Tải bản đầy đủ (.pdf) (351 trang)

Kinh Tăng Nhất A HàmTập I

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.96 MB, 351 trang )

Kinh Tăng Nhất A-Hàm Tập I

Kinh Tăng Nhất A-Hàm Tập I
Page 1 of 351


Kinh Tăng Nhất A-Hàm
Việt dịch: Hòa thượng Thích Thanh Từ
Hiệu đính: Hòa thượng Thích Thiện Siêu
Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam
PL 2541 - TL 1997

Mục Lục
Tập 1
[1.1]

[1.2]

[1.3]

I.

Phẩm tựa

II.

Phẩm Thập Niệm

III.

Phẩm Quảng diễn



IV.

Phẩm Ðệ tử

V.

Phẩm Tỳ-kheo-ni

VI.

Phẩm Thanh tín sĩ (Ưu-bà-tắc)

VII.

Phẩm Thanh tín nữ (Ưu-bà-di)

VIII.

Phẩm Atula

IX.

Phẩm Một đứa con

X.

Phẩm Hộ tâm

XI.


Phẩm Bất Đãi

XII.

Phẩm Nhập đạo

XIII.

Phẩm Lợi dưỡng

XIV.

Phẩm Ngũ giới

XV.

Phẩm Hữu vô

XVI.

Phẩm Hỏa diệt

XVII.1.

Phẩm An-ban (1)

XVII.2.

Phẩm An-ban (2)


XVIII.

Phẩm Tàm quý
Kinh Tăng Nhất A-Hàm Tập I
Page 2 of 351


XIX.

Phẩm Khuyến thỉnh

XX.

Phẩm Thiện tri thức

XXI.

Phẩm Tam Bảo

XXII.

Phẩm Cúng dường

XXIII.

Phẩm Ðịa chủ

XXIV.1.


Phẩm Cao tràng (1)

XXIV.2.

Phẩm Cao tràng (2)

XXIV.3.

Phẩm Cao tràng (3)

XXV.

Phẩm Tứ đế

XXVI.1.

Phẩm Tứ ý đoạn (1)

XXVI.2.

Phẩm Tứ ý đoạn (2)

XXVII.

Phẩm Đẳng thú Tứ đế

XXVIII.

Phẩm Thanh văn


XXIX.

Phẩm Khổ lạc

XXX.

Phẩm Tu Ðà

XXXI.

Phẩm Tăng thượng

XXXII.

Phẩm Thiện tụ

XXXIII.

Phẩm Ngũ vương

[2.4]

XXXIV.

Phẩm Đẳng kiến

[2.5]

XXXV.


Phẩm Tà tư

XXXVI.

Phẩm Thính pháp

XXXVII.1.

Phẩm Lục trọng (1)

XXXVII.2.

Phẩm Lục trọng (2)

XXXVIII.1.

Phẩm Lực (1)

XXXVIII.2.

Phẩm Lực (2)

XXXIX.

Phẩm Đẳng pháp

XXXX.1.

Phẩm Thất nhật (1)


XXXX.2.

Phẩm Thất nhật (2)

[1.4]

[1.5]

[1.6]

Tập 2
[2.1]

[2.2]
[2.3]

[2.6]

Tập 3
[3.1]

Kinh Tăng Nhất A-Hàm Tập I
Page 3 of 351


[3.2]

[3.3]
[3.4]


[3.5]

[3.6]

XXXXI.

Phẩm Mạc úy

XXXXII.1.

Phẩm Bát nạn (1)

XXXXII.2.

Phẩm Bát nạn (2)

XXXXIII.1.

Phẩm Thiên tử Mã huyết hỏi Bát chánh (1)

XXXXIII.2.

Phẩm Thiên tử Mã huyết (2)

XXXXIV.

Phẩm Chín nơi cư trú của chúng sanh

XXXXV.


Phẩm Mã vương

XXXXVI.

Phẩm Kết cấm

XXXXVII.

Phẩm Thiện ác

XXXXVIII.1.

Phẩm Thập bất thiện (1)

XXXXVIII.2.

Phẩm Thập bất thiện (2)

XXXXIX.1.

Phẩm Chăn trâu (1)

XXXXIX.2.

Phẩm Chăn trâu (2)

L.

Phẩm Lễ Tam bảo


LI.

Phẩm Phi thường

LII.

