Tải bản đầy đủ (.doc) (54 trang)

220 CHUYỆN KỂ VỀ TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (331.16 KB, 54 trang )

NHỮNG CHUYỆN KỂ VỀ TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH
Được chọn lọc trong cuốn “117 chuyện kể về tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh” của Trung tâm thông tin công tác tư tưởng - Ban Tuyên giáo Trung ương, Hà
nội-2007 để sử dụng tại Hội thi “Báo cáo viên giỏi kể chuyện về tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh” trong Đảng bộ Công ty. Các câu chuyện dưới đây được đã được sắp
xếp theo chủ đề để thí sinh các đơn vị tham khảo.
* Lưu ý:

+ Chữ số in đậm không có ngoặc (ví dụ 1-) là dự kiến số thứ tự chuyện
được sắp xếp theo chủ đề
+ Chữ số trong ngoặc vuông (ví dụ [6.]) là số thứ tự của câu chuyện trong
cuốn “117 chuyện kể về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” do Trung tâm
thông tin công tác tư tưởng - Ban Tuyên giáo Trung ương biên tập.

1- [6.] Tôi là người cộng sản như thế này này!
Bác Hồ của chúng ta, từ sau khi bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế thứ ba tại Đại
hội Tua Đảng Xã hội Pháp đêm 30/12/1920, thì cũng từ giờ phút ấy, Người trở thành
người cộng sản, trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Đồng
thời cũng là người cộng sản Việt Nam đầu tiên.
Từ người yêu nước trở thành người cộng sản, như Người đã nói rõ, là do trải qua
thực tế đấu tranh và nghiên cứu lý luận, Người đã hiểu được rằng “chỉ có chủ nghĩa xã
hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao
động trên thế giới khỏi ách nô lệ”.
Trong gần 50 năm mang danh hiệu người cộng sản, khi thuận lợi, lúc khó khăn, dù
khi chỉ là một người thợ ảnh bình thường hay đã trở thành vị Chủ tịch nước đầy uy tín và
danh vọng, ở buổi cách mạng thắng lợi ròn rã hay khi bị kẻ thù dồn dập phản kích, lúc nào
Bác Hồ của chúng ta cũng tỏ ra là một người cộng sản kiên định, thuỷ chung, nghĩa khí,
thắng không kiêu, bại không nản, vô cùng khiêm tốn nhưng cũng rất mực tự hào về danh
hiệu người cộng sản của mình.
Đã có thời, có người nhấn mạnh quá đáng phẩm chất siêu việt của người cộng sản,
cho rằng đó là những người có một tính cách đặc biệt riêng, v.v … được cấu tạo bằng một


chất liệu đặc biệt riêng. Không biết đó có phải là một trong những nguyên nhân đẻ ra cái
gọi là “thói kiêu ngạo cộng sản” hay không?
Có điều chắc chắn rằng Bác Hồ của chúng ta không tán thành cách nói thậm xưng
đó, nhất là vào khi Đảng cầm quyền, vào lúc cách mạng đang thuận lợi. Người nói: “Đảng
viên chúng ta là những người rất tầm thường, vì chúng ta đều là con của giai cấp công
nhân, của nhân dân lao động… thế thôi. Chính vì chúng ta rất tầm thường nên Đảng ta rất
vĩ đại”.
Người đã từng nói nhiều lần: Người cộng sản cũng là con người, nên có ưu, có
khuyết, có tốt, có xấu.
“Đảng ta không phải trên trời sa xuống. Nó ở trong xã hội mà ra”. “Cũng có những
người hàng ngày lội bùn mà trên mình họ có hơi bùn, vết bùn… Cần phải tắm rửa lâu mới
sạch”. Vì vậy, Người dạy: Không phải cứ khắc lên hai chữ “cộng sản” là được nhân dân
tín nhiệm đâu; phải khiêm tốn, không hiếu danh, không kiêu ngạo, phải nhớ mình vừa là
người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ của nhân dân.
Bác Hồ của chúng ta, trong cuộc đời hoạt động cách mạng đi Âu về Á, đã từng giáp
mặt với bao gian khổ, khó khăn (hai lần ngồi tù: 1931-1933 và 1942-1943), đã từng lãnh
án tử hình vắng mặt (năm 1929); nhưng vì tin vào lý tưởng, tin vào nhân dân, tin ở chính
mình, nên lúc nào Người cũng ung dung, tự tại, luôn thể hiện nhân cách cao đẹp của
người cộng sản.
-1-


Năm 1931, khi Người bị giam trong nhà ngục Victoria của đế quốc Anh tại Hồng
Kông hoặc khi bị bệnh phải đưa vào nhà thương, nhiều “ông bà” người Anh có quyền thế
và cả một số nhân viên người Trung Quốc đã rủ nhau đến xem, ý chừng họ muốn thấy
mặt mũi “lạ lùng” của một người cộng sản! Cuối cùng, họ bắt gặp một nhân cách lớn mà
họ rất khâm phục và sẵn lòng giúp đỡ từ đó.
Năm 1944, tại Liễu Châu, tuy Người được ra khỏi ngục Quốc dân Đảng, nhưng vẫn
bị quản thúc vì họ biết Người là lãnh tụ cộng sản, không muốn thả cho về nước. Bác Hồ
nói thẳng với Trương Phát Khuê: “Tôi là người cộng sản, nhưng điều mà tôi quan tâm

hiện nay là độc lập và tự do của nước Việt Nam”. Chính lòng yêu nước, đức độ và tài trí
của Bác Hồ đã làm cho Trương cảm phục, trả lại tự do và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho
Người trở về Việt Nam.
Năm 1946, ở Paris, trong một cuộc họp báo, một nhà báo Pháp muốn làm giảm
thiện cảm của những người Pháp không ưa cộng sản đối với Bác, bằng cách đưa ra một
câu hỏi:
- Thưa Chủ tịch, Ngài có phải là cộng sản không?
Bác Hồ của chúng ta liền đi đến lẵng hoa bày trên bàn, vừa rút ra từng bông tặng
mỗi người, vừa vui vẻ nói:
- Tôi là người cộng sản như thế này này!
Đó cũng là điều giúp ta có thể hiểu được vì sao mấy chục năm qua, thế giới có bao
sự đổi thay, Bác Hồ vẫn luôn được cả thế giới tôn kính và ngưỡng vọng, coi như một biểu
tượng cao cả của nhân đạo, chính nghĩa của hoà bình, một kiểu người cộng sản hài hoà
giữa yêu nước và quốc tế, anh hùng dân tộc và danh nhân văn hoá, phương Đông và
phương Tây.
Có thể dẫn ra đây một ý kiến, trong rất nhiều ý kiến của nhà báo Mỹ Sa-phơ-len, viết
từ năm 1969:
“Trong rừng Việt Bắc, Cụ Hồ như một ông tiên. Nếu có ai bảo đấy là một người cộng
sản thì tôi có thể nói Cụ là một người cộng sản khác với quan niệm chúng ta vẫn thường
nghĩ; và theo tôi, có thể dùng một từ mới: Một người cộng sản phương Đông, một người
cộng sản Việt Nam”.
Theo Trần Hiếu Đức
Nguồn: Bác Hồ, con người và phong cách.
Nxb Lao động, Hà Nội, 1993, tập 1
[15.] Cách ứng đáp mẫn tiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Năm 1946, một nhà văn là uỷ viên thường trực Ban vận động Đời sống mới đến gặp
Hồ Chủ tịch để xin ý kiến Người về nội dung cuộc vận động. Bác Hồ nói nên vận động
nhân dân thực hiện mấy chữ: Cần, Kiệm, Liêm, Chính.
- Thưa cụ, mấy chữ ấy rất hay nhưng nghe có vẻ cổ. Cụ có thể thay bằng mấy chữ
khác không ạ?

- Thế cơm ông cha ta đã từng ăn hàng ngàn năm trước, hiện nay chú và tôi hàng
ngày vẫn ăn, chú thấy có cổ không? Không khí ông cha ta đã từng hít thở, ngày nay
chúng ta vẫn tiếp tục hít thở, chú thấy có cổ không?
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, mấy chục vạn quân Tưởng kéo vào tìm cách
khiêu khích để lấy cớ tiêu diệt quân đội cách mạng Việt Nam. Bác Hồ triệu tập các vị lãnh
đạo cao cấp để xử lý một vấn đề “hệ trọng”, Bác nói:
- Tướng T.V. của quân đội Trung Hoa dân quốc có gửi cho tôi một bức công văn, nội
dung như sau:
“Kính thưa cụ Hồ Chí Minh, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà,
Yêu cầu cụ cho mượn một cái nồi nấu cơm”.

-2-


Không cần phải nói, ai nấy đều có thể hình dung không khí tức giận bao trùm lên
cuộc họp. Có những ý kiến đòi đánh.
Với phong thái bình tĩnh, ung dung, Bác Hồ nói: “Nền độc lập ta vừa mới giành được
giống như một chiếc bình ngọc. Nay có những con kiến bò trên miệng bình, nếu ta dùng
gậy đập kiến, chưa chắc kiến đã chết mà bình ngọc vỡ. Nếu ta lấy một cái que bắc cầu
cho chúng xuống thì kiến sẽ đi hết, như vậy có hơn không? Còn trong sự việc vừa đem ra
bàn, họ mượn cái nồi nấu cơm thì ta cho họ mượn, việc gì các chú phải nổi nóng như
vậy?!”
Khoảng giữa năm 1949, một nhà báo Thái Lan trực tiếp phỏng vấn Hồ Chủ tịch để
thăm dò xem Việt Nam đứng về phía nào trong cuộc chiến Quốc - Cộng ở Trung Quốc.
- Thưa Cụ Chủ tịch, nước Việt Nam của Cụ đứng về phía nào ông Tưởng hay ông
Mao? Xin Cụ miễn cho câu trả lời “đứng trung lập”.
- Chúng tôi đứng trung lập. Cũng như Thái Lan của ông đang đứng trung lập giữa
Anh và Mỹ!
- Nghe nói quân giải phóng nhân dân Trung Hoa đã gửi cho Cụ súng cối và súng
liên thanh. Cụ đã nhận được chưa, nếu chưa thì cụ có ý định nhận không?

- Chúng tôi chưa nhận được gì hết. Còn đúng như ông nói là họ có ý định gửi cho
chúng tôi thì trong trường hợp này, ông khuyên chúng tôi nên làm như thế nào?
Ngày 5/10/1959, ông Si-ra I-si Bôn, cố vấn biên tập báo A-xa-hi-sin-bun Nhật Bản
phỏng vấn Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều vấn đề, trong đó có việc Chính phủ Nhật Bản dự
định bồi thường chiến tranh, mà phía Nhật lại chọn Việt Nam lúc đó do nguỵ quyền Sài
Gòn kiểm soát làm đối tác. Câu hỏi và câu trả lời như sau:
Hỏi: Việc đàm phán về vấn đề bồi thường chiến tranh đã được tiến hành giữa Chính
phủ Nhật Bản và Việt Nam. Ngay ở Nhật Bản cũng có người chỉ trích việc đàm phán này
và tin tức cho biết Ngài không hài lòng.
Theo ý Ngài, nhân dân Nhật Bản cần được hiểu vấn đề này như thế nào? Theo ý
Ngài, vấn đề này cần được giải quyết như thế nào mới đúng?
Trả lời: Trong cuộc Đại chiến lần thứ hai, quân phiệt Nhật Bản đã xâm chiếm nước
Việt Nam và đã gây ra nhiều tổn thất cho nhân dân Việt Nam từ Bắc chí Nam. Toàn thể
nhân dân Việt Nam có quyền đòi hỏi Chính phủ Nhật Bản tiến hành đàm phán và ký kết
bồi thường chiến tranh với chính quyền miền Nam Việt Nam là không hợp pháp.
Nhân dân Việt Nam và Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thấy rằng, việc
đòi hỏi Nhật Bản bồi thường sẽ là một gánh nặng cho nhân dân Nhật Bản. Vấn đề cốt yếu
trong quan hệ giữa hai nước không phải là việc đòi bồi thường, mà tình đoàn kết hợp tác
giữa hai dân tộc Việt - Nhật đấu tranh chống chiến tranh, bảo vệ hoà bình là quý hơn hết.
Nguồn: Trần Thành - Huệ Chi
Báo An ninh Thủ đô, số 562, ngày 20/2/2001
2- [8.] “Vừa đẹp vừa đỡ chói mắt đồng bào…”
Năm 1956, Bác Hồ đón một vị Tổng thống tại khu vườn Phủ Chủ tịch.
Một số công nhân Nhà máy đèn Hà Nội được Bác “mời vào mắc đèn điện trên các
cành cây giúp Bác”.
Anh em làm việc suốt ngày, ròng dây dẫn điện lắp đèn nhiều loại màu sắc trên ngọn,
trên cành trong các lùm cây.
Khoảng 19 giờ 30 cùng ngày, Bác ra vườn thăm anh em. Bác nói:
- Các chú bật đèn lên cho Bác xem đi.
Sau khi đóng cầu dao, những bóng đèn điện bỗng vụt hiện lên, lung linh như trong

một hội hoa đăng. Đồng chí tổ trưởng công nhân điện mời Bác đi xem và kiểm tra.
Bác chú ý từng ngọn đèn, từng đoạn dây dẫn đã an toàn chưa, gật đầu tỏ ý hài lòng.
-3-


