Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Đắk Lắk - Lịch sử, danh nhân, địa danh, di tích

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (90.65 KB, 15 trang )

Năm 1899, thực hiện chính sách bình định Cao Nguyên, Tổng thống Pháp
cử viên cai Bu-rơ-goa (Bourgeois) từ phía bắc theo sông Mê-công rẽ vào sông
Sêrêpôk đến vùng đất Buôn Đôn, chọn nơi này làm đại lý, với mục đích làm
thí điểm trong cuộc bình định Cao Nguyên Trung phần. Tại đây, Bu-rơ-goa
chọn một số tù trưởng sơn cước làm cố vấn, đó là Phét Lasa và Y Thu Knul
(Khun Zu Nốp) người M’nông-Lào, coi họ là những cộng sự trung thành của
các viên khâm sứ ở Dak Lak. Tuy vậy, việc chọn Buôn Đôn làm đại lý của
người Pháp đã gặp phải sự kháng cự quyết liệt của đồng bào nơi đây. Bu-rơ-
goa không tài nào mở rộng được vùng đất cai trị của mình mà còn bị mất uy
tín với nhân dân bản địa.
Ngày 22/12/1904, thực dân Pháp chuyển đại lý từ Buôn Đôn về Buôn Ma
Thuột và chọn nơi này làm thủ phủ của Cao nguyên Dak Dak (thuộc tỉnh Kon
Tum), đồng thời giao cho triều đình Việt Nam phối hợp với người Pháp để cai
quản.
Ngày 02/7/1923, toàn quyền Đông Dương ban hành nghị định tách phần
đất Dak Lak ra khỏi KonTum và thành lập tỉnh riêng. Lúc mới thành lập, dak
lak chưa có huyện, tổng mà chỉ có đơn vị làng dựa theo các buôn có sẵn của
các dân tộc bản địa, như Ê đê có 151 làng, M’nông có 117 làng, Gia rai có 11
làng, Bih có 24 làng, M’dhur có 120 làng…
Năm 1931, Pháp làm cuộc cải cách hành chính toàn Đông Dương, địa bàn
tỉnh Dak Lak được chia làm 5 quận là Buôn Ma Thuột, Buôn Hồ, Dak Song,
Lak và M’drăk, gồm 440 làng. Tỉnh lỵ đóng tại Buôn Ma Thuột. Từ đó cho
đến Cách mạng tháng Tám năm 1945 và suốt 9 năm kháng chiến chống thực
dân Pháp, về mặt hành chính trên địa bàn tỉnh Dak Lak không có gì thay đổi
lớn. Ngày 15/10/1950, Bảo Đại ban hành Dụ số 6, đặt các tỉnh Cao nguyên,
trong đó có Dak Lak làm Hoàng triều Cương thổ, có quy chế cai trị riêng.
Sau Hiệp định Genève, chính quyền Ngô Đình Diệm huỷ bỏ quy chế
Hoàng triều Cương thổ và đặt tỉnh Dak Lak cũng như các tỉnh khác thuộc Cao
nguyên Trung phần của “Việt Nam Cộng hoà”. Nghị định số 158 BNV/NĐ
ngày 08/8/1957 chuyển đổi thị trấn Buôn Ma Thuột thành xã Lạc Giao thuộc
quận Buôn Ma Thuột. Nghị định số 356 BNV/NĐ ngày 2/7/1958 ấn định các


