Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

LẠM PHÁP VÀ CÔNG CỤ KIỀM CHẾ LẠM PHÁT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (331.38 KB, 26 trang )

ĐẠI HỌC SÀI GÒN
KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH
--------------------------

ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU VỀ LẠM PHÁT VÀ CÁC CÔNG
CỤ KINH TẾ VĨ MÔ NHẰM KIỀM CHẾ LẠM PHÁT Ở
VIỆT NAM

MÔN : KINH TẾ VĨ MÔ
GIẢNG VIÊN : TS. NGUYỄN PHAN THU HẰNG

Nhóm 7 : Hà Tường Vy
Lê Nguyễn Mỹ Hằng
Nguyễn Vũ Phương Uyên
Bùi Thị Kim Trâm


Giới thiệu khái quát về đề tài nghiên cứu :
Hiện nay nền kinh tế của toàn thế giới có nhiều sự thay đổi, các quốc gia dần chuyển
mình để hòa nhập với xu thế toàn cầu hóa. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế có
nhiều vấn đề bất cập xảy ra. Một trong những vấn đề luôn tồn tại song hành với nền kinh
tế đặc biệt là với thị trường tài chính tiền tệ đó là lạm phát. Lạm phát là một trong những
vấn đề kinh tế vĩ mô đã trở thành mối quan tâm lớn nhất của các nhà chính trị và cả công
chúng. Nó là vấn đề hết sức phức tạp ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế quốc dân, đặc
biệt là người lao động. Việc chống lạm phát không chỉ là việc của doanh nghiệp, cá nhân
mà còn là nhiệm vụ của chính phủ.
Trong nền kinh tế thị trường đang phát triển và có nhiều sự cạnh tranh giai đoạn hiện nay,
lạm phát đang là một vấn đề bất cập được nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam hết sức
quan tâm. Vấn đề kiềm chế lạm phát, giữ vững sự phát triển ổn định hiện nay là mục tiêu
quan trọng trong việc phát triển kinh tế xã hội, nâng cao đời sống nhân dân.


2


MỤC LỤC
ỆU THAM KHẢO...........................................................................................20

PHẦN I : LẠM PHÁT
1. Các khái niệm về lạm phát
Lạm phát là một phạm trù vốn có của nền kinh tế thị trường, nó xuất hiện khi các yêu
cầu của các quy luật kinh tế hàng hóa không được tôn trọng, nhất là quy luật lưu
thông tiền tệ. Ở đâu có sản xuất hàng hóa, còn tồn tại những quan hệ hàng hóa tiền tệ
thì ở đó còn tiềm ẩn khả năng xảy ra lạm phát và nó chỉ xuất hiện khi các quy luật của
lưu thông tiền tệ bị vi phạm. Do đó lạm phát trở thành mối quan tâm của nhiều người
và được đề cập đến rất nhiều trong các công trình nghiên cứu của các nhà kinh tế, mỗi
người sẽ có các khái niệm khác nhau về lạm phát theo quan điểm và phương hướng
nghiên cứu của mình.
3


Trong kinh tế vĩ mô, lạm phát là sự tăng mức giá chung một cách liên tục của hàng
hóa và dịch vụ theo thời gian và sự mất giá trị của một loại tiền tệ nào đó. ... Ngược
lại với lạm phát là giảm phát. Một chỉ số lạm phát bằng 0 hay một chỉ số dương nhỏ
thì được người ta gọi là sự "ổn định giá cả".
Nói cách khác, lạm phát là hiện tượng tiền trong lưu thông vượt quá nhu cầu cần thiết
làm cho chúng bị mất giá, giá cả của các loại hàng hóa tăng lên đồng loạt. Lạm phát
có đặc trưng là:
Hiện tượng gia tăng quá mức của lượng tiền trong lưu thông dẫn đến hiện
tượng đồng tiền bị mất giá
Mức giá chung tăng lên
Một số khái niệm về lạm phát của các nhà kinh tế học nổi tiếng :

Trong bộ tư bản nổi tiếng của mình ,Các Mác viết :”Việc phát hành tiền giấy phải
được giới hạn ở số lượng vàng hoặc bạc thực sự lưu thông nhờ các đại diện tiền giấy
của mình “.Điều này có nghĩa là khi khối lượng tiền giấy do Nhà nước phát hành vào
lưu thông vượt qua số lượng vàng mà nó đại diện thì giá trị của tiền giấy giảm
xuống ,giá cả tăng vọt và tình trạng lạm phát xuất hiện.
Từ đây, ông cho rằng lạm phát là “bạn đường “của chủ nghĩa tư bản. Không những
chủ nghĩa tư bản bóc lột người lao động bằng giá trị thặng dư mà còn gây ra lạm phát
giảm tiền lương của người lao động.
Nhà kinh tế học Samuelson cho rằng: ”lạm phát xảy ra khi mức chung của giá cả và
chi phí tăng – giá bánh mì ,dầu xăng ,xe ô tô tăng ,tiền lương ,giá đất, tiền thuê tư liệu
sản xuất tăng “.Ông thấy rằng lạm phát chính là biểu thị sự tăng lên của giá cả .
Còn Milton Friedman lại quan niệm khác :”Lạm phát là việc giá cả tăng nhanh và kéo
dài “.Ông cho rằng lạm phát là một hiện tượng tiền tệ .
Một số nhà kinh tế thuộc phái tiền tệ và phái Keynes đều tán thành ý kiến đó của
Friedman.Họ cho rằng khi thị trường tiền tệ phát triển, ảnh hưởng đến nền kinh tế
quốc dân của mỗi nước thì lạm phát có thể xảy ra bất kì thời điểm nào .Nó chính là
một hiện tượng tất yếu của taì chính – tiền tệ .

4


Một định nghĩa nữa về lạm phát do các nhà kinh tế học hiện đại đưa ra và nó đựoc sử
dụng rộng rãi trong lĩnh vực nghiên cứu thị trường :”Lạm phát là sự tăng lên của mức
giá trung bình theo thời gian“


Lạm phát được đo bằng chỉ số giá cả :
• Chỉ số giá cả được sử dụng rộng rãi nhất là chỉ số giá cả hàng tiêu dùng CPI




(Consumer Price Index) .CPI tính chi phí của một giỏ hàng tiêu dùng và dịch
vụ trên thị trường .Để tính CPI ,ta dựa vào tỷ trọng của phần chi cho từng mặt
hàng trong tổng chi tiêu cho tiêu dùng của thời kì có lạm phát .
Một chỉ số nữa thường được sử dụng là chỉ số giá cả sản xuất (PPI: Producer
Price Index) ,đây là chỉ số giá bán buôn .PPI dùng để tính giá cả trong lần bán
đầu tiên do người sản xuất ấn định




ip: chỉ số giá của từng loại nhóm hàng
d: tỷ trọng mức tiêu dùng của từng loại hàng

Ngoài 2 chỉ số trên, chỉ số GNP cũng được sử dụng .Đây chính là chỉ số giảm
phát, chỉ số giá cả cho toàn bộ NGP :chỉ số giảm phát GNP = GDP danh nghĩa /
GDP thực tế.
2. Phân loại lạm phát