Phẩm Đại Ái Đạo nhập Niết Bàn

-ooOoo-

Kinh Tăng Nhất A-Hàm Tập I
Page 4 of 351


Mục Lục
DANH XƯNG BỐN BỘ A-HÀM ....................................................................................................................... 7
Bài Tựa Kinh Tăng Nhất A-hàm ................................................................................................................... 11
I. Phẩm tựa.................................................................................................................................................. 13
II. Phẩm Thập Niệm..................................................................................................................................... 27
III. Phẩm Quảng diễn................................................................................................................................... 31
IV. Phẩm Ðệ tử ............................................................................................................................................ 43
V. Phẩm Tỳ-kheo-ni..................................................................................................................................... 48
VI. Phẩm Thanh tín sĩ (Ưu-bà-tắc)............................................................................................................... 51
VII. Phẩm Thanh tín nữ (Ưu-bà-di).............................................................................................................. 53
VIII. Phẩm Atula........................................................................................................................................... 55
IX. Phẩm Một đứa con ................................................................................................................................ 60
X. Phẩm Hộ tâm .......................................................................................................................................... 67
XI. Phẩm Bất đãi.......................................................................................................................................... 77
XII. Phẩm Nhập đạo..................................................................................................................................... 84
XIII. Phẩm Lợi dưỡng................................................................................................................................... 94

XIV. Phẩm Ngũ giới.................................................................................................................................... 112
XV. Phẩm Hữu vô ...................................................................................................................................... 117
XVI. Phẩm Hỏa diệt ................................................................................................................................... 121
XVII.1. Phẩm An-ban (1)............................................................................................................................ 135
XVIII. Phẩm Tàm quý ................................................................................................................................. 155
XIX. Phẩm Khuyến thỉnh............................................................................................................................ 177
XX. Phẩm Thiện Tri Thức ........................................................................................................................... 191
XXI. Phẩm Tam Bảo ................................................................................................................................... 210
XXII. Phẩm Cúng dường ............................................................................................................................ 227
XXIII. Phẩm Ðịa chủ ................................................................................................................................... 234
XXIV.1. Phẩm Cao Tràng (1) ...................................................................................................................... 256
XXIV.2. Phẩm Cao Tràng (2) ...................................................................................................................... 273
XXV. Phẩm Tứ đế....................................................................................................................................... 311
Kinh Tăng Nhất A-Hàm Tập I
Page 5 of 351


XXVI.1. Phẩm Tứ ý đoạn (1) ...................................................................................................................... 325
XXVI.2. Phẩm Tứ ý đoạn (2) ...................................................................................................................... 345

Kinh Tăng Nhất A-Hàm Tập I
Page 6 of 351


DANH XƯNG BỐN BỘ A-HÀM
(ÀGAMA – A-cấp-ma)
Luận Du-già-sư-địa, cuốn 85 (Đại tạng số 30. 772), nói:
"Sự khế kinh (hình thức khế kinh) là bốn A-cấp-ma (Agama). Một là Tạp A-cấp-ma,
hai là Trung A-cấp-ma, ba là Trường A-cấp-ma, bốn là Tăng Nhất A-cấp-ma.
Tạp A-cấp-ma là, ở trong đó Đức Thế Tôn xem xét căn cơ của người được giáo hóa

để tuyên thuyết giáo pháp tương ứng được Như Lai và các đệ tử nói. Giáo pháp Uẩn,
Giới, Xứ tương ưng; giáo pháp Duyên khởi, Tứ thực, Tứ đế tương ưng, giáo pháp Tứ
niệm trụ, Tứ chánh cần, Tứ thần túc, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất giác chi, Bát Chánh
Đạo, Nhập xuất tức niệm, Học tịnh chứng tương ưng, v.v…
Lại y theo tám chúng, nói các giáo pháp tương ứng với chúng. Về sau người kết tập vì
muốn Thánh giáo tồn tại lâu dài, nên một phần kết tập thành các bài kệ tụng, rồi tùy
chỗ thích ứng mà thứ lớp an bố.
Nên biết, tất cả giáo pháp tương ứng như thế, khái lược do ba phương diện tương ứng
nhau, đó là người năng thuyết, pháp sở thuyết và người nghe được Phật và đệ tử vì họ
thuyết dạy (sở vị thuyết). Như hoặc Như Lai, hoặc đệ tử Như Lai là người năng
thuyết. Như những phần giáo được Phật thuyết hoặc đệ tử thuyết, hoặc sở liễu tri,
hoặc năng liễu tri, đó là sở thuyết, như giáo pháp Năm uẩn, Sáu xứ, Nhơn duyên
tương ưng, và Đạo phẩm phần. Như các chúng Tỷ-kheo, Thiên, Ma, v.v…, đó là sở vị
thuyết; như phẩm kết tập. Như vậy, nêu lên tất cả thô lược năng thuyết, sở thuyết, sở
vị thuyết, thành Tương ưng giáo.
Chính tất cả Tương ưng giáo kia, về hình thức tập họp lại dài ngắn lẫn lộn phức tạp,
thế nên gọi là Tạp A-cấp-ma. Chính Tương ưng giáo kia lại được nói ở dạng trung
bình, thế nên gọi là Trung A-cấp-ma. Chính Tương ưng giáo kia được nói ở dạng
rộng dài, thế nên gọi là Trường A-cấp-ma. Chính Tương ưng giáo kia, lại được nói ở
dạng cứ tăng dần từng số một lên đến hai, ba, v.v… Thế nên gọi là Tăng Nhất A-cấpma.
Như vậy, bốn thứ ấy được thầy trò lần lượt truyền lại đến nay, thế nên gọi là A-cấpma".
Kinh Tăng Nhất A-Hàm Tập I
Page 7 of 351


