới chế độ CNXH, nhân dân là chủ thể quản lý đất nước.
- Quản lý hành chính nhà nước XHCN mang tính không vụ lợi. Hoạt động quản lý hành chính nhà nước XHCN không chạy theo lợi nhuận mà nhằm phục vụ lợi ích
công, lợi ích nhân dân
- Quản lý hành chính nhà nước XHCN mang tính nhân đạo. Xuất phát từ bản chất nhà nước dân chủ XHCN, tất cả các hoạt động của nền hành chính nhà nước đều có
mục tiêu phục vụ con người, tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và lấy đó làm xuất phát điểm của hệ thống pháp luật, thể chế, quy tắc và thủ tục hành chính.
3. Các nguyên tắc cơ bản của hoạt động quản lý hành chính nhà nước.
Nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước là những tư tưởng chỉ đạo mọi hành động, hành vi quản lý của các cơ quan và CBCC trong quá trình thực thi chức năng, nhiệm
vụ.
Nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước được hình thành dựa trên cơ sở nhận thức các quy luật khách quan, qua kết quả nghiên cứu sâu sắc các điều kiện thực tế xã hội,
dựa trên bản chất chính trị xã hội của nhà nước trong thời gian, không gian và hoàn cảnh cụ thể. Xuất phát từ bản chất của chế độ chính trị, từ thực tiễn xây dựng nhà nước
XHCN ở Việt Nam, trên cơ sở nghiên cứu có chọn lọc những thành tựu của hành chính học và kinh nghiệm của các nước khác, có thể rút ra được những nguyên tắc quản lý
hành chính chủ yếu ở nước ta như sau :
3.1. Nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng và đảm bảo sự tham gia, kiểm tra, giám sát của nhân dân đối với quản lý hành chính nhà
nước.
Đảng lãnh đạo hoạt động quản lý hành chính nhà nước trước hết bằng việc đề ra đường lối, chủ trương, chính sách.
Đảng lãnh đạo thông qua công tác tổ chức và CB. Đảng đào tạo, lựa chọn, giới thiệu CB cho các cơ quan quản lý hành chính nhà nước, lãnh đạo việc sắp xếp, bố trí CB.
Đảng chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện các nghị quyết Đảng cũng như pháp luật của nhà nước trong các hoạt động quản lý hành chính nhà nước.
Đảng lãnh đạo quản lý nhà nước nhưng không làm thay các cơ quan nhà nước. Chính vì vậy, việc phân định chức năng lãnh đạo của các cơ quan Đảng và chức năng quản
lý của cơ quan nhà nước là vấn đề vô cùng quan trọng và cũng là điều kiện cơ bản để nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng và hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước ở
nước ta hiện nay.
1


Sự tham gia của nhân dân vào quyền lực chính trị là một trong những đặc trưng cơ bản của chế độ dân chủ. Quyền tham gia vào hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước

của nhân dân được quy định tại điều 53 Hiến pháp 1992: “Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của nhà nước và địa
phương, kiến nghị với cơ quan nhà nước, biểu quyết khi nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân”.
Nhân dân có quyền tham gia vào quản lý nhà nước một cách trực tiếp hoặc gián tiếp, tham gia giải quyết những vấn đề lớn và hệ trọng của đất nước, địa phương hoặc đơn
vị. Ngoài việc tham gia biểu quyết khi nhà nước tổ chức trưng cầu dân ý, những hình thức tham gia trực tiếp khác của nhân dân vào quản lý nhà nước là: Thảo luận, góp ý kiến
vào quá trình xây dựng những đạo luật hoặc các quyết định quan trọng khác của nhà nước hoặc của địa phương; kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước; thực
hiện quyền khiếu nại, tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong quản lý nhà nước... Nhân dân còn gián tiếp tham gia vào quản lý nhà nước thông qua hoạt động của các cơ quan,
các đại biểu do mình bầu ra (Quốc hội, HĐND các cấp).
Một hình thức tham gia gián tiếp vào quản lý nhà nước rất quan trọng khác là thông qua các tổ chức xã hội. Pháp luật Việt Nam trao cho các tổ chức xã hội quyền tham gia
thành lập các cơ quan nhà nước, quyền giám sát, phản biện xã hội đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước.
Để đảm bảo sự tham gia vào quản lý nhà nước của nhân dân có hiệu quả, cần phải thể chế hoá các quyền đó một cách cụ thể, phát huy hơn nữa vai trò của các đại biểu
nhân dân và nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể nhân dân.
3.2. Nguyên tắc tập trung dân chủ.
Tập trung dân chủ là nguyên tắc quan trọng chỉ đạo tổ chức và hoạt động của cả hệ thống chính trị, trong đó có nhà nước.
Nguyên tắc tập trung dân chủ quy định trước hết sự lãnh đạo tập trung đối với những vấn đề cơ bản chính yếu nhất, bản chất nhất. Sự tập trung đó đảm bảo tính thống nhất
của quyền lực nhà nước, đảm bảo thực hiện ý chí và bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân lao động. Bên cạnh việc yêu cầu phải chấp hành mệnh lệnh của cấp trên, cũng cần
phải đảm bảo tính sáng tạo, quyền chủ động nhất định của địa phương và cơ sở. Cấp trung ương giữ quyền thống nhất quản lý những vấn đề cơ bản, đồng thời thực hiện phân
cấp quản lý, giao quyền hạn, trách nhiệm cho các địa phương, các ngành trong tổ chức quản lý điều hành để thực hiện các văn bản của cấp trên. Điều 6 Hiến pháp 1992 quy
định tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của cơ quan nhà nước.
Trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước nguyên tắc tập trung dân chủ được biểu hiện rất đa dạng trong nhiều lĩnh vực, nhiều cấp quản lý, từ vần đề tổ chức bộ máy
đến cơ chế vận hành của bộ máy. Chẳng hạn như quan hệ trực thuộc, chịu trách nhiệm và báo cáo của cơ quan quản lý hành chính nhà nước trước cơ quan dân cử; phân định
chức năng, thẩm quyền giữa các cơ quan quản lý hành chính nhà nước các cấp; nguyên tắc “hai chiều trực thuộc” đảm bảo kết hợp tốt quản lý theo ngành và theo lãnh thổ, kết
hợp hài hòa lợi ích của cả nước với lợi ích của từng địa phương...
Tổ chức và hoạt động quản lý hành chính nhà nước, là một thể thống nhất. Tập trung dân chủ đối lập với xu hướng cơ quan cấp trên “làm thay” “lấn sân” vào thẩm quyền
của cơ quan cấp dưới, đồng thời phủ nhận việc cơ quan cấp dưới ỷ lại, đùn đẩy cho cấp trên. Trong thực tiễn quản lý hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đang khắc phục bệnh tập
trung quan liêu, đồng thời chống biểu hiện tuỳ tiện, tự do vô chính phủ, cục bộ địa phương, cục bộ ngành.
3.3. Nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước bằng pháp luật và tăng cường pháp chế.
Quản lý nhà nước bằng pháp luật và tăng cường pháp chế là một nguyên tắc Hiến định. Nguyên tắc này đòi hỏi mọi tổ chức và hoạt động quản lý hành chính nhà nước đều
phải dựa trên cơ sở pháp luật. Điều đó có nghĩa là hệ thống hành chính nhà nước phải chấp hành luật và các quyết định của Quốc hội trong chức năng thực hiện quyền hành
pháp; Khi ban hành các quyết định quản lý hành chính phải phù hợp với nội dung và mục đích của luật và các văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao hơn.
Để thực hiện nguyên tắc này, cần làm tốt các nội dung cơ bản sau:

- Xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật.
- Tổ chức thực hiện tốt pháp luật đã ban hành
- Xử lý nghiêm mọi hành vi vi phạm pháp luật
- Tăng cường giáo dục ý thức pháp luật cho toàn dân.
3.4. Nguyên tắc kết hợp quản lý hành chính theo ngành và theo lãnh thổ.
Quản lý theo ngành và quản lý theo lãnh thổ là hai mặt không tách rời nhau mà phải được kết hợp chặt chẽ với nhau, đặc biệt là trên lĩnh vực kinh tế. Các đơn vị kinh tế
thuộc thành phần kinh tế nào, nằm trên địa bàn quản lý đều thuộc một ngành kinh tế - kỹ thuật nhất định và chịu sự quản lý của ngành (Bộ). Mặt khác, các đơn vị kinh tế thuộc
các ngành kinh tế - kỹ thuật khác nhau đều được phân bổ trên những địa bàn nhất định, chúng có quan hệ mật thiết với nhau về kinh tế và gắn bó với nhau trên các mặt xã hội,
tạo nên một cơ cấu kinh tế - xã hội và chịu sự quản lý của chính quyền địa phương. Đây là sự thống nhất giữa hai mặt: Cơ cấu kinh tế ngành với cơ cấu kinh tế lãnh thổ trong
một cơ cấu kinh tế chung.
Các hoạt động quản lý theo ngành của cơ quan nhà nước nhằm đề ra các chủ trương, chính sách phát triển toàn ngành, tạo môi trường thuận lợi cho các đơn vị kinh tế phát
huy tính chủ động, nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất – kinh doanh. Cần nhấn mạnh rằng, quản lý theo ngành ở đây là quản lý về mặt nhà nước: nhà nước đề ra chủ trương
chính sách, xây dựng chiến lược, sử dụng các đòn bẩy... còn quản lý sản xuất kinh doanh là quyền chủ động của đơn vị sản xuất kinh doanh.
Nội dung quản lý theo lãnh thổ nhằm tổ chức sự điều hoà phối hợp các hoạt động của các ngành, các thành phần kinh tế và các tổ chức kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh,
quốc phòng... trên phạm vi cả nước cũng như trên từng đơn vị hành chính lãnh thổ với mục tiêu bảo đảm pháp chế XHCN, tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân, ổn định và cải
thiện đời sống nhân dân về mọi mặt.
5. Nguyên tắc phân biệt chức năng quản lý nhà nước về kinh tế với quản lý sản xuất kinh doanh.
Nhà nước ta nắm quyền sở hữu với những tư liệu sản xuất chủ yếu, có khả năng, nhiệm vụ tổ chức và quản lý nền kinh tế quốc dân trên quy mô cả nước trực tiếp tổ chức
và quản lý các thành phần kinh tế nhưng nhà nước không phải là người trực tiếp kinh doanh. Nhà nước tôn trọng tính độc lập tự chủ của các đơn vị kinh doanh. Trong điều kiện
đổi mới cơ chế quản lý kinh tế của nhà nước hiện nay, trên cơ sở đảm bảo quyền tự chủ kinh doanh của các doanh nghiệp, chức năng quản lý nhà nước về kinh tế bao gồm các
nội dung chủ yếu sau:
- Tạo môi trường và điều kiện cho hoạt động sản xuất kinh doanh
- Định hướng và hỗ trợ những nỗ lực phát triển thông qua kế hoạch và các chính sách kinh tế
- Hoạch định và thực hiện chính sách xã hội, đảm bảo sự thống nhất giữa phát triển kinh tế và phát triển xã hội.
- Quản lý và kiểm soát việc sử dụng tài nguyên, tài sản quốc gia
- Tổ chức nền kinh tế và điều chỉnh bằng các công cụ và biện pháp vĩ mô.
- Tổ chức và giám sát hoạt động tuân thủ pháp luật của các đơn vị kinh tế.
Nhà nước thực hiện các chức năng trên thông qua một hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước; thông qua việc tổ chức hệ thống các tổ chức kinh tế của nhà nước;
thông qua việc đào tạo, bồi dưỡng, bố trí đội ngũ CB có phẩm chất chính trị, có năng lực quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, quản lý xã hội.
Các tổ chức kinh doanh trực tiếp thực hiện các hoạt động kinh doanh có tư cách pháp nhân, hoạt động kinh doanh bình đẳng với nhau trước pháp luật; có quyền tự chủ về

tài chính và thực hiện hạch toán kinh tế; có nhiệm vụ phát huy năng lực kinh doanh có hiệu quả đạt mục tiêu thu lợi nhuận cao trong khuôn khổ pháp lý và chịu sự quản lý bằng
pháp luật của các cơ quan hành chính nhà nước.
Việc phân biệt và kết hợp tốt hai chức năng này với nhau trong một hệ thống thống nhất tạo điều kiện thúc đẩy nền kinh tế phát triển theo định hướng XHCN nâng cao
hiệu quả hoạt động sản xuất – kinh doanh của các đơn vị kinh tế và hiệu lực quản lý nhà nước, hiệu lực tổ chức thực hiện pháp luật của các cơ quan hành chính nhà nước.
6. Nguyên tắc công khai
Tổ chức hoạt động hành chính của nhà nước ta là nhằm phục vụ lợi ích quốc gia và lợi ích hợp pháp của công dân nên cần phải công khai hoá, thực hiện đúng chủ trương
“dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Phải quy định các hoạt động cần công khai cho dân biết, tạo điều kiện thu hút đong đảo quần chúng nhân dân tham gia kiểm tra,
giám sát hoạt động hành chính nhà nước.
4. Các hình thức và phương pháp quản lý hành chính nhà nước
4.1. Hình thức quản lý hành chính
Hình thức hoạt động quản lý hành chính nhà nước được hiểu là sự biểu hiện của các hoạt động quản lý của cơ quan hành chính nhà nước trong việc thực hiện các chức
năng, nhiệm vụ được giao.
Quản lý hành chính nhà nước có nhiều hình thức hoạt động. Việc lựa chọn hình thức hoạt động cần phải được tiến hành trên cơ sở những quy luật sau:
- Quy luật về sự phù hợp của hình thức quản lý với chức năng quản lý.
- Quy luật về sự phù hợp của hình thức quản lý với nội dung và tính chất của những nhiệm vụ quản lý cần giải quyết.
- Quy luật về sự phù hợp của hình thức quản lý với những đặc điểm của đối tượng quản lý cụ thể.
- Quy luật về sự phù hợp của hình thức quản lý với mục đích cụ thể của tác động quản lý
Hình thức quản lý hành chính nhà nước có thể được chia thành 2 loại là: hình thức pháp và hình thức không pháp lý.
4.1.1. Hình thức pháp lý
- Ban hành văn bản quản lý hành chính nhà nước
+ Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (lập quy)
Ban hành văn bản quy phạm pháp luật là hình thức pháp lý quan trọng nhất trong hoạt động của các chủ thể quản lý hành chính nhà nước nhằm thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của mình.
Thông qua các văn bản quy phạm pháp luật, các cơ quan hành chính nhà nước quy định những quy tắc xử sự chung; những nhiệm vụ, quyền hạn và nghĩa vụ cụ thể của
các bên tham gia quan hệ quản lý hành chính nhà nước; xác định rõ thẩm quyền và thủ tục tiến hành các hoạt động quản lý nhà nước.

2


1.

-

-

-

2.
-

-

-

3.

-

-

+ Ban hành văn bản áp dụng pháp luật:
Ban hành văn bản áp dụng pháp luật là hình thức hoạt động chủ yếu của các cơ quan hành chính nhà nước. Nội dung của nó là áp dụng một hay nhiều quy phạm pháp luật
vào một trường hợp cụ thể, trong điều kiện cụ thể. Việc ban hành văn bản áp dụng pháp luật làm pháp sinh, thay đổi hay chấm dứt những quan hệ pháp luật hành chính cụ thể.
Thông qua việc ban hành các văn bản áp dụng pháp luật, các chủ thể quản lý hành chính nhà nước tác động một cách tích cực và trực tiếp đến mọi hoạt động của cơ quan,
tổ chức, cá nhân.
- Các hoạt động mang tính chất pháp lý khác như:
+ Áp dụng những biện pháp ngăn chặn và phòng ngừa vi phạm pháp luật (như kiểm tra giấy phép lái xe, kiểm tra việc đăng ký tạm trú, tạm vắng…)
+ Đăng ký những sự kiện nhất định như đăng ký khai sinh, đăng ký kết hôn, đăng ký phương tiện giao thông…
+ Lập và cấp các giấy tờ nhất định như lập biên bản về vi phạm hành chính.
+ Hoạt động công chứng, chứng thực. …
4.1.2. Hình thức không pháp lý:

- Tổ chức hội nghị
- Sử dụng các phương tiện kỹ thuật
- Hình thức phối hợp, kết hợp …
4.2. Phương pháp quản lý hành chính nhà nước
Các chủ thể quản lý hành chính nhà nước trong quá trình hoạt động của mình đều sử dụng rất nhiều phương pháp quản lý.
Các phương pháp này có thể phân thành 2 nhóm:
4.2.1. Nhóm thứ nhất gồm phương pháp của các khoa học khác được quản lý hành chính nhà nước vận dụng cụ thể là:
- Phương pháp kế hoạch hóa:
Các cơ quan hành chính nhà nước dùng phương pháp này để xây dựng chiến lược phát triển kinh tế xã hội, lập quy hoạch tổng thể và chuyên ngành; dự báo xu thế phát
triển; đặt chương trình mục tiêu và xây dựng kế hoạch dài hạn, trung hạn và ngắn hạn.
Sử dụng phương pháp này để tính toán các chỉ tiêu kế hoạch, tổ chức thực hiện và kiểm tra, đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch.
- Phương pháp thống kê:
Phương pháp này được các cơ quan hành chính nhà nước sử dụng để tiến hành điều tra khảo sát, sử dụng các phương pháp tính toán để phân tích tình hình và nguyên
nhân của hiện tượng quản lý, làm căn cứ khoa học cho việc ra quyết định quản lý.
Sử dụng các phương pháp thu thập số liệu, tổng hợp và chỉnh lý để tính toán tốc độ phát triển của các chỉ tiêu, kế hoạch nhất định.
- Phương pháp toán học:
Với phương pháp này, cơ quan hành chính nhà nước ứng dụng ma trận, vận trù học, sơ đồ mạng…trong quản lý; sử dụng các máy điện toán để thu thập, xử lý và lưu trữ
thông tin; toán học hóa các chương trình mục tiêu kinh tế xã hội; tính toán các cân đối liên ngành trong mọi lĩnh vực hoạt động quản lý.
- Phương pháp tâm lý – xã hội:
Phương pháp tâm lý xã hội nhằm tác động vào tâm tư, tình cảm của người lao động, tạo cho họ không khí hồ hởi, yêu thích công việc, gắn bó với tập thể lao động, hăng
hái làm việc, giải quyết cho họ những vướng mắc trong công tác, động viên, giúp đỡ họ vượt qua khó khăn về cuộc sống. Do vậy, tác động tâm lý – xã hội là phương pháp quản
lý rất quan trọng.
- Phương pháp sinh lý học:
Trên cơ sở phương pháp này, các cơ quan hành chính nhà nước tạo ra các điều kiện làm việc phù hợp với sinh lý của con người, tạo ra sự thoải mái trong làm việc và tiết
kiệm các thao tác không cần thiết nhằm tăng cường năng suất lao động như: bố trí phòng làm việc; bàn làm việc, nghế ngồi; vị trí điện thoại; ví trí để tài liệu; màu sắc và ánh
sáng…
4.2.2. Nhóm thứ hai gồm 4 phương pháp chủ yếu, đặc thù của khoa học quản lý.
- Phương pháp giáo dục đạo đức, tư tưởng:
Đây là phương pháp tác động về tư tưởng và tinh thần đối với con người để họ giác ngộ lý tưởng, nâng cao ý thức chính trị và pháp luật, nhận biết được làm việc nào là
tốt, xấu, thiện, ác, vinh, nhục…

Giáo dục chính trị, tư tưởng không chỉ bằng việc hô hào những khẩu hiệu chính trị, tuyên truyền, động viên lòng nhiệt tình, hăng hái một cách chung chung như nhiều
người quan niệm và nhiều nơi vẫn làm. Mà còn phải là những công việc cụ thể, thiết thực, có nội dung, kế hoạch thực hiện rõ ràng cho từng giai đoạn phát triển nhất định.
Giáo dục chính trị, tư tưởng không chỉ đối với đối tượng quản lý mà cả đối với chủ thể quản lý. Nội dung giáo dục phải thiết thực, sâu sắc, gắn chặt với sản xuất, công tác
và với phương pháp và hình thức linh hoạt, có chất lượng, phù hợp với đối tượng.
- Phương pháp tổ chức:
Phương pháp này nhằm đưa con người vào khuôn khổ, kỷ luật và kỷ cương. Để thực hiện phương pháp này có nhiều việc phải làm, nhưng quan trọng nhất là phải có quy
chế, quy trình, nội quy hoạt động của cơ quan, đơn vị. Việc bố trí, sử dụng, đề bạt, bổ nhiệm, khen thưởng, kỷ luật CBCC phải nghiêm túc, chính xác.
- Phương pháp kinh tế:
Phương pháp kinh tế là phương pháp quản lý bằng cách tác động đến ý thức và hành vi của đối tượng quản lý thông qua việc sử dụng những đòn bẩy kinh tế, những biện
pháp khen thưởng, xử phạt thích hợp tác động đến lợi ích của họ. Trong mọi hoạt động nói chung và hoạt động quản lý hành chính nhà nước nói riêng, sử dụng hợp lý phương
pháp kinh tê sẽ tạo ra động lực quan trọng để nâng cao hiệu quả quản lý.
- Phương pháp hành chính:
Phương pháp hành chính là phương pháp quản lý bằng việc ra các mệnh lệnh rõ ràng, dứt khoát, bắt buộc đối tượng quản lý phải làm hoặc không được làm những công việc
nhất định vì ý chí và mục tiêu của chủ thể quản lý. Phương pháp hành chính là phương pháp đặc thù của quản lý nhà nước, gắn liền với quyền lực và sức mạnh của nhà nước.
Quản lý, quản lý nhà nước, quản lý hành chính nhà nước? Liên hệ thực tế?
Quản lý:
Khái mệm: Quản lý là sự tác động có định hướng và tổ chức của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý bằng các pương thức nhất định để đạt tới những mục tiêu nhất định.
Chủ thể quản lý là các cá nhân, tổ chức có một quyền lực nhất định buộc các đối tượng quản lý phải tuân thủ các quy định do mình đề ra đế đạt được những mục tiêu đã định
trước.
Đối tượng quản lý là các cá nhân, tổ chức trong quá trình hoạt động phải chịu sự tác động băng phương pháp quản lý và công cụ quản lý của các chủ thể quản lý đê nhằm đạt
được những mục tiêu quản lý do chủ thể quản lý đặt ra.
Khách thể quản lý là trật tự quản lý mà chủ thể quản lý bằng sự tác động lên các đối tượng quản lý
bằng các phương pháp quản lý và công cụ quản lý nhất định mong muốn thiết lập được để đạt được những mục tiêu định truớc.
Mục tiêu quản lý là những lợi ích vật chất, tinh thần và các lợi ích khác mà các chủ thể quản lý mong muốn đạt được trong quá trình tác động đến các đối tượng quản lý.
Quản lý nhà nước:
Khái niệm: Quản lý nhà nước là hoạt động thực thi quyền lực nhà nước do các cơ quan nhà nước tiến hành đối với tât cả mọi cá nhân vả tổ chức trong xã hội, trên tất cả các mặt
của đời sống xã hội băng cách sử dụng quyền lực nhà nước có tính cưỡng chế đơn phương nhằm mục tiêu phục vụ lợi ích chung của cả cộng đồng, duy trì ổn định, an ninh trật
tự và thúc đẩy xã hội phát triên theo một định hướng thông nhât của Nhà nước.
Chủ thể quản lý nhà nước là các cơ quan nhà nước (CB,CC có thẩm quyền phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được giao). Những chủ thể này tham gia vào quá trình tổ chức
quyền lực nhà nước về lập pháp, hành pháp, tư pháp theo quy định của pháp luật.