Có nhiều cách phân loại lạm phát, dựa trên các tiêu thức khác nhau sẽ có các loại lạm
phát khác nhau :
a)

Căn cứ theo định tính :

Lạm phát chia làm 3 loại : lạm phát vừa phải, lạm phát phi mã và siêu lạm phát


Lạm phát vừa phải :còn gọi là lạm phát một con số, có tỷ lệ lạm phát dưới 10%

một năm .Lạm phát vừa phải làm cho giá cả biến động tương đối. Trong thời kì
này nền kinh tế hoạt động một cách bình thường, đời sống của người lao động ổn
định. Sự ổn định đó được biểu hiện : Giá cả tăng chậm ,lãi xuất tiền gửi không cao
,không xảy ra tình trạng mua bán và tích trữ hàng hoá với số lượng lớn. Có thể nói
đây là mứclạm phát mà nền kinh tế chấp nhận được, những tác động của nó là
không đáng kể. Mặt khác, lạm phát vừa phải tạo tâm lý an tâm cho người lao động
chỉ trông chờ vào thu nhập. Trong thời gian này ,các hãng kinh doanh có khoản
thu ổn định ,ít rủi ro và sẵn sàng đầu tư cho sản xuất kinh doanh .

5




Lạm phát phi mã: tỷ lệ tăng giá trên 10% đến < 100% được gọi là lạm phát 2 hoặc
3 con số. Đồng tiền mất giá nhiều, lãi suất thực tế thường âm, không ai muốn giữ
tiền mặt mọi người chỉ giữ lượng tiền tối thiểu vừa đủ cần thiết cho việc thanh
toán hằng ngày. Mọi người thích giữ hàng hóa, vàng hay ngoại tệ. Thị trường tài
chính không ổn định ( do vốn chạy ra nước ngoài). Như vậy lạm phát sẽ làm ảnh
hưởng xấu đến sản xuất và thu nhập vì những tác động tiêu cực của nó không nhỏ.
Bên cạnh đó lạm phát phi mã còn là mối đe doạ đối với sự ổn định của nền kinh tế.



Siêu lạm phát : 3 con số một năm xảy ra khi lạm phát đột biến tăng lên với tốc độ
rất nhanh ,tỷ lệ lạm phát cao .Tốc độ và tỷ lệ siêu lạm phát vượt xa lạm phát phi
mã ,nó như một căn bệnh chết người ,tốc độ lưu thông tiền tệ tăng kinh khủng ,giá
cả tăng nhanh và không ổn định ,tiền luơng thục tế của người lao động bị giảm
mạnh ,tiền tệ mất giá nhanh chóng ,thông tin không còn chính xác ,các yếu tố thị
trường biến dạng và hoạt động sản xuất khin doanh lâm vào tình trạng rối loạn,

mất phương hướng .Tóm lại ,siêu lạm phát làm cho đời sống và nền kinh tế suy
sụp một cách nhanh chóng, tuy nhiên siêu lạm phát rất ít xảy ra.

b)

Căn cứ theo định lượng :
Lạm phát cân bằng và lạm phát không cân bằng
- Lạm phát cân bằng : tăng tương ứng với thu nhập thực tế của người lao
động, tăng phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp .Do đó không gây ảnh hưởng đến đời sống hàng ngày của người
lao động và dến nền kinh tế nói chung.
- Lạm phát không cân bằng : tăng không tương ứng với thu nhập của người
lao động, thực tế loại lạm phát này cũng thường hay xảy ra
Lạm phát đoán trước được và lạm phát bất thường
- Lạm phát đoán trước được : là loại lạm phát xảy ra hàng năm trong một
thời kì tương đối dài và tỷ lệ lạm phát ổn định đều đặn .Loại lạm phát này
có thể dự đoán trước được tỷ lệ của nó trong các năm tiếp theo.Về mặt
tâm lý ,người dân đã quen với tình trạng lạm phát đó và đã có sự chuẩn bị
trước.Do đó không gây ảnh hưởng đến đời sống ,đến kinh tế.
- Lạm phát bất thường : xảy ra đột biến mà có thể từ trước chưa xuất hiện.
Loại lạm phát này ảnh hưởng đến tâm lý ,đời sống người dân vì họ chưa
kịp thích nghi. Từ đó mà loại lạm phát này sẽ gây ra biến động đối với
nền kinh tế và niềm tin của nhân dân vào chính quyền có phần giảm sút.

3.
a)


Tác động của lạm phát
Tác động tiêu cực :

Lạm phát và lãi suất : Lạm phát của các quốc gia trên thế giới khi xảy ra cao và
triền miên có ảnh hưởng xấu đến mọi mặt của đời sống kinh tế, chính trị và xã hội
của một quốc gia. Trong đó, tác động đầu tiên của lạm phát là tác động lên lãi suất.
Ta có: Lãi suất thực = lãi suất danh nghĩa - tỷ lệ lạm phát.
6


Do đó khi tỷ lệ lạm phát tăng cao, nếu muốn cho lãi suất thật ổn địnhvà thực
dương thì lãi suất sanh nghĩa phải tăng lên theo tỷ lệ lạm phát. Việc tăng lãi suất
danh nghĩa sẽ dẫn đến hậu quả mà nền kinh tế phải gánh chịu là suy thoái kinh tế
và thất nghiệp gia tăng.


Lạm phát và thu nhập thực tế :
Giữa thu nhập thực tế và thu nhập danh nghĩa của người lao động có quan hệ với
nhau qua tỷ lệ lạm phát. Khi lạm phát tăng lên mà thu nhập danh nghĩa không thay
đổi thì làm cho thu nhập thực tế của người lao động giảm xuống.
Lạm phát không chỉ làm giảm giá trị thật của những tài sản không có lãi mà nó
còn làm hao mòn giá trị của những tài sản có lãi, tức là làm giảm thu nhập thực từ
các khoản lãi, các khoản lợi tức. Đó là do chính sách thuế của nhà nước được tính
trên cơ sở của thu nhập danh nghĩa. Khi lạm phát tăng cao, những người đi vay
tăng lãi suất danh nghĩa để bù vào tỷ lệ lạm phát tăng cao mặc dù thuế suất vẫn
không tăng.
Từ đó, thu nhập ròng (thực) của của người cho vay bằng thu nhập danh nghĩa trừ
đi tỷ lệ lạm phát bị giảm xuống sẽ ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế xã hội. Như
suy thoái kinh tế, thất nghiệp gia tăng, đời sống của người lao động trở nên khó
khăn hơn sẽ làm giảm lòng tin của dân chúng đối với Chính phủ.




Lạm phát và phân phối thu nhập không bình đẳng :
Khi lạm phát tăng lên, giá trị của đồng tiền giảm xuống, người đi vay sẽ có lợi
trong việc vay vốn để đầu cơ kiếm lợi. Do vậy càng tăng thêm nhu cầu tiền vay
trong nền kinh tế, đẩy lãi suất lên cao.
Lạm phát tăng cao còn khiến những người thừa tiền và giàu có, dùng tiền của
mình vơ vét và thu gom hàng hoá, tài sản, nạn đầu cơ xuất hiện, tình trạng này
càng làm mất cân đối nghiêm trọng quan hệ cung - cầu hàng hoá trên thị trường,
giá cả hàng hoá cũng lên cơn sốt cao hơn. Cuối cùng, những người dân nghèo vốn
đã nghèo càng trở nên khốn khó hơn. Họ thậm chí không mua nổi những hàng hoá
tiêu dùng thiết yếu, trong khi đó, những kẻ đầu cơ đã vơ vét sạch hàng hoá và trở
nên càng giàu có hơn. Tình trạng lạm phát như vậy sẽ có thể gây những rối loạn
tong nền kinh tế và tạo ra khoảng cách lớn về thu nhập, về mức sống giữa người
giàu và người nghèo.