đơn vị hành chính của tỉnh Dak Lak gồm 5 quận, 21 tổng, 77 xã. Riêng Buôn
Ma Thuột có các tổng Ea Tam (10 xã), Cư Keh (4 xã), Cư Ewi (6 xã), Drai
Sáp (5 xã).
Ngày 20/12/1963, chính quyền Sài Gòn ban hành nghị định số 262
BNV/HC/NĐ thành lập thêm một quận mới của tỉnh Dak Lak, lấy tên là quận
Phước An. Lúc bấy giờ Dak Lak gồm có 4 quận: Buôn Ma Thuột, Buôn Hồ,
Lạc Thiện, Phước An. Quận Buôn Ma Thuột không còn tổng nữa, có các xã:
Cư Ebu Math, Cư Edru Math, Cư Kphong Math, Cư M’gar Math, Cư Ming
Math, Cuôr Dang Math, Chi Lăng, Đạt Lý, Ea Ana Math, Ea Emaih Math, Ea
Hbong Math, Ea Hding Maath, Ea Net Math, Ea Kwang Math, Ea Madong
Math, Ea Mdhar Math, Ea Kmat Math, Ea Knir Maath, Ea Ktur Math, Ea Pac
Math, Ea Bour Math, Kmrong Prông Math, Lạc Giao, Quảng Nhiêu, Tân
Điền, Thọ Thành.
Sau ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam (30/4/1975), chính quyền
Cách mạng đã sắp xếp lại địa bàn hành chính của Dak Lak gồm 5 huyện và 1
thị xã: Krông Buk, Krông Pawc, Dak Mil, Dak Nông, Lak, thị xã Buôn Ma
Thuột.
Ngày 21/1/1995, Chính phủ ban hành Nghị định số 08-NĐ/CP, chuyển
thị xã Buôn Ma Thuột thành thành phố trực thuộc tỉnh Dak Lak, lập thêm hai
phường mới, chuyển 3 xã qua huyện Ea Súp, 3 xã khác qua huyện Cư Jút, 1
xã về huyện Krông Păc, Nghị định số 71/CP ngày 18/11/1996 của Chính phủ
cho phép việc thành lập thêm 4 phường mới thuộc thành phố Buôn Ma Thuột.
Như thế, trên địa bàn thành phố Buôn Ma Thuột tính từ thời điểm này có 18
phường, xã.
Đến nay, tỉnh Dak Lak có diện tích tự nhiên 19.599km
2
, dân số gần 2 triệu
người, 44 dân tộc anh em, được phân bố trên 18 huyện, 1 thành phố, đó là:
Buôn Ma Thuột, Huyện M’drăc, Ea Kar, Krông Păc, Krông Bông, Lak, Ea
H’leo, Krông Năng, Krông Buk, Cư M’gar, Buôn Đôn, Ea Súp, Krông Ana,

Cư Jút, Krông Nô, Dak Mil, Dak Song, Dak Nông, Dak R’lấp.
FHuyền thoại về Hồ Lak:
Đã từ lâu lắm rồi, thanh niên và dân làng đi săn, săn được nhiều thú
rừng họ cùng nhau ăn uống, nghỉ ngơi và chia thuốc hút, nhưng không có ai
có lửa. Y Biên là một chàng trai nhanh nhẹn, khoẻ mạnh đã tìm cách làm ra
lửa để hút thuốc. Thấy vậy, mọi người thách nhau: Y Biên làm ra lửa, vậy đố
ai làm cháy được nước?
Mọi người ồ lên: Làm sao mà cháy được nước?…
Dân làng nói như vậy, nhưng hai thanh niên Y Lắc và Y Liêng đã làm
cho nước cháy được. Dân làng bắt đầu lo sợ vì không còn nước để uống như
ngày xưa nữa. Từ đó họ phải uống nước sương, và bắt Y Lắc, Y Liêng phải
làm nô lệ cho dân làng.
Vì không quen làm nô lệ cho dân làng nên hai người bàn việc trốn đi.
Đang lúc nằm ngủ trên tảng đá to, Lắc và Liêng đã được Giàng đến mách bảo:
-Ơ các con “Nếu các con biết chặt cây m’ô thì có nước trong đó để
uống các con ạ!”
Được Giàng mách bảo, hai chàng thức dậy vội vã đi tìm cây m’ô. Chặt
một cây, chặt hai cây đã có nước, chặt ba cây thấy bên trong có một chú lươn.
Y Lắc và Y Liêng mừng lắm bèn đem nước và lươn về nuôi, và họ không còn
muốn bỏ buôn làng đi nữa. Ơ một ngày, một đêm, tới chiều con lươn đã lớn.
Lươn ở nồi đất, nồi đất chật, ở nồi đồng, nồi đồng cũng không chứa nổi. Cuối
cùng Lắc và Liêng phải đào sâu dưới đất làm chỗ ở cho lươn. Con lươn ngày
càng to, nước trong nhà mỗi ngày một nhiều. Sợ nước tràn ra ngoài, Y Lắc và
Y Liêng càng đào rộng và sâu mãi. Khi đã được nhiều nước, hai chàng không
nói cho ai hay, dân làng cũng không ai hay.
Một lần do mải chơi với con lươn nên có con chó đến ăn vụng cơm của
hai chàng. Nhờ vậy, dân làng mới biết rõ Lắc và Liêng đã có nhiều nước, nấu
được nhiều cơm, nên họ mừng lắm. Để có được nước, dân làng đổi hết nồi
đồng, nồi đất, đổi hết chiêng ché cho Lắc và Liêng nên hai chàng bỗng trở
nên giàu có. Họ được trả tự do, và hồ nước đã trở thành của chung, không ai