Đối tượng của quản lý nhà nước bao gồm tất cả các cá nhân, tổ chức sinh sống, sản xuất, kinh doanh, dịch vụ trong phạm vi lãnh thổ quốc gia.
Các lĩnh vực quản lý nhà nước: Quản lý nhà nước có tính toàn diện, bao gồm tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội như: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc
phòng...
Công cụ quản lý nhà nước chủ yếu: Nhà nước sử dụng các công cụ quản lý chủ yếu là pháp luật, chính sách, kế hoạch để quản lý xã hội.
Quản lý hành chính nhà nước:
a. Khái niệm: Quản lý hành chính nhà nước là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực nhà nước đối với các quá trình xã hôi và hành vi hoạt động của
công dân do các cơ quan trong hệ thông hành pháp từ Trung ương đến cơ sở tiến hành để thực hiện những chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước, phát triển các mối quan hệ
xã hội duy trì trật tự, an ninh, thỏa mãn các nhu cầu hợp pháp của công dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
b. Nội dung: Trong quá trình thực thi quyền hành pháp, các cơ quan quản lý hành chính nhà nước tiến hành các hoạt động sau đây:
Hoạt động lập quy hành chính: Các cơ quan quản lý hành chính nhà nước có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật để cụ thể hóa các quy định pháp luật do cơ quan
lập pháp ban hành. Hoạt động lập quy hành chính tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động quản lý, điều hành của các cơ quan quản lý hành chính nhà nước. Cụ thể:
+ Chính phủ có thẩm quyền ban hành nghị định; nghị quyết liên tịch.
+ Thủ tướng Chính phủ có thẩm quyền ban hành QĐ.
+ Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ có thẩm quyền ban hành thông tư; thông tư liên tịch.
+ Ủy ban nhân dân các cấp có thẩm quyền ban hành QĐ, chỉ thị.
Hoạt động ban hành và tổ chức thực hiện các QĐ hành chính: Để thực hiện quản lý, điều hành trong nội bộ các cơ quan quản lý hành chính nhà nước và đối với mọi mặt của
3


-

-

-

-

-

-


-

-

-

đời sống xã hội, các cơ quan quản lý hành chính nhà nước ban hành và tổ chức thực hiện các QĐ hành chính. Thực hiện việc ban hành và tổ chức thực hiện các QĐ hành
chính giúp hệ thống hành chính vận động và phát triển theo yêu cầu chung của xã hội. Đồng thời, ban hành và tổ chức thực hiện các QĐ hành chính, các chủ thể quản lý
hành chính nhà nước cũng duy trì sự vận động và phát triển của các đối tượng tham gia vào quá trình kinh tế, xã hội theo mục tiêu quản lý đã định trước.
Hoạt động kiểm tra, đánh giá: Trong quá trình quản lý, điều hành hành chính, các cơ quan quản lý hành chính phải thực hiện kiểm tra và đánh giá hiệu quả hoạt động của các
đối tượng quản lý. Việc kiểm tra và đánh giá hiệu quả hoạt động phải được tiến hành thường xuyên đối với mọi mặt hoạt động của đối tượng quản lý. Thực hiện tốt hoạt
động này sẽ đảm bảo cho hoạt động của các đối tượng quản lý được thực hiện theo đúng quy định, đồng thời phát hiện kịp thời những sai lệch, vi phạm để có biện pháp xử
lý và khắc phục hậu quả. Kiểm tra, đánh giá là biện pháp bảo đảm hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các đối tượng quản lý, góp phần vào sự ổn định và phát triển bền vững
của xã hội.
Hoạt động cưỡng chế hành chính: Thực hiện cưỡng chế hành chính góp phần thực hiện hiệu quả các chức năng hành chính khác. Trong quá trình điều hành nhiều trường hợp
để các đối tượng quản lý chấp hành các quy định của pháp luật, các cơ quan quản lý hành chính nhà nước phải tiến hành cưỡng chế hành chính.
c. Vai trò của quản lý hành chính nhà nước đối với sự phát triển của xã hội:
Góp phần quan trọng trong việc hiện thực hóa chủ trương, đường lối chính trị. Đường lối chính trị của Đảng được thể chế hóa vào trong các văn bản pháp luật, chính sách
của Nhà nước. Chính sách, pháp luật của Nhà nước là các quy định cụ thể, thể hiện và là cơ sở để triển khai quan điểm, đường lối của Đảng vào thực tiễn cuộc sống. Thông
qua việc sử dụng chính sách, pháp luật để tổ chức triển khai các hoạt động quản lý đối với xã hội, quản lý hành chính nhà nước góp phần hiện thực hóa quan điếm, đường lối
chính trị của Đảng.
Định hướng, dẫn dắt sự phát triển kinh tế - xã hội thông qua hệ thống pháp luật và chính sách của Nhà nước. Để cho hoạt động kinh tế - xã hội phát triển theo đúng mục tiêu,
các cơ quan hành chính nhà nước quản lý vĩ mô đối với các đơn vị, tổ chức. Những định hướng lớn, mục tiêu phát triển của đất nước trong mỗi giai đoạn phát triển sẽ được
thể hiện trong các chính sách, pháp luật của Nhà nước. Thông qua sự tác động các công cụ quản lý như pháp luật, kế hoạch, chính sách lên các quan hệ xã hội, các cơ quan
quản lý hành chính nhà nước chủ động dự kiến những mục tiêu và phương hướng thực hiện mục tiêu phát triển của đất nước. Làm như vậy sẽ hướng các hoạt động kinh tế xã hội vận hành để đạt được những mục tiêu phát triển mà Nhà nước đã đặt ra.
Điều hành xã hội, điều chỉnh các mối quan hệ xã hội. Trong hoạt động quản lý của Nhà nước đối với xã hội, vai trò tổ chức, điều hành xã hội thuộc về quyền hành pháp do
các cơ quan quản lý hành chính nhà nước thực hiện. Hoạt động quản lý hậnh chính nhà nước có vai trò điều hành các quá trình kinh tế - xã hội, điều chỉnh, điều hòa các
quan hệ xã hội nhằm hướng tới sự phát triển ổn định, hài hòa của xã hội.
Hỗ trợ, duy trì và thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Trong quá trình tham gia hoạt động kinh tế - xã hội, các chủ thể có năng lực và điều kiện khác nhau nên hiệu quả hoạt

động thu được cũng khác nhau. Thông qua các chính sách ưu tiên phát triển trong một số lĩnh vực, đối với một số đối tượng, các cơ quan quản lý hành chính nhà nước hỗ trợ
kinh tế - xã hội phát triển hài hòa. Duy trì sự phát triến của xã hội thông qua việc tạo môi trường phát triển cho các hoạt động kinh tế - xã hội. Thông qua hoạt động quản lý
hành chính, nhà nước tạo động lực thúc đẩy hoạt động kinh tế - xã hội có hiệu quả của các chủ thê.
Trọng tài, giải quyết các mâu thuẫn ở tầm vĩ mô. Trong quá trình tham gia vào các hoạt động kinh tế - xã hội, các chủ thể có thể có những mâu thuẫn không thể tự điều hòa,
giải quyết được. Chẳng hạn, những tranh chấp trong thực hiện các hợp đồng kinh tế - xã hội; vì lợi nhuận vi phạm các quy định trong các hợp đồng kinh tế - xã hội. Trong
những trường hợp như vậy, các cơ quan quản lý hành chính nhà nước có thâm quyền sử dụng pháp luật để giải quyết các tranh châp, bảo vệ quyên và lợi ích hợp pháp của
các chủ thê.
4. Liên hệ thực tế: Tuỳ theo từng cơ quan, đơn vị; căn cứ vào chức năng nhiệm vụ được giao sẽ liên hệ thực tế với các mặt công tác: quản lý, quản lý nhà nước, quản lý hành
chính nhà nước.
a. Về quản lý: Mỗi cơ quan, đon vị đều ban hành nội quy, quy chế hoạt động trong
nội bộ cơ quan, đơn vị mình. Chủ thể quản lý là người đứng đầu hoặc tập thể lãnh đạo cơ quan, đon vị có một quyền lực nhất định buộc các đối tượng quản lý phải tuân thủ các
quy định, thống nhất thực hiện từ trên xuống dưới để tạo sự đoàn kết, nề nếp, quy chuẩn, chất lượng, hiệu quả công việc. Đối tượng quản lý là cán bộ, nhân viên, các đơn vị
trực thuộc quản lý phải thực thi, chấp hành nghiêm các nội quy, quy định mà thủ trưởng cơ quan, đơn vị đã ban hành, nếu không chấp hành hoặc thực thi không đúng sẽ bị xử
lý bằng các hình thức phù họp. Khách thể quản lý là trật tự quản lý trong nội bộ cơ quan, đon vị bằng sự tác động lên các đối tượng quản lý thông qua các hình thức: kiểm tra,
giám sát, nhận xét, đánh giá, phân loại... Mục tiêu quản lý là những lợi ích vật chất, tinh thần và các lợi ích khác như: đảm bảo ngày công lao động, hiệu quả công việc, tính
nêu gương, chấp hành ý kiến chỉ đạo của lãnh đạo...
b. Về quản lý nhà nước: Thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước trên lĩnh
vực an ninh trật tự, thực thi một số nhiệm vụ bằng cách sử dụng quyền lực nhà nước giao: kiểm tra, xử phạt, cưỡng chế... nhằm phục vụ lợi ích chung của cả cộng đồng, duy trì
ổn định, an ninh trật tự và thúc đấy xã hội phát triển theo một định hướng thống nhất. Chủ thể quản lý nhà nước là những CB,CC có thẩm quyền kiểm tra, xử phạt, cưỡng chế.
Đối tượng của quản lý nhà nước bao gồm tất cả các cá nhân, tổ chức hoạt động trên địa bàn quản lý. Lĩnh vực quản lý nhà nước bao gồm các lĩnh vực của đời sống xã hội như:
chính trị, kinh tể, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng (chỉ nêu một trong sổ lĩnh vực thuộc chức năng, nhiệm vụ của cơ quan). Công cụ quản lý nhà nước đó là pháp luật,
chính sách, kế hoạch...
c. Quản lý hành chính nhà nước: Căn cứ chức năng, nhiệm vụ được giao, đồng thời
trên cơ sở công cụ quản lý là pháp luật, chính sách, kế hoạch tiến hành các hoạt động có tổ chức đối với các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của công dân nhằm phát triển
các mối quan hệ xã hội, duy trì trật tự, an ninh, thỏa mãn các nhu cầu họp pháp của công dân. Trong quá trình thực thi quyền hành pháp, cơ quan tôi tiến hành các hoạt động
sau đây:
Tham eia góp ý, kiến nghị đề xuất vào quá trình hoạt động lập quy hành chính của cơ quan quan lý hành chính nhà nước có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật
để cụ thể hóa các quy định pháp luật do cơ quan lập pháp ban hành.
Ban hành và tổ chức thực hiện các QĐ hành chính đối với mọi mặt của đời sống xã hội thuộc lĩnh vực quản lý, như: QĐ xử phạt, tịch thu, tạm giữ phương tiện, tang vật...
Thực hiện việc kiểm tra và đánh giá hiệu quả hoạt động của các đối tượng thuộc diện quản lý nhằm bảo đảm hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các đối tượng quản lý, góp phần

vào sự ổn định và phát triển bền vững của xã hội.
Thực hiện việc cưỡng chế hành chính góp phần thực hiện hiệu quả các chức năng hành chính khác...
***
Trình bày khái niệm quản lý, quản lý nhà nước, quản lý hành chính nhà nước và nội dung chủ yếu của quản lý hành chính nhà nước?
Liên hệ thực tế? (Bài 1)
1. Quản lý:
Khái niệm: Quản lý là sự tác động có định hướng và tổ chức của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý bằng các phương thức nhất định để đạt tới những mục
tiêu nhất định.
2. Quản lý nhà nước:
- Khái niệm: Quản lý nhà nước là hoạt động thực thi quyền lực nhà nước do các cơ quan nhà nước tiến hành đối với tất cả mọi cá nhân và tổ chức trong xã hội, trên tất
cả các mặt của đời sống xã hội bằng cách sử dụng quyền lực nhà nước có tính cưỡng chế đơn phương nhằm mục tiêu phục vụ lợi ích chung của cả cộng đồng, duy trì ổn định,
an ninh trật tự và thúc đẩy xã hội phát triển theo một định hướng thống nhất của Nhà nước.
3. Quản lý hành chính nhà nước:
a. Khái niệm: Quản lý hành chính nhà nước là hoạt động thực thi quyền hành pháp của Nhà nước; là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực nhà
nước đối với các quá trình xã hôi và hành vi hoạt động của công dân do các cơ quan trong hệ thông hành pháp từ Trung ương đến cơ sở tiến hành để thực hiện những chức
năng và nhiệm vụ của Nhà nước, phát triển các mối quan hệ xã hội duy trì trật tự, an ninh, thỏa mãn các nhu cầu hợp pháp của công dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc.
b. Nội dung: Trong quá trình thực thi quyền hành pháp, các cơ quan quản lý hành chính nhà nước tiến hành các hoạt động sau đây:
- Hoạt động lập quy hành chính: Các cơ quan quản lý hành chính nhà nước có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật để cụ thể hóa các quy định pháp luật
do cơ quan lập pháp ban hành. Hoạt động lập quy hành chính tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động quản lý, điều hành của các cơ quan quản lý hành chính nhà nước. Cụ thể: ( Điều 4
Luật 80/2015/QH13)
+ Chính phủ có thẩm quyền ban hành Nghị định; Nghị quyết liên tịch giữa Chính phủ với Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
+ Thủ tướng Chính phủ có thẩm quyền ban hành: Quyết định.
+ Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ có thẩm quyền ban hành: Thông tư; Thông tư liên tịch.
+ Ủy ban nhân dân các cấp có thẩm quyền ban hành: Quyết định.
+ Văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương ở đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt.
- Hoạt động ban hành và tổ chức thực hiện các quyết định hành chính: Để thực hiện quản lý, điều hành trong nội bộ các cơ quan quản lý hành chính nhà nước và đối
với mọi mặt của đời sống xã hội, các cơ quan quản lý hành chính nhà nước ban hành và tổ chức thực hiện các quyết định hành chính. Thực hiện việc ban hành và tổ chức
thực hiện các quyết định hành chính giúp hệ thống hành chính vận động và phát triển theo yêu cầu chung của xã hội. Đồng thời, ban hành và tổ chức thực hiện các quyết định
hành chính, các chủ thể quản lý hành chính nhà nước cũng duy trì sự vận động và phát triển của các đối tượng tham gia vào quá trình kinh tế, xã hội theo mục tiêu quản lý đã

định trước.
4


- Hoạt động kiểm tra, đánh giá: Trong quá trình quản lý, điều hành hành chính, các cơ quan quản lý hành chính phải thực hiện kiểm tra và đánh giá hiệu quả hoạt
động của các đối tượng quản lý. Việc kiểm tra và đánh giá hiệu quả hoạt động phải được tiến hành thường xuyên đối với mọi mặt hoạt động của đối tượng quản lý. Thực hiện
tốt hoạt động này sẽ đảm bảo cho hoạt động của các đối tượng quản lý được thực hiện theo đúng quy định, đồng thời phát hiện kịp thời những sai lệch, vi phạm để có biện
pháp xử lý và khắc phục hậu quả. Kiểm tra, đánh giá là biện pháp bảo đảm hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các đối tượng quản lý, góp phần vào sự ổn định và phát triển bền
vững của xã hội.
- Hoạt động cưỡng chế hành chính: Thực hiện cưỡng chế hành chính góp phần thực hiện hiệu quả các chức năng hành chính khác. Trong quá trình điều hành nhiều
trường hợp để các đối tượng quản lý chấp hành các quy định của pháp luật, các cơ quan quản lý hành chính nhà nước phải tiến hành cưỡng chế hành chính.
Trình bày khái niệm và đặc điểm của hoạt động quản lý hành chính nhà nước? Bài 1)
Trong QLNN nói chung, hđộng QLHCNN là hoạt động giữ vị trí trung tâm và có vai trò đặc biệt quan trọng. Đây là hoạt động tổ chức và điều hành nhằm thực hiện các
chức năng, nhiệm vụ cơ bản nhất của nhà nước trong quản lý xã hội.
Như vậy, QLHCNN chính là hoạt động thực thi quyền hành pháp của Nhà nước; là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực nhà nước đối với các quá trình XH
và hành vi hđộng của con người, do các cơ quan trong hệ thống hành pháp từ TW đến cơ sở tiến hành nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ của nhà nước
Các CQ HCNN là hệ thống các CQ thực thi quyền lực nhà nước để quản lý nhà nước. Là một tổ chức nhà nước thực thi quyền hành pháp, hđộng QLHCNN có các đặc
điểm sau đây:
- Quản lý hành chính nhà nước mang tính quyền lực đặc biệt, có tính tổ chức rất cao và tính mệnh lệnh đơn phương của nhà nước.
- Quản lý hành chính nhà nước là có mục đích chiến lược, có chương trình và có kế hoạch để thực hiện mục tiêu.
- Quản lý hành chính nhà nước có tính chủ động, sáng tạo và linh hoạt trong việc điều hành, phối hợp, huy động mọi lực lượng, phát huy sức mạnh tổng hợp để tổ chức lại
sản xuất XH và cuộc sống con người trên địa bàn của mình theo sự phân công, phân cấp đúng thẩm quyền và theo nguyên tắc tập trung dân chủ.
- Quản lý hành chính nhà nước có tính liên tục và ổn định kế thừa.
- Quản lý hành chính nhà nước có tính chuyên môn hóa và nghề nghiệp cao, bảo đảm yêu cầu khoa học, văn minh, hiện đại.
- Quản lý hành chính nhà nước có hệ thống thứ bậc chặt chẽ.
- Quản lý hành chính nhà nước không có sự tách biệt tuyệt đối về mặt XH giữa người quản lý và người bị quản lý.
- Quản lý hành chính nhà nước là hoạt động không vụ lợi.
- Quản lý hành chính nhà nước mang tính chất nhân đạo.
Trình bày vai trò của quản lý hành chính nhà nước đối với sự phát triển của XH? Bài 1)
Vai trò của quản lý hành chính nhà nước đối với sự phát triển của XH:

- Góp phần quan trọng trong việc hiện thực hóa chủ trương, đường lối chính trị.
Đường lối chính trị của Đảng được thể chế hóa vào trong các văn bản pháp luật, chính sách của Nhà nước. Chính sách, pháp luật của Nhà nước là các quy định cụ thể,
thể hiện và là cơ sở để triển khai quan điểm, đường lối của Đảng vào thực tiễn cuộc sống. Thông qua việc sử dụng chính sách, pháp luật để tổ chức triển khai các hoạt động
quản lý đối với xã hội, quản lý hành chính nhà nước góp phần hiện thực hóa quan điếm, đường lối chính trị của Đảng.
- Định hướng, dẫn dắt sự phát triển kinh tế - xã hội thông qua hệ thống pháp luật và chính sách của Nhà nước.
Để cho hoạt động kinh tế - xã hội phát triển theo đúng mục tiêu, các cơ quan hành chính nhà nước quản lý vĩ mô đối với các đơn vị, tổ chức. Những định hướng lớn, mục tiêu
phát triển của đất nước trong mỗi giai đoạn phát triển sẽ được thể hiện trong các chính sách, pháp luật của Nhà nước. Thông qua sự tác động các công cụ quản lý như pháp luật, kế
hoạch, chính sách lên các quan hệ xã hội, các cơ quan quản lý hành chính nhà nước chủ động dự kiến những mục tiêu và phương hướng thực hiện mục tiêu phát triển của đất nước.
Làm như vậy sẽ hướng các hoạt động kinh tế - xã hội vận hành để đạt được những mục tiêu phát triển mà Nhà nước đã đặt ra.
- Điều hành xã hội, điều chỉnh các mối quan hệ xã hội.
Trong hoạt động quản lý của Nhà nước đối với xã hội, vai trò tổ chức, điều hành xã hội thuộc về quyền hành pháp do các cơ quan quản lý hành chính nhà nước thực
hiện. Hoạt động quản lý hành chính nhà nước có vai trò điều hành các quá trình kinh tế - xã hội, điều chỉnh, điều hòa các quan hệ xã hội nhằm hướng tới sự phát triển ổn
định, hài hòa của xã hội.
- Hỗ trợ, duy trì và thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
Trong quá trình tham gia hoạt động kinh tế - xã hội, các chủ thể có năng lực và điều kiện khác nhau nên hiệu quả hoạt động thu được cũng khác nhau. Thông qua các
chính sách ưu tiên phát triển trong một số lĩnh vực, đối với một số đối tượng, các cơ quan quản lý hành chính nhà nước hỗ trợ kinh tế - xã hội phát triển hài hòa.
Hoạt động QLHCNN còn có vai trò duy trì sự phát triển của xã hội thông qua việc tạo môi trường phát triển cho các hoạt động kinh tế - xã hội.
Thông qua hoạt động quản lý hành chính, nhà nước tạo động lực thúc đẩy hoạt động kinh tế - xã hội có hiệu quả của các chủ thể.
- Trọng tài, giải quyết các mâu thuẫn ở tầm vĩ mô.
Trong quá trình tham gia vào các hoạt động kinh tế - xã hội, các chủ thể có thể có những mâu thuẫn không thể tự điều hòa, giải quyết được. Chẳng hạn, những tranh
chấp trong thực hiện các hợp đồng kinh tế - xã hội; vì lợi nhuận vi phạm các quy định trong các hợp đồng kinh tế - xã hội. Trong những trường hợp như vậy, các cơ quan
quản lý hành chính nhà nước có thâm quyền sử dụng pháp luật để giải quyết các tranh châp, bảo vệ quyên và lợi ích hợp pháp của các chủ thể.
Câu hỏi: A/C hiểu thế nào về quản lý, quản lý nhà nước, quản lý hành chính nhà nước? Vai trò của hoạt động quản lý hành chính Nhà nước. Để hoạt động
quản lý hành chính nhà nước đạt hiệu quả cần thực hiện những giải pháp nào?
Trả lời:
* Khái niệm quản lý: Quản lý là sự tác động có định hướng và tổ chức của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý bằng các phương thức nhất định để đạt tới mục tiêu
nhất định.
* Khái niệm quản lý nhà nước: Quản lý nhà nước là hoạt động của các cơ quan nhà nước nhằm thực thi quyền lực nhà nước (lập pháp, hành pháp, tư pháp) trên tất
cả các lĩnh vực đời sống xã hội với mục tiêu phục vụ lợi ích chung của cả cộng đồng, duy trì ổn định, an ninh trật tự và thúc đẩy xã hội phát triển.
* Khái niệm quản lý hành chính nhà nước: Quản lý HC nhà nước là hoạt động của các cơ quan HC nhà nước nhằm thực thi quyền hành pháp trên tất cả các lĩnh

vực đời sống xã hội với mục tiêu phục vụ lợi ích chung của cả cộng đồng, duy trì ổn định, an ninh trật tự và thúc đẩy xã hội phát triển.
* Vai trò của hoạt động quản lý hành chính Nhà nước đối với sự phát triển của xã hội:
- Góp phần quan trọng trong việc hiện thực hóa chủ trương, đường lối chính trị.
Đường lối chính trị của Đảng được thể chế hóa vào trong các văn bản pl, chính sách của NN. Chính sách, pl của NN là các quy định cụ thể, thể hiện và là cơ sở để triển
khai quan điểm, đường lối của Đảng vào thực tiễn cuộc sống. Thông qua việc sử dụng chính sách, pl để tổ chức triển khai các hđ quản lý đối với xh, quản lý hành chính NN góp
phần hiện thực hóa quan điểm, đường lối chính trị của Đảng.
- Đinh hướng, dẫn dắt sự phát triển kinh tế - xã hội thông qua hệ thống pl và chính sách của NN.
Để cho hđ kt - xh phát triển theo đúng mục tiêu, các cơ quan hc NN quản lý vĩ mô đối với các đơn vị, tổ chức. Những định hướng, mục tiêu phát triển của Đất nước
trong mỗi giai đoạn phát triển sẽ được thể hiện trong các chính sách, pl của NN. Thông qua sự tác động các công cụ quản lý như pl, kế hoạch, chính sách lên các quan hệ xh, các
cơ quan quản lý hc NN chủ động dự kiến những mục tiêu và phương hướng thực hiện mục tiêu phát triển của ĐN. Làm như vậy sẽ hướng các hoạt động kinh tế - xã hội vận
hành để đạt được những mục tiêu phát triển mà NN đã đặt ra.
- Điều hành xã hội, điều chỉnh các mối quan hệ xã hội.
Trong hoạt động quản lý của NN đối với XH, vai trò tổ chức, điều hành xh thuộc về quyền hành pháp do các cơ quan quản lý NN thực hiện. Hoạt động quản lý hc NN
có vai trò điều hành các quá trình KT - XH, điều chỉnh, điều hòa các quan hệ xã hội nhằm hướng tới sự phát triển ổn định, hài hòa của xh.
- Hỗ trợ, duy trì và thúc đẩy sự phát triển của xh.
Trong quá trình tham gia hoạt động kt - xh, các chủ thể có năng lực và điều kiện khác nhau nên hiệu quả hoạt động thu được cũng khác nhau. Thông qua các chính sách
ưu tiên phát triển trong một số lĩnh vực, đối với một số đối tượng, các cơ quan quản lý hc NN hỗ trợ KT - XH phát triển hài hòa.
Hoạt động quản lý hc NN còn có vai trò duy trì sự phát triển của xh thông qua việc tạo môi trường phát triển cho các hđ kt - xh. Môi trường chính trị ổn định giúp các
cá nhân, tổ chức trong xã hội có nhiều cơ hội tham gia vào các quan hệ kt - xh. Môi trường pháp lý thuận lợi sẽ giúp cho các chủ thể kt - xh chủ động lựa chọn công việc hợp
pháp theo năng lực, sở trường của mình. Đồng thời, nó cũng tạo nên sự minh bạch, công khai giữa các chủ thể với nhau và với NN. Môi trường kt thích ứng không làm biến
dạng các quy luật của nền kttt, tạo điều kiện cho các chủ thể trong xh hđ. Môi trường văn hóa lành mạnh sẽ tạo sự đồng thuận cao trong tư duy về những giá trị chung của xh, từ
đó giúp họ có hành động đúng để đạt được mục tiêu.
Thông qua hoạt động quản lý hc, NN tạo động lực thúc đẩy hoạt động kt - xh có hiệu quả của các chủ thể. NN khuyến khích các chủ thể bằng những lợi ích vật chất và
tinh thần thông qua các chính sách kt - xh. Các chính sách kt - xh đó có thể là chính sách cho thuê mặt bằng với giá ưu đãi để khuyến khích phát triển kt làng nghề, biểu dương
việc lựa chọn nguyên liệu sạch để sản xuất sản phẩm, ưu tiên ứng dụng rộng rãi những thành tựu khcn mới vào quá trình chế tạo sản phẩm để đạt năng suất lđ cao, khuyến khích
mở rộng thị trường, điều tiết tiêu dùng sản phẩm và dịch vụ một cách hợp lý...
5


- Trọng tài, giải quyết các mâu thuẫn ở tầm vĩ mô.