Đến một đèn pha chiếu sáng đặt dưới một gốc cây, Bác dừng lại nói:
- Ngọn đèn này phải để khuất trong lùm cây, vừa đẹp vừa đỡ chói mắt đồng bào đi
qua đường.
Bác nhanh nhẹn bước tới ngọn đèn. Đồng chí tổ trưởng Dương Văn Hậu lo Bác vấp
ngã vì đôi guốc mộc dưới chân Bác đi trên đường rải sỏi, chạy vội đến:
- Bác để chúng cháu làm.
Nhưng Bác đã cúi xuống, rất “nghề nghiệp”, hai bàn tay bưng lấy thân ngọn đèn pha
dấu vào một lùm cây đinh hương.
Ngọn đèn pha mới được đặt, đẹp hẳn lên, người ngoài nhìn vào không bị chói mắt,
mà chỉ thấy những tia sáng chiếu qua các kẽ lá hắt lên một màu xanh dịu.
Lần sau, anh em nhà máy điện Hà Nội lại được đến Phủ Chủ tịch mắc đèn dây để
Bác tiếp khách.
Rút kinh nghiệm lần trước, lần này anh em làm khác hẳn lối treo đèn cũ, như để thưa
với Bác “phải luôn luôn đổi mới, không ngừng phát huy sáng kiến” - như lời Bác dạy.
Anh em đặt một dây đèn màu từ dưới gốc cây dừa nước lên ngọn rồi toả ra các
cành, mỗi cành có một đèn màu khác nhau. Ở các thân cây có quả đèn màu trắng, cành
cây đèn màu xanh, gần quả, một chùm đèn màu đỏ. Chếch hai bên đặt hai đèn pha dấu
trong lùm cây hắt nghiêng lên.
Như lần trước, vừa chập tối, Bác đã đến trước khách, thăm anh em công nhân điện
và kiểm tra, Bác khen:
- Lần này các chú mắc đẹp đấy. Chắc khách quý của chúng ta cũng sẽ khen…
Bác lấy thuốc lá chia cho anh em công nhân điện mỗi người một điếu (sau này được
biết là thuốc lá thơm Cu-ba do thủ tướng Phi Đen Cát-xtrô tặng Bác. Bác chia gần hết hộp
thuốc. Một công nhân trẻ, thấy Bác vui, hộp thuốc đã cạn, muốn có một kỷ niệm về Bác,
mạnh dạn thưa với Bác xin cái hộp. Bác cười và nói:

- Các chú đã có phần rồi. Cái hộp này Bác để dành cho các cô để các cô đựng kim
chỉ chứ!
Theo Minh Anh
Viết theo lời kể của Dương Văn Hậu Sđd, T2, trg 123
[51.] Bác không thăm những người như mẹ con thím thì còn thăm ai?
Thấy người lạ, mấy em quay ra nhìn tôi. Em lớn, cặp mắt như dò hỏi nhưng vẫn lễ
phép:
- Cháu chào bác ạ!
- Mẹ cháu đâu? - Tôi vội hỏi.
- Bác ạ, bác hỏi gì cháu? - Chị Chín từ trong bếp đi ra, vai quẩy đôi thùng, có lẽ chị
đi gánh nước để sớm mai khỏi bị “dông”.
Chị vừa trả lời vừa nhìn tôi hơi ngạc nhiên, tôi vội bảo:
- Chị ạ, chị ở nhà…
Chị Chín có vẻ lo lắng, quay lại nhìn lũ trẻ. Hình như chị lo lũ trẻ nghịch dại nên cán
bộ tới chăng? Tôi vội bảo thêm:
- Chị ở nhà, có khách đến thăm Tết đấy!
Vừa lúc ấy, Bác đã bước vào. Chị Chín sửng sốt nhìn Bác. Chiếc đòn gánh bỗng rơi
khỏi vai chị. Chiếc thùng sắt reo xuống đất kêu loảng xoảng. Tôi vội xếp lại hộ chị. Mấy
cháu nhỏ kêu lên: “Bác, Bác Hồ” rồi chạy lại quanh Bác.
Lúc này chị Chín mới như chợt tỉnh, chị chạy tới ôm choàng lấy Bác và bỗng nhiên
khóc nức nở. Đôi vai gầy sau làn áo nâu bạc rung lên từng đợt.
Bác đứng lặng, hai tay Người nhẹ vuốt lên mái tóc chị Chín. Chờ cho chị bớt xúc
động, Người an ủi:
-4-


- Năm mới sắp đến, Bác đến thăm thím, sao thím lại khóc?
Tuy cố nén, nhưng chị Chín vẫn không ngừng thổn thức, chị nói:
- Có bao giờ… có bao giờ Chủ tịch nước lại tới thăm nhà chúng con…, mà bây giờ
mẹ con chúng con lại được thấy Bác ở nhà. Con cảm động quá! Mừng quá… thành ra con

khóc…
Bác nhìn chị Chín, nhìn các cháu một cách trìu mến và bảo:
- Bác không tới thăm những người như mẹ con thím thì còn thăm ai?
Người xoa đầu các cháu và cho các cháu kẹo, rồi hỏi chị Chín:
- Thím hiện nay làm gì?
- Dạ, cháu làm phu khuân vác ở Văn Điển ạ!
- Như vậy là làm công nhân chứ! Sao gọi là phu?
- Vâng ạ, cháu trót quen miệng như trước kia.
- Thím vẫn chưa có công việc ổn định à?
- Dạ, cháu đã ngoài ba mươi tuổi, lại kém văn hoá nên tìm việc có nghề nghiệp cũng
khó.
Bác quay nhìn đồng chí Phó bí thư Thành uỷ và đồng chí Chủ tịch Uỷ ban hành
chính thành phố Hà Nội. Bác lại hỏi:
- Mẹ con thím có bị đói không?
- Thưa Bác, hồi Tây còn ở đây thì dẫu có cả bố cháu cũng vẫn đói ạ! Bây giờ bố
cháu mất rồi, nhưng đói thì không ngại, rét cũng không lo, song việc chi tiêu thì còn chắt
chiu lắm ạ!
Nói tới đây thì chị lại rơm rớm nước mắt.
Bác chỉ vào cháu lớn nhất và hỏi:
- Cháu có đi học không?
- Dạ, cháu đang học lớp bốn ạ! Cháu nó vất vả lắm! Sáng đi học, chiều về phải trông
các em và đi bán kem, hoặc đi bán lạc rang để đỡ đần cháu… Còn cháu thứ hai thì học
lớp ba, cháu thứ ba học lớp hai. Dạ, khó khăn nhưng vợ chồng cháu trước đã dốt nát, nay
cũng phải cố để cho các cháu đi học.
Bác tỏ ý bằng lòng. Người ân cần dặn dò việc làm ăn và việc học tập cho các cháu.
Nhân dân trong ngõ đã tới quây quần trước sân. Bác bước ra thăm hỏi và chúc Tết bà
con. Mọi người cùng mẹ con chị Chín theo tiễn Bác ra xe. Khi chiếc xe từ từ lăn bánh,
mấy mẹ con chị vẫy chào Bác, nhưng nét mặt chị Chín vẫn bàng hoàng như việc Bác vào
thăm Tết nhà chị không rõ là thật hay hư.
Trên xe về Phủ Chủ tịch, vầng trán mênh mông của Người còn đượm những nét

suy nghĩ. Tôi khẽ trình bày với Bác:
- Thưa Bác, năm nay Thành uỷ Hà Nội đã đề ra mười vạn đồng trợ cấp cho các gia
đình túng thiếu.
Bác quay lại nhìn tôi rồi bảo:
- Bác biết, nhưng muốn cho mọi người vui Tết, trước hết phải lo cho ai cũng có việc
làm. Phải chú ý những người có khó khăn đặc biệt.
Kể chuyện Bác Hồ Sđd, T.4, tr. 11
3- [19.] Bác Hồ với Trung thu độc lập đầu tiên
Chiều hôm đó, thứ 6, ngày 21/9/1945 tức ngày 15/8 năm Ất Dậu, tan giờ làm việc,
Bác bảo đồng chí thư ký về nhà trước, còn Bác ở lại Bắc Bộ phủ để đón các em thiếu nhi
vui Tết Trung thu.
Ngay từ chiều, Bác đã cho mời đồng chí Trần Huy Liệu, Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền
và một đồng chí phụ trách thiếu nhi của Thanh niên đến hỏi về tổ chức Trung thu tối nay
-5-


cho các em. Nghe báo cáo chỉ có ba địa điểm xung quanh Bờ Hồ để bày mâm cỗ cho
hàng vạn em, Bác bảo các anh chị phụ trách phải tổ chức thật khéo để em nào cũng có
phần. Về chương trình vui chơi, Bác khen là có nhiều cố gắng về mặt hình thức và căn
dặn là phải đảm bảo an toàn, nhất là đối với các em nhỏ.
Sau đó, Bác trở về phòng làm việc của mình trên căn gác 2 ở Bắc Bộ phủ. Nhưng
chốc chốc Bác lại hỏi:
- Các em đã tập trung đủ ở Bờ Hồ chưa?
Trăng đã bắt đầu lên. Bác Hồ ra đứng ở cửa ngắm đêm trăng và lắng nghe tiếng
trống rộn ràng từ các đường phố vọng đến. Ai mà biết được niềm vui lớn đêm nay của
Bác Hồ, người chiến sĩ cách mạng đã bôn ba khắp năm châu, bốn bể, nếm mật năm gai,
vào tù ra tội, chỉ nhằm một mục đích duy nhất là đem lại độc lập cho Tổ quốc, no ấm cho
nhân dân và đặc biệt, cháy bỏng trong lòng Người là niềm mong ước hạnh phúc ấm no
cho lớp trẻ thơ.
Đêm nay, giữa lòng Hà Nội, ngay trong Dinh Chủ tịch, Bác Hồ hồi hộp chuẩn bị đón

tiếp “Bầy con cưng” của mình.
Trước Trung thu mấy hôm, Bác đã viết một lá thư dài gửi các em nhân ngày tựu
trường.

Liền sau đó, Bác lại viết “Thư gửi các cháu thiếu nhi” nhân dịp Tết Trung thu. Thư
viết trước Trung thu một tuần lễ để kịp đến với các em khắp các miền đất nước. Bác Hồ
bao giờ cũng chu đáo như thế.
Và đêm nay, Trung thu đã thực sự đến trong nỗi bồi hồi mong đợi của Bác. Theo
chương trình thì đúng 21 giờ các em mới đến vui chung với Bác Hồ. Thế mà lúc này chưa
đến 20 giờ Bác đã bồn chồn đi lại trong phòng, xem lại đề cương bài phát biểu lát nữa sẽ
nói với các em, xem lại những tấm ảnh lát nữa Bác sẽ tặng cho mỗi em một tấm… Thật
khó mà hình dung được một cụ già đã gần tuổi 60, một vị Chủ tịch nước, một nhà hoạt
động quốc tế nổi tiếng, một con người vốn có bản lĩnh ung dung, bình thản trong mọi tình
huống, đêm nay lại nóng lòng chờ đợi, gặp gỡ các em nhỏ như vậy.
Hồ Hoàn Kiếm tưng bừng náo nhiệt. Những bóng điện lấp lánh trong các vòm cây.
Hàng ngàn, hàng vạn đèn giấy trên tay các em soi bóng xuống mặt hồ. Trên đỉnh Tháp
Rùa rực sáng ánh điện với băng khẩu hiệu “Việt Nam độc lập”.
Đúng 20 giờ, lễ Trung thu độc lập đầu tiên bắt đầu. Sau lễ chào cờ, một em đại diện
cho hàng vạn thiếu nhi Hà Nội phát biểu niềm vui sướng được trở thành tiểu chủ nhân
của đất nước độc lập. Tiếp đó đồng chí Trần Huy Liệu, đại diện Chính phủ, trịnh trọng đọc
thư của Bác Hồ gửi thiếu nhi, căn dặn các em cố gắng học tập để xứng đáng với sự quan
tâm, chăm sóc của Bác.
Buổi lễ kết thúc, các đoàn đội ngũ chỉnh tề đều bước trong tiếng trống vang vang
hướng về Bắc Bộ phủ. Dẫn đầu đoàn là những đội múa lân, múa sư tử cùng hàng ngàn,
hàng vạn chiếc đèn giấy lung linh uốn lượn như một dòng sông sao…
Đúng 21 giờ các em có mặt trước Bắc Bộ phủ. Bác Hồ xuất hiện tươi cười, thân
thiết. Tiếng hoan hô như sấm dậy. Tiếng trống rộn ràng. Sư tử lại nhảy múa. Tất cả sung
sướng hò reo. Chúc mừng Bác Hồ kính yêu.
Bác Hồ xúc động bước xuống thềm đón các em, tiếng hoan hô lại dậy lên. Một em
đứng trước máy phóng thanh đọc lời chào mừng. Đọc xong em hô to “Bác Hồ muôn

năm!”. Lập tức tiếng hô “Muôn năm” rền vang không ngớt.
Bác Hồ giơ cao hai tay tỏ ý cám ơn các em rồi Bác lần lượt đến bắt tay từng em
đứng hàng đầu. Cặp mắt của Bác ánh lên một niềm vui đặc biệt. Trong lúc ở phía ngoài,
các đoàn “xe tăng”, các binh sĩ của Hai Bà Trưng, của Đinh Bộ Lĩnh, các đội sư tử với rất
nhiều em đeo mặt nạ… ùn ùn kéo vào dinh của Chủ tịch trong tiếng trống hò reo vang

-6-


dậy, khu vườn Phủ Chủ tịch bỗng nhiên im phăng phắc khi đồng chí phụ trách giới thiệu
Bác Hồ sẽ nói chuyện với các em.
Bằng giọng xứ Nghệ có pha lẫn giọng các miền của đất nước, Bác thân thiết trò
chuyện với các cháu: “Các cháu! Đây là lời Bác Hồ nói chuyện…”
Cuối cùng Bác nói: Trước khi các cháu đi phá cỗ, ta cùng nhau hô hai khẩu hiệu:
“Trẻ em Việt Nam sung sướng!”, “Việt Nam độc lập muôn năm!”.
Tiếng hô hưởng ứng của các em rền vang cả một vùng trời.
Trăng rằm vằng vặc toả sáng. Niềm vui tràn ngập cả Hà Nội, Bác Hồ vui sướng
đứng nhìn các em vui chơi.
Ai hiểu được hết niềm vui của Bác Hồ lúc này. Bao nhiêu năm xông pha chiến đấu,
phải chăng Bác cũng chỉ mong ước có giây phút sung sướng như đêm nay.
“Trẻ em Việt Nam sung sướng!” Khẩu hiệu đó của Bác Hồ cách đây 45 năm, vẫn
đang là mục tiêu phấn đấu của các thế hệ hôm nay và mãi mãi mai sau.
Vũ Kỳ - Báo Hà Nội mới số ra ngày thứ tư 03/10/1990
4- [21.] Ba lần được gặp Bác Hồ.
Hồ Thị Thu kể:
Khi cháu ở trong Nam, cháu được nghe các chú đọc lời dạy của Bác Hồ, cháu càng
thương nhớ Bác nhiều. Cháu và các bạn cháu mong sao nước nhà thống nhất, cùng đồng
bào miền Nam đón Bác vào thăm. Qua thời gian chiến đấu, cháu được Đảng, Mặt trận
cho ra miền Bắc để học tập, cháu vinh dự được gặp Bác.
Lần đầu cháu được gặp Bác, Bác hỏi cháu đã biết chữ chưa. Cháu vòng tay trả lời