Lạm phát và nợ quốc gia :
Lạm phát cao làm cho Chính phủ được lợi do thuế thu nhập đánh vào người dân,
nhưng những khoản nợ nước ngoài sẽ trở nên trần trọng hơn. Chính phủ được lợi
trong nước nhưng sẽ bị thiệt với nợ nước ngoài. Lý do là vì: lạm phát đã làm tỷ giá
giá tăng và đồng tiền trong nước trở nên mất giá nhanh hơn so với đồng tiền nước
ngoài tính trên các khoản nợ.

b)

Tác động tích cực :
7


Lạm phát không phải bao giờ cũng gây nên những tác hại cho nền kinh tế. Khi tốc độ

lạm phát vừa phải đó là từ 2-5% ở các nước phát triển và dưới 10% ở các nước đang
phát triển sẽ mang lại một số lợi ích cho nền kinh tế như sau:



Kích thích tiêu dùng, vay nợ, đầu tư giảm bớt thất nghiệp trong xã hội.
Cho phép chính phủ có thêm khả năng lựa chọn các công cụ kích thích đầu tư vào
những lĩnh vực kém ưu tiên thông qua mở rộng tín dụng, giúp phân phối lại thu
nhập và các nguồn lực trong xã hội theo các định hướng mục tiêu và trong khoảng
thời gian nhất định có chọn lọc. Tuy nhiên, đây là công việc khó và đầy mạo hiểm
nếu không chủ động thì sẽ gây nên hậu quả xấu.

Tóm lại, lạm phát là căn bệnh mãn tính của nền kinh tế thị trường, nó vừa có tác hại
lẫn lợi ích. Khi nền kinh tế có thể duy trì, kiềm chế và điều tiết được lạm phát ở tốc độ
vừa phải thì nó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

4. Nguyên nhân gây ra lạm phát
a) Lạm phát do cầu kéo :

Đây chính là sự mất cân đối trong quan hệ cung-cầu, nguyên nhân chính là
do tổng cầu tăng quá nhanh trong khi tổng cung không tăng hoặc tăng
không kịp.
Lạm phát do cầu kéo xảy ra khi tổng cầu tăng lên mạnh mẽ tại mức sản
lượng đã đạt hoặc vượt quá sản lương tiềm năng. Trong thực tế, khi xảy ra
lạm phát cầu kéo người ta thường thấy lượng tiền trong lưu thông và khối
lượng tín dụng tăng đáng kể và vượt quá khả năng có giới hạn của mức
cung hàng hóa. Như vậy bản chất của lạm phát cầu kéo là chi tiêu quá nhiều
tiền để mua một lượng cung hạn chế về hàng hóa có thể sản xuất được,
trong điều kiện thị trường lao động đã đạt cân bằng.


8


b) Lạm phát do chi phí đẩy :

Ngay cả khi sản lượng chưa đạt tiềm năng nhưng vẫn có khả năng và trên
thực tế đã xảy ra lạm phát ở nhiều nước, kể cả những nước phát triển cao.
Đó là một đặc điểm của lạm phát hiện đại. Kiểu lạm phát này gọi là lạm
phát chi phí đẩy, vừa lạm phát, vừa suy giảm sản lượng, tằng thêm thất
nghiệp nên cũng gọi là “lạm phát đình trệ”, các cơn sốc giá cả của thị
trường đầu vào, đặc biệt là các vật tư cơ bản (xăng dầu, điện,….) là nguyên
nhân chủ yếu đẩy chi phí lên cao, đường AS dịch chuyển lên trên. Tuy tổng
cầu không thay đổi nhưng giá đã tăng lên và sản lượng lại giảm xuống. Giá
cả đầu vào tăng đột biến thường do các nguyên nhân sau: chiến tranh, kinh
tế, biến động chính trị, thiên tai,….

9


c) Lạm phát do cơ cấu :
-

Ngành kinh doanh có hiệu quả khi tăng tiền công danh nghĩa cho
người lao động

-

Ngành kinh doanh không hiệu quả là không thể tăng tiền công cho
người lao động


-

Nhưng để đảm bảo mức lợi nhuận thì ngành kinh doanh kém hiệu
quả sẽ tăng giá thành sản phẩm -> Lạm phát nảy sinh từ đó

d) Lạm phát do cầu thay đổi :

Ví dụ lượng cầu về một mặt hàng giảm đi trong khi lượng cầu về mặt hàng
khác lại tăng lên. Nếu thị trường có người cung cấp độc quyền và giá cả chỉ
có thể tăng là không thể giảm thì mặt hàng có lượng cầu giarmvaaxn không
thể giảm giá. Trong khi đó mặt hàng có lượng cầu tăng lên thì lại tăng giá.
Kết quả mức giá chung tăng lên dẫn đến lạm phát.
e) Lạm phát do xuất khẩu:

Xuất khẩu tăng dẫn đến tổng cầu tăng hơn so với tổng cung hoặc sản phẩm
được huy động cho xuất khẩu khiến lượng cung sản phẩm cho thị trường
trong nước giảm khiến cho tổng cung thấp hơn tổng cầu, lạm phát nảy sinh
do tổng cung và tổng cầu mất cân bằng
f) Lạm phát do nhập khẩu :

Khi giá hàng hóa nhập khẩu tăng thì giá bán sản phẩm trong nước cũng
tăng. Lạm phát hình thành khi mức giá chung bị giá nhập khẩu đội lên.
g) Lạm phát tiền tệ :

Cung tiền tăng do quản lí tiền mặt kém hiệu quả, chi tiêu ngân sách ngày
càng lớn, sức hút thị trường chứng khoán ,….
h) Lạm phát đẻ ra lạm phát :

Khi nhận thấy có lạm phát cá nhân với nhận thức duy lí sẽ cho rằng tới đây
giá cả hàng hóa sẽ còn tăng nên đẩy mạnh tiêu dùng hiện tại. Tổng cầu xảy

ra cao hơn tổng cung gây ra lạm phát.
10


5. Biện pháp khắc phục lạm phát:
Khi lạm phát tăng cao và kéo dài sẽ gây những hậu quả lớn, ảnh hưởng trầm trọng đến
đời sống nhân dân lao động và sự tăng trưởng kinh tế. Do đó tuỳ vào từng hoàn cảnh cụ
thể khác nhau chính phủ sẽ áp dụng những biện pháp khác nhau để khắc phục lạm phát.
a

Lạm phát do cầu:

Khi xảy ra lạm phát vừa, sẽ kích thích tăng trưởng kinh tế, là loại lạm phát có lợi cho
nền kinh tế. Chỉ khi xảy ra lạm phát cao sản lượng thực vượt quá sản lượng tiềm
năng, nền kinh tế tăng trưởng nóng, phải tìm biện pháp giảm lạm pháp, ổn định nền
kinh tế là giảm tổng cầu, bằng cách:
Áp dụng chính sách tài khoá thu hẹp: giảm chi tiêu ngân sách (giảm
cầu tiêu dùng của chính phủ, làm giảm sự tăng nhanh của tổng cầu,
nhà nước có thể hạn chế tăng tiền lương làm giảm lượng cầu chi tiêu
của dân cư), tăng thuế.
- Áp dụng chính sách tiền tệ thu hẹp: giảm mức cung tiền (cụ thể ngân
hàng trung ương sẽ bán các chứng khoán ngắn hạn, bán ngoại tệ,
phát hành các công cụ nợ của chính phủ để vay tiền trong nền kinh
tế), tăng lãi suất (các ngân hàng sẽ ấn định lãi suất cao từ đó sẽ
khuyến khích người dân gửi tiền vào ngân hàng, doanh nghiệp gửi
tiền không kì hạn, dẫn đến lượng tiền trong lưu thông giảm).
 Kết quả là: tổng cầu sụt giảm, đường AD dịch chuyển sang trái, mức giá giảm, sản
lượng giảm, tỷ lệ thất nghiệp tăng.
-


b

Lạm phát do cung:

Phải làm tăng tổng cung, giảm chi phí sản xuất bằng cách:
+ Tìm nguyên liệu mới rẻ tiền thay cho nguyên liệu cũ đắt tiền.
+ Gảm thuế, giảm lãi suất.
+ Cải tiến kỹ thuật sản xuất, áp dụng công nghệ mới vào sản xuất để tăng năng suất
lao động, giảm chi phí.
+ Nâng cao trình độ quản lý: tổ chức lao động khoa học và hợp lý hoá sản xuất.

11


Ngoài ra chính phủ còn nhập hàng hoá về để bổ sung cho hàng hoá thiếu hụt trong
nước. Phát triển các ngành sản xuất hàng hoá xuất khẩu và ngành du lịch.


Kết quả là: chi phí sản xuất của nền kinh tế sẽ giảm xuống, đường SAS dịch
chuyển sang phải, mức giá giảm, sản lượng tăng, tỷ lệ thất nghiệp giảm.

PHẦN II THỰC TRẠNG LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM NĂM 2000-2010
Trong điều hành vĩ mô phát triển nền kinh tế, mọi quốc gia trên thế giới đều phải quan
tâm tới chính sách tài chính, tiền tệ để chống lạm phát, ổn định giá cả đang là một vấn đề
lớn đặt ra trong điều hành của chính phủ, của các nhà quản lý vì sự phát triển và ổn định.


Tăng trưởng kinh tế

Trong thập kỷ đầu tiên của thế kỷ XXI, Việt Nam chứng kiến một giai đoạn tăng trưởng

kinh tế có tốc độ chững lại so với thập niên trước đó. Vào cuối thập niên 1990, đà tăng
trưởng kinh tế của Việt Nam chậm lại vì những dấu hiệu do dự trong tiến trình cải cách
kinh tế xuất hiện từ năm 1996 và những ảnh hưởng lan truyền tiêu cực từ cuộc khủng
hoảng tài chính Châu Á 1997. Hậu quả của tình trạng này là nền kinh tế trải qua một giai
đoạn suy giảm tốc độ tăng trưởng đi liền với hiện tượng giảm phát trong những năm
1999-2001
12


Hình 1. Tăng trưởng kinh tế và lạm phát 1995-2009

Nguồn: tác giả tổng hợp từ GSO (2010)
Trước tình hình đó, một kế hoạch kích thích kinh tế thông qua nới lỏng tín dụng và mở
rộng đầu tư nhà nước bắt đầu được thực hiện từ năm 2000. Việc duy trì chính sách kích
thích 6 tương đối liên tục trong những năm sau đó, một mặt giúp nền kinh tế lấy lại phần
nào đà tăng trưởng, nhưng mặt khác đã tích tụ những mầm mống gây ra lạm phát cao bắt
đầu bộc lộ từ giữa năm 2007. Thêm vào đó, việc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới
13


(WTO) vào tháng 11/2006 mở ra một thời kỳ hội nhập sâu rộng chưa từng có, khiến mức
độ giao lưu thương mại và đầu tư quốc tế tăng vọt, làm dòng vốn vào (cả đầu tư trực tiếp
lẫn gián tiếp) tăng mạnh. Nhu cầu ổn định đồng tiền Việt đòi hỏi Ngân hàng Nhà nước
phải trung hòa một lượng ngoại tệ rất lớn, góp phần thổi bùng lạm phát trong năm 2008.
Nhìn chung, việc kiểm soát vĩ mô trong giai đoạn này tỏ ra lúng túng. Cộng với những
tác động to lớn của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới, trong hai năm 2008-2009, nền
kinh tế phải hứng chịu thời kỳ tăng trưởng kinh tế ở mức thấp đi liền với lạm phát cao.


Ngân sách nhà nước


Đặc điểm căn bản của ngân sách nhà nước là sự thâm hụt triền miên ở mức cao. Đồng
thời, nợ công có khuynh hướng tăng liên tục trong 10 năm qua. Năm 2009 có thâm hụt
đặc biệt cao vì đây là năm thực hiện gói kích thích kinh tế lớn để chống suy thoái kinh tế.

Hình 2. Thu-chi và thâm hụt ngân sách 2000-2009



Thương mại quốc tế và tỷ giá

Thương mại quốc tế là một lĩnh vực đặc biệt phát triển của Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay. Việt Nam ngày càng hội nhập sâu, rộng vào nền kinh tế toàn cầu, với những hiệp
định thương mại tự do song phương được ký kết, đồng thời tham gia vào các tổ chức đa
biên, trong đó phải kể tới việc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới. Tuy nhiên, cần
phải thừa nhận rằng việc hội nhập sâu vừa mang lại cho Việt Nam nhiều cơ hội, đồng thời
14


cũng buộc đất nước phải đối diện với nhiều thách thức mới. Đặc điểm đáng lưu ý là kể từ
năm 2002, cán cân vãng lai trở lại tình trạng thâm hụt mà nguyên nhân chủ yếu bắt nguồn
từ thâm hụt thương mại mặc dù dòng kiều hối chảy về trong nước và các dòng vốn chảy
vào Việt Nam bắt đầu gia tăng ổn định và giúp cân đối phần nào cán cân vãng lai. Khi các
dòng vốn có dấu hiệu chững lại do cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới nổ ra vào năm
2008, thì thâm hụt vãng lai lại không có khuynh hướng thu hẹp. Kết quả là, Việt Nam
buộc phải giảm mạnh dự trữ ngoại hối để bù đắp cho phần ngoại tệ bị thiếu hụt.