Trong quá trình tham gia vào các hoạt động kt - xh, các chủ thể có thể có những mâu thuẫn không thể tự điều hòa, giải quyết được. Chẳng hạn, những tranh chấp trong
việc thực hiện các hợp đồng kt - xh; vì lợi nhuận vi phạm các quy định trong các hợp đồng kt - xh. Trong những trường hợp như vậy, các cơ quan quản lý hc NN có thẩm quyền
sử dụng pl để giải quyết các tranh chấp, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể.
* Những giải pháp để nâng cao hoạt động quản lý hành chính nhà nước
Hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo đảm tính khoa học, đồng bộ đề cao tính độc lập, khách quan, đảm bảo vận hành có hiệu quả
Tăng cường công tác tuyên truyền trong nhân dân để nâng cao nhận thức
Cơ cấu lại bộ máy hành chính gọn gàng có phân công, phân cấp cụ thể rõ ràng
Xây dựng đội ngũ CB,CC có năng lực, phẩm chất đạo đức, mọi cán bộ, đảng viên phải gương mẫu thực hiện và trực tiếp tham gia đấu tranh phòng chống tham nhũng,
lãng phí. Thực hiện chế đọ công khai, minh bạch về tài chính công
Phát huy dân chủ, vận động người dân tham gia thực hiện
Đẩy mạnh công tác kiểm tra giám sát
Đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là thủ tục hành chính; giảm mạnh và bãi bỏ các thủ tục hành chính gây phiền hà cho nhân dân.
Tăng cường lãnh đạo của cấp ủy Đảng
Phối hợp các ngành đoàn thể cùng tham gia thực hiện, thường xuyên tổ chức tuyên truyền trong hội viên các đoàn thể, kịp thời phản ánh với nhà nước để có biện pháp
giải quyết
Câu : Tại sao nói “Quản lý hành chính nhà nước là hoạt động thực thi quyền hành pháp”? Anh (chị) hãy giải thích và cho ví dụ minh họa?
1.
Khái niệm
a) Quản lý: Là sự tác động có định hướng và tổ chức của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý bằng các phương thức nhất định để đạt tới những mục tiêu nhất
định.
b) Quản lý nhà nước là hoạt động thực thi quyền lực nhà nước do các cơ quan nhà nước tiến hành đối với tất cả mọi cá nhân và các tổ chức trong xã hội, trên tất cả
các mặt của đời sống xã hội bắng cách sử dụng quyền lực nhà nước có tính cưỡng chế đơn phương nhằm mục tiêu phục vụ lợi ích chung của cả cộng đồng, duy trì ổn định, an
ninh trật tự và thúc đẩy xã hội phát triển theo một định hướng thống nhất của nhà nước.
c) Quản lý hành chính nhà nước là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực pháp luật nhà nước đối với các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của
công dân, do các cơ quan trong hệ thống hành pháp từ trung ương đến cơ sở tiến hành để thực hiện chức năng và nhiệm vụ của nhà nước, phát triển các mối quan hệ xã hội, duy
trì trật tự, an ninh, thỏa mãn các nhu cầu hợp pháp của công dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Quản lý hành chính nhà nước là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực pháp luật nhà nước đối với các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của
con người để duy trì và phát triển các mối quan hệ xã hội và trật tự pháp luật nhằm thực hiện những chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước, do các cơ quan trong hệ thông
quản lý hành chính từ Chính phủ ở Trung ương xuống Uỷ ban nhân dân các cấp ở địa phương tiên hành.
- Chính phủ với tư cách là cơ quan hành pháp cao nhất (cơ quan chấp hành của Quốc hội) thực hiện quyền hành pháp cao nhất đối với toàn dân, toàn xã hội.

Nhưng, Chính phủ thực hiện chức năng của mình thông qua hệ thống thể chế hành chính của nền hành chính nhà nước cao nhất. Quản lý hành chính nhà nước là thực thi
quyền hành pháp, nó phục tùng và phục vụ trực tiếp quyền hành pháp. Quản lý hành chính nhà nước là yếu tố đặc trưng của hoạt động thực thi quyền hành pháp.
- Quản lý hành chính nhà nước là hoạt động mang tính dưới luật: Tính dưới luật thể hiện ở chỗ bản thân hoạt động quản lý là hoạt động chấp hành pháp luật và
điều hành trên cơ sở luật. Các quyết định ban hành trong hoạt động quản lý nhà nước phải phù hợp với pháp luật và các văn bản của các cơ quan nhà nước cấp trên, nếu mâu
thuẫn sẽ bịđình chỉ và bãi bỏ.
- Nội dung của quản lý hành chính nhà nước gồm các hoạt động: Hoạt động lập quy hành chính; hoạt động ban hành và tổ chức thực hiện các quyết định hành
chính; hoạt động kiểm tra, đánh giá; hoạt động cưỡng chế hành chính
d) Mối quan hệ giữa quản lý hành chính nhà nước và quản lý nhà nước:
Hoạt động quản lý nhà nước là hoạt động có phạm vi rộng, trong khi hoạt động quản lý hành chính nhà nước là hoạt động có phạm vi hẹp hơn (chỉ trong lĩnh vực
hành chính, chủ thể, phạm vi, đối tượng…); hoạt động quản lý nhà nước do cơ quan nhà nước tiến hành trong khi đó, hoạt động quản lý hành chính nhà nước do cơ quan hành
chính nhà nước thực hiện. Quản lý nhà nước diễn ra trên lĩnh vực lập pháp, hành pháp, tư pháp trong khi đó quản lý hành chính là nước chỉ là hoạt động thực thi quyền hành
pháp.
2. Giải thích “Quản lý hành chính nhà nước là hoạt động thực thi quyền hành pháp”
a) Cơ quan hành chính nhà nước phục vụ trực tiếp quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân, do đó thực thi quyền hành pháp. Trong hệ thống các cơ quan Nhà
nước thì hệ thống các cơ quan hành chính là nơi giải quyết phần lớn các yêu cầu của nhân dân trong phần lớn các lĩnh vực của đời sống kinh tế-văn hóa-xã hội, an ninh, quốc
phòng. Phần đông người dân liên hệ với các cơ quan hành chính thông qua việc giải quyết thủ tục hành chính cũng như những quyền khác (khiếu nại, tố cáo…)
b) Quyền hành pháp là một trong ba quyền của quyền lực nhà nước: lập pháp, hành pháp, tư pháp. Quyền hành pháp là việc tổ chức, hướng dẫn thực thi pháp
luật, đưa pháp luật vào đời sống. Quyền hành pháp tức là việc chấp hành và điều hành, trong đó cơ quan hành pháp chấp hành các chủ trương, chính sách, pháp luật của cơ
quan lập pháp để điều hành, đưa các chủ trương, chính sách pháp luật vào cuộc sống và trực tiếp giải quyết các vấn đề phát sinh từ thực tiễn liên quan đến người dân.
c) Quyền hành pháp bao gồm quyền lập quy và quyền hành chính
- Quyền lập quy: Là quyền xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật dưới luật để điều hành.
Các cơ quan quản lý hành chính nhà nước có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật dưới luật để cụ thể hóa quy định pháp luật do cơ quan lập pháp ban
hành. Hoạt động lập quy hành chính tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động quản lý, điều hành của các cơ quan quản lý hành chính nhà nước.
- Quyền hành chính: Là quyền tổ chức, quản lý điều hành giải quyết các mối quan hệ phát sinh trong quản lý hành chính nhà nước trên các lĩnh vực của đời sống xã
hội dựa trên quy định của pháp luật, bao gồm: các hoạt động ban hành và tổ chức thực hiện các quyết định hành chính; hoạt động kiểm tra, đánh giá; hoạt động cưỡng chế hành
chính. Trong đó:
+ Hoạt động ban hành và tổ chức thực hiện các quyết định hành chính giúp hệ thống hành chính vận hành và phát triển theo yêu cầu chung của xã hội, đồng thời,
duy trì sự vận động và phát triển của các đối tượng tham gia vào quá trình kinh tế, xã hội theo mục tiêu quản lý đã định trước.
+ Hoạt động kiểm tra, đánh giá: trong quá trình quản lý, điều hành hành chính, các cơ quan quản lý hành chính nhà nước phải thực hiện kiểm tra và đánh giá hiệu
quả hoạt động của các đối tượng quản lý. Việc kiểm tra và đánh giá hiệu quả hoạt động phải được tiến hành thường xuyên đối với mọi mặt hoạt động của đối tượng quản lý.

Thực hiện tốt hoạt động này sẽ đảm bảo cho hoạt động của các đối tượng quản lý được thực hiện theo đúng quy định, đồng thời phát hiện kịp thời những sai lệch, vi phạm để
có biện pháp xử lý và khắc phục hậu quả. Kiểm tra, đánh giá là biện pháp bảo đảm hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các đối tượng quản lý, góp phần vào sự ổn định và phát
triển bền vững của xã hội.
+ Hoạt động cưỡng chế hành chính: trong quá trình điều hành, nhiều trường hợp đề các đối tượng quản lý chấp hành các quy định của pháp luật, các cơ quan quản lý
hành chính nhà nước phải tiến hành cưỡng chế hành chính.
- Quyền lập quy và quyền hành chính có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó:
+ Muốn cho hoạt động quản lý hành chính nhà nước đạt hiệu quả, các cơ quan quản lý hành chính nhà nước phải thực hiện tốt cả 2 quyền lập quy và quyền hành
chính.
+ Quyền lập quy sẽ ảnh hưởng đến quyền hành chính, là căn cứ, tiền đề, công cụ pháp lý cho quyền hành chính
+ Quyền hành chính tác động ngược trở lại đến quyền lập quy, là sự cụ thể hóa quyền lập quy vào thực tiễn; muốn lập quy tốt phải căn cứ vào thực tiễn, dựa trên
thực tiễn; quyền hành chính là thước đo của quyền lập quy, quyền hạn quản lý đến đâu thì việc xây dựng quy định đến đó.
Câu : Phân tích Quản lý hành chính nhà nước là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực nhà nước. Cho ví dụ minh họa.
1. Khái niệm
Quản lý hành chính nhà nước là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực pháp luật nhà nước đối với các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của công
dân, do các cơ quan trong hệ thống hành pháp từ trung ương đến cơ sở tiến hành để thực hiện chức năng và nhiệm vụ của nhà nước, phát triển các mối quan hệ xã hội, duy trì
trật tự, an ninh, thỏa mãn các nhu cầu hợp pháp của công dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Quản lý hành chính nhà nước có một số đặc điểm sau đây:
- Quản lý hành chính nhà nước là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực pháp luật nhà nước đối với các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của
con người để duy trì và phát triển các mối quan hệ xã hội và trật tự pháp luật nhằm thực hiện những chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước, do các cơ quan trong hệ thông
quản lý hành chính từ Chính phủ ở Trung ương xuống Uỷ ban nhân dân các cấp ở địa phương tiên hành.
- Chính phủ với tư cách là cơ quan hành pháp cao nhất (cơ quan chấp hành của Quốc hội) thực hiện quyền hành pháp cao nhất đối với toàn dân, toàn xã hội.
Nhưng, Chính phủ thực hiện chức năng của mình thông qua hệ thống thể chế hành chính của nền hành chính nhà nước cao nhất. Quản lý hành chính nhà nước là thực thi
quyền hành pháp, nó phục tùng và phục vụ trực tiếp quyền hành pháp. Quản lý hành chính nhà nước là yếu tố đặc trưng của hoạt động thực thi quyền hành pháp.
- Quản lý hành chính nhà nước là hoạt động mang tính dưới luật: Tính dưới luật thể hiện ở chỗ bản thân hoạt động quản lý là hoạt động chấp hành pháp luật và
6


điều hành trên cơ sở luật. Các quyết định ban hành trong hoạt động quản lý nhà nước phải phù hợp với pháp luật và các văn bản của các cơ quan nhà nước cấp trên, nếu mâu
thuẫn sẽ bịđình chỉ và bãi bỏ.
Nội dung của quản lý hành chính nhà nước gồm các hoạt động: Hoạt động lập quy hành chính; hoạt động ban hành và tổ chức thực hiện các quyết định hành

chính; hoạt động kiểm tra, đánh giá; hoạt động cưỡng chế hành chính
Mối quan hệ giữa quản lý hành chính nhà nước và quản lý nhà nước:
Hoạt động quản lý nhà nước là hoạt động có phạm vi rộng, trong khi hoạt động quản lý hành chính nhà nước là hoạt động có phạm vi hẹp hơn (chỉ trong lĩnh vực
hành chính, chủ thể, phạm vi, đối tượng…); hoạt động quản lý nhà nước do cơ quan nhà nước tiến hành trong khi đó, hoạt động quản lý hành chính nhà nước do cơ quan hành
chính nhà nước thực hiện. Quản lý nhà nước diễn ra trên lĩnh vực lập pháp, hành pháp, tư pháp trong khi đó quản lý hành chính là nước chỉ là hoạt động thực thi quyền hành
pháp.
2. Phân tích: Quản lý hành chính nhà nước là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực nhà nước
a) Quản lý hành chính nhà nước là sự tác động có tổ chức:
- Quản lý hành chính Nhà nước thiết lập các mối quan hệ xã hội giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân với tổ chức, giữa tổ chức với tổ chức. Trong mối quan hệ này đã
xác định vị trí, trách nhiệm của từng thành viên trong hệ thống.
Ví dụ: trong hoạt động của Ủy ban nhân dân thì đó là sự thiết lập mối quan hệ giữa Ủy ban nhân dân với các tổ chức, cá nhân (quan hệ giữa chủ thể quản lý với đối
tượng quản lý); sự thiết lập giữa Ủy ban nhân dân với cấp trên, cấp dưới (mối quan hệ quản lý trong cùng hệ thống); mối quan hệ giữa Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân
với các phòng, ban trong Ủy ban nhân dân (mối quan hệ nội bộ).
- Trong quản lý hành chính nhà nước: Có sự liên kết, phối hợp giữa các cơ quan hành chính nhà nước với nhau, giữa cơ quan hành chính nhà nước với cơ quan nhà
nước khác, giữa cơ quan hành chính nhà nước với tổ chức, cá nhân. Ví dụ như: Thủ tục liên thông cấp giấy khai sinh, hộ khẩu và bảo hiểm xã hội được thực hiện bởi sự phối kết
hợp của 03 hệ thống cơ quan là Tư pháp, Công an và Bảo hiểm xã hội
- Quản lý hành chính nhà nước đảm bảo tính thứ bậc. Là sự tác động mang tính trật tự, tính thứ bậc hành chính điều này đòi hỏi địa phương phải phục tùng Trung
ương, cấp dưới phục tùng cấp trên, nhân viên phục tùng thủ trưởng và hoạt động trên nguyên tắc mệnh lệnh phục tùng. Nếu ở đâu đó có tình trạng “phép vua thua lệ làng” cục
bộ địa phương thì sẽ phá vỡ tính trật tự thứ bậc trong quản lý hành chính nhà nước.
Ví dụ: Cuối tháng 12 năm 2011, Nghị quyết số 23/2013/NQ-HĐND của Hội đồng nhân dân Thành phố Đà Nẵng được thông qua có đề cập “tạm dừng giải quyết
đăng ký thường trú mới vào nội thành đối với các trường hợp chỗ ở là nhà thuê mượn, ở nhờ mà không có nghề nghiệp hoặc có nhiều tiền án tiền sự”; “học sinh chưa đủ tuổi
theo quy định đi xe máy thì xử phạt nặng và tạm giữ xe 60 ngày”; “tạm dừng đăng ký mới với cơ sở kinh doanh dịch vụ cầm đồ” quy định này trái với quy định của Luật Cư trú
đã “tước quyền công dân” không đảm bảo tính thứ bậc cuối cùng đã bị bãi bỏ.
- Trong quản lý hành chính Nhà nước, Hệ thống các cơ quan quản lý hành chính nhà nước được tổ chức gọn nhẹ phải đảm bảo không có cơ quan trùng lắp về chức
năng, nhiệm vụ; không có những bộ phận trung gian không cần thiết; có đội ngũ cán bộ, công chức đủ về số lượng và đảm bảo chất lượng.
Trước năm 1986 các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ là 73 cơ quan đến năm 2014 còn 43 cơ quan để làm được điều này chúng ta đã tiến hành giảm
các cơ quan không cần thiết đồng thời với việc giảm con người bằng cách giảm biên chế, khoán ngân sách, nâng cao chất lượng thi tuyển cán bộ, công chức.
b) Quản lý hành chính nhà nước là hoạt động có sự điều chỉnh
- Điều chỉnh là sự sắp xếp, thay đổi của chủ thể quản lý hành chính nhà nước nhưng phải tạo ra sự phù hợp, cân đối giữa chủ thể và khách thể, giữa các mặt hoạt
động của quá trình xã hội và hành vi của con người. Ví dụ: việc điều chỉnh mức lương.

- Sự cần thiết phải điều chỉnh: Do quản lý hành chính nhà nước là quá trình luôn năng động và biến đổi vì vậy có những quy định quản lý hành chính nhà nước chỉ
phù hợp với giai đoạn này mà không phù hợp với giai đoạn khác do đó phải điều chỉnh cho phù hợp, nếu không kịp thời điều chỉnh khi cần thiết sẽ làm giảm hiệu lực, hiệu quả
quản lý hành chính nhà nước.
Ví dụ: quy định về mức lương tối thiểu chung từ năm 2000 đến nay đã 7 lần thay đổi từ 180.000 đồng/tháng (năm 2000) lên 1.210.000 đồng/tháng (tháng 5 năm
2016) để phù hợp với tình hình kinh tế và đáp ứng nhu cầu của công chức, viên chức, người lao động.
- Đối tượng điều chỉnh: Điều chỉnh chủ trương, chính sách, quyết định quản lý hành chính nhà nước (Nghị định 171/2013/NĐ-CP thay thế Nghị định 34/2010/NĐCP và Nghị định 71/2012/NĐ-CP của Chính phủ Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ); tổ chức bộ máy, cơ chế hoạt động, nhân sự (điều
chỉnh đội ngũ cán bộ, công chức bằng cách giảm biên chế, khoán biên chế, nâng cao chất lượng thi tuyển công chức).
- Hình thức điều chỉnh: Điều chỉnh bằng các quyết định quản lý hành chính nhà nước.
- Mục đích điều chỉnh: để khai thông ách tắc trong vận động xã hội, khai thác tiềm năng của đất nước, phát huy năng lực xã hội,… nhằm nâng cao nâng lực, hiệu
lực, hiệu quả quản lý hành chính nhà nước.
- Phạm vi điều chỉnh: là những hoạt động quản lý vĩ mô, hoạt động quản lý vi mô.
c) Hoạt động quản lý hành chính có tổ chức và điều chỉnh bằng quản lực nhà nước
- Quyền lực nhà nước: là sực mạnh vật chất của nhà nước được biểu hiện bằng hệ thống pháp luật, bằng công cụ, phương tiện chuyên chính của nhà nước như quân
đội, tòa án, trại giam, công an, cảnh sát.
- Các cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền sử dụng quyền lực nhà nước để quản lý xã hội, để buộc đối tượng phải phục tùng mệnh lệnh.
- Mối quan hệ giữa quản lý hành chính nhà nước với quyền lực nhà nước: Quản lý hành chính nhà nước và quyền lực nhà nước có mối quan hệ chặt chẽ và biện
chứng
+ Quản lý hành chính nhà nước mà không được trao quyền lực nhà nước đó là sự quản lý hình thức vì không có sức mạnh vật chất buộc đối tượng phải phục tùng.
+ Được trao quyền lực nhưng không có năng lực quản lý hành chính thì không thể thực hiện chức năng quản lý hành chính.
+ Quá trình quản lý hành chính nhà nước là quá trình các cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền sử dụng đúng đắn chính xác quyền lực nhà nước được trao và
ngược lại.
Anh (chị) hãy phân tích chủ thể, khách thể Quản lý hành chính nhà nước? Cho ví dụ minh họa.
1. Khái niệm, đặc điểm
Quản lý hành chính nhà nước là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực pháp luật nhà nước đối với các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của
công dân, do các cơ quan trong hệ thống hành pháp từ trung ương đến cơ sở tiến hành để thực hiện chức năng và nhiệm vụ của nhà nước, phát triển các mối quan hệ xã hội, duy
trì trật tự, an ninh, thỏa mãn các nhu cầu hợp pháp của công dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Quản lý hành chính nhà nước có một số đặc điểm sau đây:
- Quản lý hành chính nhà nước là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực pháp luật nhà nước đối với các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của
con người để duy trì và phát triển các mối quan hệ xã hội và trật tự pháp luật nhằm thực hiện những chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước, do các cơ quan trong hệ thông
quản lý hành chính từ Chính phủ ở Trung ương xuống Uỷ ban nhân dân các cấp ở địa phương tiên hành.

- Chính phủ với tư cách là cơ quan hành pháp cao nhất (cơ quan chấp hành của Quốc hội) thực hiện quyền hành pháp cao nhất đối với toàn dân, toàn xã hội.
Nhưng, Chính phủ thực hiện chức năng của mình thông qua hệ thống thể chế hành chính của nền hành chính nhà nước cao nhất. Quản lý hành chính nhà nước là thực thi
quyền hành pháp, nó phục tùng và phục vụ trực tiếp quyền hành pháp. Quản lý hành chính nhà nước là yếu tố đặc trưng của hoạt động thực thi quyền hành pháp.
- Quản lý hành chính nhà nước là hoạt động mang tính dưới luật: Tính dưới luật thể hiện ở chỗ bản thân hoạt động quản lý là hoạt động chấp hành pháp luật và
điều hành trên cơ sở luật. Các quyết định ban hành trong hoạt động quản lý nhà nước phải phù hợp với pháp luật và các văn bản của các cơ quan nhà nước cấp trên, nếu mâu
thuẫn sẽ bịđình chỉ và bãi bỏ.
Nội dung của quản lý hành chính nhà nước gồm các hoạt động: Hoạt động lập quy hành chính; hoạt động ban hành và tổ chức thực hiện các quyết định hành
chính; hoạt động kiểm tra, đánh giá; hoạt động cưỡng chế hành chính
Mối quan hệ giữa quản lý hành chính nhà nước và quản lý nhà nước:
Hoạt động quản lý nhà nước là hoạt động có phạm vi rộng, trong khi hoạt động quản lý hành chính nhà nước là hoạt động có phạm vi hẹp hơn (chỉ trong lĩnh vực
hành chính, chủ thể, phạm vi, đối tượng…); hoạt động quản lý nhà nước do cơ quan nhà nước tiến hành trong khi đó, hoạt động quản lý hành chính nhà nước do cơ quan hành
chính nhà nước thực hiện. Quản lý nhà nước diễn ra trên lĩnh vực lập pháp, hành pháp, tư pháp trong khi đó quản lý hành chính là nước chỉ là hoạt động thực thi quyền hành
pháp.
2. Chủ thể quản lý hành chính nhà nước:
Chủ thể quản lý hành chính nhà nước là các cơ quan hành chính nhà nước; cán bộ, công chức làm việc trong các cơ quan hành chính nhà nước (là chủ thể chủ yếu,
đặc trưng); cá nhân tổ chức được ủy quyền đối với các hoạt động cụ thể do pháp luật quy định (chủ thể hạn hữu).
Phân loại:
- Cơ quan hành chính nhà nước, gồm cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chung (Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp) và cơ quan hành chính nhà nước có
thẩm quyền riêng, thẩm quyền chuyên ngành (các Bộ, các Sở, ban, ngành)
- Cán bộ, công chức, gồm: cán bộ, công chức lãnh đạo quản lý (giám đốc, chủ tịch Ủy ban nhân dân, Trưởng Phó các phòng ban…) và cán bộ, công chức chuyên
môn (công chức Tư pháp-Hộ tịch…)
- Các tổ chức, cá nhân được nhà nước ủy quyền: Chẵng hạn như lực lượng thanh niên xung phong điều khiển giao thông tại các ngã tư….
7


Đặc điểm:
- Các chủ thể quản lý hành chính nhà nước có tính quyền lực nhà nước
- Quản lý chủ yếu thông qua các quyết định quản lý hành chính và hành vi hành chính.
3. Khách thể quản lý hành chính nhà nước
Khách thể quản lý hành chính Nhà nước là những gì mà hoạt động quản lý này hướng tới, tác động tới, bao gồm trật tự quản lý trên trên tất cả các lĩnh vực của đời

sống kinh tế-xã hội; hoạt động của các cơ quan tổ chức và các hành vi, hoạt động của con người được pháp luật điều chỉnh (hành động và không hành động).
Đặc điểm:
- Đa đạng, có nhiều loại khác nhau, mỗi loại có đặc điểm riêng, phạm vi của khách thể quản lý rất rộng, được chia thành nhiều loại, mỗi loại có đặc điểm riêng. phân
loại khách thể để có phương pháp quản lý riêng cho từng loại.
- Luôn luôn vận động, có khả năng tự điều chỉnh để thích nghi với hoàn cảnh và môi trường. Khách thể quản lý nhà nước hay còn gọi là thực trạng xã hội luôn luôn
vận động. Muốn quản lý được thì phải hiểu được khách thể.
4. Ví dụ liên hệ: Công tác quản lý Nhà nước về lĩnh vực quốc tịch
a) Chủ thể quản lý nhà nước trong lĩnh vực này:
- Các cơ quan cao nhất ở Trung ương: Quản lý chung, tổng thể, mang tính chính sách, định hướng. Gồm
+ Chính phủ là cơ quan hành chính cao nhất
+ Bộ Tư pháp là cơ quan quản lý chuyên ngành trong lĩnh vực quốc tịch
+ Ngoài ra còn có Chủ tịch nước (liên quan đến quyết định nhập, tước, cho thôi quốc tịch).
- Các cơ quan ở địa phương:
+ Ủy ban nhân dân Thành phố là cơ quan hành chính của Thành phố, quản lý chung về công tác quốc tịch trên địa bàn Thành phố.
+ Sở Tư pháp Thành phố Hồ Chí Minh: Là cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân Thành phố, thực hiện chức năng tham mưu cho Ủy ban nhân dân Thành phố
quản lý nhà nước về công tác quốc tịch; thực hiện một số nhiệm vụ quản lý trực tiếp trong công tác quốc tịch (các thủ tục nhập, thôi, từ bỏ quốc tịch) và thực hiện một số nhiệm
vụ khác theo sự ủy quyền, phân công của Ủy ban nhân dân Thành phố
+ Công chức Sở Tư pháp Thành phố Hồ Chí Minh gồm: Giám đốc Sở, Phó Giám đốc phụ trách, Trưởng các phòng chuyên môn về công tác này như: Phòng Hộ tịch,
quốc tịch, Bộ phận Tiếp nhận và trả kết quả thuộc Văn phòng Sở, công chức trực tiếp nhận, giải quyết và trả kết quả hồ sơ cho người nhân tại các bộ phận Tiếp nhận và trả kết
quả, công chức của Phòng Hộ tịch quốc tịch.
+ Các cơ quan nhà nước ở địa phương theo ngành dọc, trực thuộc Trung ương tham gia vào công tác này như: Các cơ quan công an; Sở ngoại vụ….