Bác mà cháu nói không nên lời, vì cháu cảm động quá. Sau, cháu cố gắng trả lời để Bác
nghe:
- Dạ thưa Bác, cháu chưa biết chữ nào ạ. Vì gia đình cháu nghèo, ba má cháu mất
sớm, cháu đông em nên không được đi học.
Vừa nói xong, cháu ngước lên nhìn Bác. Hai hàng nước mắt Bác rưng rưng làm cho
cháu càng thêm cảm động hơn.
Lần thứ hai cháu được gặp Bác. Bác hỏi cháu:
- Đồng bào miền Nam đấu tranh và chiến đấu như thế nào?
Cháu liền đứng lên vòng tay lại:
- Dạ, thưa bác, đồng bào miền Nam đấu tranh không sợ gian khổ, chiến đấu không
sợ bị thương, không sợ hy sinh, mà chỉ sợ mù hai mắt, sau này nước nhà thống nhất, Bác
vào thăm không nhìn thấy Bác.
Cháu ngước nhìn lên lại thấy Bác rưng rưng nước mắt. Bữa ấy Bác cho cháu ăn
cơm. Cháu ngồi bên Bác, Bác gắp thức ăn cho cháu…
Lần thứ ba, cháu được gặp Bác ở hội trường Ba Đình. Cháu mừng rỡ chạy lại ôm
và hôn Bác. Bác hỏi cháu:
- Kỳ này cháu có ăn được cơm không, ăn được mấy bát?
Cháu đáp:
- Dạ, thưa Bác, cháu ăn được hai bát ạ!
- Ăn thế là ít đấy! Cố ăn nhiều cho khoẻ vào.
Bác dặn thêm cháu phải giữ gìn sức khoẻ cho thật tốt, đoàn kết tốt, thương yêu
đồng đội tốt, phải nghe lời các cô, các chú dạy bảo.
Sau những giờ phút quý báu ấy cháu ra về, không muốn rời Bác, chỉ mong sao gần
Bác luôn luôn.
Ngày tháng qua đi, bệnh của cháu lại phát triển, nên các chú đưa cháu vào viện.
Được tin ấy, Bác điện vào thăm cháu. Lúc ấy bệnh cháu quá nặng, đến khi cháu tỉnh dậy,
-7-


các chú nói lại, cháu vô cùng xúc động, vì Bác bao nhiêu là công việc mà Bác còn quan

tâm đến sức khoẻ của cháu. Thời gian sau cháu xa Hà Nội về trường học, hàng ngày
cháu luôn thực hiện lời Bác dạy.
Hồ Thị Thu – Dũng sĩ thiếu niên miền Nam.
Đời đời ơn Bác. NXB Kim Đồng, Hà Nội, 1970.
[23.] Những khách “đặc biệt” của Bác Hồ.
Vào một buổi sáng mùa thu tháng tám năm 1990, trong đoàn người kéo dài vô tận
vào thăm nhà sàn, nơi Bác Hồ kính yếu đã từng sống và làm việc, có hai cha con người
Pháp. Người phụ nữ ngoài 50 tuổi, gương mặt sáng, nụ cười tươi tắn, dáng người mảnh
mai, đi bên người cha có gương mặt đôn hậu, chất phác. Đó là hai cha con ông Ô-brắc,
một gia đình người Pháp có nhiều kỷ niệm sâu sắc với Bác Hồ. Người phụ nữ mảnh mai
kia là Ê-li-da-bét, người con gái đỡ đầu của Bác Hồ. Đi cùng với dòng người ngắm nhìn
vườn cây ao cá, dừng chân hồi lâu bên nhà sàn, ông Ô-brắc bảo với con gái của mình:
- Đây là toàn bộ gia tài của người cha đỡ đầu của con đó, con có hiểu không con?
Những giọt lệ lăn trên má chị. Chẳng lẽ Bác Hồ – người cha đỡ đầu của chị không
có một cái gì khác ngoài căn nhà sàn đã đi vào huyền thoại về lối sống trong sáng, giản dị,
vườn cây ao cá và thiên nhiên xanh ngắt quanh mình. Điều khó tin nhưng có thật. Mới đó
mà đã 54 năm trời. Biết bao kỷ niệm về Bác Hồ kính yêu không bao giờ phai mờ, nhạt
nhoà trong ký ức của mỗi thành viên trong gia đình chị. Nhìn những em bé như bầy chim
non vào Lăng viếng Người, chị càng hiểu sâu sắc câu nói không chỉ ở Việt Nam, mà ở
khắp mọi nơi trên trái đất, nơi Bác Hồ đã từng đến, ai ai cũng thuộc:
“Ai yêu nhi đồng bằng Bác Hồ Chí Minh”.
… Ngày ấy, khi chị mới ra đời trong một nhà hộ sinh ở một làng thuộc ngoại ô Pa-ri.
Lúc bấy giờ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đang có mặt trên đất Pháp với tư cách là một thượng
khách của Chính phủ Pháp. Báo chí xuất bản ở Thủ đô Pa-ri hoa lệ đều trang trọng in trên
đầu trang nhất bức chân dung của Bác Hồ với những hàng tít lớn trang trọng.
Hội nghị Phông-ten-nơ-blô đang họp, Bác Hồ là thượng khách, tâm trí Người luôn
hướng tới việc giành lại nền hoà bình, độc lập cho dân tộc, vấn đề Nam Bộ “là máu thịt
của Việt Nam”. ở trong toà lâu đài sang trọng, Bác Hồ cảm thấy không thoải mái vì không
có vườn cây, thiếu hoa lá, thiên nhiên. Khi ông Ô-brắc đề nghị Bác đến ở tại ngôi nhà cổ
kính của ông ở ngoại vi Pa-ri, Bác Hồ đã nhận lời dọn đến ở 6 tuần lễ.

Nơi đây, cứ chiều chiều sau giờ hội đàm, gặp gỡ với các chính khách, Bác Hồ
thường dắt cháu Giăng Pi-e, 7 tuổi, con trai đầu lòng của ông bà Ô-brắc chủ nhà, đi dạo
chơi khắp làng, thăm hỏi đời sống của bà con lao động, nói chuyện với ông lão trồng hoa,
vui đùa với các em bé vùng ngoại ô. Có buổi trưa, ông Ô-brắc còn thấy Bác Hồ đang cùng
con trai ông, Giăng Pi-e nghỉ trưa thanh thản trên bãi cỏ trong vườn.
Chính trong dịp này, vào ngày 15/8/1946, gia đình ông Ô-brắc đón một tin vui mới:
cô con gái út vừa chào đời. Được tin này, Bác Hồ ngồi trên xe có hộ tống đến tận nhà hộ
sinh chúc mừng bà Ô-brắc và cháu bé mới sinh. Bác Hồ đặt tên cho cháu bé là Ba-bét và
nhận cháu làm con gái đỡ đầu của Người.
Từ ngày xa Pa-ri, xa vùng ngoại vi Pa-ri trở về nước, dù bận trăm công ngàn việc,
lãnh đạo nhân dân Việt Nam trong công cuộc trường kỳ kháng chiến và những năm hoà
bình ở miền Bắc cũng như cuộc đấu tranh chống Mỹ giải phóng miền Nam, thống nhất đất
nước, Bác Hồ vẫn luôn dành tình cảm của mình cho con gái đỡ đầu Ba-bét. Tháng
6/1967, ông Ô-brắc được Hội đồng các nhà bác học thế giới họp ở Pa-ri nhờ chuyển đến
Chủ tịch Hồ Chí Minh một bức thông điệp. Gặp lại ông Ô-brắc giữa những ngày Hà Nội
đang chiến đấu chống chiến tranh phá hoại bằng không quân của đế quốc Mỹ, Bác Hồ rất
vui và không quên hỏi thăm về người con gái đỡ đầu Ba-bét của mình. Ông Ô-brắc
chuyển cho Người món quà mà chị Ba-bét nhờ gửi đến cha đỡ đầu: một chiếc hộp vuông
bên trong đựng một quả trứng được làm từ thứ đá quý. Theo chị cho biết thì “quả trứng đó
-8-


là biểu hiện của sự sống, tương lai và hoàn hảo. Cha đỡ đầu là hiện thân của những điều
đó”. Khi chia tay, Bác Hồ gởi một tấm lụa nhờ ông Ô-brắc chuyển cho “con gái đỡ đầu của
tôi để cháu may áo cưới”.
Hàng năm chị Ba-bet vẫn gửi thư đều cho Bác Hồ. Ngày Bác qua đời, cũng như
toàn thể nhân dân Việt Nam và nhân loại yêu chuộng hoà bình, cả gia đình ông Ô-brắc vô
cùng thương tiếc Người. Bao nhiêu kỷ niệm, những món quà Bác gửi cho chị Ba-bét vẫn
còn đó; bức ảnh nhỏ của Người, các con vật dễ thương bằng ngà, bằng sứ, tấm lụa Bác
gửi để chị may áo cưới…vẫn còn đây. Và lần này, chị được sang thăm đất nước, thăm nơi

ở, nơi làm việc của người cha “đỡ đầu về tinh thần” của mình…
Khi nghe chị thuyết minh nói rằng hai hàng ghế đá và bể cá vàng là nơi Bác Hồ
thường dùng để tiếp khách tí hon, “khách đặc biệt” của mình, chị Ba-bét nước mắt tuôn
trào. Chị lặng lẽ ngồi xuống tấm ghế đá mát lạnh, mắt nhìn những con cá vàng tung tăng
bơi lội trong bể, thả lòng mình trong những hoài niệm không bao giờ quên về Người. Tình
thương bao là của Bác vẫn dành cho tất cả mọi người, đặc biệt nhất vẫn là những em nhỏ
“như búp trên cành”. Chị Ba-bét cũng là một trong những “cháu bé” ngày nào đã được
sưởi ấm bằng “muôn vàn tinh thương yêu của Bác”.
Nguồn: Kim Dung.
Hồ Chí Minh bên Người toả sáng, NXB Thanh niên, Hà Nội, 1977.
5- [25.] Quà của Bác Hồ tặng cháu.
Ngày tết dương lịch năm 1960, mọi người lên Phủ Chủ tịch để chúc Tết Bác Hồ.
Các cơ quan, đoàn thể trong nước, đoàn ngoại giao và Uỷ ban Quốc tế đều đến đông đủ.
Vẫn trong bộ ka-ki giản dị, với phong thái ung dung, chủ động, Bác đáp lễ vui vẻ và
nói lời chúc mừng.
…Sau tiệc ngọt, Bác cầm lấy một quả táo to cùng một túi kẹo đứng lên…
Bác đi đến chỗ ông đại sứ Ấn Độ và hỏi:
- Ngài đại sứ có đưa phu nhân sang đây không?
Vị đại sứ râu hùm, hàm én, lẫm liệt oai phong là vậy mà lúc ấy, vì vô cùng xúc động
trước vinh dự bất ngờ, bỗng lộ vẻ lúng túng, ấp úng đáp:
- Thưa Chủ tịch… cảm ơn Chủ tịch… Tôi chỉ đưa theo sang đây cháu trai năm nay
chín tuổi.
- Thế thì - Bác Hồ nói – tôi gửi ông mang về cho cháu quả táo này và gửi cháu
những cái hôn.
Mọi người đều xúc động và vô cùng cảm phục một cử chỉ vừa thân mật, tự nhiên
của Hồ Chủ tịch.
Rồi quay lại phía khách nước ngoài, Bác nói:
- Tết nhất, ở nhà các vị chẳng thiếu thứ gì. Nhưng xin các vị hãy cầm lấy chút hoa
quả ở trên bàn và mang về gọi là quà của Bác Hồ tặng các cháu ở nhà.
Cả phòng khách ồn ào nhộn nhịp hẳn lên. Khách nước ngoài, khách trong nước ùa

đến bàn tiệc cầm lấy lê, táo, bánh kẹo, nét mặt hớn hở.
Theo câu chuyện Quả táo Bác Hồ. Sđđ,T.2.tr177.
[26.] Một cuộc đối thoại sinh động.
Một lần, thăm trại thiếu nhi Tiệp Khắc gần Pra-ha, Bác Hồ đã có một cuộc đối thoại
sinh động với các cháu:
- Các cháu thân mến! Các cháu có biết Bác là ai không?
- Ano (Có ạ). Strycek Hồ! (Bác Hồ). Các cháu ríu rít trả lời.
- Bác từ nước nào đến?
- Việt Nam! Tất cả đồng thanh nói to.
- Các cháu có yêu học tập không?
-9-


- Ano!
- Có yêu lao động không?
- Ano!
- Bác Hồ rất yêu các cháu. Các cháu có yêu Bác Hồ không?
- Ano!
Nhiều cháu chen nhau xin được hôn Bác, Bác cười đôn hậu nói vui:
- Bác Hồ gầy, các cháu hôn Bác nhiều quá, Bác sẽ gầy hơn. Các cháu hãy cử đại
biểu đến hôn Bác vậy.
Tất cả cười ngặt nghẽo.
Lê Bá Thuyên – Chủ tịch Hồ Chí Minh
sứ giả cho tình hữu nghị, Sđđ,T.2,tr.181.
[86.] Quả táo Bác Hồ cho em bé.
Tháng 4 năm 1964, với danh nghĩa là Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà,
Bác Hồ sang Pháp để đàm phán với chính phủ Pháp về những vấn đề có liên quan đến
vận mệnh của đất nước. Ông Đốc Lý thành phố Pa-ri mở tiệc long trọng thiết đãi Bác Hồ.
Trước khi ra về, Người chọn lấy một quả táo đẹp trên bàn, bỏ vào túi. Mọi người, kể cả
ông Đốc Lý đều kinh ngạc chú ý tới việc ấy, ngạc nhiên và không giấu được sự tò mò. Khi