Hình 3. Thâm hụt cán cân vãng lai và dự trữ ngoại hối 2000-2009

Nguồn: tác giả tổng hợp từ IMF (2003, 2006, 2009)

Thâm hụt vãng lai liên tục, đi cùng với mức lạm phát cao trong nước, khiến tỷ giá thực tế
của VND so với USD trong những năm gần đây giảm mạnh mặc dù tỷ giá danh nghĩa có
xu hướng tăng lên rõ rệt, và khoảng cách giữa hai tỷ giá ngày càng mở rộng, đặc biệt là
hai năm 2008 và 2009 (xem Hình 4). Nếu lấy năm 2000 làm gốc thì đồng Việt Nam đã
lên giá thực tế xấp xỉ 38%. Điều này hẳn đã góp phần khiến thâm hụt thương mại của
Việt Nam trở nên trầm trọng từ sau năm 2003.
15


Hình 4. Tỷ giá thực tế và tỷ giá danh nghĩa VND/USD, 2000-2009 (năm 2000 là năm
gốc)

Nguồn: Nguyễn Thị Thu Hằng và các đồng tác giả. (2010)

Tóm lại, có thể khái quát một số đặc điểm kinh tế vĩ mô ở Việt Nam như sau:
-Tăng trưởng đạt mức cao so với khu vực, nhưng đang có khuynh hướng chậm lại; đồng
thời, tăng trưởng vẫn lệ thuộc nhiều vào mở rộng đầu tư.
- Nền kinh tế ngày càng trở nên bất ổn khi hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới (lạm phát
dao động mạnh hơn)
- Ngân sách thâm hụt triền miên, đi liền với thâm hụt thương mại (thâm hụt kép)
- Ngay cả khi được hỗ trợ bởi một dòng kiều hối lớn, cán cân vãng lai vẫn thâm hụt. Cán
cân tổng thể được hỗ trợ bởi mức thặng dư cao từ cán cân vốn. Tuy nhiên, chịu ảnh
hưởng của điều kiện quốc tế, các dòng vốn đang dần có khuynh hướng kém ổn định hơn,
dẫn tới khả năng cán cân tổng thể có những dao động lớn, chuyển từ thặng dư sang thâm
hụt.
- Chính sách tỷ giá neo một cách linh hoạt (crawling peg) vào đồng USD, nhưng có
khuynh hướng đánh giá cao đồng nội tệ.

PHẦN III CÁC CÔNG CỤ KINH TẾ VĨ MÔ NHẰM KIỀM CHẾ LẠM
PHÁT VÀ CÁC GIẢI PHÁP KIỀM CHẾ LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM NĂM

2000-2010
I.Các công cụ kinh tế vĩ mô nhằm kiềm chế lạm phát :
16


Mục tiêu của chính sách chống lạm phát là: Kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô,
đảm bảo an sinh xã hội. Để thực hiện mục tiêu trên Việt nam sử dụng hai công cụ chủ yếu
là chính sách tiền tệ và chính sách tài khoá.
1. Chính sách tiền tệ


Nội dung chính sách chống lạm phát trong công cụ chính sách tiền tệ:

Cùng với tiến trình cải cách nền kinh tế, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã có nhiều
đổi mới, đặc biệt là trong việc hoạch định và thực thi CSTT, nhờ vậy, ngành Ngân
hàng đã có những đóng góp không nhỏ vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, ổn
định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội. Tuy nhiên, trong bối cảnh nền kinh tế
ngày càng hội nhập sâu và rộng với nền kinh tế thế giới kéo theo thương mại và chu
chuyển vốn quốc tế diễn ra nhanh hơn, mạnh hơn, việc xây dựng và điều hành CSTT
trở nên phức tạp và khó khăn hơn, đặc biệt từ năm 2007 trở lại đây, bối cảnh kinh tế
trong và ngoài nước có nhiều thay đổi. CSTT được thực hiện linh hoạt thông qua việc
điều chỉnh các công cụ của CSTT. Cụ thể:

Công cụ lãi suất:
Từ tháng 8/2000, NHNN áp dụng cơ chế lãi suất cơ bản thay cho cơ chế trần lãi suất cho
vay, theo đó, hàng tháng NHNN công bố lãi suất cơ bản trên biên độ cộng 0,3%/tháng,
cho vay trung và dài hạn cộng 0,5%/tháng. Đối với lãi suất ngoại tệ, từ năm 2001, được
tự do hóa trên cơ sở cung cầu trên thị trường. Từ ngày 01/6/2002, NHNN không quy định
biên độ dao động của lãi suất mà chỉ công bố lãi suất cơ bản để tham khảo và định hướng
lãi suất trên thị trường. Sự thay đổi là đánh dấu bước đi thận trọng cũng như sự thành

công trong đổi mới chính sách tiền tệ.
Do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, từ ngày
01/02/2009, thực hiện chủ trương của Quốc hội, Chính phủ và căn cứ vào tình hình thực
tế, NHNN đã từng bước cho phép các TCTD thực hiện lãi suất thỏa thuận đối với các
khoản vay tiêu dùng và các khoản vay trung hạn, dài hạn phục vụ sản xuất kinh doanh,
dịch vụ và đầu tư phát triển. Theo đó, NHNN đã ban hành Thông tư số 12/2010/TTNHNN cho phép các TCTD thực hiện cho vay bằng đồng VND theo cơ chế lãi suất thỏa
thuận. Đồng thời, để hạn chế tình trạng găm giữ ngoại tệ và giảm sức hấp dẫn của việc
nắm giữ đồng USD, NHNN cũng ban hành Thông tư số 03/2010/TT-NHNN quy định
mức lãi suất tối đa tiền gửi bằng ngoại tệ đối với khách hàng là tổ chức kinh tế, mức lãi
suất suất tiền gửi bằng ngoại tệ theo cơ chế thỏa thuận đối với khách hàng là cá nhân.
Trong giai đoạn này, NHNN tiếp tục công bố lãi suất cơ bản hàng tháng nhằm định
hướng lãi suất thị trường.

17


Công cụ dự trữ bắt buộc (DTBB):
Tỷ lệ DTBB đã được điều chỉnh ngày càng linh hoạt phù hợp với mục tiêu CSTT và diễn
biến tiền tệ trong từng thời kỳ. Từ tháng 11/2000 - 5/2001, NHNN đã liên tục thực hiện
tăng tỷ lệ DTBB bằng ngoại tệ từ 5% lên 15% và giữ nguyên tỷ lệ DTBB bằng VND là
5% để hạn chế dòng chuyển dịch từ VND sang USD, hạn chế việc các TCTD huy động
tiền gửi ngoại tệ gửi ra nước ngoài. Tỷ trọng tiền gửi ngoại tệ tại nước ngoài trên tổng
huy động ngoại tệ giảm từ mức 96% tháng 12/2000 xuống 41,5% tháng 6/2003, góp phần
tăng cường nguồn vốn đầu tư trong nước.
Từ tháng 12/2001 và trong năm 2002, trong điều kiện lãi suất trên thị trường quốc tế
giảm mạnh, tác động nhất định đến tình hình tài chính của các NHTM, NHNN đã giảm tỷ
lệ DTBB bằng ngoại tệ từng bước từ 15% xuống 10%, sau đó xuống 8% (4/2002) và
xuống 5% (12/2002), đồng thời giảm tỷ lệ DTBB bằng VND từ 5% xuống 3% để tạo điều
kiện hỗ trợ cho hoạt động của các TCTD.
Từ tháng 8/2003, NHNN đã quyết định thay đổi một số quy định về DTBB như mở rộng