Cứ theo đoạn văn dẫn trên, ta thấy rõ danh xưng Tạp, Trung, Trường, Tăng Nhất Acấp-ma là xưng theo hình thức kinh được nói dài hay ngắn chứ không phải xưng theo
nội dung nghĩa lý của kinh. Như Tạp A-hàm, thì ngoại trừ kinh số 604 nói về A-dục
dài đến 10 trang trong Đại tạng, còn lại hầu hết là kinh ngắn, nhiều kinh chỉ có một,
hai dòng, thậm chí vài câu. Vì kinh dài ngắn xen lẫn nhau như vậy trong một bộ nên
gọi là Tạp. Trung A-cấp-ma thì kinh dài hơn các kinh ở Tạp A-cấp-ma, song không

dài hơn ở Trường A-cấp-ma. Kinh dài nhất ở Trung A-cấp-ma là kinh số 71 dài 7
trang và kinh số 72 dài 6 trang trong Đại tạng, song cũng không bằng Trường A-cấpma, có kinh như kinh Đại Bổn dài 10 trang, kinh Du Hành dài 20 trang, kinh Thế ký
dài 22 trang trong Đại tạng.
Như vậy, hoặc có thể nói cách khác là Tạp Thuyết A-cấp-ma hay Đoản Thuyết A-cấpma, Trung thuyết A-cấp-ma, Trường Thuyết A-cấp-ma, Tăng Nhất Thuyết A-cấp-ma.
Theo đó, Bốn A-hàm lấy Tạp A-hàm kinh thuộc Tương ưng giáo làm gốc. Tạp A-hàm
là “Nhất thiết sự tương ưng giáo”, vì vậy bốn A-hàm cũng được gọi chung là “Sự khế
kinh”.
Nhưng Sự là gì?
Luận Du-già (của Bồ-Tát Di-Lặc tạo), cuốn ba, nói: “Lời dạy của chư Phật gồm trong
chín sự, đó là:
Hữu tình sự
Thọ dụng sự
Sanh khởi sự
An trú sự
Nhiễm tịnh sự
Sai biệt sự
Thuyết giả sự
Sở thuyết sự
Chúng hội sự.
Hữu tình sự là chỉ cho ngũ thủ uẩn; Thọ dụng sự là chỉ cho mười hai xứ; Sanh khởi sự
là chỉ cho mười hai duyên khởi và duyên sanh; An trú sự là chỉ cho bốn thực (bốn
cách ăn); Nhiễm tịnh sự là chỉ cho bốn Thánh đế; Sai biệt sự là chỉ cho vô lượng giới;
Thuyết giả sự là chỉ cho Phật và đệ tử Ngài; Sở thuyết sự là chỉ cho bốn niệm trụ
v.v… và Bồ-đề phận pháp; Chúng hội sự là chỉ cho tám chúng đệ tử Phật.
Đó là toàn bộ nội dung của kinh Tạp A-hàm hay là “Sự tương ưng giáo”.
Nhiếp sự phần trong Du-già luận, cuốn 58, gom chín sự này trong ba loại lớn:
Kinh Tăng Nhất A-Hàm Tập I
Page 8 of 351