Bác Hồ bước ra khỏi phòng, rất đông bà con Việt kiều và cả người Pháp nữa đang đứng
đón Bác. Bác chào mọi người. Khi Bác trông thấy một bà mẹ bế một cháu nhỏ cố lách
đám đông lại gần, Bác liền giơ tay bế cháu bé và đưa cho cháu bé quả táo. Cử chỉ của
Bác Hồ đã làm những người có mặt ở đó từ chỗ tò mò ngạc nhiên đến chỗ vui mừng và
cảm phục về tấm lòng yêu trẻ của Bác.
Trích trong “Bác Hồ với thiếu nhi và Phụ nữ”. Sđđ,tr.103.
[27.] Cháu của Bác Hồ.
Vừa là người lo toan thế hệ nối tiếp cho tương lai, vừa là người thân chăm lo cho
con cháu, có lẽ cũng vì vậy, mà dân ta, già trẻ, lớn bé đều gọi Người là Bác. Mà không chỉ
nhân dân ta!
Rô-met Chăn-đra, nguyên Chủ tịch Hội đồng hoà bình thế giới đã phát biểu trong dịp
dự Hội nghị quốc tế “Việt Nam và thế giới” những lời chân tình, thân thiết: “Ở Việt Nam,
các bạn tự xưng rất đúng mình là cháu của Bác Hồ. Các bạn đã cho phép chúng tôi thay
mặt hàng trăm triệu nhân dân thế giới được có mặt hôm nay tại đây. Chúng tôi yêu cầu
các bạn thêm một đặc ân nữa: Mong các bạn, những người cháu của Bác Hồ cho phép
chúng tôi từ các nơi trên thế giới đều được tự nhận là cháu của Bác Hồ. Tất cả chúng ta,
cháu của Bác Hồ ở tất cả các nước trên thế giới, sẽ tập hợp lại để giương cao ngọn cờ
Hồ Chí Minh tiến lên những thắng lợi mới hơn nữa”.
Cháu của Bác Hồ.
Bác Hồ của các cháu.
Người suy nghĩ về tuổi trẻ chúng ta,
Hồi tưởng của Vũ Kỳ, Sđđ,T.2.tr.186.
6- [38.] Bác Hồ đến với các cháu mồ côi ở trại Kim Đồng.
Một sáng đẹp trời, Bác Hồ đã đến với các cháu ở trại Kim Đồng. Ngay từ phút đặt
chân đến cổng trại nhìn bờ rào dăng dây thép gai, trong mắt Bác hiện lên sự nhức nhối.
Nói với các cán bộ phụ trách giọng Bác nhẹ nhàng, nhưng vô cùng thấm thía:
- Đây là nơi nuôi dạy các cháu mồ côi, được mang tên liệt sĩ Kim Đồng, sao các cô,
các chú lại rào dây thép gai như một nhà tù thế này?
Chú Thuận thưa:
- Dạ thưa Bác, cơ ngơi của thời đại cũ để lại đấy ạ!


-10-


Bác lắc đầu: Các cô, các chú phải tháo gỡ đám dây thép gai ngay. Chế độ cũ nhóm
các cháu vào đây, chúng ta tiếp tục nuôi dạy vì tương lai của các cháu.
Bác đi vào từng căn phòng ở, phòng ăn, phòng học, nơi các cháu vui chơi. Bác
khen “Được cái gọn gàng, ngăn nắp, sạch sẽ”, nhưng còn – Bác hỏi cán bộ phụ trách trại
– còn thế nào, các cô, các chú biết không?
Mọi người nhìn Bác, vừa xúc động vừa lúng túng. Rồi chú Thuận mạnh dạn đáp:
- Thưa Bác, các cháu ở trại còn chật chội ạ.
Bác Hồ mỉm cười:
- Chú nói mới đúng có một phần nhỏ thôi. Đối với các cháu mồ côi, điều lớn nhất là
phải bù đắp tình thương. Các cháu đã không còn bố, mẹ thì các cô, các chú ở đây là bố, là
mẹ của các cháu. Các cô, các chú nuôi dạy các cháu phải đem lòng làm mẹ, làm cha mà cư
xử, mà săn sóc, mà dạy bảo. Bác thấy ở đây, đối với các cháu, còn cái vẻ “trại lính”, thiếu
cái ấm cúng của gia đình. Dạy cho các cháu vào khuôn phép, sống có kỷ luật, trật tự là
đúng. Nhưng không được để các cháu mất cái hồn nhiên, mất cái vui tươi, thoải mái. Đừng
biến các cháu thành các “ông cụ non”. Các cô, các chú phải làm sao cho các cháu thấy trại
Kim Đồng là gia đình của các cháu, đi xa các cháu nhớ, lúc ở nhà các cháu vui. Được như
vậy thì cần gì phải rào dây thép gai, phải canh phòng nghiêm ngặt với các cháu?
Bác lại hỏi:
- Những cháu kém có nhiều không?
- Thưa bác, còn nhiều lắm ạ.
- Nhiều là bao nhiêu?
Đồng chí phụ trách hơi bối rối. Bác nói ngay:
- Quản lý các cháu thì cần biết cụ thể từng cháu một, biết chắc chắn cái dở, cái hay
của mỗi đứa. Có như vậy thì dạy mới có kết quả tốt.
Bác bảo chú Thuận đứng bên:
- Cho Bác gặp cháu nào kém nhất trại.

Em Quốc đứng khoanh tay trước mặt Bác, Bác cúi xuống vuốt ve nhè nhẹ tóc em.
Bác hỏi:
- Tên cháu là gì?
- Thưa Bác, tên cháu là Quốc lủi ạ!
Bác nhìn em, ái ngại:
- Ai đặt cho cháu cái tên ấy?
- Dạ thưa, các bạn gọi cháu thế ạ.
- Vì sao các bạn gọi cháu là Quốc lủi?
- Thưa Bác…Cháu…Cháu hay trốn trại. Cháu chui qua hàng rào, lủi vào các ngõ
phố ạ.
- Sao cháu không chịu ở trong trại mà lại trốn ra bên ngoài?
- Thưa Bác…ở trong trại khổ cực lắm ạ.
- Khổ cực như thế nào?
- Dạ chúng cháu bị gò bó đủ thứ ạ.
- Cháu nói rõ sự gò bó cho Bác nghe nào?
- Thưa Bác…
Quốc nhìn Bác Hồ mà nước mắt trào ra, nghẹn ngào không nói lên lời. Bác xoa đầu
em, Bác đã hiểu thấu tất cả, dù em chưa nói ra được những điều muốn thưa với Bác, Bác
khuyên Quốc: “Từ nay cháu phải phấn đấu bỏ cái tên “lủi”, giữ lại cái tên Quốc…”. Nước
mắt càng giàn giũa trên hai má Quốc.
Bác Hồ cầm tay em Quốc đi ra chỗ cả trại đang tập hợp đón đợi Bác. Bác thân mật
kể cho các em nghe một số gương tốt của thiếu nhi trong kháng chiến chống Pháp,
-11-


gương tốt của thiếu nhi ở Liên Xô và các nước bạn. Các em đã không cầm được nước
mắt khi nghe Bác kể về thời niên thiếu của Bác, Bác đã từng thèm một cái đồ chơi, ước
ao một bộ quần áo mới để mặc Tết. Bác cũng đã mồ côi mẹ từ năm lên chín, lên mười.
Bác đã phải bế em trèo trẹo bên hông đi xin sữa cho em sau ngày mẹ qua đời.
Bác căn dặn các em như ông dặn cháu:

- Các cháu phải vâng lời các cô, các chú phụ trách. Thiếu nhi thì phải ngoan, phải
thật thà, lễ phép với người lớn, kính trọng người già, giúp đỡ người tàn tật yếu đau. Các
cháu ở trong tập thể với nhau càng phải yêu thương nhau như anh chị em ruột thịt. Và
phải dũng cảm sửa chữa những khuyết điểm, những thói hư tật xấu để lớn lên làm người
chủ của đất nước, đừng để mình là cái gánh nặng của xã hội…
Rồi Bác bảo:
- Các cháu có hứa làm được điều Bác căn dặn không nào?
Một tiếng “có” vang lên, đều khắp và sôi nổi. Bác còn dặn thêm các em là, noi
gương dũng cảm của liệt sĩ Kim Đồng trong học tập và rèn luyện, em nào đạt kết quả tốt,
được ban phụ trách báo lên Bác, Bác sẽ gửi phần thưởng. Và Bác thân mật hẹn: “Nếu cả
trại cùng tiến bộ vượt bậc, Bác sẽ còn về thăm các cháu nhiều lần nữa”.
Ngày hôm ấy, Bác đã để lại rất nhiều quà để chia cho các em. Nhận phần quà của
Bác cho, nhiều em đã không ăn, cất làm kỷ niệm.
Từ hôm đó trong từng đôi mắt của các em, ngời lên niềm vui nhận quà Bác. Em Quốc
không lủi ra ngoài trại nữa mà giữ gìn mình như giữ gìn kỷ niệm quà Bác trong trái tim.
Sơn Tùng, Hoa râm bụt, Sđđ,T.2,tr.212.
7- [40.] Bác Hồ ở Pác Bó.
Ngày mồng 3 tết, năm Tân Tị, tức ngày mùng 8 tháng 2 năm 1941 Bác về đến Pác
Bó. Pác Bó thuộc xã Trường Hà, huyện Hà Quảng. Nơi đây núi rừng trùng điệp và địa thế
hiểm trở rất có lợi cho hoạt động bí mật của cán bộ Việt Minh, nhiều cơ sở cách mạng ở
vùng Pác Bó đã được xây dựng vững chắc. Gia đình cụ Máy Lỳ là một trong những cơ sở
chúng tôi chọn làm nơi để Bác ở và làm việc. Gia đình chỉ có ba người, cụ ông, cụ bà và
cô con gái. Nhà không được rộng nhưng thoáng mát, ngay bìa rừng và kín đáo, đi lại rất
thuận tiện. Gia đình đón tiếp Bác và chúng tôi rất thân mật.
Sau bữa cơm tết chiều mồng 3, Bác đã chỉ thị chúng tôi phải nghiên cứu từng nơi ở
và làm việc cho thích hợp và kín đáo hơn. Bác nói đại ý: “Ở đây dựa vào dân thì có nhiều
thuận lợi nhưng cũng có cái không lợi cả cho yêu cầu hoạt động bí mật của ta mà cũng
không tiện cho sinh hoạt của dân, nên phải “sáu sán” thôi…”. “Sáu sán” tiếng địa phương
có nghĩa là vào núi. Mà đã là vào núi thì phải ở hang hoặc dựng lán…Và ngay tối hôm đó
bên bếp lửa nhà sàn, Bác hỏi cụ Máy Lỳ ở đây có chỗ nào mưa không hắt tới không? Như

vậy chúng tôi hiểu ý Bác là phải ở hang. Chúng tôi bàn cách tìm hang. Cụ Máy Lỳ cho
biết, gia đình cụ có một cái hang sâu và rất kín dùng lánh nạn khi có biến (có phỉ về cướp,
giết). Sáng hôm sau (ngày mồng 4 tết), chúng tôi mời Bác đi xem hang nhà cụ Máy Lỳ,
Bác ưng ngay. Chúng tôi quyết định tiến hành công tác chuẩn bị vào hang. Anh Phùng Chí
Kiên giao cho tôi liên hệ với cơ sở để chuẩn bị các thứ. Anh Cáp, anh Lộc được phân
công trở lại hang nghiên cứu thêm lối vào, đường ra và tình hình cụ thể trong hang.
Cụ Máy Lỳ cho chúng tôi mượn 5 tấm ván gỗ nghiến. Ván hơi ngắn nên khi kê để
ngủ phải nằm hơi co mới đủ chỗ cho 5 người. Chúng tôi chặt cây làm một cái giá trên có
tiếp nứa để Bác và anh em đặt túi đựng quần áo.
Ngày 5 tết thì Bác và chúng tôi dọn vào hang. Cùng ở hang với Bác có anh Phùng
Chí Kiên, Hoàng Sâm, Thế An, anh Cáp, anh Lộc và tôi. Nhóm công tác của chúng tôi do
anh Phùng Chí Kiên phụ trách, còn các anh Quốc Vân, Đức Thanh (tức Đàm Minh Viễn) là
đường dây liên lạc đồng thời phụ trách lực lượng vũ trang bảo vệ vòng ngoài.

-12-


Ở hang được ít lâu, chúng tôi thấy trong người rất mệt. Sức khoẻ của Bác lúc đó
cũng không được tốt lắm. Người gầy, nước da xấu, ăn uống kham khổ mà Bác lại làm
việc căng thẳng nên chúng tôi rất lo.
Tuy nói là bảo vệ Bác, nhưng thực chất Bác lại là người dạy chúng tôi rất nhiều
trong công tác bảo vệ. Bác quan tâm giáo dục chúng tôi chi li từng việc rất bổ ích. Những
việc tiếp xúc với dân trước hết phải được nhân dân quý mến, tin tưởng nhưng đồng thời
phải có câu chuyện hoá trang hợp lý đảm bảo giữ gìn bí mật công việc cách mạng đang
làm. Và thực tế chúng tôi đã làm tốt lời Bác dạy. Những cơ sở cách mạng ở vùng Pác Bó
ngay cả như anh Đại Lâm cũng chỉ biết có cán bộ Trung ương quan trọng về nhưng không
biết có bao nhiêu người, cụ thể là ai và hiện nay ở đâu.
Còn chuyện nhận lương thực do dân giúp đỡ, Bác dạy mỗi lúc phải có giờ giấc, cách
làm, cách đi lại khác nhau không để địch nắm được quy luật hoạt động của ta, ngày nhận
lương thực chuyển đến phải luôn thay đổi; mang lương thực trên đường phải hoá trang hợp