diện tiền gửi phải DTBB từ tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng lên tiền gửi
không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 24 tháng; cho phép TCTD được tính cả tiền gửi tại các
chi nhánh NHNN là tiền duy trì DTBB. Đồng thời NHNN đã điều chỉnh giảm tỷ lệ
DTBB đối với tiền gửi bằng VND kỳ hạn dưới 12 tháng từ 3% xuống 2% đã có tác động
nhất định giảm lãi suất thị trường, góp phần thực hiện thành công mục tiêu CSTT năm
2003. Việc mở rộng diện tiền gửi DTBB đến dưới 24 tháng đã có tác dụng tích cực đến
công tác huy động vốn dài hạn của các TCTD.
Năm 2004, trước bối cảnh chỉ số giá tiêu dùng liên tục tăng, tháng 6/2004 NHNN đã điều
chỉnh tăng tỷ lệ DTBB đối với tiền gửi bằng VND và ngoại tệ (có hiệu lực thi hành từ
tháng 7/2004) nhằm tác động hạn chế khả năng mở rộng tín dụng thông qua việc hạn chế
khả năng tạo tiền, qua đó tác động kiềm chế lạm phát. Năm 2005, do những biến động
trên thị trường quốc tế, lãi suất trong nước và quốc tế đều đứng ở mức cao. Để duy trì ổn
định tiền tệ, góp phần hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, trong điều kiện lạm phát đã bắt đầu
được kiểm soát, NHNN đã giữ nguyên cơ chế và các tỷ lệ DTBB áp dụng đối với các
TCTD.
Năm 2007, để trung hòa lượng thanh khoản dư thừa trong hệ thống ngân hàng do dòng
ngoại tệ đổ vào mạnh và cũng để thắt chặt tiền tệ nhằm kiềm chế lạm phát, bên cạnh công
cụ NVTTM và phát hành tín phiếu bắt buộc, NHNN cũng tăng DTBB đối với các TCTD
vào giữa năm 2007, đầu năm 2008 và điều chỉnh tăng lãi suất tiền gửi DTBB. Bên cạnh
đó, trong năm 2008, NHNN cũng mở rộng thêm diện tiền gửi phải DTBB có kỳ hạn từ 24
tháng trở lên (trước đây chỉ quy định DTBB đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn
dưới 24 tháng) nhằm nâng cao hơn nữa khả năng hút tiền về của NHNN.

18


Sau đó cuối năm 2008, lại điều chỉnh giảm DTBB do áp lực lạm phát giảm liên tục nhằm
giảm áp lực thanh khoản cho TCTD, giảm chi phí huy động vốn qua đó khuyến khích
TCTD tăng cường huy động và cho vay ra nền kinh tế. Trong đó, tỷ lệ DTBB đối với tiền
gửi VND giảm nhanh từ 11% vào giữa năm 2008 xuống 3% trong quý I/2009 và giữ ở

mức đó cho đến nay. Tỷ lệ DTBB đối với tiền gửi ngoại tệ giảm chậm hơn, từ mức 11%
giữa năm 2008 xuống 4% năm 2010.
Công cụ nghiệp vụ thị trường mở (NVTTM):
NVTTM được NHNN áp dụng từ tháng 7/2000, kể từ đó đến nay, NVTTM không ngừng
hoàn thiện để trở thành công cụ điều tiết chủ yếu của NHNN. Việc sử dụng công cụ
NVTTM để điều tiết thị trường tiền tệ được coi là bước chuyển căn bản trong việc điều
hành chính sách tiền tệ từ công cụ trực tiếp sang công cụ gián tiếp. Trong giai đoạn đầu,
NVTTM còn nhiều hạn chế do mục tiêu hoạt động của NHNN chưa rõ ràng là điều tiết
lãi suất thị trường hay điều tiết vốn khả dụng của TCTD. Để giải quyết tình trạng thiếu
tiền đồng tạm thời trên thị trường trong khi một số TCTD dư thừa ngoại tệ, NHNN đã
đưa nghiệp vụ SWAP vào hoạt động (tháng 7/2001), đây là hình thức hoán đổi ngoại tệ,
VND giữa NHNN và TCTD.
Giai đoạn 2003 - 2005, NVTTM được NHNN sử dụng nhằm ổn định lãi suất, ổn định
tiền tệ, hỗ trợ thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lạm phát theo mục tiêu
trong điều kiện chỉ số giá tiêu dùng liên tục gia tăng nhưng mục tiêu tăng trưởng kinh tế
vẫn được đặt ra ở mức cao, thị trường vốn chưa thực sự phát triển, tín dụng ngân hàng
vẫn đóng vai trò chủ yếu trong việc đáp ứng vốn cho tăng trưởng kinh tế.
Giai đoạn 2006 - 2007, NVTTM thực hiện vai trò là kênh hút tiền về để trung hòa lượng
tiền NHNN đưa ra mua ngoại tệ để tăng dự trữ ngoại hối Nhà nước, góp phần kiểm soát
lạm phát. Giai đoạn 2008 - 2009, NVTTM phối hợp chặt chẽ với các công cụ CSTT khác
trong việc kiểm soát tiền tệ chặt chẽ nhằm thực hiện mục tiêu kiểm soát lạm phát trong
điều kiện tăng trưởng tín dụng và tổng phương tiện thanh toán ở mức cao, khủng hoảng
kinh tế - tài chính thế giới và kinh tế trong nước có dấu hiệu suy giảm. Giai đoạn năm
2010 đến nay, NVTTM là kênh hỗ trợ vốn thanh khoản VND cho các TCTD, trở thành
công cụ có vai trò chủ yếu trong việc điều tiết vốn khả dụng của các TCTD nhằm ổn định
thị trường tiền tệ, kiểm soát lạm phát và ổn định tỷ giá.


Đánh giá những kết quả đạt được


- Kiểm soát mức tăng trưởng tín dụng, giới hạn tổng phương tiện thanh toán tăng ở
mức hợp lý nhằm điều tiết lượng cung tiền, ngăn chặn lạm phát gia tăng
- Kiểm soát tỷ giá, hoạt động kinh doanh ngoại tệ nhằm khuyến khích xuất khẩu,
tăng dự trữ ngoại hối

19


- Kiểm soát hoạt động của thị trường vàng nhằm hạn chế tiến tới xóa bỏ hiện
tượng đầu cơ, huy động nguồn vốn cho phát triển sản xuất, tăng cung hàng hóa và hạn
chế nhập khẩu vàng.


Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của chính sách chống lạm phát
- Điều hành các công cụ chính sách tiền tệ chủ động và linh hoạt. Trong điều kiện
nước ta hội nhập kinh tế quốc tế và nhất là trong bối cảnh kinh tế thế giới đang sụt
giảm, thì việc tiếp tục điều hành các công cụ chính sách tiền tệ cần chủ động, linh
hoạt; theo kịp sự phát triển của thị trường tiền tệ và trong khả năng kiểm soát tiền
tệ là một trong các giải pháp để đạt được chính sách tiền tệ hiệu quả.
- Tiếp tục điều hành công cụ dự trữ bắt buộc một cách chủ động và linh hoạt theo
diễn biến của thị trường nhằm kiểm soát tiền tệ; mặt khác tạo điều kiện cho các tổ
chức tín dụng sử dụng vốn khả dụng linh hoạt và hiệu quả
- Tiếp tục điều hành chính sách tỷ giá linh hoạt theo quan hệ cung cầu trên thị
trường, trong mối quan hệ phối hợp với lãi suất, có sự kiểm soát của Nhà nước
nhằm đảm bảo các cân đối vĩ mô: kiểm soát được lạm phát; kích thích xuất khẩu,
kiểm soát nhập khẩu; khuyến khích đầu tư nước ngoài vào Việt Nam; không ảnh
hưởng lớn đến việc doanh nghiệp vay nợ bằng ngoại tệ; tạo điều kiện quản lý và
thu hút nguồn ngoại tệ vào hệ thống ngân hàng; nâng cao quỹ trữ ngoại tệ của Nhà
nước. Đẩy mạnh tuyên truyền phổ biến cho các doanh nghiệp áp dụng các công cụ
phòng ngừa, bảo hiểm rủi ro tỷ giá.

- Nâng cao tính độc lập, trách nhiệm của NHNN.
Đây là một trong các điều kiện tiên quyết nhằm nâng cao hiệu quả điều hành
chính sách tiền tệ của NHNN. Việc nâng cao tính độc lập, trách nhiệm cho NHNN
phải thích ứng với mức độ hội nhập tài chính thế giới và phù hợp thể chế chính trị
ở Việt Nam.
- Đẩy mạnh sự phát triển của thị trường tiền tệ. Tiếp tục tạo hàng hoá và phát triển
nghiệp vụ trên thị trường tiền tệ; mở rộng thành viên tham gia thị trường; nâng
cao vai trò điều tiết, hướng dẫn của NHNN trên thị trường tiền tệ; hoàn thiện hành
lang pháp lý tạo điều kiện cho thị trường tiền tệ phát triển. Sự phát triển của thị
trường tiền tệ sẽ là kênh dẫn có hiệu quả trong cơ chế truyền tải các tác động của
chính sách tiền tệ đến nền kinh tế.

2. Chính sách tài khoá:


Nội dung:
20


Thu - chi NSNN thực hiện trong giai đoạn 2001 - 2015 liên tục tăng cao hàng năm. Bình
quân tốc độ tăng thu giai đoạn 2001 - 2011 là 20,97%, tốc độ tăng chi là 20,28%, trong
khi đó tốc độ tăng GDP giá thực tế là 17,38%.
So với số dự toán, thu - chi thực hiện của các năm giai đoạn 2001 - 2011 đều vượt khá
cao Tổng thu thực hiện so dự toán hàng năm giai đoạn này bình quân vượt 21,27% và
tổng chi vượt dự toán khoảng 14,24%. Số thu thực hiện vượt dự toán là cao hơn mức
vượt chi. Tuy nhiên, do số tuyệt đối về chi NSNN ở các năm đều cao hơn so với số thực
hiện thu NSNN, cho nên số tuyệt đối về thâm hụt NSNN vẫn có xu hướng tăng.
Tóm lại, cùng với các chính sách kinh tế vĩ mô khác, khi thực hiện mục tiêu thúc đẩy
tăng trưởng CSTK được thực hiện theo hướng nới lỏng và khi chống lạm phát thì được
thực hiện theo hướng thắt chặt.



Đánh giá những kết quả đạt được
- Chủ động áp dụng các biện pháp về thuế, kiểm tra và giám sát việc kê khai và thu
nộp thuế, hạn chế thất thoát nguồn thu nhằm tăng thu ngân sách góp phần giảm bội
chi ngân sách từ đó giúp chính phủ chủ động hơn trong điều tiết cung tiền giúp
chống lạm phát.
- Chính phủ xem xét, miễn, giảm thuế và gia hạn nộp thuế nguyên liệu đầu vào,
đặc biệt là các ngành sản xuất hàng xuất khẩu, những ngành mà nguyên liệu trong
nước còn thiếu như da, giầy, dược phẩm… từ đó giúp sản xuất trong nước phát
triển tăng cung hàng hóa
- Tăng thuế xuất khẩu đối với những mặt hàng không khuyến khích xuất khẩu như
nguyên, nhiên liệu thô.
- Tiếp tục thực hiện chính sách hoàn thuế đầu vào cho các mặt hàng thực xuất khẩu
nhằm giảm bớt khó khăn cho sản xuất



Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của chính sách chống lạm phát

- Hoàn thiện chính sách thuế phù hợp với xu thế phát triển của nền kinh tế theo hướng
tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ cho thị trường. Định hướng chính
sách thuế và thu NSNN nên theo hướng giảm thuế suất, mở rộng đối tượng chịu thuế;
tăng thuế suất thuế nhập khẩu đối với các mặt hàng không khuyến khích nhập khẩu và
các mặt hàng có khả năng sản xuất trong nước, tăng thuế suất thuế xuất khẩu đối với
các sản phẩm từ khai thác tài nguyên., tránh thất toát nguồn thu,. Tiếp tục rà soát, điều
chỉnh và ban hành các văn bản, thông tư hướng dẫn thực hiện các chính sách thuế, phí
21



và chế độ thu cho phù hợp với tình hình thực tế; tiếp túc đẩy mạnh công tác cải cách
hành chính trong lĩnh vực Thuế và Hải quan nhằm giảm thiểu tối đa thời gian kê khai,
nộp thuế cho DN, khuyến khích các DN kê khai qua mạng.Tăng cường công tác thanh
tra, kiểm tra thuế tại DN và đẩy mạnh các hoạt động chống chuyển giá, chống buôn lậu
và gian lận thương mại… qua đó đã phát hiện và xử lý kịp thời nhiều trường hợp vi
phạm, gian lận, trốn lậu thuế.
- Thực hiện tiết kiệm chi thường xuyên và đẩy nhanh việc thực hiện các nhiệm vụ chi
đầu tư phát triển, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế; đồng thời, tăng cường kiểm
soát chi ngân sách, bảo đảm tiết kiệm, chặt chẽ và hiệu quả.
- Đẩy mạnh quá trình sắp xếp cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước và đổi mới cơ chế
tài chính đối với lĩnh vực sự nghiệp công. Hoàn thiện cơ chế, chính sách tài chính liên
quan đến sắp xếp, cổ phần hoá DNNN, thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm đẩy
nhanh kế hoạch sắp xếp, đổi mới DNNN. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát đối
với hoạt động của các Tập đoàn, Tổng công ty nhà nước…; Tiếp tục cải thiện môi
trường kinh doanh, tạo điều kiện thuận lợi, khuyến khích phát triển các doanh nghiệp,
tổ chức kinh tế ngoài Nhà nước.
- Đẩy nhanh việc đổi mới cơ chế tài chính đối với lĩnh vực sự nghiệp công theo hướng
tăng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các cơ quan, đơn vị; khẩn trương nghiên
cứu, ban hành cơ chế, chính sách thích hợp để từng bước điều chỉnh khung giá dịch vụ
công theo cơ chế thị trường đối với các dịch vụ giáo dục, y tế.
- Sự phối hợp giữa chính sách tiền tệ với chính sách tài khoá và một số chính sách kinh
tế vĩ mô khác. Hiện nay trong bối cảnh kinh tế thế giới sụt giảm, thì việc điều hành
chính sách tiền tệ trong quan hệ phối hợp chính sách tài khoá nhằm mục tiêu góp phần
ngăn chặn nguy cơ sụt giảm nền kinh tế trong nước, nhưng đồng thời kiểm soát được
lạm phát.
Qua những phân tích trên cho thấy thời gian qua Việt Nam đã có những thành công
nhất định trong việc kiểm soát và điều chỉnh lạm phát góp phần đưa đất nước phát
triển bền vững.