8


QUẢN LÝ CBCC CẤP CƠ SỞ
I. TỔNG QUAN VỀ CBCC CẤP CƠ SỞ
1.Khái niệm CBCC cấp cơ sở
Thuật ngữ CBCC cấp cơ sở hay gọi chung là CBCC cơ sở được hiểu theo hai nghĩa:
Theo nghĩa rộng, khi bàn vời người làm việc của nhà nước cấp cơ sở được nhà nước trả mọt khoản nhất định liên quan đến phụ cấp làm việc; chế độ lương, bảo hiểm. với

nghĩa này, ở cấp cơ sở có rất nhiều người và bình quân một xã(xã, phương, thị trấn) có khoảng 200 người. đó là những người làm việc cho chính quyền cấp cơ sở đến những
người tham gia các hoạt động mang tính thường xuyên và không thường xuyên như dân số, phụ nữ, làm việc ở các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội. phj cấp của họ lấy từ
ngân sách nhà nước hoặc có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước.
Theo nghĩa hẹn, đó là thuật ngữ để chỉ những người làm việc cho cơ quan quản lý nhà nước ở cấp cơ sở. Đối tượng này được quy định không quá 25 người cho một cấp cơ
sở. Đó là:
- CB chuyên trách cấp xã bao gồm:
+ Bí thư, phó bí thư Đảng ủy, thường trực đảng ủy cấp xã (không có phó bí thư chuyên trách công tác đảng); bí thư, phó bí thư chi bộ xã (nơi chưa thành lập đảng ủy cấp
xã);
+ Chủ tịch, phó chủ tịch hội đồng nhân dân;
+ Chủ tịch, phó chủ tịch ủy ban nhân dân;
+ Chủ tịch Ủy ban Mặt tổ quốc;
+ Bí thư Đoàn thanh niên Cộng Sản hồ Chí Minh, chủ tịch hội liên hiệp phụ nữ, chủ tịch Hội nông dân và chủ tịch hội cựu chiến binh.
- Công chức xã bao gồm:
+ Trưởng công an (nơi chưa bố trí lượng công an chính quy);
+ Chỉ huy trưởng quân sự;
+ Văn phòng – thống kê;
+ Địa chính – xây dựng;
+ Tài chính – kế toán;
+ Tư pháp – hộ tịch;
+ Văn hóa – xã hội;
- CBi không chuyên trách cấp xã bao gồm:
+ Trưởng ban tổ chức đảng, chủ nhiệm ủy ban kiểm tra đảng, trưởng ban tuyên giáo và một CB văn phòng đảng ủy;
+ Phó trưởng công an xã (nơi chưa bố trí lượng công an chính quy);
+ Phó chỉ huy trưởng quân sự;
+ CB kế hoạch - giao thông – thủy lợi – nông lâm ngư – diêm nghiệp;
+ CB lao động - thương binh và xã hội;
+ CB dân số - gia đình và trẻ em;
+ Thủ quỹ, văn thư, lưu trữ;
+ CB phụ trách đài truyền thanh;
+ CB quản lý nhà văn hóa;

+ Phó chủ tịch ủy ban mặt trận tổ quốc; phó các đoàn thể cấp xã: Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ, Hội nông dân, hội cựu chiến binh;
+ Chủ tịch hội người cao tuổi; chủ tịch hội chữ thập đỏ Việt Nam.
- CB không chuyên trách ở thôn; công an viên ở thôn và bí thư chi bộ, tổ trưởng dân phố ở phường, trị trấn.
Trong giáo trình này, chúng ta chỉ nghiên cứu nhóm CBCC theo nghĩa hẹn.
Điều cần thống nhất xuyên suốt là “CBCC cấp cơ sở” cũng là người lao động làm việc cho nhà nước. Và do đó, họ chịu sự điều chỉnh của các văn bản pháp luật nhà nước
có liên quan đến người lao động nói chung và CBCC nói riêng.
2.Quan điểm của Đảng về CBCC cấp cơ sở.
Xã, phường, thị trấn là đơn vị hành chính cấp cơ sở, trực tiếp tiếp xúc và giải quyết các công việc hàng ngày của nhân dân. Trong hệ thống chính trị của chúng ta, chính
quyền cấp cơ sở có một vị trí rất quan trọng, là cầu nối trực tiếp của hệ thống chính quyền nhà nước với nhân dân, thực hiện hoạt đông quản lý nhà nước trên lĩnh vực kinh tế,
văn hóa, xã hội, an ninh, trật tự,an toàn xã hội ở địa phương theo thẩm quyền được phân cấp, đảm bảo cho các chủ trương, chính sách cua đảng, pháp luật của nhà nước được
triển khai thực hiện tron g cuộc sống.
Đội ngũ CBCC cơ sở có vai trò hết sức quan trọng trong xây dựng và hoàn thiện bộ máy chính quyền cơ sở, trong hoạt động thi hành nhiệm vụ, công vụ. Hiệu lực, hiệu quả
của bộ máy chính quyền cấp xã nói riêng và hệ thống chính trị nói chung, xét đến cùng được quyết định bởi phẩm chất, năng lực và hiệu quả công tác của đội ngũ CBCC cơ sở.
Có thể nói, đây là vấn đề quan trọng đã được Đảng và Nhà nước quan tâm trong suốt quá trình từ khi xây dựng Nhà nước dân chủ nhân dân đến nay. Trong nhiều văn kiện của
Đảng đều khẳng định vai trò của CB nói chung và CB cấp cơ sở nói riêng đối với sự nghiệp cách mạng. Hội nghị trung ương 3 khóa VIII đã khẳng định: CB có vai trò cực kỳ
quan trọng hoặc thúc đẩy hoặc kìm hãm tiến trình đổi mới. CB nói chung có vai trò rất quan trọng, CB cơ sở nói riêng có vị trí nền tảng cơ sở…cơ sở xã phường, thị trấn mạnh
hay yếu một phần quan trọng phụ thuộc vào chất lượng đội ngũ CB xã phường, thị trấn.
CBCC cơ sở góp phần quyết định sự thành bại của trương đường lối và nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước. Không có đội ngũ CBCC cơ sở vững mạnh thì dù đường
lối, chủ trương chính trị có đúng đắng cũng khó biến thành hiện thực. CBCC cơ sở vừa là người trực tiếp đem các chủ trương chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước giải
thích cho nhân dân hiểu rõ và thi hành, vừa là người phản ánh nguyện vọng của quần chúng nhân dân đến với Đảng và Nhà nước để có sự điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung cho đúng
và phù hợp với thực tiễn. Ở khía cạnh này, họ có vai trò là cầu nối giữa Đảng và Nhà nước với quần chúng nhân dân.
CBCC cơ sở có vai trò quan trọng trong quản lý và tổ chức công việc của chính quyền cơ sở. Nhiệm vụ của họ là thực thi công vụ mang tính tự quản theo pháp luật và bảo
toàn tính thống nhất củ thực thi quyền lực nhà nước ở cơ sở thông qua việc hàng ngày có tính chất quản lý, tự quản mọi mặt ở địa phương. Họ còn có vai trò trực tiếp bảo đảm
kỷ cương phép nước tại cơ sở, bảo vệ các quyền tự do dân chủ, quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Thông qua hoạt động của đội ngũ CBCC cơ sở, nhân
dân thể hiện được quyền làm chủ và trực tiếp thực hiện quyền tự quản của mình.
Chính vì đội ngũ CBCC cơ sở có vai trò quan trọng như vậy nên việc xây dựng đội ngũ CBCC cấp cơ sở vững vàng về chính trị, có đạo đức trong sạch về lối sống, có trí
tuệ, kiến thức và trình độ năng lực để thực hiện các nhiệm vụ được giao luôn là mối quan tâm hàng đầu của Đảng và Nhà nước ta. Đây cũng là một trong những nội dung rất
quan trọng của công tác CB. nghị quyết trung ương 5 khóa IX đã nhấn mạnh vai trò quan trọng của hệ thống chính trị và đội ngũ CBCC cơ sở đối với sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa phát triển đất nước. Đầu tư xây dựng đội ngũ CBCC cơ sở có phẩm chất, đạo đức và năng lực ngang tầm sự nghiệp đổi mới mang tính như sự đầu tư cho hạ
tầng cơ trong công tác CB.

3. Hệ thống pháp luật Nhà nước quy định chung vời CBCC và CBCC cơ sở.
a. Hệ thống văn pháp luật nhà nước liên quan đến CBCC nói chung.
- Chiến lược CB của Đảng ban hành kèm theo Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành trung ương khóa VIII.
- Luật CBCC (2008) và Pháp lệnh CB công chức;
- Chính phủ đã ban hành nhiều nghị định, quyết định liên quan đến CBCC trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Nghị định số 114,115,116,và 117 năm 2003 quy định các vấn đề
liên quan đến CBCC cả bốn loại: công chức, viên chức, CB công chức cấp cơ sở và công chức dự bị. Nhiều quyết định của thủ tướng chính phủ liên quan đến nhiều lĩnh vực cụ
thể như đào tạo, bồi dưỡng. Đó là những loại văn bản nhằm triển khai thực hiện pháp luật CBCC sửa đổi năm 2003. Những văn pháp luật quy định mới để thực hiện CBCC sẽ
được ban hành trong đầu năm 2010.
b. Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành trung ương khóa IX đã đề cập đến một cách toàn diện các vấn đề liên quan đến đội ngũ CBCC làm việc ở cơ sở. Đây là
một văn kiện quan trọng đánh giá thực trạng của đội ngũ CBCC cấp cơ sở và xác định tính tất yếu phải đặt đúng vị trí của đội ngũ CBCC cơ sở trong hệ thống chính trị Việt
Nam. Đây cũng là văn kiện cơ bản để sửa đổi pháp lệnh 1998.
- Nghị định 114/200/NĐ-CP cụ thể hóa một số nội dung của pháp lệnh CBCC (1998) đối với những người làm việc ở cáp xã, phương và thị trấn.
Nghị định 121/2003/NĐ-CP quy định cụ thể các loại CBCC cấp cơ sở.
Theo các văn bản pháp luật hiện hành, CBCC cơ sở bao gồm ba nhóm đối tượng:
- CB: CB xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) là công dân Việt Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban
nhân dân, bí thư, phó bí thư đảng ủy, người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội;
- Công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc ủy ban nhân dân cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ
ngân sách nhà nước;
- CB bán chuyên trách.
1. Phân loại CBCC cơ sở
9


CBCC làm việc ở cơ sở, về nguyên tắc có thể phân loại theo các tiêu chí khác nhau như: bằng cấp; ngành nghề; theo cơ chế bầu hay tuyển dụng, v.v..
Theo văn pháp luật hiện hành, CBCC làm việc ở cấp xã được phân thành ba loại;
a. CB chuyên trách
CB chuyên trách là những người được bầu cử để đảm nhận các chức vụ theo nhiệm kỳ. Đó là:
- Bí thư, phó bí thư đảng ủy;
- Chủ tịch, phó chủ tịch hội đồng nhân dân;
- Chủ tịch, phó chủ tịch ủy ban nhân dân;

- Chủ tịch ủy ban mặt trận tổ quốc Việt Nam
- Bí thư Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh
- Chủ tịch hội liên hiệp phụ nữ việt Nam;
- Chủ tịch hội nông dân Việt Nam (áp dụng đối với xã, phường, thị trấn có hoạt động nông, lâm, ngư, diêm nghiệp và có tổ chức hội nông dân Việt Nam);
- Chủ tịch hội cựu chiến binh Việt Nam.
b.CB không chuyên trách
Đây là một nhóm người làm việc giống như những nhóm người được bầu để giữ các vị trí đứng đầu các tổ chức chính trị - xã hội.Nhưng họ đảm nhiệm các vị trí “ cấp
phó”.
Đồng thời, họ cũng là những người làm công việc chuyên môn nhưng không thường xuyên và không được gọi là công chức.
Trong pháp lệnh CBCC 1998 và nghị định 144/2003/NĐ-CP, không có điều khoản nào quy định nhóm người này, nhưng Nghị định 121/2003/NĐ-CP qui định khá chi tiếp
về CB không chuyên trách. Đó là:
- Trưởng ban tổ chức đảng, chủ nhiệm ủy ban kiểm tra Đảng, trưởng ban tuyên giáo và một CB văn phòng Đảng ủy;
- Phó, trưởng công an (nơi chưa bố trí lực lượng công an chính quy)
- Phó, chỉ huy trưởng quân sự;
- CB kế hoạch – giao thông – thủy lợi – nông, lâm, ngư, diêm nghiệp;
- CB lao động – thương binh và xã hội;
- CB dân số - gia đình và trẻ em;
- Thủ quỹ - văn thư – lưu trữ;
- CB phụ trách đài truyền thanh;
- CB quản lý nhà văn hóa;
- Phó chủ tịch uỷ ban mặt trận tổ quốc; phó các đoàn thể cấp xã: Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp phụ nữ, Hội nông dân, Hội cự chiến binh;
- Chủ tịch hội người cao tuổi; Chủ tịch hội chữ thập đỏ Việt Nam.
Ngoài ra còn có CB không chuyên trách ở thôn và tổ dân phố. Họ là;
- Bí thư chi bộ thôn;
- Trưởng thôn;
- Công an viên ở thôn;
- Tổ trưởng dân phố ở phường, thị trấn.
c. Công chức cấp xã:
Đây là nhóm người được tuyển dụng, giao giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc ủy ban nhân dân cấp xã.
Công chức cấp xã đảm nhận các chức danh chuyên môn sau:

- Trưởng công an;
- Chỉ huy trưởng quân sự;
- Văn phòng – thống kê;
- Địa chính- xây dựng – đô thị và môi trường ( đối với phường ,thị trấn) hoặc địa chính –nông nghiệp- xây dựng và môi trường (đối với xã);
- Tài chính – kế toán;
- Tư pháp – hộ tịch;
- Văn hóa – xã hội.
- Trong điều kiện hiện hay, làm việc ở cấp cơ sở còn có một lực lượng lao động đặc biệt.Đó là những “công chức dự bị” của các cấp cao hơn được đưa về làm việc tại cơ
sở.
Ngoài ra còn một lực lượng CBCC về tăng cường cho cơ sở.
II. NỘI DUNG CƠ BẢN QUẢN LÝ CBCC CẤP CƠ SỞ
1. Nguyên tắc chung về quản lý CBCC.
Trong thể chế chính trị Việt Nam, CBCC không chỉ làm việc trong bộ máy Nhà nước mà còn làm việc trong các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội. Mặc khác, vai trò lãnh
đạo toàn diện của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với nhà nước sẽ là những yếu tố quan trọng trong việc thiết lập các nguyên tắc cơ bản để quản lý CBCC nói chung. Một số
nguyên tắc cơ bản sau:
a. Quản lý CBCC phải đặt dưới sự lãnh đạo chung của Đảng.
Quản lý CB công chức phải dựa trên những quan điểm quản lý CB của Đảng Cộng sản Việt Nam. Những quan điểm chủ yếu cần chú ý là:
Phải xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ và văn minh, vững bước lên CNXH. Công tác CB được đổi mới có vai trò quyết định thực hiện thắng lợi mục tiêu đó. Mặt khác, quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, xây dựng bảo vệ tổ quốc là môi trường thực tiễn để rèn luyện, tuyển chọn và đào tạo CB, nâng cao phẩm chất kiến thức, năng lực của đội ngũ CB.
Quán triệt quan điểm giai cấp công nhân của Đảng phát triển truyền thống yêu nước và đoàn kết dân tộc.
Gắn việc xây dựng đội ngũ CB với xây dựng tổ chức và đổi mới, cơ chế chính sách.
Thông qua hoạt động thực tiễn và phong trào cách mạng nhân dân, nâng cao trình độ dân trí để tuyển chọn, giáo dục, bồi dưỡng CB.
Đảng thống nhất lãnh đạo công tác CB và quản lý đội ngũ CB theo nguyên tác tập trung dân chủ, Đồng thời phát huy trách nhiệm của các tổ chức thành viên trong hệ thống
chính trị.
b.Quản lý CBCC là quản lý nguồn nhân lực đặc biệt.
CBCC làm việc trong bộ máy nhà nước; các tổ chức chính trị và chính trị - xã hội là một lực lượng lao động đặc biệt của xã hội. họ là những người làm việc cho Nhà nước
và được quyền sử dụng quyền lợi Nhà nước cũng như nguồn lực của Nhà nước để tiến hành các hoạt động quản lý. Họ đề ra pháp luật và đồng thời là người triển khai tổ chức
thực hiện pháp luật. Do đó, ngoài nguyên tắc phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý CBCC phải tuân thủ một số nguyên tắc khoa học quản lý nguồn nhân lực. Đó là:
- Công bằng, bình đẳng cho tất cả mọi người đối với nền công vụ bao gồm cả vấn đề dân tộc, sắc tộc, tôn giáo, đảng phái, giới tính;

- Cơ hội việc làm như nhau, cả về điều kiện;
- Đánh giá tuyển chọn dựa vào tiêu chí chứ không dựa vào con người;
- Tiền lương phải được xác định trên cơ sở công việc, phải bình đẳng;
- Công chức trong bộ máy nhà nước không chỉ đơn thuần là người làm công cho nhà nước. Chính vì vậy, các quy tắc, quy chế công vụ- công chức không phải nhằm điều
tiết mối quan hệ giữa người lao động (Nhà nước) mà nhằm bảo vệ người công chức khi thực thi vai trò xã hội đặc biệt của họ và đồng thời xác định nhưng tiêu chuẩn nghề
nghiệp họ phải có;
- Các hành vi của CBCC là những hành vi do pháp luật quy định;
- Công khai, dân chủ trong hoạt động quản lý CBCC; tuyển chọn, đề bạt v.v..
c. Dựa vào pháp luật của Nhà nước và các điều lệ của các tổ chức Đảng, các tổ chức chính trị - xã hội.
Trong điều kiện thể chế nhà nước Việt Nam, CBCC làm việc trong các cơ quan nhà nước còn chịu sự điều chỉnh chung của nhiều loại văn bản trong vi phạm pháp luật
khác, đặc biệt nhóm công chức làm việc trong các tổ chức chín trị, chính trị xã hội còn chịu sự điều chỉnh bởi điều lệ của các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội. Đối với nhóm
CBCC trong cơ quan nhà nước, trong những trường hợp nhất định cũng phải tuân thủ những quy định của các tổ chức chính trị hay chính trị- xã hội. Ví dụ, nếu CBCC là đảng
viên Đảng Cộng sản Việt Nam thì còn phải chịu sự quản lý của các tổ chức Đảng theo Điều lệ của Đảng Cộng sản Việt Nam.
d.Quản lý CBCC gắn liền với phát triển đội ngũ cán bô, công chức.
Quản lý CBCC là nhằm phát triển đội ngũ CBCC đáp ứng đòi hỏi của Nhà nước và quản lý xã hội. Quản lý CB công chức phải luôn gắn liền với đào tạo, bồi dưỡng CBCC
và tạo cơ hội để CB công chức được thăng tiến theo chức nghiệp, công trạng.
đ. Quan hệ lao động trong cơ quan nhà nước là loại quan hệ lao động đặc biệt.
Quan hệ lao động trong cơ quan nhà nước là mối quan hệ đặc biệt. Tính đặc biệt này do chính bản chất của cơ quan nhà nước quy định. CBCC trong cơ quan nhà nước vừa
là người sử dụng lao động, vừa là người lao động.
10


Mối quan hệ giữa Nhà nước và CBCC là mối quan hệ rất phức tạp đòi hỏi phải được điều tiết bằng luật pháp, ngay cả những thoả ước mang tính tập thể hoạt động của Nhà
nước cũng phải theo nguyên tắc pháp luật. Nếu các quan hệ đó không được thiết lập trên cơ sở nguyên tắc mang tính pháp lý, công khai, thống nhất, bình đẳng thì không thể
điều hành hoạt động các cơ quan Nhà nước.
Mặt khác, nhiều quy tắc, quy chế được ban hành nhằm bảo vệ tối đa mối quan hệ giữa Nhà nước và CBCC. Ví dụ, việc làm, chế độ phúc lợi. Điều đó nhằm làm cho CBCC
trung thành với Nhà nước hơn.
Tính hai mặt trong mối quan hệ CBCC với Nhà nước, đòi hỏi phải thiết lập luật công vụ một cách cụ thể.
2. Nguyên tắc quản lý CBCC cơ sở
a. Pháp luật quy định nội dung quản lý CBCC cơ sở

Hiện nay, chúng ta chưa ban hành quy định riêng về nội dung quản lý CBCC cấp cơ sở. Về nguyên tắc, các nội dung quản lý CBCC do luật CBCC quy định đều áp dụng
cho cả CBCC cấp cơ sở.
Nội dung quản lý CBCC nói chung và CBCC cơ sở nói riêng được quy định trong văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước. Đó là những nội dung nhằm xây dựng và
phát triển đội ngũ c án bộ, công chức đáp ứng được nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước. Quản lý CBCC bao gồm những nội dung cơ bản sau:
- Ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về CBCC;
- Xây dựng kế hoạch, quy hoạch CBCC;
- Quy hoạch chức danh và cơ cấu CB;
- Quy định ngạch, chức danh, mã số công chức; mô tả, quy định vị trí việc làm và cơ cấu công chức để xác định số lượng biên chế;
- Các công tác khác liên quan đến quản lý CBCC.
Do CBCC của Việt Nam bao gồm nhiều nhóm người làm việc trong các môi trường thể chế khác nhau nên quy trình cũng như nội dung quản lý CBCC sẽ không giống
nhau. Do đó, căn cứ vào nội dung cơ bản trên, những tổ chức đặc biệt cần xây dựng cụ thể nội dung quản lý CBCC của mình. Cụ thể:
- Cơ quan có thẳm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ ban hành nội dung quản lý CBCC làm việc trong các tô chức chính trị;
- Ủy ban thường vụ Quốc hội sẽ quy định nội dung quản lý CBCC làm việc trong các tổ chức quyền lực nhà nước;
- Chính phủ quy định cụ thể các nội dung quản lý CBCC trong hệ thống hành chính nhà nước.
b. Quản lý CBCC dựa vào điều lệ của các tổ chức chính trị, chính trọ xã hội.
CBCC làm việc trong các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội ngoài những điều quy định trong văn bản pháp luật nhà có liên quan, họ còn chịu sự quản lý theo những quy
định của các tổ chức chính trị, chính trị- xã hội.
Nội dung quản lý CBCC của các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội:
- Không được trái với pháp luật nhà nước quy định;
- Không được quy định các tiêu chuẩn thấp hơn của pháp luật nhà nước quy định.
Đồng thời, pháp luật nhà nước không cấm những quy định mang tính đặc trưng của các tổ chức tổ đó. Ví dụ, đảng viên phải tuân thủ quy định của điều lệ Đảng, không phân
biệt đảng viên có phải là cán bô, công chức hay không. Do đó, nếu CBCC là đảng viên, cần tuân thủ các quy định của Đảng. Và tất yếu nếu vi phạm các quy định đó, trước hết
bị xử lý theo kỷ luật của Đảng.
III. LỰA CHỌN, BỐ TRÍ, SỬ DỤNG CBCC CẤP XÃ.
1. Nguyên tắc chung về việc lựa chọn, bố trí và sử dụng CBCC.
Việc lựa chọn, bố trí và sử dụng CBCC là khâu rất quan trọng vì CB quyết định đến chất lượng và hiểu quả công tác, do vậy trong suốt quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách
mạng Việt Nam, Đảng ta đã hết sức chú trọng đến vấn đề này và coi đó là nhiệm vụ hàng đầu trong quá trình đổi mới công tác CB hiện nay. Việc lựa chọn bố trí và sử dụng CB
không được thực hiện một cách tùy tiện theo cảm tính, chủ quan mà phải dựa trên những căn cứ khoa học như văn kiện Đại hội VII đã nêu rõ: “khẩn trương xây dựng tiêu chuẩn
cụ thể cho từng loại, từng chức danh CB ở các cấp, các ngành và căn cứ vào đó để đào tạo, bố trí, sử dụng CB, chấm dứt tình trạng bố trí CB theo kiểu thân quen, cảm tính, chủ
quan…”. Trong công tác CB phải coi trọng cả đức và tài, đức là gốc. Nghị định Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành trung ương Đảng khóa VIII cũng đã nhấn mạnh “Việc bố trí

và sử dụng CB phải đảm bảo đúng tiêu chuẩn, phù hợp với sở trường. Đề bạt CB đúng lúc, đúng người, đúng việc”.
Những quan điểm của Đảng về công tác CB là những định hướng hết sức quan trọng cho việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn quản lý và sử dụng đội ngũ CBCC. Đây
cũng là cơ sở để xây dựng các nguyên tắc khoa học trong việc lựa chọn, bố trí và sử dụng CBCC. Dưới đây là một số nguyên tắc cơ bản cần chú ý:
a. Nguyên tắc bảo đảm đúng tiêu chuẩn CBCC được bố trí, sử dụng
Nghị định Hội nghị lần thứ chín Ban chấp hành trung ương khóa X đã khẳng định tiếp tục thực chiến lược CB. do đó, bố trí sử dụng CB, công chức phải theo đúng các
tiêu chuẩn sau:
- Tiêu chuẩn chung:
+ Có tinh thần yêu nước sâu sắc, tận tụy phục vụ nhân dân, kiên định mục tiêu đọc lập dân tộc và CNXH, phấp đấu thực hiện có kết quả đường lối của Đảng, chính sách và
pháp luật của Nhà nước.
+ Cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư. Không tham nhũng và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng. Có ý thức tổ chức kỷ luật; trung thực không cơ hội, gắn bó mặt thiết
với nhân dân, được nhân dân tính nhiệm.
+ Có trình độ hiểu biết về lý luận chính trị, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; có trình độ văn hóa, chuyên môn, đủ năng lực và sức
khỏe để làm việc có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.
+ Các tiêu chuẩn đó có quan hệ mặt thiết với nhau. Coi trọng cả đức và tài, đức là gốc.
Ngoài các tiêu chuẩn chung nói trên, CB lãnh đạo Đảng, Nhà nước, đoàn thể nhân dân còn phải:
+ Có bản lĩnh chính trị vững vàng trên cơ sở lập trường giai cấp công nhân, tuyệt đói trung thành với lý tưởng cách mạng, với chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh. Có năng lực dự báo và định hướng sự phát triển, tổng kết thực tiễn, tham gia xây dựng đường lối, chính sách, pháp luật; thuyết phục và tổ chức nhân dân thực hiện. có ý
thức và khả năng đấu tranh bảo vệ quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước.
+ Gương mẫu về đạo đức, lối sống. có tác phong dân chủ, khoa học, có khả năng tập hợp quần chúng, đoàn kết CB.
+ Có kiến thức vời khoa học LĐ, QL; đã học tập có hệ thống ở các trường của Đảng, Nhà nước và đoàn thể nhân dân; trải qua hoạt động tiễn có hiệu.
- CB lãnh đạo lực lượng vũ trang còn phải:
+ Tuyệt đối trung thành với tổ quốc, đối với Đảng và nhân dân, sẵn sàng hy sinh bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ
XHCN;
+ Có tinh thần cảnh giác cao, có ý thức tổ chức kỷ luật nghiêm, giữ gìn bí mặt quân sự, bí mặt quốc gia.
+ nắm vững và có khả năng vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của về xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an
ninh nhân dân. Nắm được những vấn đè cơ bản về quản lý kinh tế - xã hội.
- CB khoa học, chuyên gia còn phải:
+ Có tư duy độc lập sáng tạo, có ý hợp tác, say mê trong nghiên cứu và ứng dụng khoa học, công nghệ;
+ Bám sát đời sống xã hội, có khả năng tổng kết thực tiễn;
+ Chuyên gia đầu ngành phải có khả năng tập hợp và đào tạo CB khoa học.