còn phải đổi chác gì nữa.
Con lươn của Lắc và Liêng mỗi ngày một lớn nên chỗ ở của nó ngày
càng trở nên chật chội. Một hôm lươn bảo với hai chàng trai: “Hãy làm cho
tôi hai cái sừng sắt cắm vào đầu tôi”. Hai chàng trai cùng họp với dân làng
nhưng chẳng ai làm ra vật bằng sắt được, chỉ có Y Biên, kẻ làm ra lửa nên
nung được sắt. Con lươn nhờ có sừng nên làm cho chỗ ở ngày càng rộng hơn.
Chỗ ấy ngày nay là hồ Lak xinh đẹp và giàu có, trong xanh như chiếc
gường soi xinh xắn cho mọi người đến du ngoạn và nghỉ ngơi.
FDray H’Linh: (Thác nước mang tên nàng H’linh)
Chuyện xưa kể lại rằng: tại một buôn làng Ê đê có đôi trai gái yêu nhau
say đắm. Chàng trai tên là Dam Yông, tuy nghèo khó nhưng siêng năng, dũng
cảm. Nàng H’Linh xinh đẹp có bờ tóc dài chấm gót như dòng suối chảy, tính
tình nết na, hiền hậu. Nhưng tình yêu của họ đã không vượt qua được phong
tục có tự ngàn đời do cả hai đều nghèo, không đủ trâu bò để mời làng, không
có nhiều ché rượu để cúng làng xin làm đám cưới.
Thế rồi, dưới bóng cây Kơnia đầu làng, Dam Yông đã chia tay H’Linh
để quyết chí ra đi tìm cách làm lụng ra nhiều của cải để trở vể cưới nàng
H’Linh. Nàng H’Linh đã chảy không biết bao nhiêu dòng nước mắt trong
ngày tiễn biệt.
Một, hai, ba mùa làm rẫy, họ vẫn biệt tin nhau. Bao nhiều lần bồ câu
núi bay đi bay về, mà tin chàng Dam Yông vẫn mãi biệt tăm. H’Linh vẫn
ngóng trông với nỗi nhớ khắc khoải và thất vọng.
Nàng cất bước ra đi để tìm chàng nơi xa. Hết núi cao, sông sâu, buôn
xa, vượt qua hàng ngàn con suối nhưng vẫn không thấy bóng Dam Yông.
Bóng ông mặt trời, tiếng vọng của rừng in bóng, vọng lời gọi của H’Linh. Khi
đến một dòng sông lớn, nàng cất tiếng gọi tên chàng trong thất vọng, và đã
gieo mình xuống dòng sông ấy.
Chàng Dam Yông, sau bao lần đi khắp buôn này, làng nọ, bao lần
nương rẫy bị thất bại, bao mùa rẫy đi qua mà của cải cải cũng chẳng có là
bao. Chàng trở về buôn cũ thì được tin nàng đã đi tìm chàng. Chàng chạy đi