lý và đường đi phải có hướng thay đổi luôn. Gạo và muối do các cơ sở vận động quyên góp
không nên tập trung để ở một nhà, phải phân tán mỗi nơi một ít. Đồ dùng cho hậu cần
mượn của dân phải mỗi nhà một thứ, thậm chí có thứ phải mượn nhiều nhà…Bác kể cho
chúng tôi nghe rất nhiều những mẩu chuyện về đời hoạt động của Bác khi còn ở nước
ngoài, nội dung mỗi chuyện tuy xảy ra ở các nước khác nhau nhưng đều nhằm giáo dục
chúng tôi ý thức giữ bí mật. Cuối cùng Bác dạy: “Trong điều kiện và hoàn cảnh cách mạng
nước ta hiện nay, bí mật phải được coi là nguyên tắc trong mọi hoạt động của Đảng…”.
Tuy nói lúc đó Pác Bó là khu vực an toàn hơn các khu khác trong vùng, nhưng lại là
nơi kẻ địch luôn dòm ngó, tìm kiếm, tổ chức phục kích các ngả đường nghi có cán bộ ta đi
qua. Cách nơi Bác về phía bản Lũng 10 cây số, chúng dựng đồn với hơn một trung đội
lính dõng do Pháp chỉ huy tổ chức tuần tra, kiểm soát, bắt bớ hoặc càn quét những bản
nghi có cán bộ ta hoạt động. Đồng thời hoạt động của bọn phỉ lúc này cũng rất táo tợn
nên chúng tôi càng lo lắng, trăn trở về nhiệm vụ bảo vệ Bác.
Hằng ngày sau giờ làm việc buổi chiều, Bác thường đi dạo leo núi, nhưng thực ra là
Bác đi nắm tình hình khu vực, phần lớn anh em chúng tôi hoạt động ở vùng này lâu nay
quen với lội suối trèo đèo nhưng đôi lúc phải vừa đi, vừa chạy theo kịp Bác. Có nhiều việc
rất đơn giản nhưng khi Bác hỏi anh em chúng tôi không trả lời được. Cũng có việc chúng
tôi đã làm nhưng khi nghe Bác giảng giải mới biết mình còn đơn giản và khờ dại quá. Ý
thức cảnh giác có nghĩ đến nhưng cách giữ bí mật còn tuỳ tiện, non kém. Bác dạy chúng
tôi hoạt động ở vùng núi, dân thưa, khi đi công tác tốt nhất là phải đem theo cơm nắm.
Như vậy vừa được việc mà không gây phiền hà cho dân. Kẻ địch lại rất tinh quái, ở đâu
mà chúng chẳng cài người vào. Những bang tá, trưởng bản,…và ngay cả những gia đình
dân tộc sống ven đường đi, địch thường dùng vật chất như bạc hoa xoè, muối, vải để mua
chuộc làm chỉ điểm. Mình phải sâu sát giáo dục ý thức ủng hộ cách mạng cho đồng bào,
nhưng phải chú ý phát hiện tay chân của chúng. Trên đường đi, khi ăn cơm phải tìm nơi
suối sạch sẽ, ăn xong lá đùm cơm phải chôn sâu, tiện khi rửa tay khoát cho nước dội hết
những hạt cơm vãi xuống suối, cá được ăn mà ta lại xoá được dấu vết làm cho kẻ địch có
mắt cũng như mù. Hoạt động bí mật phải “lai vô ảnh, khứ vô hình”. Chúng ta đến địch
không biết mà rút đi chúng cũng không hay, thì mới bảo vệ được mình và có nhiều thuận
lợi diệt địch.

Tới đây lực lượng cách mạng sẽ phát triển. Kẻ địch lại tìm mọi cách tiêu diệt lực
lượng cách mạng. Tình hình sẽ căng thẳng và phức tạp hơn nhiều. Chúng ta vừa phải
chiến đấu vừa tăng gia sản xuất và làm nhà ngoài rừng để ở…Tăng gia hoặc làm nhà
cũng phải biết giữ bí mật. Trồng rau hay gieo bắp cũng phải làm đúng kiểu cách của dân
tộc nơi mình ở. Làm lán ở cũng phải giống kiểu lán của đồng bào. Nếu ta làm khác đi là
địch và bọn xấu sẽ phát hiện được ngay. Khi làm lán cũng phải biết tính toán sao cho có
lợi đôi đường. Mỗi lán chỉ nên làm đủ cho 1 đến 2 người ở là cùng. Nơi làm lán phải xem
xét vừa lợi cho việc quan sát phát hiện địch từ xa nhưng đồng thời phải có đường rút khi
bị vây. Liếp che chung quanh lán không nên dùng nứa đan vững chắc mà nên lấy cỏ tranh
-13-


tết nẹp lại thành tấm để thưng. Trường hợp bị địch vây hoặc đến gần mới phát hiện thì chỉ
việc lách nhẹ qua liếp tranh cho dễ dàng. Muốn bảo vệ Đảng, trước hết mỗi thành viên
phải suy nghĩ tự bảo vệ mình. Nghĩ lại những năm trước đây, khi Đảng bị khủng bố, nhiều
đồng chí bị bắt bớ tù tội và hy sinh, anh em chúng tôi càng thấm thía lời Bác dạy.
Ở hang đến tuần thứ hai, chúng tôi thấy tình hình sức khoẻ của Bác có hiện tượng
mệt mỏi hơn. Chúng tôi ai nấy đều lo lắng cho sức khoẻ của Bác. Có hôm dọn vệ sinh, anh
Hoàng Sâm phát hiện thấy rắn độc chui vào hang, nằm dưới tấm phản ngay chỗ Bác. Hàng
ngày Bác vẫn mải miết làm việc, ít khi thấy Bác rảnh rỗi. Mỗi buổi đi dạo, chúng tôi vẫn thấy
Bác nhanh nhẹn, vui vẻ hoạt bát nên cũng yên lòng. Cứ dăm ba ngày cụ Máy Lỳ lại đem
lương thực vào một lần. Bác tiếp cụ rất thân mật và chuyện trò thật vui vẻ. Ngay cả cụ Máy
Lỳ cũng không biết Bác là ai. Một lần trong câu chuyện vui, cụ hỏi tên Bác, Bác cười rồi
chậm rãi giải thích: “Sáu sán” là vào núi còn có nghĩa là “Thu Sơn”. Tên tôi là “Thu Sơn”. Từ
đó mỗi lần gặp cụ Máy Lỳ thường chào Bác bằng câu chào ké Thu Sơn (Già Thu). Chúng
tôi và một số anh em khác cũng từ đó dùng cái tên “Già Thu” để giải thích cho các đồng chí
khác khi bị hỏi về Bác mà theo nguyên tắc không được nói rõ hơn.
Chúng tôi có ý định làm lán để Bác ở, đảm bảo sức khoẻ hơn. Khi báo cáo ý định
đó, được Bác đồng ý, chúng tôi rất mừng. Công việc chuẩn bị được khẩn trương tiến
hành. Việc tìm một địa điểm để làm lán theo ý Bác dạy cũng rất khó. Một hôm sau giờ làm

việc buổi chiều Bác đi dạo đến một đoạn suối cách cửa hang không xa. Bác dừng lại quan
sát và gợi ý chỗ này nếu làm lán ở thì tiện nhất. Nơi Bác chỉ là một khoảng đất bằng ngay
cạnh bờ suối. Con suối nước rất trong và ngay bờ có nhiều tảng đá to và đẹp. Phải đi
ngược theo dòng chảy mới vào được của hang nơi Bác ở. Nhưng đứng ở đây nhìn lên thì
lại không thấy được cửa hang. Khi có biến, có thể theo dòng suối rút vào hang hoặc lên
triền núi có rừng cây rậm cũng rất tiện.
Thế là chúng tôi bắt tay vào công việc dựng lán ngay. Lán rộng chỉ vừa chiếc chiếu
đôi. Cửa lán hướng xuống con đường mòn dưới thung lũng. Chung quanh cũng dùng cỏ
tranh thay liếp nứa như lời Bác dạy, nhưng bên ngoài có treo một số tàu lá cọ trông giống
như những cái lán canh nương của đồng bào. Anh Lộc hướng dẫn chúng tôi vào rừng lấy
nứa tép (loại nứa chỉ lớn bằng ngón chân cái), vót nhọn làm hàng rào chung quanh. Anh
giải thích đây là kinh nghiệm của đồng bào dân tộc thường dùng loại cây này để rào vườn
nhà vì con hổ trông thấy sợ.
Lán làm xong, chúng tôi mời Bác ra xem. Bác rất ưng và ngay ngày hôm sau, anh
Kiên mời Bác xuống lán ở và làm việc. Bác đồng ý và chỉ ban ngày xuống lán làm việc, ăn
nghỉ, còn ban đêm lại vào hang.
Lương thực do đồng bào giúp đỡ thường là gạo ngô (bắp bẹ) xay nhỏ và muối. Có
hôm thấy gạo gần hết, Bác bảo chúng tôi nấu cháo ngô (cháo bẹ) ăn thay bữa. Còn rau
xanh chủ yếu là măng tự kiếm trong rừng. Có hôm câu được con cá hoặc hái được ít rau
rớn (loại giống cây dương xỉ mọc ven bờ suối) thì bữa ăn được cải thiện và ngon miệng
hơn. Một hôm Bác và chúng tôi đang ăn cháo ngô, có người nói đùa đây là bánh đúc, thì
Bác ung dung đọc mấy câu thơ:
Sáng ra bờ suối tối vào hang
Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng.
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng
Cuộc đời cách mạng thật là sang…
Thơ Bác làm hiện thực với cuộc sống quá, chúng tôi mỗi người đọc lại một câu và
giải nghĩa luôn. Đến lượt anh Hoàng Sâm đọc câu “Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng”
thì tất cả ai cũng cười vang.
Thật vậy, tôi chen vào: Đúng hòn đá chông chênh thật, nhưng vững lắm đấy. Thế

mà có hôm anh Kiên thấy Bác ngồi làm việc lại sợ Bác ngã.

-14-


Chúng tôi vui vẻ tranh nhau và đọc đi đọc lại những câu thơ của Bác. Bác nhìn
chúng tôi cười hiền hậu và với giọng ấm áp, Bác nói:
- Thôi các chú ăn tiếp đi kẻo cháo bẹ nguội mất!...
Từ xuân Tân Tị năm ấy, đến xuân Mậu Thìn năm nay thấm thoắt đã ngót gần nửa
thế kỷ trôi qua. Thế mà có dịp gặp lại, thấy như mới hôm qua. Bác đã đi xa, nhưng biết
bao kỷ niệm sâu sắc trong cuộc đời người chiến sĩ bảo vệ Bác mãi mãi là những bài học
truyền thống vẻ vang không bao giờ phai.
Lê Quảng Bá1 kể, Cao Bá Sanh ghi trong
Những chuyện vui và cảm động về Hồ Chủ tịch.
NXB Công an nhân dân, Hà Nội, 2000.
8- [45.] Tháng Tám năm 1945 ở Hà Nội.
Đầu năm 1941, Bác Hồ về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng.
Ngày 19 tháng 8 năm 1945, Hà Nội khởi nghĩa giành chính quyền, rồi lần lượt đến
các tỉnh khác trong cả nước. Cuối tháng 8 năm 1945, Thường vụ Trung ương quyết định
đưa Bác Hồ về Thủ đô Hà Nội để lãnh đạo, giữ vững và củng cố chính quyền non trẻ. Lúc
ấy, Bác ốm và rất gầy. Chúng tôi mua ít tim gan nấu cháo cho Bác. Nhưng có thể do
không may mua phải tim gan của lợn gạo nên Bác lại lên cơn sốt cao. Trên đường về Hà
Nội, có lúc mệt quá, Bác không đi được, anh em dùng vải và đòn tre làm cáng. Nằm trên
cáng, người sốt hầm hập nhưng Bác vẫn thấy vui vì đi tới đâu cũng thấy cờ đỏ sao vàng
và đồng bào hào hứng hô vang: “Ủng hộ Việt Minh”, “Chủ tịch Hồ Chí Minh muôn năm”.
Chiều 25 tháng 8, về đến ngoại thành Hà Nội, Bác dừng lại ở làng Phú Gia. Chiều tối Chủ
Nhật, 26 tháng 8 năm 1945, đồng chí Trường Chinh đến đón Bác. Hà Nội hừng hực khí
thế cách mạng. Khắp phố phường tràn ngập niềm hân hoan với cờ đỏ sao vàng. Ít ai để ý
đến một chiếc xe cũ, màu đen chở Bác chạy từ phía Chèm, dọc theo đê Yên Phụ, xuống
dốc Hàng Than, qua phố Hàng Giấy rồi rẽ Hàng Mã về đến trước số nhà 35 Hàng Cân. Xe

đưa Bác vào cổng sau, rồi Bác lên thẳng gác 2 nhà 48 phố Hàng Ngang. Đây là ngôi nhà
3 tầng của ông Trịnh Văn Bô, một thương gia lớn của Hà Nội và là cơ sở của cách mạng.
Nhà xây chắc chắn, rất tiện cho công tác bảo vệ. Tầng 1 và tầng 3 chủ nhà dành để ở và
bán hàng. Còn tầng 2 giành cho cách mạng. Lúc này, chủ nhà chưa biết người cách mạng
đó chính là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đi lên, đi xuống nhiều, chủ nhà chỉ thấy một cụ già dáng
người gầy nhưng nhanh nhẹn, có đôi mắt sáng lạ thường. Sau này chủ nhà mới biết ngôi
nhà của mình có vinh dự được đón tiếp Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ngay chiều tối hôm sau, 27
tháng 8, tôi (tức Vũ Kỳ) được Trung ương chọn làm thư ký cho Bác. Bác thân mật hỏi tôi:
- Chú tên gì?
Tôi thưa:
- Cháu tên Cần ạ (tên của tôi hồi đó).
Có lẽ tôi xúc động nói không rõ nên Bác nghe thành Cẩn. Bác trìu mến bảo:
- Cẩn à, Cẩn là cẩn thận. Rất tốt.
Sáng hôm sau, Bác lại hỏi tên tôi, tôi thưa rất rõ:
- Cháu là Cần ạ.
Bác tỏ ra rất vui và nói ngay:
- Cần thì càng tốt. Cần là cần, kiệm, liêm, chính.
Đó cũng là điều mong muốn của Bác về phẩm chất, đạo đức của người cán bộ mà
những năm sau này mỗi dịp gặp cán bộ, mỗi khi đến thăm các lớp huấn luyện, Bác đều
căn dặn mọi người phải thực hiện cần, kiệm, liêm, chính.
Trong căn nhà 48 phố Hàng Ngang, chủ nhà dùng căn phòng phía sau trên tầng 2
làm phòng ăn. Giữa phòng kê một chiếc bàn gỗ dài và to, quanh bàn có 8 chiếc ghế tựa
1

Sau là cấp tướng trong quân đội nhân dân Việt Nam.