Năng thuyết – chỉ Phật và đệ tử Phật.
Sở thuyết – chỉ uẩn, giới, xứ, duyên khởi, thực đế, niệm trụ, chứng tịnh…
Sở vị thuyết – chỉ tám chúng đệ tử Phật.
Chín sự hay ba loại lớn, đó là nội dung của kinh Tạp A-hàm, và cũng có thể gọi đó là
“Tu-đa-la” – “Sự khế kinh”.
TÔN CHỈ Ý THÚ CỦA BỐN A-HÀM
Theo luận “Tát-bà-đa Tỳ-ni-tỳ-bà-sa”, cuốn 1, của phái Thuyết nhất thiết hữu, ghi:
“Đức Phật vì chư Thiên và Người đời theo thời cơ nói pháp, kết tập lại làm Tăng Nhất
A-hàm, đó là kinh cho người khuyến hóa học tập. Phật vì chúng sanh lợi căn, nói các
nghĩa thâm diệu, gọi là Trung A-hàm; đó là kinh cho người học vấn học tập. Phật nói
các pháp Thiền định, gọi là Tạp A-hàm; đó là kinh cho người tọa Thiền học tập. Phật
phá các ngoại đạo, là Trường A-hàm”.
Ngài Phật Âm (Buddhaghosa) có sách chú thích bốn bộ A-hàm. Theo tên sách chú
thích, đã biểu hiện rõ đặc sắc của bốn bộ A-hàm như sau:
Sách chú thích Trường Bộ, tên “Sumàn Galaviàsini” (Tốt lành thích ý).
Sách chú thích Trung Bộ, tên “Papànca Sùdani” (Phá xích do dự).
Sách chú thích Tương Ưng Bộ, tên “Sàratthapakàsini” (Hiển bày chơn nghĩa).
Sách chú thích Tăng Chi Bộ, tên “Manoratha Pùrani” (Mãn túc hy cầu).
Ngài Long Thọ (Nàgàrjuna) trong luận Đại Trí Độ, cuốn 1, có nêu cách thuyết giáo
theo bốn tất-đàn: “1) Thế giới tất-đàn; 2) Các vị nhân tất-đàn; 3) Đối trị tất-đàn; 4) Đệ
nhất nghĩa tất-đàn. Trong bốn tất-đàn tổng nhiếp mười hai bộ kinh, 84.000 pháp tạng,
đều là thật, không chống trái nhau”.
Tất-đàn, tiếng Phạn là “Siddhànta”, dịch nghĩa là thành tựu, tông, lý. Bốn tất-đàn là
bốn tôn chỉ, bốn đạo lý.
Bốn tất-đàn có thể tổng nhiếp hết mười hai bộ kinh, 84.000 pháp tạng là thế nào?
Bốn tất-đàn chỉ là dựa theo bốn tôn chỉ của bốn bộ A-hàm mà nói. Bốn tất-đàn tương
đương với bốn tên sách chú thích bốn bộ của ngài Phật Âm.
- Sách chú thích Trường Bộ với tên là Tốt lành thích ý – đó là Thế giới tất-đàn (thuyết
pháp phổ thông thích hợp với quảng đại quần chúng). Như trong Trường A-hàm có
các kinh Xa-ni-sa, Đại Điển Tôn, Đại Hội, Phạm Thiên Sở Vấn, A-tra-năng-để

v.v…gồm những lời Phật dạy thích ứng với tín ngưỡng thiên thần phổ thông của Ấn
Kinh Tăng Nhất A-Hàm Tập I
Page 9 of 351


Độ. Trên mặt tư tưởng, Trường A-hàm chủ yếu phá xích những tín ngưỡng, tà kiến
của dân chúng.
- Sách chú thích Trung bộ với tên Phá xích do dự - đó là đối trị tất-đàn (thuyết pháp
đối trị riêng từng căn bịnh của chúng sanh). Trong Trung A-hàm phân biệt quyết trạch
để đoạn nghi tình, trừ sạch hai mươi mốt thứ kiết sử… Đó chính là ý nghĩa của sự đối
trị.
- Sách chú thích Tương Ưng Bộ với tên Hiển bày chơn nghĩa – đó là Đệ nhất nghĩa
tất-đàn (thuyết pháp về các nghĩa siêu việt rốt ráo).
- Sách chú thích Tăng Chi Bộ với tên Mãn túc hy cầu – đó là các các vị nhân tất-đàn
(thuyết pháp tán dương điều thiện, khuyến khích thực hành việc tốt, thích ứng với các
căn tánh bất đồng, làm mãn túc mong cầu).
Trong sách Ma ha Chỉ Quán, cuốn 1, của Ngài Thiên Thai Trí Giả, giải thích bốn tấtđàn bằng bốn từ ngữ là tùy lạc (vui thích), tùy nghi (thích nghi), tùy trị (đối trị), tùy
nghĩa (thắng nghĩa).
Tôn chỉ của Phật pháp, cách giáo hóa của Phật pháp không ngoài bốn thứ này. Mỗi
một bộ A-hàm đều có đủ bốn tôn chỉ đó, song phân biệt kỹ thì mỗi bộ có mỗi đặc sắc
riêng như trên đã nói.
Hòa Thượng Thích Thiện Siêu
Kinh Tạp A-hàm, 1995
-ooOoo-