Tóm lại, thực tế điều hành CSTT và CSTK thời gian qua cho thấy đây là hai công
cụ quan trọng trong điều hành kinh tế vĩ mô. NHNN và Bộ Tài chính thời gian qua
đã có những can thiệp linh hoạt thông qua các công cụ của chính sách của mình.
Tuy nhiên, các mục tiêu kinh tế vĩ mô trong đó có mục tiêu tăng trưởng kinh tế
không phải năm nào cũng đạt được do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ
quan. CSTT và CSTK trong thời gian qua đã có nhiều nỗ lực trong việc thực hiện
mục tiêu kinh tế vĩ mô của Chính phủ.
22


II. Các giải pháp kiềm chế lạm pháp ở nước ta:
1. Giải pháp của Đảng và nhà nước:
Đảng cần nâng cao nhận thức chính trị, kinh tế. Đảng viên phải theo hướng đổi mới
trên mọi lĩnh vực. Đồng thời, nhà nước phải vững mạnh chuyên chính vô sản, lậ lại
trật tự kỉ cương xã hội, đấu tranh không khoan nhượng, xoá bỏ những đặc quyền, đặc
lợi, những tư tưởng cục bộ địa phương đang làm trì trệ.
Để làm được việc này nhà nước cần ban hành những đạo luật chung về kinh tế, các
đạo luật cụ thể về giá cả, lao động, tài chính, ngân hàng…Pháp luật của nhà nước đảm
bảo các quyền lợi, quyền bình đẳng, không phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh
tế. Từ đây các thành phần kinh tế tạo nên sự cạnh tranh trong hoạt động, gây sức ép
với nhau để đổi mới, tạo ra nhiều việc làm cho người lao động.
2.

Giải pháp của chính phủ:

Một là, thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt: Mức cung tiền trong lưu thông và dư nợ
tín dụng tăng liên tục từ năm 2004 qua các năm và tăng cao trong năm 2007 là nguyên
nhân quan trọng gây lạm phát nên ngân hàng nhà nước cũng đã giảm lượng cung tiền
và tín dụng, áp dụng mức lãi suất trần 14%/năm cho các ngân hàng thương mại.

Hai là, cắt giảm đầu tư và chi tiêu công: Cắt giảm đầu tư công và chi phí thường
xuyên của các cơ quan sử dụng ngân sách, kiểm soát chặt chẽ đầu tư của các doanh
nghiệp nhà nước, cố gắng giảm tỷ lệ thâm hụt ngân sách.
Ba là, mở rộng việc thực hiện các chính sách về an sinh xã hội.
Bốn là, tập trung sức phát triển sản xuất công nghiệp, nông nghiệp:
-

Khắc phục nhanh hậu quả của thời tiết và dịch bệnh để tăng sản
lượng lương thực, thực phẩm.
Mở rộng kho dự trữ quốc gia về lương thực thực phẩm.
Kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc về vốn, về thị trường, về thủ
tục hành chính, thúc đẩy sản xuất phát triển.

Năm là, bảo đảm cân đối cung cầu về hàng hoá, đẩy mạnh xuất khẩu, giảm nhập siêu.
Sáu là, triệt để tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng: Chính phủ yêu cầu các cơ quan
cắt giảm 10% chi tiêu hành chính, các doanh nghiệp phải rà soát tất cả các khoản chi
nhằm hạ giá thành và chi phí lưu thông, nhất là nhiên liệu, năng lượng.
23


Bảy là, tăng cường công tác quản lý thi trường, kiểm soát việc chấp hành pháp luật
nhà nước về giá:
Ngăn chặn tình trạng buôn lậu qua biên giới, đặc biệt là buôn lậu
xăng dầu, khoáng sản.
- Chính phủ cũng yêu cầu các hiệp hội ngành hàng tham gia tích cực,
ủng hộ các chủ trương và giải pháp bình ổn thị trường.
3. Các biện pháp tiền tệ-tín dụng, thanh toán và giải pháp của ngân hàng trung
ương và các ngân hàng thương mại.
-


+ Xoá bao cấp qua tín dụng.
+ Đổi mới cơ chế quản lý ngoại hối, hạ cơn sốt ngoại tệ.
+ Đổi mới cơ cấu và phương thức cân đối ngân sách, cải tiến việc phân cấp quản lý
ngân sách.
Giảm hoặc rút bớt về một khối lượng lớn giấy bạc. Để thực hiện được điều này chính
phủ và ngân hàng thường sử dụng các hình thức thu hút vốn vào quỹ ngân hàng như
sau:
+ Khuyến khích doanh nghiệp, cá nhân gửi tiền vào ngân hàng bằng cách này nâng
cao mức lãi suất trên mức lạm phát.
+Thu hẹp khả năng thanh toán cuối cùng các hối phiếu hoặc kỳ phiếu thương mại đối
với các ngân hàng thương mại thông qua việc hạn chế chiết khấu và nâng cao tỷ lệ
quỹ vốn lao động.
+Hạn chế và thu hẹp tín dụng ngân hàng nói chung.
+Để hạn chế và điều hoà tín dụng, ngân hàng trung ương thường sử dụng các biện
pháp sau:tăng hay giảm lãi suất để giảm hay tăng khối lượng tín dụng.
4.

Điều chỉnh giá cả và sự quản lý của nhà nước:

Nhà nước thả nổi giá cả hầu hết các mặt hàng, giờ đây giá cả hàng hoá do thị trường
định đoạt. Nhà nước chỉ dừng lại ở mức quy định một ít mặt hàng theo giá của nhà
nước đưa ra. Một số mặt hàng quan tọng nhà nước can thiệp bằng các biện pháp kinh
tế tích cực chẳng hạn giá gạo hạ thấp, nhà nước bỏ tiền ra mua với giá cao hơn thị
trường tự do để giữ vững khuyến khích nông nghiệp, giá vàng lên cao, ngân hàng nhà
nước bán vàng ra thị trường với mức giá thấp hơn để kéo giá vàng hạ xuống. Với giải
24


pháp này, nhà nước đã xoá bỏ tình trạng ngân sách bao cấp cho các xí nghiệp và các
tổ chức kinh tế.

Nhà nước Việt Nam cho phép các ngân hàng quốc gia được xác đjnh tỷ giá ngoại tệ
xấp xỉ với thị trường tự do, biện pháp này có tác dụng xoá bỏ hiện tượng đầu cơ vàng
và ngoại tệ gây rối loạn thị trường.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:
www.undp.org
www.doc.edu
www.wikipedia.org
25


×