-15-


đệm mềm. Bác dùng bàn này để làm việc với các đồng chí Thường vụ Trung ương. Cuối

phòng kê một chiếc bàn tròn. Nơi đây Bác dùng làm bàn ăn. Trong cuộc sống hàng ngày,
Bác không dành cho mình một sự ưu đãi nào. Bác là tấm gương sáng về đức tính giản dị
của người cán bộ cách mạng. Bác thường ngồi làm việc trên chiếc bàn kê sát tường bọc
dạ xanh màu lá mạ, vừa đủ để tập giấy bút và chiếc máy chữ nhỏ Bác mang từ chiến khu
về. Trong những ngày này, Bác dành nhiều thời gian và tâm trí cho việc soạn thảo bản
Tuyên ngôn Độc lập. Hàng ngày Bác dậy sớm tập thể dục, sau đó ngồi vào bàn và đánh
máy luôn bản thảo. Ban đêm, Bác cũng thức rất khuya, trầm ngâm suy nghĩ về những nội
dung trong bản thảo Tuyên ngôn Độc lập. Sáng 29 tháng 8, Bác chuyển đến Bắc Bộ phủ
làm việc. Ở đây, Bác tiếp tục hoàn chỉnh bản Tuyên ngôn Độc lập. Sau mấy ngày sốt, tuy
sức khoẻ giảm sút trông thấy, nhưng sức làm việc của Bác thì vẫn phi thường. Đêm 29
tháng 8, Bác thức khuya hơn bình thường vì ngày 02 tháng 9 đã cận kề. Bác viết rồi lại
sửa. Những lúc suy nghĩ căng thẳng nhất Bác thường đặt tay lên trán và đôi mắt sáng lên
khi nhìn thấy những dòng chữ như có hồn vừa được viết ra, khi thì nhìn vào đêm tối như
tìm một điều gì đó mà chỉ riêng Bác mới hiểu.
Cho đến ngày 30 tháng 8, bản Tuyên ngôn Độc lập được dự thảo xong, Bác đưa ra
tranh thủ ý kiến các đồng chí Trung ương.
Sáng 31 tháng 8, Bác hỏi tôi:
- Chú Cần có biết Quảng trường dự định họp mít tinh như thế nào không?
Rồi Bác bảo tôi vẽ phác thảo bản đồ cho Bác. Xem bản đồ xong, Bác hỏi:
- Liệu được bao nhiêu người?
Tôi thưa với Bác:
- Được vài chục vạn người đấy ạ.
Bác hỏi tiếp:
Thế các chú định bố trí để đồng bào đi vệ sinh ở đâu?
Tôi sững sờ trước câu hỏi của Bác và lúng túng không biết trả lời như thế nào, thì
Bác nói tiếp:
- Việc nhỏ, nhưng nếu không chú ý bố trí cho tốt thì rất dễ mất trật tự. Chú có biết
không, ở Hương Cảng, công nhân lao động biểu tình thì chính quyền Anh chưa giải quyết,
nhưng khi công nhân vệ sinh đi đình công thì chính quyền Anh phải giải quyết ngay. Vì đã
có lần giải quyết chậm, rác rưởi bẩn thỉu ngập đường phố.

Tiếp đó, Bác dặn tôi nói với Ban tổ chức nếu trời mưa thì kết thúc mít tinh sớm hơn,
tránh cho đồng bào khỏi bị ướt, nhất là đối với các cụ già và các cháu nhỏ.
Thật hạnh phúc biết bao cho nhân dân Việt Nam khi được biết vị đứng đầu Chính
phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà non trẻ chỉ trước khi đọc bản Tuyên ngôn Độc lập vài giờ
vẫn chăm lo đến những cái nhỏ nhất trong đời sống.
Ngày 02 tháng 9 năm 1945 đi vào lịch sử dân tộc Việt Nam như một mốc son chói
lọi: khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Tại Quảng trường Ba Đình, khi đọc
bản Tuyên ngôn Độc lập, đến đoạn tố cáo tội ác của phát xít Nhật, cả biển người im
phăng phắc. Nghĩ đồng bào nghe mình nói tiếng Nghệ An không rõ và quên cả mình là
Chủ tịch nước đang trịnh trọng đọc Tuyên ngôn Độc lập, Bác ngừng đọc cất tiếng hỏi rất
thân mật:
- Đồng bào nghe rõ tiếng tôi không?
Tiếng trả lời: “Có” như sấm dậy. Chưa bao giờ và chưa ở đâu, người ta lại thấy tình
cảm giữa lãnh đạo cao nhất và dân chúng gần gũi và thân thương đến thế! Kết thúc cuộc
mít tinh, ra về nhưng mọi người vẫn như được nhìn thấy ánh mắt, vẫn như nghe thấy
giọng nói ấm áp và hiền hậu của Bác.
Vũ Kỳ kể, Huyền Tím và Tử Nên ghi
Truyện kể về Bác Hồ những chặng đường Trường kỳ kháng chiến

-16-


Nxb CTQG, Hà Nội, 2001
9- [44.] Dưới gốc đa Tân trào.
Qua mấy ngày lội suối, tắt rừng, vượt đèo, đoàn đại biểu Hà Nội do đồng chí Hoàng
Đạo Thuý dẫn đầu đã tới cây đa Tân Trào, điểm liên lạc cuối cùng.
Toàn đoàn khá mệt, ngồi nghỉ dưới gốc đa, có liên lạc đón và mời nước chè tươi.
Toàn đoàn đang ngắm nhìn chiến khu với sự cảm kích, hào hùng – Bởi rừng già
hùng vĩ, núi non trầm mặc. Vừa lúc ấy, từ bản gần đó, một đoàn người đi ra, người quần
áo Tày, người quần áo Dao. Dẫn đầu đoàn người là một cụ già mặc quần áo Tày, đội mũ

sợi màu chàm, tay chống gậy. Được biết, đó là nhân dân địa phương ra đón đoàn đại biểu
Hà Nội.
Đoàn đại biểu Hà Nội vội đứng lên chào mừng nhân dân địa phương. Sau phút chào
hỏi vui vẻ, đồng chí Hoàng Đạo Thuý cử đồng chí Nguyễn Tài, uỷ viên dân vận của đoàn
ra nói chuyện cùng nhân dân địa phương. Còn cả đoàn xin phép được ngồi nghỉ dưới gốc
đa liền đó để chờ thượng cấp.
Được gặp đồng bào ở chiến khu, với niềm tự hào là đại biểu của Hà Nội đi dự Quốc
dân Đại hội (8/1945), đồng chí Nguyễn Tài dùng hết khả năng tuyên truyền của mình để
nói chuyện với đồng bào : nào là tội ác của Pháp cùng Nhật xâm lược nước ta, cướp bóc
thóc lúa, để hàng triệu đồng bào ta bị chết đói; nào là phát xít Đức đã đầu hàng; Hồng
quân Liên Xô đã đánh tan đạo quân Quan Đông của Nhật; nào là lực lượng Việt Minh ta ở
Hà Nội rất mạnh, khắp nước cũng rất mạnh. Thời cơ nổi dậy giành độc lập đã tới, vv...
Chúng ta lại có lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc lãnh đạo...
Đồng chí Nguyễn Tài vừa nói tới đây thì cụ già - người dẫn đầu đoàn nhân dân địa
phương vỗ tay ngắt lời, nhân dân cũng vỗ tay hoan hô theo. Ông cụ ra hiệu, một nữ đại
biểu từ trong đoàn nhân dân đứng ra đáp lời: “Nhân dân Tân Trào rất cảm ơn đoàn đại
biểu Hà Nội đã về dự Đại hội. Đại biểu vừa rồi đã nói chuyện với nhân dân nhiều ý hay, lời
đẹp. Dân ở đây cũng được cán bộ Việt Minh, nhất là ông Ké dạy bảo nhiều. Hợp với ý của
đại biểu vừa nói. Như vậy là xuôi ngược một lòng cứu nước. Chúc các đại biểu Hà Nội thu
nhiều kết quả”.
Nữ đại biểu phát biểu xong, thì nhân dân trở về bản. Đoàn đại biểu Hà Nội cũng
đứng dậy, đôi bên vẫy chào nhau.
Ông cụ vẫy đồng chí Nguyễn Tài lại gần, cầm tay như dắt đi. Vừa đi, vừa hỏi:
- Đồng chí thấy nữ đại biểu nói thế nào?
- Dạ, nữ đồng chí ấy nói ngắn, nhưng thể hiện trình độ khá cao. Cháu đang băn
khoăn là mình nói hơi thừa…
Ông Ké tủm tỉm cười, nhẹ nhàng bảo đồng chí Tài:
- Chú cần nhớ là Hà Nội bị địch chiếm trước, trên này bị địch chiếm sau. Bây giờ
trên này lại được giải phóng trước, Hà Nội vẫn bị quân giặc cướp nước thống trị. Cho nên
người đi sau không nên chỉ đường cho người đi trước.

Đồng chí Nguyễn Tài giật mình nhìn ông Ké: Trời ơi! Ông già miền núi gầy gò, mảnh
khảnh kia nói đơn giản nhưng đầy ý nghĩa: “Người đi sau sao lại chỉ đường cho người đi
trước”. Đồng chí Nguyễn Tài vội vàng nắm chặt tay ông già: “Cháu hiểu ra rồi ạ!”. Nhìn
theo bóng ông cụ bước đi, Nguyễn Tài thầm nghĩ: “Việt Minh mình có những sức mạnh,
chính là ở những con người này đây”.
Thấy đồng chí Nguyễn Tài đi theo ông Ké một lát rồi bần thần đứng lại, đồng chí
Hoàng Đạo Thuý liền tới gần và hỏi: “Ông Ké bảo gì, mà cậu ngẩn ngơ ra vậy?”.
Đồng chí Nguyễn Tài kể lại lời ông Ké. Đồng chí Hoàng Đạo Thuý gật đầu bảo:
“Phải nhắc nhở anh chị em mình, trò chuyện với dân vùng giải phóng, phải cẩn trọng”.
Nhìn theo bóng ông cụ, rồi đồng chí Thuý thầm thì với đồng chí Tài: “Không khéo ông Ké
ấy chính là cụ Nguyễn Ái Quốc đấy!”.

-17-


Đến ngày khai mạc Quốc dân Đại hội, những băn khoăn đó của hai đồng chí mới
được rõ ràng: Ông Ké ấy chính là cụ Nguyễn Ái Quốc.
Ngọc Châu, Những ngày được gần Bác,
NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2001.
[57.] Đánh nó xong rồi ta phải làm gì?
Trong cuộc mít tinh, có chút vốn nào tôi đều đưa ra cả (từ việc phát xít Đức đã bị
đánh gục, tới sự suy vong của phát xít Nhật, mâu thuẫn Nhật - Pháp v.v…).
Đang đà thao thao bất tuyệt, tôi bỗng thấy chị Chi hồi hộp ghé tai tôi thầm thì:
- “Đồng chí già” đang đứng nghe đấy. Chắc đồng chí ấy đến từ đầu.
Tôi giật thót mình, tự nhiên khắp người nóng ran lên.
Bỗng “đồng chí già” từ trong đám đông bước ra. Người vẫn mặc bộ quần áo chàm
như mọi khi. Dùng tiếng địa phương, Người hỏi:
- Đồng bào nghe cán bộ nói có hay không?
- Hay lớ!
- Đồng bào có biết cán bộ nói cái gì không?

- Á dà…à, cán bộ nói cái hay, cái tốt mà, nói dài mà, không nhớ hết đâu!
Điếng người, tôi tưởng đất dưới chân mình có thể bị sụt. Quay lại nhìn chị Chi, thì
mặt chị cũng đỏ như gấc chín, từng giọt mồ hôi đang lấm tấm nơi tóc mai.
Cũng may, “đồng chí già” không hỏi chúng tôi câu nào, Đồng chí chỉ yêu cầu đồng
bào đừng về vội, để đồng chí nói lại cho dễ nhớ thôi. Được đồng bào ưng thuận, đồng chí
liền hỏi:
- Nhật và bọn quan lại của nó bây giờ so với Pháp và bọn quan lại của Pháp ngày
trước, thế nào?
- Pháp như con hổ, con báo thì Nhật cũng như bọn con báo con hổ thôi.
- Bọn quan của Pháp trước là bọn quan của Nhật đấy mà.
- Rắn lột xác vẫn là rắn thôi.
- Không phải rắn lột xác đâu. Chó săn đổi chủ đấy!
“Đồng chí già” lại hỏi:
- Dân ta có thể để cho con rắn, con hổ ăn thịt mình không?
- Không! - Đồng bào cùng cất tiếng trả lời.
Rồi từ các cụ già tới các thanh niên nam nữ thi nhau kể chuyện giặc giết người, tù
đày, thuế nặng, bắt lính, bắt phu v.v… Những điều họ kể ra còn sâu sắc, cay đắng hơn
những điều tôi vừa nói, vì nó đều là những sự việc ngay trong địa phương, nhân dân đã
mắt thấy tai nghe và chính họ kể lại.
Chờ cho đồng bào ngớt lời. “Đồng chí già” kết luận:
- Ta phải quyết tâm đánh Nhật, quyết tâm trừ bọn quan lại của chúng để cứu lấy
nước mình. Đồng bào đồng ý không?
Tiếng hô “đánh” vang lên. “Đồng chí già” lại chỉ một thanh niên rất khoẻ, hỏi:
- Một người khoẻ như anh này, đánh được không?
Đồng bào cười ồ lên. Một người nói:
- Không đánh được đâu! Nó đông đấy, lại có súng to, súng nhỏ nhiều mà.
- Thế cả nước một lòng, Kinh, Thổ, Mán, Mèo cùng đứng dậy đánh có được không?
- Được, đánh được! Mọi người cùng một lòng thì sợ gì Nhật, sợ gì Tây. Thấy nó
chết thì bọn quan tay sai của nó cũng chết thôi!
- Đánh nó xong rồi ta phải làm gì?