b.Nguyên tắc khách quan, công bằng.
Nguyên tắc này đòi hỏi việc lựa chọn, bố trí và sử dụng CB công chức phải căn cứ vào nhu cầu thực tế của công việc, căn cứ vào hệ thống văn bản của Nhà nước hoặc của
cơ quan có thẩm quyền ban hành. Tiêu chuẩn chức danh, năng lực thực tế và kết quả đánh giá được coi là những căn cứ chính để bố trí, sắp xếp CBCC. Nguyên tắc khách quan,
công bằng giúp loại trừ yếu tố chủ quan, cảm tính hay thiên vị trong công tác bố trí và sử dụng CB như lựa chọn, sắp xếp CBCC không đủ tiêu chuẩn vào các chức danh quản
lý, ưu tiên người nhà, người “ăn cánh” hoặc có hành vi “hối lộ”.
c. Nguyên tắc tập trung dân chủ.
Trong lựa chọn, bố trí và sử dụng CBCC phải chú ý tới hai mặt tập trung và dân chủ của nguyên tắc này. Tính tập trung thể hiện ở việc cấp trên có quyền hạn và trách
nhiệm tham gia vào việc lựa chọn, phê chuẩn, bổ nhiệm, quản lý, điều động CBCC trong phạm vi thẩm quyền của mình theo quy định của pháp luật. Tính dân chủ thể hiện ở
tính công khai, tính tập thể như: tổ chức lấy ý kiến nhận xét, đánh giá của nhiều người nhiều bộ phận đối với các CBCC hay ở việc tiến hành bầu cử người LĐ, QL.
- Thực hiện đúng nguyên tắc này sẽ góp phần đẩy lùi bệnh thành tích, quan liêu cũng như nguy cơ chuyên quyền, độc đoán trong công tác CB, tạo điều kiện lựa chọn được
CB đúng tiêu chuẩn, có phẩm chất và năng lực hoàn thành tốt công tác được giao.
d.Nguyên tắc tương xứng yêu cầu công việc.
Thực hiện nguyên tắc này đòi hỏi khi lựa chọn, bố trí và sử dụng CBCC phải xem xét phẩm chất, trình độ, năng lực, kinh nghiệm hiện có của người CBCC có đáp ứng được
yêu cầu công việc sẽ giao cho họ không. Chỉ khi có sự tương xứng với yêu cầu công việc, CBCC mới thực thi công vụ có hiệu quả
đ. Nguyên tắc đảm bảo cơ cấu hợp lý giữa các nhóm CBCC.
Nguyên tắc này đòi hỏi trong lựa chọn, bố trí, sử dụng CB cần kết hợp tốt để có cơ cấu hợp lý giữa người già với người trẻ, người tại địa phương và người nơi khác tới, CB
công chức nam với CB công chức nữ và giữa các ngạch bậc khác nhau.
Nguyên tắc này có vai trò rất lớn trong việc phát huy sức mạnh của tập thể, của tổ chức nhờ việc bổ sung cho nhau về kiến thức, kinh nghiệm thực tiễn, chuyên môn nghiệp
vụ … của các nhóm CBCC khác nhau.
11


e. Nguyên tắc đảm bảo quyền việc lựa chọn và sử dụng CBCC phải dựa trên quy hoạch
Nguyên tắc này đòi hỏi cơ quan tổ chức phải xây dựng các chính sách và biện pháp để tạo nguồn CBCC, đặc biệt là CBCC lãnh đạo. Làm tốt công tác này sẽ đảm bảo tính
chủ động và ổn định trong hoạt động của cơ quan, tổ chức nói chung và trong công tác CB nói riêng. Đây cũng là cơ sở để thực hiện các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng dựa vào
nhu cầu công việc.
2. Nguyên tắc cụ thể về lựa chọn, bố trí, sử dụng CBCC cấp xã.
Lựa chọn, bố trí, sử dụng CBCC phải tuân thủ những nguyên tắc cụ thể sau đây:
- Đặt dưới sự lãnh đạo thống nhất của cấp ủy đảng;
-Căn cứ vào nhu cầu công việc, vị trí công tác và số lượng các chức danh cần lựa chọn, bố trí;

- Chỉ sắp xếp CBCC có đủ tiêu chuẩn và năng lực thực hiện nhiệm vị;
- Quan tâm CBCC trẻ;
- Mạnh dạn giải quyết cho thôi việc đối với những CBCC không đạt tiêu chuẩn (tuổi lớn, sức khỏe yếu, năng lực yếu, không đủ điều kiện đào tạo);
- Dựa vào quy hoạch CBCC để bố trí, phân công CBCC theo yêu cầu công việc, phù hợp với năng lực, chuyên môn đã được đào tạo;
- Một CBCC có thể đảm nhận thêm chức danh, phụ trách thêm lĩnh vực và công việc.
3. Một số quy định cơ bản đối với việc lựa chọn, bố trí, sử dụng CBCC ở xã.
CBCC cấp xã gồm nhiều loại khác nhau (người làm việc cho tổ chức chính trị, chính trị - xã hội và người làm việc cho cơ quan nhà nước, có người hình thành theo cơ chế
bầu cử, có người theo cơ chế tuyển dụng …). Ngoài những điểm chung nhất định, mỗi nhóm có những điểm riêng biệt. Do đó, CB công chức cấp xã ngoài việc chịu sự quy
định chung giống như CBCC cấp huyện trở lên hoặc các quy định cho tất cả CBCC cấp xã, các nhóm khác nhau còn chịu sự ràng buộc bởi các quy định riêng biệt. Ví dụ, nhóm
CBCC làm việc trong các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội còn chịu sự điều chỉnh bởi điều lệ của các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội. Vì vậy, trong việc lựa chọn, bố trí, sử
dụng CBCC cấp xã cần chú ý:
- Tuân thủ các quy định của pháp luật đối với CBCC nói chung và CBCC cấp xã nói riêng;
- Tuân thủ các quy định riêng đối với từng nhóm hay chức danh cụ thể.
4. Nhiệm vụ của chính quyền cấp xã trong việc lựa chọn, giới thiệu để bố trí, sử dụng CBCC cấp xã.
Chính quyền cấp xã có vai trò quan trọng trong việc lựa chọn, giới thiệu để bố trí, sử dụng CBCC cấp xã. Điều đó được thể hiện qua các nhiệm vụ cụ thể sau đây:
- Thực hiện công tác quy hoạch, chủ động tạo nguồn CBCC. Đây là cơ sở để lựa chọn, bố trí, sắp xếp CB công chức cấp xã đáp ứng được yêu cầu. Thực tế, nhiều địa
phương yêu cầu CB dự nguồn phải tốt nghiệp cấp 3, tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp trở lên, có lý lịch gia đình tốt, có phẩm chất chính trị tốt, có năng lực, có triển vọng, để
làm các công việc cho yêu cầu phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở địa phương hoặc chọn những thanh niên có trình độ, phẩm chất để đào tạo về văn hóa, chuyên môn, lý luận
chính trị, để tạo nguồn bổ sung, thay thế những CBCC năng lực hạn chế.
- Phát hiện, giới thiệu các ứng viên đáp ứng được yêu cầu để lựa chọn, bố trí sắp xếp họ vào những vị trí phù hợp.
5. Đánh giá CBCC cơ sở.
a. Nguyên tắc đánh giá.
Đánh giá CBCC nói chung và CBCC nói chung và CBCC cấp cơ sở nói riêng là khâu quan trọng trong công tác CB. Đây cũng là một tác nghiệp rất quan trọng của các nhà
quản lý nhân sự trong tổ chức. Đánh giá CBCC là nhằm xác định mức độ hoàn thành công việc, sự cống hiến của họ. Kết quả đánh giá là cơ sở để đề ra các quyết định nhân sự
liên quan đến cá nhân CBCC như tăng lương, đề bạc, khen thưởng, bãi nhiệm, kỷ luật và đào tạo, bồi dưỡng. Chính vì đánh giá CBCC có vai trò quan trọng như vậy nên cần
phải đảm bảo được các nguyên tắc sau:
- Đảm bảo khách quan, công bằng;
- Gắn với tiêu chuẩn chức danh;
- Dựa vào kết quả thực thi công việc;
- Gắn liền với các hình thức sử lý kỷ luật hoặc khen thưởng.

Hiện nay, theo quy định của pháp luật ở nước ta việc đánh giá đối với CBCC cấp xã được thực hiện tương tự như đối với CBCC từ cấp huyện trở lên.
b.Khen thưởng.
Khen thưởng CBCC nói chung và CBCC cấp xã nói riêng là sự khẳng định việc hoàn thành tốt nhiệm vụ của CB công chức thông qua hiệu quả thực thi các công vụ cụ thể.
Khen thưởng là sự ghi nhận và trao cho CBCC có thành tích những giá trị vật chất và tinh thần để động viên khích lệ sự cống hiến của họ cũng như của đội ngũ CBCC nói
chung. Khen thưởng sẽ giúp cho CBCC cũng như tập thể (hay người) sử dụng can bộ, công chức có được những cơ hội để hiểu về họ hơn.
Trên thực tế, khen thưởng CBCC có thể có rất nhiều hình thức:
Hình thức tôn vinh, danh dự; Hình thức vật chất; Hình thức kết hợp các danh dự, tôn vinh và vật chất.
ở nước ta, CBCC cấp xã có thành tích trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ thì được xét khen thưởng theo các hình thức sau đây:
- Giấy khen; Bằng khen; Danh hiệu vinh dự nhà nước; Huy chương; Huân chương;
c. Xử lý vi phạm kỷ luật.
Xử lý vi phạm kỷ luật CBCC trong trường hợp này chỉ hiểu là các hình thức kỷ luật gắn liền với công vụ. Ngoài ra, công chức cũng bị xử lý như công dân khi vi phạm pháp
luật nhà nước.
Kỷ luật công chức đối với công vụ mang ý nghĩa của kỷ luật hành chính. Điều đó cũng gắn liền với quyền lợi mà CBCC có thể không nhận được và những trường hợp cao
nhất, công chức không được làm trong nền công vụ.
Kỷ luật công chức cũng gắn liền với các hình thức:
Các hình thức mang tính “răn đe”; Kỷ luật gắn liền với vật chất; Kỷ luật gắn liền với chức nghiệp.
Luật CBCC (2008) quy định mang tính định hướng đối với xử lý vi phạm kỷ luật CBCC.
- Đối với CB áp dụng các hình thức sau:
+ Khiển trách; + Cảnh cáo; + Cách chức; + Bãi nhiệm.
Cần lưu ý, việc cách chức chỉ áp dụng đối với CB được phê chuẩn giữ chức vụ theo nhiệm kỳ.
- Đối với công chức áp dụng các hình thức sau:
+ Khiển trách; + Cảnh cáo; + Hạ bậc lương; + Giáng chức; + Cách chức; + Buộc thôi việc.
Hình thức giáng chức, cách chức chỉ áp dụng đối với công chức giữ chức vụ LĐ, QL.
Kỷ luật công chức phải dựa trên các tiêu chuẩn quy định để xem xét, không tùy tiện, không cảm tính. Cần phải thấy rằng, xử lý kỷ luật công chức là hình thức xử lý đối với
lỗi công vụ thông qua đó nhằm làm cho hoạt động công vụ tốt hơn.
Kỷ luật cách chức phải đảm bảo các yêu cầu: công khai; dân chủ; bình đẳng và có sự tham gia của công chức.
IV. CÁC YÊU CẦU CƠ BẢN VỀ LỰA CHỌN, BỐ TRÍ, SỬ DỤNG CBCC XÃ.
1. Xác định các công tác cần lựa chọn, bố trí.
Xác định nhu cầu nhân sự hay các vị trí công tác cần bổ sung người là khâu đầu tiên của quá trình lựa chọn nhân sự cho bộ máy chính quyền cấp xã. Nếu không xác định
đúng nhu cầu đối với các vị trí này thì khó có thể có nguồn lực cần thiết và đáp ứng đúng nhu cầu nhân sự của cơ quan, tổ chức. Xác định các vị trí công tác cần bổ sung qua đó

thu hút và lựa chọn được những người đáp ứng được yêu cầu công việc phải được coi là một công việc quan trọng của công tác nhân sự trong các tổ chức thuộc bộ máy chính
quyền cấp xã. Xác định nhu cầu nhân sự của bộ máy chính quyền cấp xã cần phải căn cứ vào:
- Nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của năm kế hoạch và những chi tiêu cụ thể phản ánh quy mô nhiệm vụ, đặc điểm về địa lý tự nhiên, dân số và các điều kiện thực hiện;
- Chức năng, nhiệm vụ của từng đơn vị tổ chức, kế hoạch bố trí nguồn nhân lực, sắp xếp bộ máy cơ quan nhà nước;
- Khả năng của ngân sách địa phương do cơ quan nhà nước có thẩm quyền duyệt hàng năm;
- Định mức biên chế do cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền ban hành;
- Chất lượng đội ngũ CBCC hiện có và dự kiến nguồn CBCC thay thế.
Muốn xác định được chính xác nhu cầu nhân lực trong cơ quan, cần phải biết được hiện trạng nhân sự trong cơ quan, tổ chức phải trả lời được câu hỏi về dư thừa hay thiếu
nhân lực: thừa ai, thừa ở những bộ phận nào hoặc thiếu những loại lao động nào và thiếu ở những bộ phận nào. Trong giai đoạn này, cần phải trả lời được các câu hỏi: những vị
trí công việc nào cần được bổ sung thêm người hay những chức danh nào cần phải bổ sung, thay thế. Trên cơ sở đó sẽ xác định các yêu cầu đối với vị trí đó hay các tiêu chuẩn
đối với người cần tuyển ở giai đoạn sau.
Nếu không xác định rõ nhu cầu nhân sự đối với những nhóm đối tượng nào, hay vị trí và chức danh nào, công việc lựa chọn, bố trí và sử dụng nhân sự sẽ không đáp ứng
được yêu cầu. Do đó, phải coi xác định nhu cầu nhân sự là khâu quan trọng nhất của quá trình lựa chọn, bố trí người vào làm việc trong bộ máy chính quyền cấp xã.
Ở nước ta Nghị định của Chính phủ số 121/2003/NĐ-CP ngày 23-10-2003 quy định số lượng CB chuyên trách và công chức mỗi xã không phân biệt đồng bằng hay miền
núi đều không quá 25 người. Cụ thể, đối với xã đồng bằng, phường và thị trấn dưới 10.000 dân được bố trí không quá 19 CBCC; từ 10.000 dân trở lên, cứ thêm 3.000 dân được
bố trí thêm 1 CBCC nhưng tối đa không quá 25 CBCC. Đối với xã miền núi, vùng cao, vùng sâu, vùng xa, hải đảo dưới 1.000 dân được bố trí không quá 17 CBCC; từ 1.000
dân đến dưới 5.000 dân được bố trí không quá 19 CBCC; từ 5.000 dân trở lên, cứ thêm 1.500 dân được bố trí thêm một CBCC nhưng tối đa không quá 25 CBCC.
2. Các tiêu chuẩn tuyển người cho vị trí công tác.
12


Xác định các tiêu chuẩn đối với người cần tuyển và các vị trí công tác thực chất là xác định yêu cầu đối với vị trí công tác cần bổ sung. Đây cũng chính là căn cứ để bố trí,
sắp xếp CBCC vào các vị trí thích hợp nhất với năng lực và sở trường của họ là cơ sở để thực hiện các hoạt động đào tạo bồi dưỡng CB công chức gắn với yêu cầu công việc
hay thực hiện các hoạt động khác như đánh giá, trả lương, các chế độ chính sách đảm bảo công bằng khách quan đối với CBCC.
Muốn xác định chính xác các yêu cầu đối với vị trí công tác cần bổ sung, thì cần phải tiến hành phân tích công việc. Mục đích của phân tích công việc là nhằm xây dựng
một bản mô tả công việc, từ đó có cơ sở để xác định các yêu cầu hay các tiêu chuẩn đối với vị trí công tác cần bổ sung. Những yêu cầu này chính là những tiêu chí để lựa chọn,
bố trí và sắp xếp người phù hợp với vị trí công tác. Nhiều tổ chức trong đó kể cả các cơ quan nhà nước thường dựa vào các tiêu chí sau:
- Mức độ giáo dục (bằng cấp các loại); - Kinh nghiệm; - Sức khỏe; - Các đặc trưng thuộc về nhân cách;
- Về thể chất (tâm sinh lý, hình thức, sức khỏe, giọng nói ...);
- Khả năng thích ứng với công việc (tự điều chỉnh, phản ứng với sự thay đổi, biểu hiện đột biến về tâm lý ...).

Tuy nhiên ở các vị trí công việc khác nhau, mức độ yêu cầu đối với từng tiêu chuẩn này không giống nhau. Các tiêu chuẩn này có thể thay đổi trong từng giai đoạn khác
nhau để phù hợp với sự phát triển về chính trị, kinh tế và xã hội. Xu thế chung là các tiêu chuẩn ngày càng cao hơn và nhiều hơn.
Ở Việt Nam, CB công chức cấp xã tùy theo vị trí công tác cần phải đáp ứng các yêu cầu nhất định. Các yêu cầu này chủ yếu tập trung vào các tiêu chuẩn về học vấn, trình
độ chuyên môn nghiệp vụ, về trình độ chính trị, về phẩm chất; về thời gian, tuổi đời.
Tiêu chuẩn về học vấn và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ là một trong những tiêu chuẩn cần thiết là cơ sở để CBCC đáp ứng được yêu cầu công vụ, hoàn thành được các
nhiệm vụ trên cương vị công tác của mình.
Tiêu chuẩn về trình độ chính trị nhằm đảm bảo CBCC cấp xã thực hiện tốt đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Tiêu chuẩn về phẩm chất đòi hỏi CBCC phải có tư cách, phẩm hạnh trong mối quan hệ với gia đình, đồng nghiệp, xã hội, công dân ...
Tiêu chuẩn về thời gian, tuổi tác là tiêu chuẩn cần thiết đối với CBCC nói chung và CBCC cấp xã nói riêng vì tuổi tác phản ánh năng lực làm việc, phản ánh khoảng thời
gian còn lại để phát huy năng lực, phản ánh tâm lý công chức nhất là tâm lý về trách nhiệm công vụ về sự đổi mới, cải tiến công vụ. Quy định tuổi đối với CBCC còn tạo diều
kiện để CBCC phát huy sáng kiến trong công vụ, tiếp thu và áp dụng cái mới.
Ngoài những tiêu chuẩn trên, CBCC cấp xã còn phải đáp ứng các yêu cầu về sức khoẻ và các yêu cầu khác phù hợp với từng vị trí công tác và từng điều kiện, đặc điểm của
từng địa phương và vùng, miền. Pháp luật của nước ta về CBCC quy định tiêu chuẩn cho CBCC cấp xã bao gồm: tiêu chuẩn chung cho mọi CBCC cấp xã và tiêu chuẩn riêng
cho từng CBCC cụ thể:
3. Quy trình lựa chọn, giới thiệu để bố trí, sử dụng CBCC xã.
a. Phát hiện, lựa chọn và giới thiệu các ứng viên.
Đây là khâu quan trọng trong quy trình tuyển chọn người để bổ sung vào những vị trí hay chức danh còn khuyết. Nếu không làm tốt khâu này thì khó có thể tuyển chọn
được người đáp ứng được các yêu cầu của công việc, cho nên việc phát hiện, lựa chọn và giới thiệu các ứng viên phải được coi là một công việc quan trọng trong công tác nhân
sự của bộ máy chính quyền cấp xã. Việc phát hiện các ứng viên có thể được tiến hành ngay từ khi làm công tác quy hoạch dự nguồn CBCC. ….
Trình bày khái niệm và chức danh cán bộ công chức ở cơ sở? (Bài 2)
1. Khái niệm: (Điều 4 Luật CBCC 22/2008/QH12 ngày 13/11/2008)
- Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ
chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là
cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
- Cán bộ xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) là công dân Việt Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy
ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội.
- Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính
trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong
cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng
sản Việt Nam, Nhà nước, tô chức chính trị - xã hội (sau đây gọi chung là đơn vị sự nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với công chức

trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đon vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật.
- Công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc UBND cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách
nhà nước.
2. Chức danh cán bộ công chức ở cơ sở (Đ61 Luật CBCC 2008)
- Chức danh cán bộ cấp xã:
+ Bí thư, Phó Bí thư Đảng uỷ, thường trực đảng ủy cấp xã (nơi không có PBT chuyên trách công tác Đảng); Bí thư, Phó Bí thư chi bộ xã (nơi chưa thành lập
Đảng ủy xã);
+ Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân;
+ Chủ tịch, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân;
+ Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;
+ Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh;
+ Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam;
+ Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam (áp dụng đối với xã, phường, thị trấn có hoạt động nông, lâm, ngư, diêm nghiệp và có tổ chức Hội Nông dân Việt Nam);
+ Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt Nam.
- Công chức cấp xã có các chức danh sau đây:
+ Trưởng Công an (nơi chưa bố trí lực lượng CA chính quy);
+ Chỉ huy trưởng Quân sự;
+ Văn phòng - thống kê;
+ Địa chính - xây dựng - đô thị và môi trường (đối với phường, thị trấn) hoặc địa chính - nông nghiệp - xây dựng và môi trường (đối với xã);
+ Tài chính - kế toán;
+ Tư pháp - hộ tịch;
+ Văn hóa - xã hội.
* Những nguyên tắc cụ thể trong việc lựa chọn, bố trí, sử dụng CBCC cấp CS?
- Đặt dưới sự lãnh đạo thống nhất của cấp ủy Đảng.
- Căn cứ vào nhu cầu công việc, vị trí công tác và số lượng các chức danh cần lựa chọn.
- Căn cứ vào nhu cầu công việc, vị trí công tác và số lượng các chức danh cần bố trí.
- Chỉ sắp xếp CB,CC có đủ tiêu chuẩn và năng lực thực hiện nhiệm vụ.
- Quan tâm CB,CC trẻ.
- Mạnh dạn giải quyết cho thôi việc đ/v những CB,CC không đạt tiêu chuẩn(lớn tuổi, sức khỏe yếu, năng lực yếu, ko đủ đ/k đào tạo).
- Dựa vào quy hoạch CB,CC để bố trí, phân công CB, CC theo y/ cầu công việc, phù hợp với năng lực, chuyên môn đã được đào tạo.

- 1 CB,CC có thể đảm nhận thêm chức danh, phụ trách thêm lĩnh vực và công việc.
Trình bày quy trình lựa chọn giới thiệu để bố trí, sử dụng CB,CC cấp cơ sở? Liên hệ thực tế? (Bài 2)
Quy trình lựa chọn giới thiệu để bố trí, sử dụng CB,CC cấp cơ sở:
-Phát hiện, lựa chọn và giới thiệu ứng viên.
Đây là khâu quan trọng trong quy trình tuyển chọn người để bổ sung vào những vị trí hay những chức danh còn khuyết. Nếu không làm tốt khâu này thì khó có thể
tuyển chọn được người đáp ứng được yêu cầu của công việc. Việc phát hiện các ứng viên có thể được tiến hành ngay từ khi làm công tác quy hoạch, dự nguồn CBCC. Thông
qua quy hoạch tạo nguồn CC có thể chủ động phát hiện những ứng viên đáp ứng được ngay các yêu cầu, tiêu chuẩn theo qui định của pháp luật hoặc những ứng viên tiềm
năng. Các ứng viên có thể được phát hiện, lựa chọn từ đội ngũ CBCC. Đây là những người đang đảm nhận 1 vị trí hoặc công việc hay 1 chức danh nào đó trong nền công vụ,
nhưng khi có 1 chức danh nào đó còn khuyết cần bổ sung mà xét thấy CBCC này đảm nhận những vị trí, chức danh đó tốt hơn hoặc phù hợp hơn thì có thể lựa chọn họ, thông
qua các thủ tục cần thiết, có thể bố trí, sử dụng họ. Bên cạnh đó, lực lượng sinh viên tốt nghiệp đại học các chuyên ngành kinh tế, luật, hành chính, xã hội nhân văn … cũng là
nguồn quy hoạch đầy tiềm năng để bổ sung và góp phần trẻ hóa CBCC cơ sở.
- Thực hiện các thủ tục liên quan trong việc tuyển dụng, bố trí, sử dụng CBCC cơ sở.
+ Đ/v CB cấp xã áp dụng hình thức bầu cử quy định của Luật Tổ chức HĐND và UBND, Luật Bầu cử đại biểu HĐND, điều lệ của tổ chức có liên quan, các quy
định khác của PL và của CQ có thẩm quyền.
13


+ Đ/v công chức cấp xã phải thông qua thi tuyển. Riêng đối với các xã miền núi, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện
KT-XH đặc biệt khó khăn thì có thể áp dụng hình thức xét tuyển. Trong thực tế, ở nhiều địa phương, hình thức xét tuyển CC còn áp dụng đ/v các trường hợp CB cấp xã ko
còn giữ chức vụ bầu cử theo nhiệm kỳ;
Tuy nhiên, tuyển dụng đ/v CC chỉ áp dụng đ/v CBCC dự tuyển lần đầu. Đ/v các trường hợp CB,CC đang đương nhiệm thì ko áp dụng các thủ tục này.
Bảo đảm nguyên tắc quản lý CB,CC; lựa chọn bố trí, sử dụng CB,CC? Liên hệ thực tế?
1. Khái niệm:
- Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức
chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp
huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
- Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ
quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy LĐ, QL của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nhà nước, tô chức chính trị - xã hội (sau đây gọi chung là đơn vị sự nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với công chức trong bộ
máy LĐ, QL của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đon vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật.