khắp nơi rừng sâu, núi cao, nhưng vẫn không gặp được nàng. Cuối cùng,
chàng cũng đến được bờ sông, nơi nàng đã gieo mình. Tiếng gọi của chàng
vọng trong lòng sông, lời suối, nhưng dòng sông vẫn ào ào tuôn trôi. Chạng
đã gieo mình xuống dòng sông ấy. Họ đã tron nghĩa thuỷ chung, kết nên một
tình yêu đẹp làm rung động lòng người. Chỗ ấy ngày nay gọi là thác Dray
H’Linh, trên dòng sông Sêrêpôk. Một công trình thuỷ điện mang tên mối tình
chung thuỷ, một tình yêu bất tử đã được xây dựng tại đây, tạo nên dòng điện
thắp sáng cho mọi buôn làng.
FDray-Sáp (Thác Khói):
Là một ngon thác cao vút, nước từ trên cao đỏ xuống tạo nên làn sương
khói kỳ ảo giữa những làn nước. Truyền thuyết về Dray Sáp được kể như sau:
Có một cô gái tên là Hơ Mi vẫn ngày ngày đi làm rẫy. Nàng và một chàng trai
của buôn làng hàng ngày bên nhau. Một hôm, trong lúc họ đang ngồi nghỉ
trên một hòn đá, bỗng thấy một con quái vật đầu to như quả núi, mắt lớn tựa
nồi đồng, râu dài, răng nhọn, toàn thân có vảy lấp lánh như bạc hiện ra trên
bầu trời rồi bất ngờ nó sà xuống đất. Chiếc vòi của con quái vật cắm sâu vào
đất. Bỗng một cột nước lớn từ dưới đất phun lên. Con quái vật xòe đôi cánh
lớn lượn mấy vòng, rồi phun nước tạo thành những đám mưa dữ dội và bay đi
mất. Cô gái sau giây phút khiếp đảm, giờ đã tan biến trong lớp mây mù.
Chàng trai thì đã biến thành một gốc cây lớn, cắm sâu vào ghềnh đá. Chỗ ấy
ngày nay là một dòng thác lớn cách thành phố Buôn Ma Thuột 30 cây số, gọi
là thác Khói, tiếng Ê đê là Dray Sáp.
FKrông Buk-Dòng sông mái tóc
Krông nghĩa là sông, Buk là tóc. Ngày nay, nó trở thành tên gọi của
một huyện lỵ ở Dak Lak. Chuyện kể rằng: ngày xưa có H’Rinh và H’Rao là
hai cô gái xinh đẹp nổi tiếng trong vùng. Thân thể của H'Rinh đúc bằng vàng,
thân thể của H'Rao đúc bằng bạc. Mọi người đứng trước hai cô gái như đứng
trước bông hoa pơ lang, ngắm nhìn mãi không chán. Nhìn đằng trước thấy dễ
nhớ, nhìn đằng sau thấy dễ thương. Các chàng trai dềi mơ ước, được cùng ăn
chung mâm, được ở cùng nhà, được cùng chung chăn gối với họ.

Chiều chiều, hai nàng rủ nhau ra bến nước, ra bờ suối hái rau, bắt cá,
hát múa, vui đùa. Một hôm H'Rinh và H'Rao tưởng thấy mắt mình như mờ đi,
bởi ngay trên mặt nước một chàng trai như đúc từ ánh trăng đã hiện lên ở đó,
rồi lên bờ ngồi câu cá. Chung quanh chàng hoa nở thơm ngát, chim hót vang
lừng. Trong giây phút đó, cả đôi bên đều sững sờ. Chàng trai đã cùng hai cô
gái ngồi nói chuyện với nhau. Họ đã làm quen nhau như vậy.
Trời tối lúc nào họ cũng không hay. Những câu chuyện thơm như hoa
trái, nhiều như suối nguồn cứ tuôn mãi như không bao giờ dứt được. Họ thấy
có tình yêu rạo rực trong người.
Qua nhiều tháng, nhiều ngày, khi hai nàng H'Rinh, H'Rao mới biết tên
chàng trai là Y Krông, con của thần nước. Hai thế giới khác biệt như chim
trời, cá nước. Họ buồn lắm, Thần bến nước cũng không cho họ thấy nhau. Sau
bảy lần thương, chín lần nhớ, nước mắt chảy tràn, họ đành phải chia tay nhau.
Chàng trai Y Krông được hai cô gái cắt nửa mái tóc của mình để làm kỉ
niệm. Y Krông nắm lấy lọn tóc nhảy xuống dòng nước xiết để về với quê
hương thần nước. Hai nàng H'Rinh, H'Rao về nhà, ăn hạt cơm không vô bụng,
nước mắt cứ như từ trong hang đá tuôn trào. Bảy đêm không ngủ, bảy ngày
không ăn, H'Rinh chết hoá thành hoa sen trắng, H'Rao chết hoá thành rau

×