Đồng bào ngơ ngác nhìn nhau. Lúc ấy “Đồng chí già” mới nói thêm:
-18-


- Đánh xong rồi ta không lập lại cái quan nữa, vì ta biết nó ác lắm!
Đồng bào đều nói:
- Phải, phải!
- Ta xem trong dân ta, ai tốt và giỏi thì mình chọn người ấy để giúp dân, lo làm ăn,
sao cho dân có cơm no, áo ấm, ai cũng được học hành. Mọi dân tộc, mọi người thương
nhau như anh em ruột một nhà.
Tất cả cất tiếng reo lên:
- Ái dà, được thế thì sướng chết mất thôi!
Mắt mọi người đều sáng lên, ngắm nhìn “Đồng chí già” như muốn uống từng lời.
“Đồng chí già” lại hỏi:
- Đồng bào nhớ chưa?
- Nhớ rồi, nhớ rồi.
“Đồng chí già” còn dặn thêm về việc phòng gian, chống giặc, cách giữ “ba không”
(không nghe, không thấy, không biết).
Cuộc mit tinh kết thúc, “Đồng chí già” cùng tôi và chị Chi trở về. Dọc đường “Đồng
chí già” bảo tôi:
- Lần sau nói chuyện ở đâu, phải hiểu rõ trình độ dân nơi ấy, phải nói làm sao cho
thiết thực, để đồng bào dễ hiểu, dễ nhớ thì đồng bào mới theo mình được.
Tôi và chị Chi đều vâng lời. Tới chỗ rẽ, chờ cho “Đồng chí già” đi khuất, tôi mới bảo
chị Chi:
- Được một bài học thấm thía. Không rõ “Đồng chí già” người Kinh hay người Thổ.
Trích trong cuốn Kể chuyện Bác Hồ Sđd, T.4, tr.30
10- [46.] Chủ tịch nước cũng không có đặc quyền
Đầu năm 1946, cả nước ta tiến hành cuộc Tuyển cử bầu Quốc hội đầu tiên. Gần
đến ngày bầu cử, tại Hà Nội - là nơi Bác Hồ ra ứng cử - có 118 Chủ tịch Uỷ ban nhân dân
và đại biểu các giới hàng xã đã công bố một bản đề nghị: “Yêu cầu cụ Hồ Chí Minh không

phải ra ứng cử trong cuộc Tổng tuyển cử sắp tới. Chúng tôi suy tôn và ủng hộ vĩnh viễn
cụ Hồ Chí Minh là Chủ tịch của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà”.
Từ nhiều nơi trong cả nước, đồng bào viết thư đề nghị Bác không cần ra ứng cử ở
một tỉnh nào, nhân dân cả nước đồng thanh nhất trí cử Bác Hồ vào Quốc hội.
Trước tình cảm tin yêu đó của nhân dân, Bác viết một bức thư ngắn cảm tạ đồng
bào và đề nghị đồng bào để cho Bác thực hiện quyền công dân của mình: “Tôi là một
công dân của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, nên tôi không thể vượt khỏi thể lệ của
Tổng tuyển cử đã định. Tôi ra ứng cử ở Hà Nội nên cũng không thể ra ứng cử ở nơi nào
nữa. Xin cảm tạ đồng bào đã có lòng yêu tôi và yêu cầu toàn thể đồng bào hãy làm tròn
nhiệm vụ người công dân trong cuộc Tổng tuyển cử sắp tới”.
Sau ngày hoà bình lập lại, có lần Bác đi thăm một ngôi chùa cổ, vị sư chủ trì ra đón
và khẩn khoản xin Bác đừng cởi dép khi vào trong chùa. Bác không đồng ý và lặng lẽ làm
đúng những quy định như khách thập phương đến lễ chùa. Trên đường từ chùa về, khi
vào đến thành phố, xe Bác đến một ngã tư thì vừa lúc đó đèn đỏ bật. Sợ phố đông, xe
dừng lâu, đồng chí bảo vệ định chạy lại đề nghị đồng chí công an giao thông bật đèn xanh
để Bác đi, Bác hiểu ý ngăn lại:
- Các chú không được làm thế, phải tôn trọng và gương mẫu chấp hành luật lệ giao
thông. Không được bắt luật pháp giành quyền ưu tiên cho mình.
Nguyễn Dung, trong Bác Hồ với chiến sĩ, tập 1
Nxb QĐND, Hà Nội, 2001
[76.] Không ai được vào đây

-19-


Sách “Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử”, tập 10, do Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh biên soạn, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia ấn hành năm
1996, trang 334, có đoạn:
“Ngày 27 tháng 4 năm 1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh nghe hai đồng chí: Lê Đức Anh
và Chu Huy Mân báo cáo công việc, sau đó Người mời hai đồng chí ở lại ăn cơm với
Người”.

Sáng hôm ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đi bỏ phiếu bầu Hội đồng nhân dân cấp huyện,
xã,… Người bỏ phiếu tại hòm phiếu số 6, đơn vị 1, tiểu khu 1, khu phố Ba Đình, Hà Nội,
đặt tại Nhà thuyền Hồ Tây.
Khi Bác Hồ đến, trong Nhà thuyền đã có nhiều cử tri đang bỏ phiếu. Tổ bầu cử thấy
Bác đến, ra hiệu để đồng bào tạm dừng và tạo “điều kiện” để Bác bỏ phiếu trước. Biết ý,
Bác nói “sòng phẳng”:
- Ai đến trước, viết trước, Bác đến sau, bác chờ. Bác chờ cho đến hàng mình, mới
nhận phiếu và vào “buồng” phiếu.
Nhà báo Ma Cường chợt nghĩ là “hạnh phúc một đời của người làm báo”, “cơ hội
ngàn năm có một” và vội giơ máy lên bấm, rất nhanh, Chủ tịch Hồ Chí Minh lấy tay che
phiếu lại, nói với Ma Cường:
- Không ai được vào đây. Đây là phòng viết phiếu kín của cử tri. Phải đảm bảo tự do
và bí mật cho công dân.
Nhà báo buông máy, nhưng vẫn thấy hạnh phúc.
Theo lời kể của các đồng chí ở gần Bác, trước khi đi bầu cử Bác không cho ai “gợi
ý” cả, Bác nói:
- Ấy, đừng có “lãnh đạo” Bác nhé. Bác không biết đảng uỷ hướng dẫn danh sách để
ai, xoá ai đâu nhé. Đưa lý lịch của những người ứng cử đây để Bác xem. Có chú nào dự
buổi ứng cử viên trình bày ý kiến với cử tri, nói lại để Bác cân nhắc, Bác tự bầu.
Theo Nguyễn Việt Hồng Sđd, tr. 83
11- [94.] Tấm lòng Bác Hồ với chiến sĩ.
Đối với chiến sĩ là những người hy sinh nhiều nhất cho dân tộc, Bác Hồ thường
dành cho anh em sự chăm lo, săn sóc ân tình, chu đáo nhất.
Mùa đông, thương anh em chiến sĩ rét mướt ở rừng núi hay bưng biền, Bác đem
tấm áo lụa của mình được đồng bào tặng, bán đấu giá để lấy tiền mua áo ấm gửi cho các
chiến sĩ.
Bác thường nói: “Chiến sĩ còn đói khổ, tôi ăn ngon sao được!”. “Chiến sĩ còn rách
rưới, mình mặc thế này cũng đầy đủ lắm rồi!”.
Mùa hè năm ấy (1967), trời Hà Nội rất nóng. Sức khoẻ của Bác Hồ đã kém, thần
kinh tuổi già cũng suy nhược, dễ bị toát mồ hôi, ướt đầm, có ngày phải thay mấy lần quần

áo, có khi hong tại chỗ, rồi lại thay ngay. Bác không cho dùng máy điều hoà nhiệt độ. Bác
bảo: mùi nó mùi hôi lắm, Bác không chịu được! (Bác không dùng nên nói vậy thôi, chứ
máy đã có nút xả thơm).
Thấy trời oi bức quá, Bác nói với đồng chí Vũ Kỳ:
- Nắng nóng thế này, các chú bộ đội trực phòng không trên nóc hội trường Ba Đình
thì chịu sao được? Các chú ấy có đủ nước uống không? Chú thử lên tìm hiểu xem thế
nào, về cho Bác biết.
Đồng chí Vũ Kỳ lên, được biết trên đó có một tổ súng máy 14 ly 5. Ụ cát sơ sài, nếu
địch bắn vào thì chỉ có hy sinh, rất nguy hiểm.
Trời nắng chói, đứng một lúc mà hoa cả mắt. Đồng chí Vũ Kỳ hỏi:
- Các đồng chí có nước ngọt uống không?
- Nước chè thường còn chưa có, lấy đâu ra nước ngọt!

-20-


- Dưới hội trường thấy có nước ngọt cơ mà!
- Đấy là dành cho các “ông bà” đến họp mới được uống, còn bọn tôi lấy đâu ra!
Đồng chí Vũ Kỳ về nói lại với Bác, Bác gọi điện ngay cho đồng chí Văn Tiến Dũng:
- Sao các chú không lo đủ nước uống cho các chiến sĩ trực phòng không? Nghe nói
ụ súng trên nóc hội trường Ba Đình rất sơ sài, chú phải lo sửa ngay để đảm bảo an toàn
cho chiến sĩ trong chiến đấu!
Sau đó Bác bảo đồng chí Vũ Kỳ đi lấy sổ tiết kiệm của Bác, xem tiền tiết kiệm của
Bác còn bao nhiêu.
Tại sao Bác có tiền tiết kiệm? Lương Bác cao nhất nước, nhưng hàng tháng cũng
chỉ đủ tiêu. Mọi chi phí cho sinh hoạt của Bác, từ cái chổi lông gà, đều ghi vào lương cả.
Tiền tiết kiệm của Bác là do các báo trả nhuận bút cho Bác. Bác viết báo nhiều, có
năm hàng trăm bài. Các báo gửi đến bao nhiêu, văn phòng đều gửi vào sổ tiết kiệm của
Bác. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Bác cũng đã có tiền tiết kiệm. Đến dịp Tết
Nguyên Đán, Bác lại đem chia cho cán bộ các cơ quan chung quanh Bác, mua lợn để đón

xuân.
Đồng chí Vũ Kỳ xem sổ và báo cáo:
- Thưa Bác, còn lại tất cả hơn 25.000 đồng (lúc đó là một món tiền rất lớn, tương
đương với khoảng 60 lạng vàng).
Bác bảo:
- Chú chuyển ngay số tiền đó cho Bộ Tổng tham mưu và nói: đó là quà của Bác
tặng để mua nước ngọt cho anh em chiến sĩ trực phòng không uống, không phải chỉ cho
những chiến sĩ ở Ba Đình, mà cho tất cả các chiến sĩ đang trực trên mâm pháo ở khắp
miền Bắc. Nếu số tiền đó không đủ thì yêu cầu địa phương nào có bộ đội phòng không
trực chiến góp sức vào cùng lo!
Về sau, Bộ Tư lệnh Phòng không Không quân báo cáo lại cho Văn phòng Phủ Chủ
tịch biết: “Số tiền của Bác đủ mua nước uống cho bộ đội phòng không, không quân được
một tuần!
Trần Đức Hiếu (theo lời kể của đồng chí Vũ Kỳ)
Trích trong “Bác Hồ, con người và phong cách”
Tập 1, Nxb Lao động, H.1993
[48.] Tăng tiêu chuẩn cho chiến sĩ
Năm 1952, khi vùng tự do đã được mở rộng sau nhiều chiến dịch lớn các đại đoàn
chủ lực đã được thành lập. Chính sách thuế nông nghiệp được ban hành, nhân dân nhiều
vùng ra sức đóng góp thuế nông nghiệp để nuôi quân.
Bác đề nghị tăng gấp đôi tiêu chuẩn cho bộ đội (lúc đó chiến sĩ được tiêu chuẩn 1
kg gạo/ngày, kể cả ăn và tiêu vặt), cán bộ thì được hơn.
Chủ trương đó được phổ biến tới Tổng cục Hậu cần và Cục Quân lương. Các đồng
chí quân lương nhiều lần làm đề án trình Bác, căn cứ vào thực tế thóc có trong kho và
tính toán cân đối với Bộ Tài chính, thì tăng gấp đôi cho cán bộ từ trung đội phó trở lên,
còn chiến sĩ thì thêm hai lạng, tức là mỗi ngày được tiêu chuẩn 1,2 kg gạo.
Tôi thấy nhiều đêm Bác thao thức về vấn đề này. Có lần đến phiên tôi trực, Bác hỏi:
“Sức trai như chú mỗi bữa ăn mấy bát cơm thì no?”. Lúc ấy ăn uống chẳng có gì, chủ yếu
là cơm. Tôi hiểu tâm trạng Bác hỏi là có ý, nên đã thưa thực:
- Thưa Bác, như sức cháu mỗi bữa ăn 5 bát mới no.

- 5 bát cơm phải một bơ bò đầy gạo là 0,33 kg, ngày ba bữa, riêng ăn đã là 1kg rồi.
Vào một đêm tháng Chạp năm đó, trời rét như cắt thịt. Tôi thu mình trong chiếc áo dạ
chiến lợi phẩm đứng dưới nhà sàn của Bác. Ánh đèn trên sàn nhà vẫn sáng. Khoảng 1 giờ
sáng gì đó có tiếng lẹp xẹp trên sàn nứa, tôi đoán Bác lại suy tư điều gì, xuống hỏi tôi đây.