Kinh Tăng Nhất A-Hàm Tập I
Page 10 of 351


Bài Tựa Kinh Tăng Nhất A-hàm

Ý nghĩa của bốn bộ A-hàm đồng với Trung A-hàm ở phần đầu là nói rõ tôn chỉ, nên
không lập lời tựa.
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận
cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất. Mỗi pháp số tăng dần, nên lấy
tăng làm nghĩa. Pháp ấy phần lớn ghi chép về cấm luật để làm mẫu mực nghiêm nhặt
và là điều kiện kiểm định độ đời. Ngoại quốc từ người ở núi đến người ở biển phần
nhiều thường tụng ngâm bốn bộ A-hàm này. Có vị Sa-môn nước ngoài tên Đàm-manan-đề, người nước Đâu-khư-lặc, xuất gia từ bé, học rộng nghe nhiều, tụng hai bộ Ahàm, ôn điều cũ để ngày càng mới, đi khắp các nước, không nơi nào không qua. Đời
Tần, niên hiệu Kiến Nguyên thứ hai mươi, ngài đến Trường An, người nước ngoài
đều hâm mộ. Quan Thái Thú Vũ Oai là Triệu Văn Nghiệp yêu cầu ngài đọc ra; ngài
Phật Niệm dịch truyền; ngài Đàm Trung sửa chữa. Mùa hạ năm Giáp thân bắt đầu,
đến mùa xuân năm sau thì xong, được bốn mươi mốt quyển, phân làm hai bộ thượng,
hạ. Bộ thượng gồm hai mươi sáu quyển trọn vẹn không bị quên sót, bộ hạ mười lăm
quyển, mất phần ghi kệ. Tôi cùng với Pháp Hòa khảo chính lại; Tăng Lược, Tăng
Mậu phụ giúp xem xét những chỗ thiếu sót, bốn mươi ngày thì xong. Năm này có trận
đánh ở A Thành, tiếng trống gần kề mà chúng tôi vẫn chuyên tâm trong việc này.
Trọn đủ hai bộ A-hàm là một trăm quyển.
Hai ngài Tỳ-bà-sa và Tu-mật-tăng-già-la-đát truyền sang đây (Trung Hoa) năm bộ
kinh lớn. Từ khi Pháp truyền sang phương Đông, hai ngài là người đọc kinh để dịch
ưu việt hơn hết. Bốn bộ A-hàm do bốn mươi vị cao đức biên tập, mười vị tuyển chọn
một bộ: bắt đầu từ đề mục và chấm dứt bằng bài kệ. Sợ giáo pháp lưu truyền ở đời lâu
ngày bị thất lạc, thiếu sót, nên cõi này trước đây ghi lại các kinh đành rành; trong số
ấy nay có hai Bộ A-hàm, mỗi mỗi viết lại một quyển mới, giữ trọn số mục cũ của
kinh, ghi chú về sự thêm thắt, mất mát của kinh, khiến cho người đọc tìm thấy được
sự sai khác.
Hai bộ thượng hạ gồm có 472 kinh; phàm các vị học sĩ tuyển chọn hai bộ A-hàm này,
trong đó thường có những lời dạy về luật, người nước ngoài không rõ, xem Sa-di và
cư sĩ cùng như nhau. Từ này về sau, mong rằng cùng giữ gìn điều này như luật định!
Đây chính là việc cấp thiết của nước ta. Những lời dạy căn dặn đinh ninh của Đức Thế
Tôn, xin chớ nghe một cách sơ suất! Học rộng mà không biết gìn giữ cấm giới là một
tỳ vết trong sự thông suốt của giới học sĩ. Khương Hạnh Tường dịch kinh Trung Bản

Khởi, dịch luôn phẩm Đại Ái Đạo trong đó mà không biết đó là kinh cấm, là phép của
Tỳ-kheo-ni, rất cần phải cắt bỏ đi. Đây là một sự thô lậu lớn, đáng đau xót vậy.

Kinh Tăng Nhất A-Hàm Tập I
Page 11 of 351


Hai bộ kinh này, bậc đạo sĩ hữu lực mới có thể xem, cần phải để tâm. Còn như người
khinh thường không để ý, mong các vị đồng chí với tôi kêu gọi sửa đổi điều này!
Đời Tấn
Sa-môn Thích Đạo An viết
Hòa Thượng Thích Thanh Từ dịch Việt, 1997

Kinh Tăng Nhất A-Hàm Tập I
Page 12 of 351


Kinh Tăng Nhất A-Hàm
Việt dịch: Hòa thượng Thích Thanh Từ
Hiệu đính: Hòa thượng Thích Thiện Siêu
Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam
PL 2541 - TL 1997