CBCC có một một vị trí vai trò hết sức quan trọng, đóng vai trò quyết đinh cho sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Việc lựa chọn, bố trí và sử dụng CB,CC là khâu rất
quan trọng vì con người chính là nhân tố QĐ đến chất lượng và hiệu quả công việc, do vậy trong suốt quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã rất chú
trọng đến vấn đề này và coi đó là nhiệm vụ hàng đầu trong quá trình đổi mới công tác cán bộ hiện nay.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương Đảng lchóa VIII đã nhấn mạnh: “Việc bổ trí và sử dụng cán bộ phải đảm bảo đủng tiêu chuẩn phù
hợp với sở trường. Đe bạt cán bộ phải đúng lúc, đúng người, đúng việc
2. Nguyên tắc:
Những quan điểm của Đảng về công tác cán bộ là những định hướng hết sức quan trọng cho việc nghiên cửu lý luận và thực tiễn quản lý vào sử dụng đội ngũ cán bộ công
chức. Đây cũng là cơ sở đế xây dựng các nguyên tắc khoa học trong việc lựa chọn, bố trí và sử dụng CB,CC, các nguyên tắc cụ thể như sau:
Thứ nhất: Nguyên tấc đảm bảo đúng tiêu chuẩn CB,CC được bổ trí sử dụng
Tiêu chuẩn CB,CC là những chuẩn mực, tiêu chí mà CB,CC cần phải có khi tham gia công vụ. Xây dựng tiêu chuẩn CB,CC nhằm bố trí, phân công nhiệm vụ, cấp bậc của
từng CB,CC theo đúng khả năng, yêu cầu của công việc, làm cơ sở cho việc đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ đuợc giao. Tiêu chuẩn CB,CC bao gồm tiêu chuẩn chung và
tiêu chuẩn cụ thể:
* Tiêu chuẩn chung:
- Phải là công dân Việt Nam.
- Đạt độ tuổi quy định từ đủ 18 tuổi trở lên.
- Có tinh thần yêu nước sâu sắc, tận tụy phục vụ nhân dân, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, phấn đấu thực hiện có kết quả đường lối của Đảng, chính sách và
pháp luật của nhà nước.
- Cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư. Không tham nhũng và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng. Có ý thức tổ chức kỷ luật; trung thực, không cơ hội, gắn bó mật
thiết với nhân dân dân, được nhân dân tín nhiệm.
- Có trình độ hiểu biết nhất định về lý luận chính trị, quan điểm, đường lối của đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; có trình độ văn hóa, chuyên môn, đủ năng lực
và sức khỏe để làm việc có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.
Các tiêu chuẩn trên có quan hệ mật thiết với nhau. Coi trọng cả đức và tài, đức là gốc. Như vậy, theo các quy định pháp luật, tiêu chuẩn công chức đã có nhiều điểm cơ bản
được sửa đổi để đáp ứng yêu cầu cải
cách chế độ công vụ, công chức, phù hợp với các văn bản pháp luật khác và yêu cầu phát triển, hội nhập kinh tế quốc tế.
* Tiêu chuẩn cụ thể: Là điều kiện đủ, gắn với từng vị trí việc làm cụ thể. Nó thể hiện tính chất, đặc điểm riêng của ngành, lĩnh vực và mang tính chuyên môn, nghiệp vụ
cụ thể. Người được tuyển dụng vào mỗi vị trí công tác cụ thể hoặc bổ nhiệm vào vị trí LĐ, QL, bên cạnh tiêu chuẩn chung đối với công chức, còn phải đạt các tiêu chuẩn cụ thể
liên quan đến ngạch công chức hoặc chức vụ tương ứng.
Thứ 2: Nguyên tắc khách quan, công bằng
Nguyên tắc khách quan, công bằng nhằm đảm bảo cho quá trình lựa chọn, bố trí sử dụng CB,CC được thực hiện một cách công khai, công bằng dựa trên những căn cứ, quy
định của pháp luật, tránh những yếu tố chủ quan, cảm tính hay thiên vị trong công tác bố trí và sử dụng CB,CC như lựa chọn, sắp xếp CB,CC không đủ tiêu chuẩn vào các chức

danh quản lý, ưu tiên người nhà, người “ăn cánh” hoặc người có hành vi hối lộ. Tạo ra môi trường cạnh tranh công bằng, lành mạnh, từ đó giúp cho công tác tuyển chọn, sử
dụng cán bộ được hiệu lực, hiệu quả.
Để thực hiện nguyên tắc này thì khi lựa chọn, bố trí, sử dụng CB,CC cần căn cứ vào tiêu chuẩn chức danh, năng lực thực tế và kết quả đánh giá CB,CC. Thực hiện tốt việc
bố trí, lựa chọn, sử dụng cán bộ công chức theo các tiêu chuẩn chức danh, năng lực thực tế, kết quả đánh giá là thực hiện tốt nguyên tắc khách quan, công bằng nhằm đảm bảo
lựa chọn đúng người vào đúng vị trí công việc.
Thứ 3: Nguyên tắc tập trung dân chủ
- Tính tập trung thể hiện ở việc cấp trên có quyền hạn và trách nhiệm tham gia vào việc lựa chọn, phê chuẩn, bổ nhiệm, quản lý, điều động cán bộ công chức trong phạm vi
thẩm quyền của mình theo quy định của pháp luật.
- Tính dân chủ thể hiện ở tính công khai, tính tập thể như: tổ chức lấy ý kiến nhận xét, đánh giá của nhiều người, nhiều bộ phận đối với các CB,CC hay ở việc tiến hành
bầu cử người LĐ, QL- Thực hiện đúng nguyên tắc này sẽ góp phần đẩy lùi bệnh hình thức, quan liêu cũng như nguy cơ chuyên quyền, độc đoán trong công tác cán bộ, tạo điêu kiện lựa chọn
được cán bộ đúng tiêu chuấn, có phẩm chất và năng lực, hoàn thành tốt công tác được giao.
Thứ 4: Nguyên tắc tương xứng với yêu cầu công việc
Thực hiện nguyên tắc này đòi hỏi khi lựa chọn, bố trí và sử dụng CB,CC phải xem xét phẩm chất, trình độ, năng lực, kinh nghiệm hiện có của người CB,CC có đáp ứng
được yêu cầu công việc sẽ giao cho họ không. Chỉ khi có sự tương xứng với yêu cầu công việc, cán bộ công chức mới thực thi công việc có hiệu quả.
Thứ 5: Nguyên tắc đảm bảo cơ cấu hợp lý giữa các nhóm cán bộ công chức
Nguyên tắc này đòi hỏi trong lựa chọn, bố trí, sử dụng cán bộ cần phải kết hợp tốt để có cơ cấu hợp lý giữa người già với người trẻ, người tại địa phương và người nơi khác
tới, cán bộ công chức nam với cán bộ công chức nữ và giữa các ngạch bậc khác nhau.
Nguyên tắc này có vai trò rất lớn trong việc phát huy sức mạnh của tập thể, của tổ chức nhờ việc bổ sung cho nhau về kiến thức, kinh nghiệm thực tiễn, chuyên môn nghiệp
vụ., .của các nhóm CB,CC khác nhau.
Thứ 6: Nguyên tắc đảm bảo việc lựa chọn, bố trí và sử dụng cán bộ công chức phải dựa trên quy hoạch CB,CC
Nguyên tắc này đòi hỏi cơ quan tổ chức phải xây dựng các chính sách và biện pháp để tạo nguồn CB,CC lãnh đạo. Làm tốt công tác này sẽ đảm bảo tính chủ động và ổn định
trong hoạt động của cơ quan tổ chức nói chung và trong công tác cán bộ nói riêng. Đây cũng là cơ sở để thực hiện các hoạt động đào tạo bồi dưỡng dựa vào nhu cầu công việc.
3. Liên hệ thực tế: Cơ quan tôi bao gồm có đội ngũ CB,CC. Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuấn, bố nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ
trong cơ quan của chi bộ, đảng bộ, đoàn thanh niên, hội phụ nữ; nằm trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển
dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của chi bộ, đảng bộ, đoàn thanh niên, hội phụ nữ; nằm trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước;
đó không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong Công an nhân dân và Quân đội nhân dân.
Để lựa chọn, bố trí và sử dụng CB,CC đúng với quan điểm của Đảng về công tác cán bộ phải đảm bảo các nguyên tắc sau:
- Đảm bảo đúng tiêu chuẩn CB,CC được bố trí sử dụng: Ngoài nguyên tắc chung, cơ quan tôi còn áp dụng nguyên tắc cụ thể phù hợp với quy định của ngành: Tuyển
dụng đúng chuyên ngành, chuyên môn, trình độ tốt nghiệp Đại học đạt loại khá trở lên, có trình độ B ngoại ngữ, B tin học; nam cao 1,64m, cân nặng 52kg; nữ cao l,58m, cân
nặng 48kg.... Khi bổ nhiệm vào vị trí LĐ, QL, bên cạnh tiêu chuẩn chung còn phải đảm bảo các nguyên tắc khác: Có thời gian công tác liên lục từ 5 năm trở lên, có bằng

TCLLCT-HC, không bị kỷ luật dưới mọi hình thức...
- Đảm bảo tính khách quan, công bằng: Khi lựa chọn, bố trí, sử dụng CB,CC căn cứ vào tiêu chuẩn chức danh, năng lực thực tế và kết quả đánh giá CB,CC; không dựa
vào cảm tính, chủ quản.
- Đảm bảo tính tập trung dân chủ: Thủ trưởng cơ quan có quyền hạn và trách nhiệm tham gia vào việc lựa chọn, phê chuẩn, bổ nhiệm, quản lý, điều động cán bộ công
chức trong phạm vi thẩm quyền của mình; chỉ đạo tổ chức lấy ý kiến nhận xét, đánh giá đối với các CB,CC hay bầu cử vị trí LĐ, QL; chống bệnh hình thức, quan liêu,
chuyên quyền, độc đoán trong công tác cán bộ.
- Đảm bảo tương xứng với yêu cầu công việc: Xem xét phẩm chất, trình độ, năng lực, kinh nghiệm hiện có của người CB,CC để bố trí các vị trí công tác, giao nhiệm vụ
phù họp tương xứng với yêu câu công việc để thực thi có hiệu quả.
- Đảm bảo cơ cấu hợp lý giữa các nhóm cán bộ công chức: Căn cứ vào yêu cầu công việc, vị trí công tác tiến hành lựa chọn, bố trí, sử dụng cán bộ công chức hài hoà
giữa người già với người trẻ, người tại địa phương và người nơi khác tới, nam - nữ, ngạch bậc khác nhau để phát huy sức mạnh của tập thê nhờ việc bô sung cho nhau về
kiến thức, kinh nghiệm thực tiễn, chuyên môn nghiệp vụ...
- Đảm bảo việc lựa chọn, bố trí và sử dụng cán bộ công chức phải dựa trên quy hoạch CB,CC: Định kỳ 5 năm tổ chức quy hoạch tổng thể CB,CC trong diện quản lý;
14


hàng năm tiến hành rà soát điều chỉnh, bổ sung quy hoạch phù họp với thực tế để thực hiện các hoạt động đào tạo bồi dưỡng dựa vào nhu cầu công việc.
Câu hỏi: Anh (chị) hiểu như thế nào về CBCC cấp cơ sở ? Những hạn chế nào ảnh hưởng đến công việc và uy tính của CB-CC, các tiêu chuẩn yêu cầu của
CB-CC ? Vai trò của CBCC cấp cơ sở ? Giải pháp nào để đội ngũ CBCC đáp ứng yêu cầu hiện nay ?
* Khái niệm CB cơ sở:
Khoản 3 Điều 4 Luật CB,CC quy định: Cán bộ xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) là công dân Việt Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong
Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội;
* Khái niệm CC cơ sở:
Công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ
ngân sách nhà nước.
* Vai trò của CBCC cấp cơ sở
- CB,CC cơ sở là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân:
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”. “Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém”.
CB,CC cấp xã là những người trực tiếp đem chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước giải thích cho nhân dân hiểu rõ và thi hành; nắm bắt tình hình triển khai thực
hiện các chủ trương, chính sách trong thực tế để phản ánh cho Đảng và Nhà nước để có sự điều chỉnh, bổ sung phù hợp với thực tiễn; đề xuất điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung đường
lối chủ trương của Đ chính sách, PL của NN nhằm phục vụ lợi ích của n.dân.

- CB,CC cơ sở có vai trò trong quản lý và tổ chức công việc của chính quyền cơ sở. Tùy theo vị trí, chức danh của mình, mỗi CBCC cấp xã sẽ đảm nhận và thực hiện
những nhiệm vụ nhất định. Việc thực thi công vụ của họ có vai trò đảm bảo kỷ cương phép nước tại cơ sở, bảo vệ các quyền tự do dân chủ, quyền con người, quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân, bảo đảm trật tự xh, ngăn chặn các hành vi vi phạm PL. Thông qua hoạt động của đội ngũ CBCC cấp xã, nhân dân thể hiện được quyền làm chủ và trực
tiếp thực hiện quyền tự quản của mình ở địa phương.
- Đội ngũ CB,CC cơ sở có vai trò trong xây dựng và hoàn thiện bộ máy chính quyền cơ sở , trong hoạt động thi hành nhiệm vụ, công vụ. Trong những năm qua, Đảng
và NN đã có sư đổi mới về mặt nhận thức đối với lực lượng CBCC cấp xã, đã đánh giá rất cao vai trò của họ trong sự nghiệp cách mạng ở nước ta. Đó là sự thay đổi có ý nghĩa
tích cực đối với việc xây dựng và hoàn thiện chính quyền cơ sở, nâng cao chất lượng CBCC cấp xã, góp phần vào sự thành công của sự nghiệp xây dựng NN pháp quyền
XHCN của dân, do dân, vì dân.
Vai trò trong quản lý và tổ chức công việc của chính quyền cơ sở của CBCC có vai trò quyết định chất lượng hoạt động ở cơ sở do CBCC huyện, tỉnh nếu có 1 số yếu
kém thì có người khác bù trừ, còn CBCC ở cơ sở rất ít, không có người thay thế, nếu CBCC cơ sở yếu kém thì sẽ ảnh hưởng đến chất lương hoạt động của chính quyền ở cơ sở.
* Những hạn chế ảnh hưởng đến công việc và uy tín của người các bộ - CC:
Hạn chế lớn nhất là chất lượng của đội ngũ công chức hiện nay vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý nhà nước trong tình hình mới hiện nay. Mặc dù công tác
đào tạo, bồi dưỡng được tỉnh chú trọng, số lượng công chức qua các khoá đào tạo, bồi dưỡng khá lớn, nhưng nhìn chung chất lượng, nhất là kiến thức quản lý nhà nước, quản lý
kinh tế còn hạn chế, bằng cấp, chứng chỉ tăng, nhưng chất lượng thật sự đang là vấn đề đáng lo ngại. Nhiều công chức (trong đó số đông là công chức ở các cơ quan chuyên
môn giúp Uỷ ban nhân dân cấp huyện) thiếu kiến thức cơ bản về quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế, kỹ năng tác nghiệp…. Thể hiện ở các mặt sau:
- Về phẩm chất chính trị, đạo đức: Một bộ phận không nhỏ công chức hành chính nhà nước sa sút về phẩm chất, đạo đức, tham nhũng hạch sách, còn quan liêu,
hách dịch, cửa quyền, thiếu ý thức trách nhiệm và tinh thần phục vụ, “vô cảm” trước những yêu cầu bức xúc chính đáng của nhân dân, của xã hội.
- Về chất lượng và kỹ năng công tác: Số lượng công chức ngày càng tăng nhưng vẫn còn tình trạng “vừa thừa, vừa thiếu”, tuy đông nhưng không đồng bộ giữa tỉnh
với huyện, giữa ngành này với ngành khác. Thiếu công chức hành chính chuyên ngành, công chức lãnh đạo, quản lý giỏi. Nhiều công chức không nghiêm túc tự phê bình và tiếp
thu phê bình, tính chiến đấu kém, còn có tình trạng nể nang, né tránh, không dám nói thẳng, nói thật. Xét về chất lượng, số lượng và cơ cấu có nhiều mặt chưa ngang tầm với đòi
hỏi của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tinh thần trách nhiệm, tinh thần hợp tác và phong cách làm làm việc của đội ngũ công chức còn yếu và chậm
đổi mới.
- Về độ tuổi và giới tính: Đội ngũ công chức hành chính nhà nước đang có nguy cơ bị lão hóa. Theo thống kê cho thấy tỉ lệ công chức có độ tuổi trên 40 chiếm tỉ lệ
trên 50%, đáng chú ý là tỉ lệ này đang có chiều hướng gia tăng do sự thiếu hấp dẫn của khu vực hành chính Nhà nước đối với nguồn nhân lực trẻ. Cơ cấu nam nữ trong đội ngũ
công chức hành chính nhà nước của tỉnh thiếu cân bằng. Công chức nam chiếm tỷ lệ 72%, công chức nữ 28%. Số lượng công chức nữ giữ chức danh lãnh đạo, quản lý ít: Giám
đốc Sở, ngành: 01/21 đồng chí, Phó giám đốc sở, ngành: 08/66 đồng chí. Có thể do đặc thù công việc chuyên môn của các sở, ngành này nên số lượng công chức nữ bao giờ
cũng thấp hơn nhiều so với số lượng công chức nam.
Qua phân tích cơ cấu độ tuổi và giới tính cho thấy: Cơ cấu công chức hành chính nhà nước hiện nay vừa thiếu đồng bộ vừa chưa xây dựng được tỷ lệ hợp lý giữa
các độ tuổi, cơ cấu giới tính mất cân đối. Đây là vấn đề cần được quan tâm đúng mức.
* Các tiêu chuẩn yêu cầu CB-CC cấp cơ sở:

Thứ nhất: Về phẩm chất chính trị tư tưởng
Phấm chất chính trị, tư tưởng là yếu tố quan trọng, quyết định chất lượng, năng lực quản lý, điều hành của cán bộ công chức cấp xã. Để có lập trường tư tưởng đúng
đắn, bản lĩnh chính trị vững vàng đòi hỏi người CB,CC cấp xã phải thắm nhuần chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quán triệt đường lối, chủ trương chính sách của
Đảng, pháp luật Nhà Nước, có tinh thần kiên quyết đấu tranh chống lại các biểu hiện lệch lạc, mơ hồ, suy thoái về tư tưởng, chính trị, những quan điểm trái đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng phát luật của Nhà nước và các hành vi xâm phạm quyền lợi chính đáng của công dân.
Thứ hai, về phẩm chất đạo đức, lối sống
CB,CC xã phải rèn luyện, xây dựng cho mình đạo đức, lối sống lành mạnh, giản dị, gần gủi với nhân dân, nắm bắt tâm tư tình cảm của nhân dân.
Cán bộ,công chức cấp xã là người trực tiếp làm việc và sinh hoạt cùng với nhân dân, cho nên đạo đức lối sống của CB,CC cấp xã sẽ có tác động rất lớn đối với người dân, ảnh
hưởng đến hiệu quả quản lý nhà nước ở cấp xã.
CB,CC cấp xã còn phải là người gương mẫu trong công viêc chất hành đường lối, chủ trương, chính sách, tích cực đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng lãng phí,
quan liêu, suy thoái về đạo đức lối sống.
Thứ ba, về trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ, lý luận chính trị, trình độ quản lý nhà nước.
Trình độ học vấn là kiến thức nền tảng cho việc nhận thức, tiếp thu chủ trương, đường lối, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước; từ đó tổ chức thực hiệc chủ
trương, đường lối, chính sách pháp luật của đảng và Nhà nước vào cuộc sống. Do đó, đòi hỏi đội ngũ các bộ công chức cấp xã phải có trình độ học vấn cơ bản làm tiền đề để
nâng cao trình độ học vấn cơ bản làm tiền đề để nâng cao trình độ ở các lĩnh vực được phân công phụ trách.
Trình độ chuyên môn nghiệp vụ là những kiến thức chuyên sâu về một lĩnh vực nhất định, đây là kiến thức mà mà cán bộ công chức cấp xã phải có để giải quyết
công việc hàng ngày của mình. Nếu thiếu kiến thức này thì các bộ CC sẽ lúng túng trong giải quyết công việc, khó hoàn thành nhiệm vụ, hiệu quả thấp.
Các bộ CC cấp xã phải có trình độ lý luận luận chính trị nhất định để làm cơ sở cho việc nhìn nhận xem xét, đánh giá, một cách biện chứng, toàn diện lịch sử cụ thể
những vấn đế có liên quan đến các lĩnh vực phân công phụ trách, trên cơ sở đó vận dụng vào hoàn cảnh cụ thể trong thực tế.
CB-CC cấp xã phải có kỹ năng và phương pháp quản lý nhà nước, có kiến thức quốc phòng an ninh, có khả năng sử dụng máy vi tính thành thạo…
* Giải pháp nâng cao chất lượng, năng lực, phẩm chất của CBCC:
- Xây dựng hoàn thiện hệ thống PL về CBCC.
- Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng; tranh thủ sự đóng góp ý kiến của nh.dân trong giám sát, đánh giá CBCC.
- Làm tốt công tác quy hoạch, bố trí. Luân chuyển CBCC; tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng, khen thưởng, kỷ luật.
- Có chế độ chính sách, đãi ngộ phù hợp.
- Giáo dục đạo đức CBCC, đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức HCM.
LIÊN HỆ: Công tác quản lý cán bộ: Thực trạng và giải pháp
Quản lý cán bộ là một trong những nội dung rất quan trọng trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng. Thông qua công tác quản lý cán bộ, Đảng đề ra chủ trương, kế
hoạch, biện pháp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ được chính xác, thiết thực; bố trí, sử dụng đúng người, đúng việc, đồng thời, hạn chế tối đa hiện tượng suy thoái, biến chất của đội
ngũ cán bộ.