-21-


Đúng như dự đoán, chỉ hơn một phút sau Bác đã đứng cạnh tôi, Bác đưa cho tôi
một điếu thuốc lá hút cho đỡ rét rồi hỏi:
- Chú ăn cơm chiều lúc mấy giờ?
- Thưa Bác lúc 5 giờ rưỡi ạ!
- Chú đã đói chưa?
Biết là không thể nói dối Bác được, tôi thú thật:
- Thưa Bác đói rồi ạ!
Bác vui hẳn lên như tìm ra một vật quý và nói - giọng nói đầy thương yêu.
- Đúng rồi, chú bảo vệ ở hậu phương mà lúc này đói, thì các chiến sĩ công đồn,
phục kích quân địch, vào lúc này chắc chắn sẽ đói gấp đôi. Vậy mỗi chú chỉ có 1,2 kg gạo
thì đánh giặc sao nổi.
Bác lên sàn rồi quay lại rất nhanh đưa cho tôi một bắp ngô nếp luộc rất to.
- Phần của chú đây, chú ăn đi cho đỡ đói để làm nhiệm vụ.
Tôi biết không thể từ chối, nên cầm bắp ngô ăn, trong bụng vẫn băn khoăn không
biết đêm nay Bác đã ăn gì chưa?
Khi nhà sàn đã tắt đèn, tôi liếc nhìn đồng hồ thì đã 2 giờ sáng. Những gì diễn ra tiếp
đó thì tôi không rõ, chỉ biết rằng đầu tháng sau các chiến sĩ bảo vệ chúng tôi cũng được
tăng tiêu chuẩn 2 kg gạo/ngày.
Hồ Vũ, theo lời kể của đồng chí Ma Văn Trường,
Trong Bác Hồ với chiến sĩ, tập 2 - NXB QĐND, Hà Nội, 2001
[92.] Chú ngã có đau không?
Vào đầu năm 1954, tiết trời đã sang xuân, nhưng ở Việt Bắc vẫn còn rét. Gió Bắc

thổi mạnh, mưa phùn lâm râm gây nên cái lạnh buốt, Bác vẫn làm việc rất khuya. Bác
khoác chiếc áo bông đã cũ, miệng ngậm điếu thuốc lá thỉnh thoảng lại hồng lên, tiếng máy
chữ lách tách, lách tách đều đều…
Trời lạnh, nhưng được đứng gác bên Bác, tôi thấy lòng mình như được sưởi ấm
lên. Tôi nhẹ bước chân đi vòng quanh lán. Một lần vừa đi, vừa nghĩ, tôi bị thụt chân xuống
một cái hố tránh máy bay. Tôi đang tìm cách để lên khỏi hố, chợt nghe có tiếng bước chân
về phía mình. Có tiếng hỏi:
- Chú nào ngã đấy?
Chưa kịp nhận ra ai, thì tôi đã thấy hai tay Bác luồn vào hai nách, chòm râu của
Bác chạm vào má tôi. Tôi cố trấn tĩnh lại để nói một lời thì giật mình khi thấy Bác không
khoác áo bông, Bác đi tất, một chân có guốc, một chân không, nước mắt tôi trào ra. Vừa
kéo, Bác vừa hỏi:
- Chú ngã có đau không?
Bác sờ khắp người tôi, nắn chân, nắn tay tôi. Rồi Bác nói:
- Chú ngã thế đau lắm. Chú cứ ngồi xuống đây bóp chân cho đỡ đau. Ngồi xuống!
Ngồi xuống!
Tôi bàng hoàng cả người, không tin ở tai mình nữa. Có thật là Bác nói như vậy
không! Bác ơi! Bác thương chúng cháu quá!
Tôi trả lời Bác:
- Thưa Bác, cháu không việc gì ạ. Rồi tôi cố gắng bước đi để Bác yên lòng.
Bác cười hiền hậu và căn dặn: “Bất cứ làm việc gì chú cũng phải cẩn thận”. Rồi
Bác quay vào.
Tôi đứng nhìn theo Bác cho đến lúc lại nghe tiếng máy chữ của Bác kêu lên lách
tách, đều đều trên nhà sàn giữa đêm Việt Bắc.
ND (theo lời kể của Ngô Văn Núi)
Trích trong “Bác Hồ, con người và phong cách”
-22-


Tập 2, Nxb Lao động, H.1993

[75.] Câu chuyện về 3 chiếc ba lô
Trong những ngày sống ở Việt Bắc, mỗi lần Bác đi công tác, có hai đồng chí đi
cùng. Vì sợ Bác mệt, nên hai đồng chí định mang hộ ba lô cho Bác, nhưng Bác nói:
- Đi đường rừng, leo núi ai mà chẳng mệt, tập trung đồ vật cho một người mang đi
thì người đó càng chóng mệt. Cứ phân ra mỗi người mang một ít.
Khi mọi thứ đã được phân ra cho vào 3 ba lô rồi, Bác còn hỏi thêm:
- Các chú đã chia đều rồi chứ?
Hai đồng chí trả lời:
- Thưa Bác, rồi ạ!
Ba người lên đường, qua một chặng, mọi người dừng chân, Bác đến chỗ đồng chí
bên cạnh, xách chiếc ba lô lên.
- Tại sao ba lô của chú nặng mà Bác lại nhẹ.
Sau đó, Bác mở cả 3 chiếc ba lô ra xem thì thấy ba lô của Bác nhẹ nhất, chỉ có
chăn, màn. Bác không đồng ý và nói:
- Chỉ có lao động thật sự mới đem lại hạnh phúc cho con người.
Hai đồng chí kia lại phải san đều các thứ vào 3 chiếc ba lô.
Trần Thị Lợi (sưu tầm) Sđd, tr. 82
[77.] Bát chè xẻ đôi
Đồng chí liên lạc đi công văn 10 giờ đêm mới đến. Bác gọi mang ra một bát, một
thìa con. Rồi Bác đem bát chè đậu đen, đường phèn, mà anh em phục vụ vừa mang lên,
xẻ một nửa cho đồng chí liên lạc.
- Cháu ăn đi!
Thấy đồng chí liên lạc ngần ngại, lại có tiếng đằng hắng bên ngoài, Bác giục:
- Ăn đi, Bác cùng ăn…
Cám ơn Bác, đồng chí liên lạc ra về. Ra khỏi nhà sàn, xuống sân, đồng chí cấp
dưỡng bấm vào vai anh lính thông tin:
- Cậu chán quá. Cả ngày Bác có bát chè để bồi dưỡng làm đêm mà cậu lại ăn mất
một nửa.
- Khổ quá, anh ơi! Em có sung sướng gì đâu. Thương Bác, em vừa ăn vừa rớt
nước mắt, nhưng không ăn lại sợ Bác không vui, mà ăn thì biết chắc là các anh mắng mỏ

rồi…
Theo Thủy Xuân, Sđd, tr 85.
12- [52.] Các chú có báo không?
Ông cụ bắt tay chúng tôi và hỏi:
- Các chú là tự vệ thôn đây?
- Dạ.
Ông cụ liền chỉ tay vào các đồng chí cùng đi, nói:
- Các chú đây là Giải phóng quân.
Lâu nay ba tiếng Giải phóng quân có sức thu hút mãnh liệt đối với tôi. Hằng ngày cứ
đứng trên đê, hướng về dãy núi Tam Đảo, tôi ao ước sao có cánh để bay tới chiến khu
Tuyên - Thái mà sống cuộc sống chiến đấu và tự do trên ấy. Tôi đã nhiều lần đề nghị cấp
trên cho thoát ly để tham gia Giải phóng quân, nhưng chưa được. Giờ đây trước mặt tôi là
những con người ấy đang tươi cười bắt tay mình. Tôi không sao nén được cảm động
trước những đồng chí mới gặp lần đầu này, đặc biệt là cụ già trong đoàn.

-23-


Sau phút chào hỏi, chúng tôi mời ông cụ về trụ sở tự vệ của chúng tôi trong thôn.
Tới cổng thôn, ông cụ dừng lại xem các khẩu hiệu kẻ trên bức tường. Chợt nhìn thấy
hàng dây cờ căng trước cổng thôn, ông cụ bỗng nhiên hỏi:
- Sao các chú làm cờ của ta nhỏ hơn cờ của các nước đồng minh?
Chúng tôi cùng nhìn lên, thì ra cờ của ta nhỏ hơn cờ của các nước đồng minh thật!
Một đồng chí trong chúng tôi thưa với cụ:
- Dạ, giấy đỏ và giấy vàng nhân dân ta mua làm cờ nhiều quá nên thiếu ạ! Vì muốn
cho đủ, nên chúng cháu phải cắt bỏ đi một chút ạ.
- Không nên - ông cụ khẽ lắc đầu và bảo. Các chú phải hiểu là: Cách mạng đã thành
công, nước ta đã giành được độc lập và ngang hàng với các nước khác, vì vậy cờ của ta
phải bằng cờ của các nước. Có thế mới tỏ rõ chí tự cường, tự trọng của mình.
Chúng tôi đều vâng lời, một đồng chí tự vệ vội trèo lên lấy dây cờ xuống để sửa lại.

Về tới trụ sở của đội tự vệ (nói là trụ sở, thật ra chỉ là một ngôi miếu gần đình làng
tôi, cả ngôi miếu bấy giờ chỉ có 2 cái phản để chúng tôi nghỉ mỗi khi đi tuần tra, canh gác
về; sở dĩ chúng tôi chọn nơi đây là cốt để yên tĩnh và chờ đến tối sẽ chuyển sang địa điểm
khác), tôi vội đi lên trước, toan trải chiếu, nhưng ông cụ gạt đi và thản nhiên ngồi xuống
phản. Hai đồng chí Giải phóng quân cùng anh em tự vệ chúng tôi gác phía ngoài. Số còn
lại thì vào nghỉ ở chiếc phản kề bên.
Tôi mang bộ đồ trà tới. Quen như tiếp khách ở nhà, tôi toan rót nước ra chén. Ông
cụ bảo:
- Cháu cứ để đấy, ai khát sẽ rót uống, không nên rót sẵn.
Tôi vâng lời. Ông cụ lại hỏi:
- Các chú có báo không?
- Dạ, có ạ.
Tôi vội mang tới cho ông cụ tờ báo Cờ giải phóng chúng tôi vừa mua ban sáng.
Ông cụ chỉ đầu bài rồi giao cho một đồng chí Giải phóng quân đọc, các đồng chí khác
cùng ngồi quây quần lắng nghe. Ông cụ vừa nghe, vừa thỉnh thoảng ghi gì đó vào sổ tay.
Có lúc ông cụ dừng lại, nêu câu hỏi để các đồng chí Giải phóng quân nêu ý kiến, rồi cụ
giảng giải thêm sau đó mới cho đọc tiếp.
Kể chuyện Bác Hồ Sđd, T.4,tr.17
[95.] Các chú để Bác thuyết minh cho.
Khi còn hoạt động ở chiến khu Việt Bắc, Bác thường xem phim cùng các đồng chí
phục vụ trong cơ quan. Đó là những giờ phút, Bác cháu thoải mái sau hàng tuần, hàng
tháng làm việc trong những hoàn cảnh thiếu thốn, căng thẳng.
Một lần, máy chiếu phim đã chạy đều đều, trên màn ảnh diễn ra những cảnh nối
tiếp nhau, tiếng đối thoại của các nhân vật sôi nổi…, nhưng người xem thì không ai hiểu
gì cả, vì đó là phim nước ngoài mà không có thuyết minh.
Như biết rõ yêu cầu của mọi người, Bác hỏi đồng chí phụ trách chiếu phim:
- Sao chú không thuyết minh cho mọi người nghe?
Đồng chí phụ trách thưa với Bác là phim mới nhập về, không có bản thuyết minh đi
kèm. Nhưng vì thực hiện lịch chiếu phim do cơ quan quy định nên cứ thực hiện chương
trình…

Với nụ cười đôn hậu, Bác nói:
- Chú để Bác thuyết minh cho…
Bác cầm micrô, tóm tắt đoạn phim vừa chiếu và trực tiếp thuyết minh hết bộ phim.
Mọi người càng thêm mến phục Bác.
Hoà bình lập lại, cơ quan của Bác chuyển về Hà Nội. Lịch chiếu phim trong cơ
quan Bác vẫn được duy trì.
-24-


Thường vào tối thứ 7, tại phòng lớn ngôi nhà Phủ Chủ tịch có chương trình chiếu
phim.
Tối ấy, nghe thấy có phim hay, người xem khá đông.
Đúng giờ, Bác tới. Người ra hiệu cho mọi người ngừng vỗ tay rồi nhanh nhẹn ngồi
vào ghế. Một số cháu nhỏ tíu tít quanh Bác.
Buổi chiếu phim: “Hoàng tử Cóc” bắt đầu. Mọi người trật tự theo dõi phim. Song lần
này, đồng chí thuyết minh chưa xem trước, nên nhiều đoạn lời thuyết minh và hình ảnh
không ăn nhập với nhau. Người xem khó theo dõi. Có người xì xào, phàn nàn… Nhiều
người quay lại chỗ đặt máy chiếu có ý chờ đợi…
Hiểu rõ hoàn cảnh, Bác bảo đồng chí thuyết minh:
- Chú thuyết minh như vậy làm mất cả cái hay của bộ phim. Chú để Bác thuyết
minh cho.
Nói rồi, Bác cầm micrô chăm chú theo dõi hình ảnh, lắng nghe đối thoại và thuyết
minh trực tiếp bộ phim Pháp này. Mọi người chăm chú theo dõi. Có lúc Bác giải thích
thêm. Lời thuyết minh rõ ràng, ngắn gọn. Giọng Bác ấm áp gợi cảm… Người xem hướng
cả lên màn ảnh.
Cảnh cung điện huy hoàng của nhà vua… Hoàng tử bắn cung để chọn vợ. Mũi tên
trúng một con Cóc. Cóc nói tiếng người. Nàng Cóc yêu cầu hoàng tử đưa mình về Cung.
Hoàng từ buồn bã vì phải sống chung với nàng Cóc. Song có điều lạ là, từ khi
chung phòng với nàng Cóc, hoàng tử được ăn những bữa ăn ngon hơn yến tiệc trước
đây, nhà cửa luôn luôn được ngăn nắp sạch, đẹp. Hoàng tử bí mật theo dõi. Cuối cùng,

nàng Cóc hiện nguyên hình là một cô gái đẹp, duyên dáng. Từ đó hai người sống cuộc
đời hạnh phúc…
Phim kết thúc. Như thường lệ, mọi người hướng về Bác chờ đợi một lời, một ý của
Bác, Bác hỏi mọi người:
- Phim có hay không?
- Dạ, hay lắm ạ! Mọi người đồng thanh trả lời.
Bác lại hỏi:
- Hay vì sao? Và không đợi câu trả lời, Bác giải thích luôn:
- Hay vì có nội dung tốt. Câu chuyện răn mọi người muốn có lứa đôi hạnh phúc, thì
đừng quá lệ thuộc vào hình thức bên ngoài; cần phải có cái đẹp bên trong, cái đẹp bản
chất, về phẩm giá con người. Các tài tử đóng khéo, màu sắc đẹp, tình tiết hấp dẫn…
Người xem hôm ấy hiểu thêm về nội dung phim, về Bác. Làm việc gì Bác cũng đem
lại điều bổ ích cho mọi người, phục vụ mọi người…
Nguyên

Trích trong “Bác Hồ, con người và phong cách”
Tập 3, Nxb Lao động, H.1993
13- [53.] Các chú nói có lý nhưng chưa hợp lý
… Các đồng chí Bộ Chính trị đều tham gia ý kiến đều gửi lại cho Bác. Bác xem và
bảo đồng chí Vũ Kỳ lấy bản của đồng chí Trường Chinh làm bản gốc, vì bản này có nhiều
ý kiến thiết thực, sau đó bổ sung các ý từ những bản của các đồng chí khác. Sửa xong
Bác cho đi đánh máy lại và ngày 30/1 mời đồng chí phụ trách tuyên huấn sang cùng Bác
soát lại lần cuối. Đồng chí tuyên huấn đọc xong, cười gượng, nói:
- Thưa Bác, so với bản bên Tuyên huấn gửi sang, Bác sửa lại hầu hết ạ.
Bác cười độ lượng:
- Bác có sửa nhưng các ý chính trong bài Bác có sửa đâu.
Đồng chí phụ trách tuyên huấn thưa:
-25-



×