I. Phẩm tựa
Tự quy đấng Năng Nhân thứ bảy,
Diễn nói pháp Hiền Thánh Vô Thượng
Ở mãi trong sông dài sanh tử,
Thế Tôn nay vì độ chúng sanh,
Tôn trưởng Ca-diếp và Chúng tăng,
Hiền triết A-nan nghe vô lượng,

Thiện Thệ nhập diệt lưu xá lợi,
Từ nước Câu-di đến Ma-kiệt,
Ca-diếp suy từ hành tứ đẳng,
Chúng sanh này đọa lạc năm đường,
Chánh Giác giảng đạo nay qua đời,
Nhớ Ngài khéo dạy, lòng thương khóc.
Ca-diếp suy nghĩ gốc Chánh pháp,
Làm sao lưu bố lâu ở đời,
Thế Tôn nói bao nhiêu lời dạy,
Tổng trì gìn giữ, chẳng lọt mất.
Ai có sức này gom các pháp,
Nơi nơi chỗ chỗ gốc nhân duyên?
Nay trong chúng này, bậc Trí tuệ,
A-nan hiền thiện nghe vô lượng,
Liền đánh kiền chùy nhóm bốn bộ,
Tỳ-kheo tám vạn bốn ngàn chúng,
Ðều đắc La-hán, tâm giải thoát,
Ðã thoát trói buộc, làm ruộng phước.
Ca-diếp thương xót cho người đời,
Kinh Tăng Nhất A-Hàm Tập I
Page 13 of 351


Càng nhớ đền ơn Phật quá khứ,
Thế Tôn truyền pháp cho A-nan,
Mong quảng bá pháp mãi ở đời,
Làm sao lần lượt không mất mối,
Ba A-tăng-kỳ nhóm pháp báu,
Khiến sau bốn bộ được nghe pháp,
Ðã nghe liền được lìa các khổ.

A-nan từ chối: 'Tôi chẳng kham,
Chư pháp sâu xa bao nhiêu loại,
Há dám phân biệt Pháp Như Lai,
Phật pháp công đức trí vô lượng.
Nay ngài Ca-diếp kham nhận nổi,
Thế Hùng đem pháp trao kỳ cựu,
Ðại Ca-diếp nay vì mọi người,
Như Lai tại thế mời nửa tòa.'
Ca-diếp đáp rằng: 'Tuy có thể,
Tuổi già suy yếu, quên mất nhiều,
Nay Ông tổng trì nghiệp trí tuệ,
Khiến được gốc pháp hằng ở đời,
Nay ta có ba mắt thanh tịnh,
Cũng lại hay biết tha tâm trí,
Tất cả chúng sanh bao nhiêu loại,
Không ai hơn được A-nan'.
Phạm Thiên giáng xuống cùng Ðế Thích
Tứ thiên hộ thế và chư Thiên
Di-lặc Ðâu-suất tìm đến họp,
Bồ-tát mấy ức không thể kể.
Di-lặc, Phạm, Thích và Tứ Vương
Ðều cùng chắp tay mà bày tỏ:
'Tất cả các pháp Phật đã ấn:
'A-nan là pháp khí của Ta',
Nếu Ngài chẳng muốn Pháp còn mãi,
Tức làm tổn hoại pháp Như Lai,
Nguyện giữ bổn yếu vì chúng sanh,
Cứu được nguy ách, độ các nạn.
Ðức Phật ra đời thọ quá ngắn,
Nhục thể tuy chất, pháp thân còn,

Nếu khiến gốc Pháp không đoạn tuyệt,
A-nan chớ từ chối thuyết pháp'.
Ca-diếp tối tôn và Thánh chúng,
Di-lặc, Phạm, Thích và Tứ Vương,
Kinh Tăng Nhất A-Hàm Tập I
Page 14 of 351


Tha thiết thỉnh cầu A-nan nói
Khiến giáo pháp Phật chẳng diệt tận.
A-nan nhân hòa đủ tứ đẳng,
Ý chuyển sư tử hống nhiệm mầu,
Nhìn khắp bốn bộ, ngắm hư không,
Thương khóc lệ trào không dừng được.
Liền vận quang minh và vẻ mặt,
Chiếu khắp chúng sanh như mặt trời,
Di-lặc thấy (ánh) sáng cùng Thích, Phạm,
Thu xả đợi nghe Pháp vô thượng,
Bốn bộ lặng lẽ chuyên một lòng,
Muốn được nghe Pháp, ý chẳng loạn,
Tôn trưởng Ca-diếp và Thánh chúng,
Nhìn thẳng thấy mặt, mắt không chớp.
Rồi A-nan thuyết kinh vô lượng.
Ai hay đầy đủ góp một nhóm:
'Nay tôi sẽ chia làm ba phần,
Tạo lập mười kinh làm một kệ.
Khế kinh phần một, Luật phần hai,
Kinh A-tỳ-đàm là phần ba.
Ba Phật quá khứ đều chia ba,
Khế kinh, Luật, Pháp là ba tạng,