Thực trạng công tác quản lý cán bộ
Quản lý cán bộ là một trong những nội dung quan trọng của công tác cán bộ. Từ trước đến nay Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến công tác quản lý cán bộ.
Trải qua các cuộc kháng chiến trường kỳ gian khổ và cả thời kỳ đổi mới, nhiều cán bộ được Đảng, Nhà nước quản lý tốt nên trưởng thành và có nhiều đóng góp cho đất nước.
Do quản lý tốt cán bộ nên có nhiều tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh, nhiều cán bộ đảng viên nêu gương phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ, đặc biệt đã cổ vũ được sự phấn
khởi, đoàn kết trong các tầng lớp nhân dân, góp phần tăng cường lòng tin của nhân dân đối với Đảng. Sau Đại hội XII, Đảng và Nhà nước đã lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt công
tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí và tăng cường công tác quản lý cán bộ nên tình hình có chuyển biến tốt hơn.
Tuy nhiên, công tác quản lý cán bộ vẫn còn nhiều hạn chế. Thời kỳ trước đây số cán bộ vi phạm pháp luật cũng có nhưng chưa nhiều, ảnh hưởng chưa nghiêm trọng. Hiện nay,
hầu như không có ngành nào, địa phương nào là không có một bộ phận cán bộ làm việc thiếu trách nhiệm với Đảng, với Nhà nước, với nhân dân. Đặc biệt tệ tham nhũng, lãng
phí của không ít cán bộ đã trở thành vấn đề gây bức xúc nhất trong xã hội. Lĩnh vực quản lý doanh nghiệp nhà nước, quản lý đất đai, khoáng sản, xây dựng cơ bản, quản lý tài
sản công,... đã làm thất thoát, thiệt hại rất lớn đến ngân sách nhà nước. Công tác quản lý cán bộ trong một số ít cơ quan thanh tra, kiểm tra, điều tra, truy tố, xét xử,... cũng chưa
tốt nên đã để xảy ra một số vụ, việc đáng tiếc.
15


Thực trạng việc quản lý cán bộ nêu trên có nhiều nguyên nhân, cả khách quan lẫn chủ quan, nhưng nguyên nhân chủ quan là chủ yếu, cụ thể là:
Trong cơ chế mới, người cán bộ bị chi phối, tác động của nhiều mối quan hệ, như quan hệ giữa quản lý với sử dụng, quản lý với lợi ích, quản lý với môi trường, điều kiện làm
việc,... nhiều hơn, mạnh hơn trước đây. Một bộ phận cán bộ bộc lộ nhiều nhược điểm, như chưa quen quản lý sản xuất, kinh doanh, chưa có kinh nghiệm quản lý kinh tế theo cơ
chế thị trường sinh động, vừa có hợp tác, vừa có đấu tranh, chưa quen quản lý xã hội bằng pháp luật, bằng cơ chế, chính sách trong lúc trình độ khoa học kỹ thuật, quản lý kinh
tế nói chung còn hạn chế nên dễ bị sa ngã, vi phạm pháp luật.
Công tác quản lý cán bộ đang có sơ hở, yếu kém. Quản lý cán bộ còn nặng về quản lý lý lịch gia đình, quản lý trên hồ sơ bằng cấp, chứng chỉ,... mà chưa chú trọng đúng mức
đến quản lý chính trị hiện tại của mỗi cán bộ diễn biến hằng ngày theo nhịp sống của thực tiễn, chưa gắn quản lý cán bộ với đổi mới phương pháp đánh giá cán bộ. Đảng, Nhà
nước chưa có các văn bản pháp luật chặt chẽ để kiểm soát được quyền lực, còn có những kẽ hở để cán bộ lợi dụng quyền hạn, trách nhiệm trong thực thi công vụ để tham ô,
tham nhũng. Kỷ cương, kỷ luật của Đảng, Nhà nước có những lúc xử lý chưa nghiêm, chưa kịp thời. Chính sách tiền lương quá bất hợp lý lại để kéo dài. Phần đông CB,CC,
viên chức không đủ sống từ lương. Một bộ phận lớn tổ chức cơ sở đảng chưa làm tốt trách nhiệm quản lý đảng viên, buông lỏng công tác tư tưởng, tình trạng nể nang, né tránh,
ngại đấu tranh của đảng viên diễn ra phổ biến. Một bộ phận cán bộ thiếu bản lĩnh, thiếu tu dưỡng, rèn luyện, dẫn đến đặc quyền, đặc lợi, thoái hóa biến chất, không nêu gương,
nói không đi đôi với làm dẫn đến tham ô, tham nhũng, ...
Các cơ quan dân cử, như Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội chưa thực hiện đầy đủ chức năng giám sát của
mình theo quy định của pháp luật.
Một số giải pháp tăng cường công tác quản lý cán bộ
Con người nói chung, cán bộ nói riêng chịu tác động tổng hòa của nhiều mối quan hệ xã hội, vì thế Đảng, Nhà nước phải có những giải pháp đồng bộ, thiết thực, hiệu quả để

quản lý cán bộ tốt hơn.
Thứ nhất, đổi mới tư duy nhận thức về quản lý cán bộ trong thời kỳ mới. Phải xem quản lý, bảo vệ cán bộ là cách làm tốt nhất để bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, bảo vệ sự nghiệp
cách mạng, bảo đảm cán bộ luôn kiên định tư tưởng, lập trường, phẩm chất chính trị, giữ gìn đạo đức cách mạng, lối sống tốt đẹp, có nhận thức và hành động đúng đắn. Nội
dung quản lý cán bộ là quản lý phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, năng lực chuyên môn, bảo đảm cho cán bộ luôn trong sạch, trung thực, không sa ngã, thoái hóa, biến chất,
không “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong mọi hoàn cảnh. Cùng với quản lý lịch sử chính trị gia đình, phải đặc biệt coi trọng quản lý chính trị hiện tại, đặc biệt là diễn biến tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống gắn với các yếu tố phát sinh. Quản lý chính trị hiện tại không chỉ nhằm phòng ngừa kẻ địch cài cắm, mua chuộc, chia rẽ nội bộ, mà còn phòng
ngừa, ngăn chặn các khả năng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ. Quản lý cán bộ phải gắn với đổi mới đánh giá cán bộ, xem xét chuyển biến tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống; sự gia tăng bất thường tài sản mà không giải trình được nguồn gốc tài sản; các mối quan hệ “lợi ích nhóm” phức tạp.
Thứ hai, thường xuyên phổ biến, quán triệt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác quản lý cán bộ, kỷ luật, kỷ cương hành chính, đạo
đức công vụ, trong đó chú trọng các yêu cầu, nội dung, giải pháp về công tác cán bộ, kỷ luật, kỷ cương hành chính, đạo đức công vụ nêu trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương
4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII “Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự
suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa” trong nội bộ”; Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15/5/2016, của Bộ Chính trị về
“Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”; Chỉ thị số 26/CT-TTg, ngày 05/9/2016, của Thủ tướng Chính phủ “về tăng cường kỷ luật, kỷ
cương trong các cơ quan hành chính nhà nước các cấp”,...
Các cấp ủy đảng, cả hệ thống chính trị phải thường xuyên làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục cán bộ, đảng viên, để mỗi cán bộ, đảng viên nêu cao tính tiên phong, gương
mẫu trước quần chúng, tự giác chấp hành pháp luật, chấp hành các quy định của Đảng. Đây là giải pháp rất quan trọng vì khi cán bộ không tốt thì dù văn bản pháp luật có chặt
chẽ đến đâu, cơ quan quản lý cán bộ có trách nhiệm đến mấy cũng không ngăn cản được lòng tham, ham muốn không chính đáng của cán bộ. Thực hiện việc rà soát, bổ sung,
hoàn chỉnh nội quy, quy chế, quy trình làm việc của cơ quan, đơn vị mình, xây dựng và tổ chức thực hiện chương trình, kế hoạch công tác cụ thể trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ
được giao của cơ quan, tổ chức, đơn vị, đồng thời quán triệt, triển khai đối với cán bộ việc chấp hành kỷ luật, kỷ cương hành chính, văn hóa công sở và sử dụng có hiệu quả thời
gian làm việc, bảo đảm cấp dưới phục tùng sự lãnh đạo, chỉ đạo và chấp hành nghiêm chỉnh các quyết định của cấp trên.
Thứ ba, Đảng bổ sung các quy định, quy chế quản lý cán bộ, đảng viên chặt chẽ, cụ thể hơn, như quy định nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của người đứng đầu trong công
tác quản lý cán bộ; các chức danh theo phân cấp quản lý, có cơ chế phát hiện, trọng dụng người có đức có tài, bổ nhiệm cán bộ đúng người, đúng việc, thực sự vì việc để chọn
người. Đối với cấp ủy, người đứng đầu đơn vị phải chịu trách nhiệm về lãnh đạo, chỉ đạo và công tác quản lý cán bộ của đơn vị mình. Thực hiện nghiêm túc, công khai, minh
bạch các quy định về quản lý cán bộ trong tất cả các khâu: tuyển dụng, tiếp nhận, điều động, đánh giá, quy hoạch, bổ nhiệm, chuyển ngạch, nâng ngạch, đi nước ngoài và thực
hiện chế độ, chính sách đối với cán bộ, quy chế chi tiêu nội bộ, kiên quyết không để xảy ra sai phạm, tiêu cực. Ví dụ, như vấn đề nhận xét, đánh giá cán bộ cần có quy định,
đánh giá thế nào cho đúng, dựa vào nhân dân, tổ chức, đảng viên đánh giá cán bộ như thế nào chứ không chỉ đưa ra tập thể cấp ủy và quyết định. Quy định đánh giá, đề bạt, bổ
nhiệm cán bộ làm sao cho dân chủ và công bằng. Phải công bố cho đơn vị, tổ chức, địa phương đó biết đề bạt ai, đề bạt đúng quy trình như thế nào,...
Cần cụ thể hóa những quy định, quy chế của Đảng và Nhà nước thành quy chế, quy định thực hiện của các cơ quan, đơn vị, địa phương. Một yêu cầu cấp thiết hiện nay là sớm
cụ thể hóa các quy chế trong thực hiện Quy định số 105-QĐ/TW, ngày 19-12-2017, của Bộ Chính trị về phân cấp quản lý cán bộ và bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử.
Các cơ quan quản lý cán bộ cấp trên hằng năm, hằng nhiệm kỳ phải làm tốt việc đánh giá cán bộ và công khai việc đánh giá đến cán bộ, nhân dân nơi cán bộ công tác và cư trú.

Trước khi nhận xét phải lấy được các kênh thông tin đánh giá hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo và chỉ số hài lòng của cán bộ, người dân về cán bộ đó. Tăng cường kỷ cương, kỷ luật
gắn với mở rộng, phát huy dân chủ trong Đảng. Có giải pháp hiệu quả nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng, để mỗi tổ chức cơ sở đảng đều vững mạnh, trong sạch, thực chất.
Kiểm tra, làm tốt việc phát triển đảng viên có chất lượng đi đôi với tăng cường giáo dục, quản lý đảng viên, trên cơ sở đó thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ và đấu tranh
tự phê bình và phê bình trong Đảng.
Thứ tư, Nhà nước sớm bổ sung các văn bản pháp luật để kiểm soát tốt quyền lực. Quy định rất chặt chẽ, cụ thể quyền hạn, trách nhiệm các chức danh quản lý nhà nước, thực
hiện tốt cải cách hành chính, khắc phục triệt để cơ chế “xin - cho”, tăng cường thanh tra nhà nước, kỷ luật, kỷ cương hành chính. Đồng thời, từng bước tinh gọn tổ chức bộ máy,
giảm mạnh biên chế và sớm cải cách chế độ tiền lương. Có cơ chế kiểm soát được thu nhập của CB,CC, viên chức của cả hệ thống chính trị, quản lý được việc kê khai minh
bạch tài sản. Trên cơ sở đó làm cho cán bộ không muốn tham nhũng, không dám tham nhũng và không thể tham nhũng (như một số nước đã làm thành công).
Thứ năm, phát huy tốt quyền làm chủ của nhân dân trong công tác quản lý cán bộ. Trước hết các cơ quan dân cử được nhân dân tín nhiệm, giao phó, như Quốc hội và hội đồng
nhân dân các cấp phải đề cao trách nhiệm trước cử tri để giám sát chặt chẽ các cơ quan nhà nước (kể cả lực lượng vũ trang, các cơ quan tư pháp, các tập đoàn, tổng công ty nhà
nước), giám sát cán bộ quản lý các cấp trong thực thi nhiệm vụ. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội các cấp được đông đảo đoàn viên, hội viên tin
tưởng, lựa chọn cũng phải nêu cao vai trò trách nhiệm giám sát cán bộ, đảng viên theo quy định để góp phần quản lý tốt cán bộ trong cơ chế thị trường. Đảng, Nhà nước tiếp tục
phát huy, tạo điều kiện cho lực lượng phóng viên báo chí, các cơ quan truyền thông tăng cường bám sát thực tiễn, bám sát cơ sở để phản ánh kịp thời cả gương người tốt, việc
tốt lẫn việc phát hiện sai phạm của cán bộ. Vừa qua, đây là kênh phản ảnh, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực kịp thời và hiệu quả. Tiếp tục tuyên truyền, khuyến khích phát
huy quyền làm chủ của người dân trong tham gia quản lý cán bộ. Các cơ quan chức năng tăng cường làm tốt việc tiếp nhận và trình xử lý kịp thời, đúng pháp luật những phản
ánh, đơn, thư khiếu nại, tố cáo của công dân nơi công tác, nơi cư trú liên quan đến cán bộ./.

16


TIẾP CÔNG DÂN, GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI TỐ CÁO CỦA CÔNG DÂN Ở CƠ SỞ
Anh, chị hiểu như thế nào về tiếp công dân? Đặc điểm và vai trò của tiếp công dân? Giải pháp để nâng cao hiệu quả của công tác tiếp công dân.
* Khái niệm tiếp công dân:
Tiếp công dân là việc cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có trách nhiệm tiếp công dân đón tiếp để lắng nghe, tiếp nhận khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của công
dân; giải thích, hướng dẫn cho công dân về việc thực hiện khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh theo đúng quy định của pháp luật.
* Đặc điểm của tiếp công dân:
- Tiếp công dân là trách nhiệm của NN.
Khái niệm công dân luôn gắn với yếu tố quốc tịch. Công dân của một nước là người mang quốc tịch của quốc gia đó. Công dân bao giờ cũng có quyền và nghĩa vụ trong mối
quan hệ với NN. Trong mối quan hệ này, quyền của bên này là nghĩa vụ của bên kia và ngược lại. Do đó, để đảm bảo thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của
công dân, việc tiếp công dân là trách nhiệm của NN.

- Chủ thể tiếp công dân là cơ quan NN hoặc cá nhân có thẩm quyền.
Hoạt động tiếp công dân là sự giao tiếp giữa hai chủ thể: ths nhất là công dân đã đủ độ tuổi nhất định và có năng lực hành vi; thứ hai là các cơ quan NN hặc cá nhân có
thẩm quyền.
- Nội dung tiếp công dân.
Phía cơ quan NN hoặc cá nhân có thẩm quyền tiếp nhận khiếu nại, tố cáo, kiến nghị phản ánh của công dân, đồng thời giải thích, hướng dẫn cho công dân về việc thực
hiện khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh theo đúng quy định của pl.
- Tiếp công dân được thực hiện tại các địa điểm nhất định.
Theo quy ddihj của Luật tiếp công dân, địa điểm tiếp công dân bao gồm trị sở tiếp công dân, địa điểm tiếp công dân hoặc nơi làm việc khác do cơ quan, tổ chức, đơn vị
có trách nhiệm tiếp công dân bố trí và phải được thông báo công khai hoặc thông báo trước cho người được tiếp.
- Tiếp công dân được tiến hành theo những nguyên tắc nhất định.
Các nguyên tắc tiếp công dân bao gồm:
+ Việc tiếp công dân phải được tiến hành tại nơi tiếp công dân của cơ quan, tổ chức, đơn vị.
+ Việc tiếp công dân phải đảm bảo công khai, dân chủ, kịp thời; thủ tục đơn giản, thuận tiện; giữ bí mật và bảo đảm an toàn cho người tố cáo theo quy định của pl; đảm
bảo khách quan, bình đẳng, không phân biệt đối xử trong khi tiếp công dân.
+ Tôn trọng, tạo điều kiện thuận lợi cho công dân thực hiện việc khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh theo quy định của pl.
* Vai trò của tiếp công dân:
- Việc tiếp công dân giúp cơ quan NN nắm được các thông tin, kiến nghị, phản ánh, góp ý những vấn đề liên quan đến chủ trương, đường lối chính sách của Đảng và pl
của NN, công tác quản lý của cơ quan đơn vị. Qua đó, NN có các biện pháp, chủ trương phù hợp để điều chỉnh bổ sung chủ trương chính sách, hoàn thiện pháp luật cũng như để
khắc phục những bất cập hạn chế trong hoạt động của các cơ quan NN.
Tiếp công dân là hđ nhằm hiện thực hóa quyền làm chủ của công dân, là sự cụ thể hóa quyền tham gia quản lý NN và XH, tha gia thảo luận các vấn đề chung của NN và
XH của công dân, phát huy vai trò to lớn của quần chúng nhân dân trong xây dựng và BVTQ. Đồng thời, đây cũng là biểu hiện sinh động phản ánh bản chất dân chủ của NN ta NN của dân, do dân và vì dân.
Tiếp công dân nhằm đảm bảo thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo của công dân đã được Hiến pháp ghi nhận, thể hiện mối quan hệ hài hòa, dân chủ giữa NN và người dân,
giúp việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan, đơn vị được tiến hành một cách kịp thời và đúng pháp luật.
Tiếp công dân có vai trò quan trọng trong hướng dẫn công dân thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo, khắc phục những hạn chế bất cập trong việc thực hiện quyền khiếu nại,
tố cáo của mình, qua đó tuyên tryền giáo dục, nâng cao ý thức pl nói chung, pl khiếu nai, tố cáo của công dân nói riêng, góp phần giúp công dân hiểu biết thêm pháp luật nói
chung, quyền nghĩa vụ công dân nói riêng, tránh tình trạng khiếu kiện kéo dài, khiếu kiện vượt cấp...
Qua việc tiếp công dân phần nào người dân cũng nhìn nhận, đánh giá được trình độ năng lực, thái độ, phẩm chất đạo đức của người cán bộ công chức trực tiếp với mình qua đó
có thông tin tin cậy để phản ánh với cơ quan có thẩm quyền cũng như để đánh giá, lựa chọn nhân sự thông qua các kỳ bầu cử.
* Giải pháp để nâng cao hiệu quả của công tác tiếp công dân.
- Hoàn thiện hệ thống pháp luật đặc biêt là Luật tiếp công dân

- Tăng cường công tác tuyên truyền để người dân hiểu rõ
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
- Nâng cao trình độ chuyên môn cũng như phẩm chất đạo đức cho đội ngũ cán bộ làm công tác tiếp công dân.
- Kiểm tra, giám sát thường xuyên công tác tiếp công dân để kịp thời chấn chỉnh
- Cải cách hành chính tinh gọn, đảm bảo phục vụ tốt cho nhân dân\\
- Thực hiện quy chế dân chủ, công khai thủ tục hành chính
Khái niệm, đặc điểm của khiếu nại, tố cáo; phân biệt KN và TC? Liên hệ thực tế?
1. Khái niệm, đặc điểm của khiếu nại:
a. Khái niệm: Theo quy định của Luật Khiếu nại 2011: “Khiếu nại là việc công dân, cơ quan tổ chức hoặc CB,CC theo thủ tục do Luật này quy định, đề nghị cơ quan,
tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính
nhà nước hoặc quyết định kỷ luật CB,CC khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích họp pháp của mình".
b. Đặc điểm:
- Chủ thể khiếu nại là công dân, cơ quan, tổ chức hoặc CB,CC.
- Chủ thể bị khiếu nại là cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật bị khiếu nại.
- Đối tượng khiếu nại là quyết định hành chính, hành vi hành chính hoặc quyết định kỷ luật CB,CC liên quan đến chủ thể khiếu nại.
+ Quyết định hành chính (đối tượng của khiếu nại) là văn bản do cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước ban hành
để quyết định về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đổi tượng cụ thế.
+ Hành vi hành chính là hành vi của cơ quan hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước thực hiện hoặc không thực hiện nhiệm
vụ, công vụ theo quy định của pháp luật.
+ Quyết định kỷ luật là quyết định bằng văn bản của người đứng đầu cơ quan, tổ chức để áp dụng một trong các hình thức kỷ luật đối với CB,CC thuộc quyền quản lý
của mình theo quy định của pháp luật về CB,CC.
- Thủ tục, thâm quyền khiếu nại do Luật khiếu nại 2011 quy định chặt chẽ.
- Căn cứ của khiếu nại là khi chủ thể khiếu nại có căn cứ cho rằng quyết định hành chính, hành vi hành chính hoặc quyết định kỷ luật CB,CC là trái pháp luật, xâm
phạm quyền, lợi ích hợp pháp của chủ thể khiếu nại.
- Mục đích của khiếu nại là nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể khiếu nại.
2. Khái niệm, đặc điểm của tố cáo:
a. Khái niệm: Theo quy định của Luật Tố cáo 2011: "Tố cáo là việc công dân theo thủ tục do Luật này quy định báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền
biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của
cône dân, cơ quan, tổ chức”.
b. Đặc điểm:

- Chủ thể tố cáo là cá nhân.
- Chủ thể bị tố cáo là cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi bị tố cáo.
- Đối tượng của tố cáo là hành vi vi phạm pháp luật của bất kỳ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền và
lợi ích họp pháp của công dân, cơ quan, tố chức.
Vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật do người có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện, bởi lỗi cổ ý hoặc lồi vô ý, xâm phạm tới các quan hệ xã hội được
pháp luật bảo vệ.
- Thủ tục tố cáo do Luật Tố cáo 2011 quy định chặt chẽ.
- Mục đích của tố cáo không chỉ là bảo vệ quyền và lợi ích của nguời tố cáo mà còn bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích của cơ quan, tổ chức, công dân
khác.
3. Phân biệt khiếu nại và tố cáo:

17


Khiếu nai

Tố cáo

4. Liên hệ thực tế:
Cơ quan tôi thực hiện chức năng, nhiệm vụ
quản lý nhà nước trên lĩnh vực an ninh trật tự và
quản lý CB,CC. Trong quá trình thực thi nhiệm vụ
do nhà nước giao xảy ra các trường họp sau đây:
Chủ thể
a. Đối vói khiếu nại: Người có thẩm quyền
trong cơ quan tôi ban hành các quyết định hành
chính đối với công dân, cơ quan tổ chức hoặc quyết
định kỷ luật CB,CC và bị công dân, cơ quan tổ
Quyết định hành chính, hành vi hành chính hoặc
Bất kỳ hành vi vi phạm pháp luật nào.

Đối tượng
chức hoặc CB,CC khiếu nại: đề nghị cơ quan, cá
quyết định kỷ luật CBCC.
nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể
Bên cạnh bảo vệ quyền và lợi ích họp pháp
chính, hành vi hành chính của cơ quan tôi, của
khiếu nại.
của chủ thể tố cáo thì còn bảo vệ quyền và lợi
Mục đích
người có thẩm quyền trong cơ quan tôi hoặc quyết
ích họp pháp của các cá nhân, tổ chức khác
định kỷ luật CB,CC khi có căn cứ cho rằng quyết
hoặc lợi ích của Nhà nước.
định hoặc hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm
Mang tính nội bộ, lấy tiêu chí sửa nhanh là
Phức tạp hơn so với khiếu nại
Tính chất
quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
chính.
Khi bị khiếu nại, chủ thể bị khiếu nại (cơ quan
tôi hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan tôi) tiếp nhận, xử lý, giải quyết đơn khiếu nại theo đúng trình tự, thủ tục, thẩm quyền khiếu nại do Luật khiếu nại 2011 quy định.
b. Đối vói tố cáo:
Công dân báo cho cơ quan tôi hoặc cá nhân có thẩm quyền trong cơ quan tôi biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại
hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức. Ở đây, có thể tố cáo nội dung vi phạm pháp luật trong hoạt động tố tụng
hình sự của cán bộ điều tra (bức cung, bỏ lọt tội phạm, oan sai..
Khi tiếp nhận nội dung tố cáo, cơ quan tôi hoặc cá nhân có thẩm quyền trong cơ quan tôi xử lý, giải quyết đon tố cáo theo đúng trình tự, thủ tục, thẩm quyền tố cáo do
Luật tố cáo 2011 quy định.
* Để giải quyết khiếu nại, tố cáo có hiệu quả, đúng quy định của Luật Khiếu nại và Luật Tố cáo, theo tôi các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết khiếu
nại, tố cáo cần thực hiện tốt một số nội dung sau đây:

- Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật về khiếu nại, tổ cáo cho người dân, CB,CC, cơ quan, tổ chức nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm trong việc khiếu nại,
tố cáo.
- Bố trí cán bộ thường trực có trách nhiệm tiếp công dân hàng ngày tại cơ quan, đơn vị để tiếp nhận xử lý các kiến nghị phản ánh, khiếu nại, tố cáo; phòng tiếp dân phải
đảm bảo các điều kiện theo quy định (bàn ghế, giấy bút, nội quy, quy định...)
- Mở các lớp đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo cho cán bộ công chức thuộc cơ quan, đơn vị mình quàn lý để nhận thức,
nắm vừng và thực hiện đúng quy trình, trình tự, thủ tục, thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo.
- Thủ trưởng đơn vị phải tổ chức tiếp công dân ít nhất 01 ngày/tháng.
- Cơ quan, cá nhân có thẩm quyền của cơ quan quản lý hành chính nhà nước trong quá trình thực thi pháp luật phải khách quan, công băng, tuân thủ đúng quy định
pháp luật; chịu trách nhiệm trước các quyêt định hành chính do mình ban hành.
- Có kế hoạch bảo vệ an toàn tính mạng và tài sản của người tố cáo.
- Chủ thể khiếu nại là cá nhân, tố chúc.
- Chủ thể tố cáo là cá nhân.
Chủ thể bị khiếu nại là cá nhân, tổ chức có quyết Chủ thể bị tố cáo là cá nhân, tổ chức có bất kỳ
định hành chính, hành vi hành chính hoặc quyết
hành vi vi phạm pháp luật nào.
định kỷ luật CBCC bị khiếu nại.
Chủ thể bị tố cáo không thể là người giải quyết
Chủ thể bị khiếu nại có thể là người giải quyết
tố cáo.
khiếu nại.