Khế kinh nay sẽ phân bốn đoạn,
Kế là Tăng Nhất, hai là Trung,
Ba gọi là Trường, nhiều anh lạc,
Tạp kinh sau cùng là bốn phần'.
Tôn giả A-nan nghĩ thế này:
'Pháp thân Như Lai chẳng hư hoại,
Còn mãi ở đời, không dứt mất,
Trời, Người được nghe thành đạo quả.
Hoặc có một pháp nghĩa cùng sâu
Khó giữ, khó tụng chẳng thể nhớ,
Nay ta sẽ nhóm nghĩa một pháp,
Mỗi mỗi theo nhau chẳng mất mối.
Cũng có hai pháp lại thành hai,
Ba pháp thành ba như xâu chuỗi,
Bốn pháp thành bốn, năm cũng thế,
Năm pháp đến sáu, sáu đến bảy,
Tám pháp nghĩa rộng, chín tiếp theo,
Mười pháp từ mười đến mười một.
Như thế pháp bảo trọn chẳng quên,
Kinh Tăng Nhất A-Hàm Tập I
Page 15 of 351


Cũng hằng ở đời, tồn tại mãi,
Ở trong đại chúng nhóm pháp này'.
Tức thời A-nan lên pháp tòa,
Di-lặc khen 'Lành, hay thay!', nói:
'Các pháp nghĩa hợp nên phối lại,
Còn các pháp nên phân bộ.
Thế Tôn nói Pháp mỗi mỗi khác,

Bồ-tát phát ý hướng đại thừa,
Như Lai thuyết đây các thứ khác,
Nhân Tôn thuyết lục độ không cùng,
Bố thí, trì giới, nhẫn, tinh tấn,
Thiền, trí tuệ như trăng đầu tháng,
Chóng độ vô cực quán các pháp.
Có người dũng mãnh cho đầu mắt,
Thân thể, máu thịt, không luyến tiếc,
Vợ, hầu, nước, của và trai, gái,
Ðây gọi đàn độ chẳng nên bỏ.
Giới độ vô cực như kim cương,
Không hủy, không phạm, không sót mất,
Trì tâm giữ giới như bình gốm,
Ðây gọi giới độ không nên bỏ.
Hoặc có người đến cắt tay chân,
Chẳng khởi giận dữ, sức nhẫn mạnh,
Như biển bao dung không tăng giảm,
Ðây gọi nhẫn độ không nên bỏ,
Những người tạp tác hành thiện ác,
Thân, miệng, ý đều không biết chán,
Ngăn người các hạnh không đến đạo,
Ðây gọi tần độ không nên bỏ.
Các vị tọa thiền thở ra vào,
Tâm ý vững chắc không loạn niệm,
Dù cho đất động, thân chẳng nghiêng,
Ðây gọi thiền độ không nên bỏ.
Lấy sức trí huệ biết trần số,
Kiếp số triệu năm không thể kể,
Thanh thản nghiệp tụ ý chẳng loạn,
Ðây gọi trí độ chẳng nên bỏ.

Chư pháp thậm thâm luận lý không,
Khó sáng, khó rõ, không thể quán,
Về sau hậu tấn ôm hoài nghi,
Ðây đức Bồ-tát không nên bỏ'.
Kinh Tăng Nhất A-Hàm Tập I
Page 16 of 351


A-nan tự trình bày ý này:
'Hạnh Bồ-tát, kẻ ngu không tin,
Trừ các La-hán tin giải thoát,
Ðó là có tin không do dự.
Chúng của bốn bộ phát ý đạo,
Cùng với tất cả loài chúng sanh,
Họ có tin chắc không hồ nghi,
Họp các pháp này làm phần một'.
Di-lặc khen: 'Lành, hay thay!' nói:
'Phát thú đại thừa ý rất rộng,
Hoặc có các pháp đoạn kiết sử,
Hoặc có các pháp thành đạo quả'.
A-nan thuyết rằng: Ðây thế nào,
Tôi thấy Như Lai giảng pháp này.
Có pháp chẳng nghe từ Như Lai,
Pháp này há sai, nên có nghi.
Dù tôi nói thấy, nghĩa này sai,
Với chúng tương lai liền bị hỏng,
Nay nói chư kinh nghe như thế,
Chỗ Phật đang ở, thành, quốc độ,
Nước Ba-la-nai thuyết pháp đầu,
Nước Ma-kiệt độ ba Ca-diếp,