Trình bày khái niệm, đặc điểm khiếu nại. Vai trò của giải quyết khiếu nại? Bài 10
1. Khái niệm: Theo quy định của Luật Khiếu nại 2011: “Khiếu nại là việc công dân, cơ quan tổ chức hoặc CB,CC theo thủ tục do Luật này quy định, đề nghị cơ quan, tổ
chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà
nước hoặc quyết định kỷ luật CB,CC khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích họp pháp của mình".
2.Đặc điểm:
- Chủ thể khiếu nại là công dân, cơ quan, tổ chức hoặc CB,CC.
- Chủ thể bị khiếu nại là cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật bị khiếu nại.
- Đối tượng khiếu nại là quyết định hành chính, hành vi hành chính hoặc quyết định kỷ luật CB,CC liên quan đến chủ thể khiếu nại.
+ Quyết định hành chính (đối tượng của khiếu nại) là văn bản do cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước ban hành

để quyết định về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đổi tượng cụ thế.
+ Hành vi hành chính là hành vi của cơ quan hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước thực hiện hoặc không thực hiện nhiệm
vụ, công vụ theo quy định của pháp luật.
+ Quyết định kỷ luật là quyết định bằng văn bản của người đứng đầu cơ quan, tổ chức để áp dụng một trong các hình thức kỷ luật đối với CB,CC thuộc quyền quản lý
của mình theo quy định của pháp luật về CB,CC.
- Thủ tục, thâm quyền khiếu nại do Luật khiếu nại 2011 quy định chặt chẽ.
Căn cứ của khiếu nại là khi chủ thể khiếu nại có căn cứ cho rằng quyết định hành chính, hành vi hành chính hoặc quyết định kỷ luật CB,CC là trái pháp luật, xâm
phạm quyền, lợi ích hợp pháp của chủ thể khiếu nại.
Mục đích của khiếu nại là nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể khiếu nại.
3. Vai trò:
- Việc giải quyết khiếu nại có vai trò bảo đảm thực hiện và phát huy quyền dân chủ của công dân.
- Việc giải quyết khiếu nại là cách thức để khôi phục và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của người khiếu nại. Đồng thời thể hiện trách nhiệm của Nhà nước trước
người dân.
- Qua việc khiếu nại và giải quyết khiếu nại góp phần quan trọng vào việc chấn chỉnh hoạt động của cơ quan nhà nước. Giúp cơ quan nhà nước nhìn nhận lại những yếu
kém bất cập trong hoạt động của mình đồng thời là cơ sở để đánh giá năng lực, phẩm chất đạo đức của đội ngũ công chức hành chính nhà nước.
Trình bày khái niệm, đặc điểm tố cáo. Vai trò của giải quyết tố cáo?
1. Khái niệm: Theo quy định của Luật Tố cáo 2011: "Tố cáo là việc công dân theo thủ tục do Luật này quy định báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về
hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan,
tổ chức”.
2. Đặc điểm:
Chủ thể tố cáo là cá nhân.
Chủ thể bị tố cáo là cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi bị tố cáo.
Đối tượng của tố cáo là hành vi vi phạm pháp luật của bất kỳ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền và
lợi ích họp pháp của công dân, cơ quan, tố chức.
Vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật do người có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện, bởi lỗi cổ ý hoặc lồi vô ý, xâm phạm tới các quan hệ xã hội được pháp
luật bảo vệ.
Thủ tục tố cáo do Luật Tố cáo 2011 quy định chặt chẽ.
Mục đích của tố cáo không chỉ là bảo vệ quyền và lợi ích của nguời tố cáo mà còn bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích của cơ quan, tổ chức, công dân
khác.
3. Vai trò:

- Việc giải quyết tố cáo thể hiện sự tôn trọng và bảo đảm thực hiện quyền dân chủ của công dân.
- Việc giải tố cáo là biện pháp hữu hiệu, góp phần quan trọng trong bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của xã hội và của mọi cá nhân, tổ chức trước những
hành vi vi phạm pháp luật của bất kì chủ thể nào.
- Việc giải quyết tố cáo có vai trò quan trọng trong đấu tranh phòng ngừa vi phạm pháp luật trong xã hội.
- Việc giải quyết tố cáo góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Câu: Trình bày khái niệm tiếp công dân, trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan nhà nước về tiếp công dân?
18


* Tiếp công dân là việc cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có trách nhiệm tiếp công dân đón tiếp để lắng nghe, tiếp nhận khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của
công dân; giải thích, hướng dẫn cho công dân về việc thực hiện khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh theo đúng quy định của pháp luật.
Đặc điểm của việc tiếp công dân:
+ Trách nhiệm: của các cơ quan nhà nước
+ Chủ thể tiếp công dân là các cơ quan nhà nước hoặc cá nhân có thẩm quyền
+ Nội dung tiếp công dân: tiếp nhận khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của công dân; giải thích, hướng dẫn cho công dân về việc thực hiện khiếu nại, tố cáo, kiến
nghị, phản ánh theo đúng quy định của pháp luật.
+ Địa điểm: tiếp công dân thực hiện tại các địa điểm quy định
+ Các nguyên tắc tiếp công dân: Việc tiếp công dân phải được tiến hành tại nơi quy định tiếp công dân; phải đảm bảo công khai, dân chủ, kịp thời; thủ tục đơn giản,
thuận tiện; giữ bí mật và đảm bảo an toàn cho người tố cáo theo quy định của pháp luật; bảo đảm khách quan, bình đẳng, không phân biệt đối xử trong khi tiếp công dân; Tôn
trọng, tạo điều kiện thuận lợi cho công dân thực hiện việc khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh theo quy định của pháp luật.
* Trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan nhà nước về tiếp công dân:
- Tổ chức quản lý
- Tiếp công dân theo định kỳ
- Tiếp công dân trong các trường hợp đột xuất
LIÊN HỆ THỰC TẾ
2. Thực trạng việc thực hiện các nguyên tắc tiếp công dân
2.1. Kết quả đạt được
Điều 3 Luật Tiếp công dân năm 2013 quy định về nguyên tắc trong tiếp công dân:
“1. Việc tiếp công dân phải được tiến hành tại nơi tiếp công dân của cơ quan, tổ chức, đơn vị.
2. Việc tiếp công dân phải bảo đảm công khai, dân chủ, kịp thời; thủ tục đơn giản, thuận tiện; giữ bí mật và bảo đảm an toàn cho người tố cáo theo quy định của pháp luật; bảo

đảm khách quan, bình đẳng, không phân biệt đối xử trong khi tiếp công dân.
3. Tôn trọng, tạo điều kiện thuận lợi cho công dân thực hiện việc khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh theo quy định của pháp luật”.
Theo đó, việc thực hiện các nguyên tắc tiếp công dân trong thực tiễn đạt được những kết quả sau:
Nguyên tắc tiếp công dân phải được tiến hành tại nơi tiếp công dân của cơ quan, tổ chức, đơn vị
Trong năm 2015, Trụ sở tiếp công dân Trung ương đã tiếp 27.834 lượt người, giảm 31,9% (27834/40876) so với năm 2014, (Hà Nội: 23.768 lượt, thành phố Hồ Chí Minh:
4.066 lượt), đến trình bày 7.645 vụ việc, giảm 9,5% (7645/8447), (Hà Nội: 6.473 việc, thành phố Hồ Chí Minh: 1.172 việc), trong đó khiếu nại 4.797 việc, tố cáo 1.740 việc,
kiến nghị và phản ánh 1.108 việc; có 769 lượt đoàn đông người, tăng 18,5% (769/649), (Hà Nội: 645 lượt, thành phố Hồ Chí Minh: 124 lượt).
Trong số 7.645 vụ việc đã tiếp, Thanh tra Chính phủ tiếp 5.051 việc, Ban Dân nguyện của Ủy ban thường vụ Quốc hội tiếp 1.539 việc, Văn phòng Chính phủ tiếp 791 việc, Ủy
ban kiểm tra Trung ương tiếp 156 việc, Văn phòng Trung ương Đảng tiếp 25 việc, Ban Nội chính Trung ương tiếp 75 việc, Văn phòng Chủ tịch nước 03 việc, Mặt trận Tổ quốc
05 việc. Nội dung khiếu tố tập trung vào các lĩnh vực như: liên quan đến đất đai 4.158 việc (chiếm 54%); án tư pháp 1.257 việc; chính sách 416 việc.
Qua xem xét hồ sơ, có 2.667 việc (chiếm 34,9%) chưa được các cơ quan có thẩm quyền giải quyết; 4.978 việc (chiếm 65,1%) đã được các cơ quan có thẩm quyền xem xét, giải
quyết. Trong số 769 lượt đoàn đông người đã tiếp, có 49/63 địa phương xuất hiện đoàn đông người đến Trụ sở Tiếp công dân Trung ương, trong đó có 31 địa phương có từ 05
đoàn trở lên[4] (Phụ lục II: Các đoàn đông người đáng lưu ý). Nội dung khiếu nại chủ yếu là: đòi lại đất cũ, khiếu nại về chính sách bồi thường, hỗ trợ, khu tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất để thực hiện các dự án phát triển kinh tế xã hội của địa phương[5]…
Tại một số Bộ, ngành (Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao, Bộ Công an…), Trụ sở tiếp công dân được bố trí thuận tiện cho công dân đến khiếu nại, tố cáo, kiến
nghị, phản ánh; có phương tiện và trang thiết bị đầy đủ để phục vụ công tác tiếp công dân; niêm yết nội quy tiếp công dân, lịch tiếp công dân thường xuyên và lịch tiếp công dân
của lãnh đạo Bộ; cử CB,CC có năng lực, kinh nghiệm và phẩm chất đạo đức thực hiện nhiệm vụ tiếp theo. Nhiều tỉnh, thành (thành phố Hồ Chí Minh, Bắc Ninh, Quảng Ninh,
Nghệ An...) đã xây dựng Trụ sở tiếp công dân khang trang, thuận tiện, đảm bảo về trang thiết bị, điều kiện làm việc cần thiết; xây dựng nội quy, bố trí cán bộ tiếp dân thường
xuyên theo quy định. Một số tỉnh, lãnh đạo tỉnh đã quan tâm bổ sung cho các cơ quan tiếp công dân những cán bộ có năng lực, phẩm chất, có ý thức trách nhiệm, khách quan,
công tâm, có tác phong gần gũi quần chúng; có kỹ năng công tác tiếp công dân; được đào tạo nghiệp vụ tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo (Hòa Bình, Nghệ An…). Một
số địa phương đã quan tâm kiện toàn, bố trí, bổ sung cán bộ làm nhiệm vụ tiếp công dân ở cấp tỉnh (bố trí từ 5 - 8 người, có bộ máy lãnh đạo). Nhưng còn nhiều địa phương mới
bố trí được 3 - 4 người làm nhiệm vụ, có nơi mới có 1 - 2 cán bộ chuyên trách và 1 - 2 cán bộ hợp đồng. Ở cấp huyện, hầu hết bố trí 01 cán bộ chuyên trách và phân công thêm
một số cán bộ làm kiêm nhiệm để tiếp công dân[6].
Trên thực tế, đa số người dân đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh đều được đón tiếp tại Trụ sở tiếp công dân. Cán bộ tiếp công dân thực hiện nhiệm vụ đón tiếp, lắng
nghe, tiếp nhận khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của công dân. Đây chính là quá trình giao tiếp giữa cán bộ tiếp công dân với người dân. Khi tiến hành giao tiếp, cán bộ
tiếp công dân phải ở thế chủ động điều khiển cuộc đón tiếp theo ý muốn của mình, khi nào cần lắng nghe, khi nào cần hỏi, hỏi thông tin gì để phục vụ cho việc xử lý sau này.
Về cơ bản, khi tiếp công dân tại Trụ sở tiếp công dân, cán bộ tiếp công dân tuân thủ tốt mục đích, yêu cầu của việc tiếp công dân. Đó là đón tiếp để lắng nghe, tiếp nhận khiếu
nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của công dân. Ở đây, cán bộ tiếp công dân bằng các biện pháp nghiệp vụ của mình làm sao để người dân nói ra những ý kiến của mình, trình bày
những vấn đề mà họ quan tâm, bổ sung thêm thông tin, tài liệu về nội dung khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh. Ở đây, cán bộ tiếp công dân có trách nhiệm phải lắng nghe (kể
cả phải lắng nghe những bức xúc của công dân) khi đón tiếp. Chính vì thế cán bộ tiếp dân phải biết khuyến khích đối tượng giao tiếp với mình, bằng cách chú ý lắng nghe đối

tượng trình bày ý kiến của họ. Cán bộ tiếp dân phải biết kết luận các ý kiến mà đối tượng đưa ra, thống nhất với họ quan điểm chính trên cơ sở tư duy khoa học, tư duy logic và
tính quyết đoán của nhân cách.
Nguyên tắc tiếp công dân phải bảo đảm công khai, dân chủ, kịp thời; thủ tục đơn giản, thuận tiện; giữ bí mật và bảo đảm an toàn cho người tố cáo theo quy định của pháp luật
Trong quá trình tiếp công dân tại Trụ sở tiếp công dân, nguyên tắc công khai, dân chủ, kịp thời luôn được cán bộ tiếp dân tuân thủ. Theo đó, việc đón tiếp được thực hiện tại Trụ
sở tiếp công dân; khi tiếp công dân, cán bộ tiếp dân thường trao đổi kỹ với người dân về nội dung người dân trình bày, lắng nghe ý kiến của họ và trao đổi lại khi thấy ý kiến
không phù hợp, thông tin, tài liệu được cung cấp chưa đầy đủ, chính xác. Bên cạnh đó, việc tuân thủ tiếp công dân tại trụ sở tiếp công dân cũng là một nội dung thể hiện sự công
khai trong việc tiếp dân, mọi công việc đều được giải quyết một cách công khai, không có sự riêng tư trong quá tình tiếp công dân.
Tính kịp thời thể hiện mọi người dân đến Trụ sở tiếp công dân đều được đón tiếp (theo lịch đăng ký), Ban Tiếp công dân bố trí đầy đủ cán bộ để tiếp công dân. Trong trường
hợp đột biến có nhiều người đến Trụ sở tiếp công dân, nhằm hạn chế việc người dân phải chờ đợi, Ban tiếp công dân sẽ tăng cường thêm cán bộ để tiếp công dân. Về cơ bản,
người dân đến Trụ sở tiếp công dân đều được đón tiếp kịp thời, đúng trình tự, thủ tục. Ngoài ra, theo quy định của Luật tiếp công dân, cơ quan, tổ chức, đơn vị có trách nhiệm
niêm yết công khai thông tin về việc tiếp công dân của cơ quan, tổ chức, đơn vị mình tại trụ sở cơ quan, tổ chức, đơn vị, tại địa điểm tiếp công dân và công bố trên trang thông
tin điện tử của cơ quan, tổ chức, đơn vị (nếu có).Nội dung thông tin cần công bố bao gồm: nơi tiếp công dân; thời gian tiếp công dân thường xuyên; lịch tiếp công dân của người
đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị; thành phần tham dự và dự kiến nội dung tiếp công dân của các buổi tiếp công dân định kỳ; lịch tiếp công dân được niêm yết chậm nhất là 05
ngày làm việc, trước ngày tiếp công dân; trường hợp không thể thực hiện việc tiếp công dân theo lịch đã công bố do có lý do chính đáng thì có thể lùi lịch tiếp công dân sang
thời gian khác và phải thông báo cụ thể thời gian dự kiến tiếp công dân tại nơi tiếp công dân. Nội dung này luôn được các cơ quan, tổ chức tuân thủ, nhiều cơ quan, đơn vị
không chỉ niêm yết công khai lịch tiếp dân trước 5 ngày, mà còn niêm yết lịch tiếp dân của lãnh đạo trong cả Quý. Điều này giúp người dân có thể chủ động, kịp thời sắp xếp
lịch để có thể được gặp lãnh đạo cơ quan, tổ chức khi tiếp dân định kỳ.
Trường hợp người tố cáo, trong quá trình, cán bộ tiếp công dân phải giữ bí mật họ tên, địa chỉ, bút tích người tố cáo trừ khi người tố cáo đồng ý công khai; không được tiết lộ
những thông tin có hại cho người tố cáo; nếu thấy cần thiết hoặc khi người tố cáo yêu cầu thì người tiếp công dân áp dụng những biện pháp cần thiết hoặc kiến nghị áp dụng
những biện pháp cần thiết để bảo vệ người tố cáo, người thân thích của người tố cáo. Về cơ bản, ở giai đoạn này thì việc giữ bí mật thông tin của người tố cáo được cán bộ tiếp
dân thực hiện theo đúng quy trình đề ra, bởi vì trong giai đoạn này chưa phát sinh các biện pháp nghiệp vụ (xác minh nội dung tố cáo) nên việc giữ bí mật cho người tố cáo
được tuân thủ theo đúng quy định.
Nguyên tắc tôn trọng, tạo điều kiện thuận lợi cho công dân thực hiện việc khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh theo quy định của pháp luật
Trong quá trình tiếp công dân, cán bộ khi tiếp công dân đã thực hiện nghiêm túc nguyên tắc này. Người dân đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh đều được tôn trọng, tạo
điều kiện thuận lợi khi thực hiện quyền của mình. Ví dụ, theo quy định của Luật Tiếp công dân thì cán bộ tiếp công dân có quyền từ chối tiếp trong trường hợp người khiếu nại,
tố cáo về vụ việc đã giải quyết đúng chính sách, pháp luật, được cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiểm tra, rà soát, thông báo bằng văn bản và đã được tiếp, giải thích, hướng
dẫn nhưng vẫn cố tình khiếu nại, tố cáo kéo dài. Nhưng thực tế, rất nhiều trường hợp đã có thông báo chấm dứt giải quyết, nhưng đương sự vẫn liên tục đến khiếu nại gay gắt
mà cán bộ tiếp dân không thể từ chối việc tiếp. Trong trường hợp này, cán bộ tiếp công dân vẫn phải lắng nghe, giải thích, hướng dẫn để người dân hiểu và thực hiện quyền của
mình chứ không từ chối tiếp công dân. Bởi vì, xét ở khía cạnh nào đó việc giải quyết của các cơ quan có thẩm quyền chưa làm hài lòng người dân, có thể ảnh hưởng đến quyền
và lợi ích của họ nên người dân tiếp tục thực hiện quyền của mình được pháp luật quy định.

Nhằm đảm bảo hơn nữa việc giải thích, hướng dẫn cho công dân thực hiện khiếu nại, tố cáo kiến nghị, phản ánh thời gian qua, Thanh tra Chính phủ phối hợp với Ban Thường
trực Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Bộ Tư pháp, Hội Luật gia Việt Nam và Liên đoàn Luật sư Việt Nam thực hiện Chương trình phối hợp số 01-CTPH/MTTQ-TTCPBTP-HLG-LĐLS ngày 11/11/2014 về giám sát nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo ở cơ sở, theo đó, Thanh tra Chính phủ phối hợp với Ban Thường trực Trung ương
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Liên đoàn Luật sư Việt Nam triển khai công tác trợ giúp pháp lý của Luật sư tại Trụ sở tiếp dân Trung ương.
Về trình tự, thủ tục khi tiếp công dân: Theo quy định, khi người khiếu nại có đơn trình bày nội dung rõ ràng, đầy đủ ngày, tháng, năm khiếu nại; tên, địa chỉ của người khiếu nại;
tên địa chỉ của cơ quan, tổ chức, cá nhân bị khiếu nại; nội dung, lý do khiếu nại và yêu cầu của người khiếu nại. Đơn khiếu nại phải do người khiếu nại ký tên thì người tiếp
19


công dân cần xác định nội dung vụ việc, yêu cầu của người khiếu nại để xử lý cho phù hợp. Nếu nội dung đơn khiếu nại không rõ ràng, chưa đầy đủ thì người tiếp công dân đề
nghị người khiếu nại viết lại đơn khiếu nại hoặc viết bổ sung vào đơn khiếu nại về những nội dung chưa rõ, còn thiếu. Trường hợp không có đơn khiếu nại thì người tiếp công
dân hướng dẫn người khiếu nại viết đơn khiếu nại theo các nội dung quy định. Nếu công dân đến trình bày trực tiếp thì người tiếp công dân ghi chép đầy đủ, trung thực, chính
xác nội dung khiếu nại do công dân trình bày; nội dung nào chưa rõ thì đề nghị người khiếu nại trình bày thêm, sau đó đọc lại cho người khiếu nại nghe và đề nghị họ ký tên
hoặc điểm chỉ.
2.2. Tồn tại, hạn chế trong thực hiện nguyên tắc tiếp công dân
Bên cạnh những kết quả đạt được, quá trình thực hiện nguyên tắc tiếp công dân còn tồn tại một số hạn chế như sau:
Một là, việc thực hiện nguyên tắc tiếp công dân tại Trụ sở tiếp công dân chưa được tuân thủ nghiêm túc.
Trên thực tế, tùy từng vùng miền, hoàn cảnh hoặc tính chất của vụ việc mà cán bộ có thẩm quyền tiếp công dân (nhận đơn khiếu nại, tố cáo) tại nhà riêng của mình (thường xảy
ra ở vùng sâu, vùng xa, nông thôn). Ngoài ra, trong quá trình đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND các cấp tiếp xúc cử tri tại nơi cư trú thì người dân cũng thường gửi đơn qua các
đại biểu; đôi khi người dân gửi đơn, thư qua người quen, họ hàng thân thích làm việc tại các cơ quan nhà nước… Trong những trường hợp này thì người dân ít có cơ hội tiếp cận
với cán bộ tiếp công dân để trình bày về nội dung vụ việc; bổ sung hồ sơ, tài liệu còn thiếu (nếu có); được nghe luật sự tư vấn miễn phí về quyền và nghĩa vụ của mình; được
hướng dẫn gửi đơn đến đúng cơ quan có thẩm quyền… Điều này phần nào hạn chế quyền lợi của người dân, mặt khác dẫn đến nguy cơ phát sinh việc trồng chéo, trùng lắp khi
tiếp nhận và giải quyết của các cơ quan chức năng.
Hai là, việc tuân thủ nguyên tắc giữ bí mật thông tin về người tố cáo trong quá trình tiếp công dân và giải quyết tố cáo của người dân nhiều khi không thực hiện được.
Trong quá trình thực hiện, các cơ quan sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc giữ bí mật thông tin về người tố cáo khi tiếp nhận, xử lý, xác minh, giải quyết, công khai kết luận nội
dung tố cáo... Ví dụ, khi tiến hành xác minh, Đoàn xác minh, Tổ xác minh gửi công văn cho người tố cáo (qua cơ quan, đơn vị công tác) để làm việc, cung cấp thông tin, tài
liệu… sẽ rất khó để giữ bí mật. Mặc dù, việc xác minh giải quyết tố cáo nhiều khi thuộc trách nhiệm của cơ quan, đơn vị khác, song với trách nhiệm của đơn vị tiếp nhận tố cáo
của người dân thì bộ phận tiếp công dân cũng phải có trách nhiệm trong việc giữ gìn thông tin về người tố cáo.
Ba là, việc đảm bảo nguyên tắc kịp thời, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tại nhiều nơi chưa đảm bảo.
Một số nơi chưa xây dựng và niêm yết công khai nội quy, quy chế tiếp công dân, lịch tiếp của Thủ trưởng đơn vị; việc đùn đẩy trách nhiệm; tình trạng hướng dẫn công dân
khiếu nại, tố cáo không đúng nơi quy định vẫn xảy ra; việc tiếp công dân ở cấp xã vẫn còn nhiều bất cập về địa điểm, nội quy và lịch tiếp công dân; việc đầu tư, bố trí mua sắm

trang thiết bị cho nơi tiếp công dân ở nhiều nơi thuộc cấp huyện, cấp xã còn khó khăn về kinh phí; chất lượng đội ngũ làm công tác tiếp công dân chưa được kiện toàn và củng
cố đúng mức.
Bốn là, vẫn còn có công chức chưa thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ được giao, thiếu trách nhiệm, thiếu bản lĩnh; chất lượng tham mưu, đề xuất các vụ việc chuyển các cục,
vụ thuộc Thanh tra Chính phủ chưa cao; phối hợp, theo dõi, đôn đốc việc thực hiện chưa được thường xuyên, kết nối thông tin chưa đầy đủ, chưa đảm bảo nguyên tắc kịp thời
trong công tác tiếp công dân, xử lý đơn thư.
3. Một số giải pháp, kiến nghị nhằm thực hiện có hiệu quả các nguyên tắc tiếp công dân
3.1. Một số giải pháp
Nhằm khắc phục những tồn tại, hạn chế nêu trên trong thực hiện các nguyên tắc tiếp công dân cần phải triển khai đồng bộ một số giải pháp sau:
- Nâng cao nhận thức của thủ trưởng các cơ quan, đơn vị và cán bộ thực hiện nhiệm vụ tiếp công dân về vai trò, ý nghĩa và tầm quan trọng của các nguyên tắc trong tiếp công
dân.
- Nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và ý thức trách nhiệm của đội ngũ cán bộ làm công tác tiếp dân.
- Đổi mới cơ chế tiếp công dân nhằm gắn trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị với công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo.
- Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo trong hoạt động tiếp công dân.
- Tăng cường sự giám sát, kiểm tra hoạt động tiếp công dân.
- Tổng kết thực tiễn việc tiếp công dân, việc thực hiện pháp luật về tiếp công dân.
- Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị, cán bộ phục vụ công tác tiếp công dân.
3.2. Một số kiến nghị
Đối với Chính phủ:
- Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các quy định về chế tài xử lý đối với các hành vi vi phạm trong tiếp công dân, thể chế hóa một số nội dung vào nguyên tắc tiếp công dân.
- Xây dựng chế độ đãi ngộ thỏa đáng về lương, thưởng, cơ hội học tập, thăng tiến rõ ràng, minh bạch, tạo động lực làm việc, cống hiến và phấn đấu cho các cán bộ làm công tác
tiếp dân.
- Xây dựng tiêu chuẩn đầu vào đối với đội ngũ cán bộ làm công tác tiếp công dân để lựa chọn những cá nhân có đủ năng lực, phẩm chất để thực hiện công tác tiếp công dân.
Đối với Thanh tra Chính phủ:
- Thường xuyên đẩy mạnh việc tuyên truyền pháp luật về tiếp công dân, khiếu nại, tố cáo qua các kênh như báo chí, phát thanh truyền hình, các hội thảo, hội nghị, xuất bản ấn
phẩm,... xây dựng các chuyên mục về tuyên truyền pháp luật về tiếp công dân, khiếu nại, tố cáo trên Báo Thanh tra, Tạp chí Thanh tra, trên cổng thông tin điện tử của Thanh tra
Chính phủ, trên Trang tin điện tử của Viện Khoa học Thanh tra, Báo Thanh tra, Trường Cán bộ Thanh tra.
- Trung tâm Thông tin và các đơn vị phối hợp sớm hoàn thiện cơ sở dữ liệu chung về tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo để đưa vào phục vụ công tác của ngành.
- Vụ Tổ chức cán bộ và Trường Cán bộ Thanh tra chuẩn hóa tài liệu giảng dạy cho các lớp nghiệp vụ tiếp công dân; xây dựng kế hoạch bồi dưỡng định kỳ các quy định của
pháp luật về tiếp công dân; mở các lớp đào tạo một số kỹ năng cho cán bộ tiếp công dân.
- Tăng cường thanh tra, kiểm tra trách nhiệm trong việc thực hiện pháp luật về tiếp công dân nhằm đảm bảo các quy định pháp luật về tiếp công dân, các nguyên tắc trong tiếp

công dân được tuân thủ, bảo đảm thực hiện.
Đối với Ban Tiếp công dân Trung ương và các cấp:
- Ban Tiếp công dân Trung ương và các cấp cần tổ chức tổng kết hoạt công tác tiếp công dân theo định kỳ 6 tháng và 1 năm, đánh giá chất lượng, hiệu quả hoạt động tiếp công
dân. Trên cơ sở đó, có các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về tiếp công dân và các nguyên tắc trong hoạt động tiêp công dân.
- Đảm bảo trang thiết bị, cán bộ phục vụ công tác tiếp công dân.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác tiếp công dân có đủ năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu của hoạt động tiếp công dân./.

20



×