Thích-sí, Câu-tát, Ca-thi-quốc,
Chiêm-bà, Câu-lưu, Tỳ-xá-ly,
Thiên Cung, Long Cung, A-tu-la,
Càn-thát-bà cùng thành Câu-thi,
Cho dù không được chỗ thuyết kinh,
Sẽ nói nguyên gốc tại Xá-vệ.
Tôi được theo nghe việc một thời,
Phật tại Xá-vệ cùng đệ tử,
Tinh xá Kỳ-hoàn tu thiện nghiệp,
Trưởng giả Cô Ðộc dâng cúng vườn.
Lúc Phật tại đó dạy Tỳ-kheo,
Nên tu một pháp chuyên nhất tâm,
Suy nghĩ một pháp không phóng dật,
Một pháp là gì? Là niệm Phật,
Niệm Pháp, niệm Tăng và niệm Giới,
Niệm Thí, rồi tiếp đến niệm Thiên,
Niệm Thơ An-ban và niệm Thân,
Niệm Chết, trừ loạn là mười niệm,
Ðây gọi là mười niệm lại có mười.
Kinh Tăng Nhất A-Hàm Tập I
Page 17 of 351


Sau đó sẽ nói đệ tử Phật,
Trước dạy Câu-lân thành đệ tử,
Cuối cùng nhỏ nhất là Tu-đạt
Dùng phương tiện này rõ một pháp.
Hai theo hai pháp, ba theo ba,
Bốn, năm, sáu, bảy, tám, chín, mười,
Mười một pháp này đều rõ hết,

Từ một tăng một đến các pháp,
Nghĩa nhiều, huệ rộng chẳng thể tận,
Mỗi một khế kinh nghĩa cùng sâu,
Thế nên gọi là Tăng Nhất Hàm.
Nay tìm một pháp khó rõ sáng,
Khó trì, khó hiểu, chẳng thể minh,
Tỳ-kheo tự xưng công đức nghiệp,
Nay nên xưng là Tôn đệ nhứt.
Ví như thợ gốm làm đồ vật,
Tùy ý mà làm không hồ nghi,
Như thế a-hàm Tăng Nhất pháp,
Ba thừa giáo hóa không sai biệt,
Kinh Phật vi diệu rất thâm sâu,
Năng trừ kiết sử như sông chảy,
Nhưng Tăng Nhất này là trên hết,
Hay sạch ba nhãn, trừ ba cấu.
Có ai chuyên tâm trì Tăng Nhất,
Liền là tổng trì Như Lai tạng,
Dù thân này chưa hết kiết sử,
Ðời sau liền được tài trí cao.
Nếu có người viết chép kinh quyển,
Lọng hoa, tơ lụa đem cúng dường,
Phước này vô lượng không thể kể
Vì pháp báu này khó gặp vậy'
Thuyết lời này rồi đất chấn động,
Mưa trời hoa hương phủ đến gối,
Chư Thiên trên không khen 'Lành thay!'.
Lời Thượng Tôn thuyết trọn thuận nghĩa,
Khế kinh tạng một, Luật tạng hai,
Kinh A-tỳ-đàm là tạng thứ ba,

Phương Ðẳng đại thừa nghĩa thâm thúy,
Cùng các khế kinh là tạp tạng,
An xử lời Phật trọn chẳng khác,
Nhân duyên gốc ngọn đều tùy thuận,
Kinh Tăng Nhất A-Hàm Tập I
Page 18 of 351


Di-lặc, chư Thiên đều khen lành,
Kinh Phật Thích-ca còn được lâu.
Di-lặc đứng lên tay cầm hoa,
Hoan hỉ đem rải lên A-nan,
Kinh nầy đúng thật Như Lai thuyết,
Khiến A-nan tầm đạo quả thành.
Bấy giờ Tôn giả A-nan cùng Phạm thiên và các Phạm Ca-di thiên đều đến tụ hội. Hóa
tự tại thiên cùng quyến thuộc đều đến tụ hội. Tha hóa tự tại thiên cùng tùy tùng đến tụ
hội. Ðầu-suất thiên vương cùng chúng thiên đều đến tụ hội. Diệm thiên cùng các tùy
tùng đều đến tụ hội. Thích-đề-hoàn-nhân cùng chư thiên cõi Ba mươi ba đồng đến tụ
hội. Ðề-đầu-lại-tra Thiên vương cùng Càn-thát-bà v.v... cùng đến tụ hội. Tỳ-lưu-lặcxoa Thiên vương cùng đến Yểm Quỷ đều đến tụ hội. Tỳ-lưu-bạt-xoa Thiên vương
đem các chúng Rồng cùng đến tụ hội. Tỳ-sa-môn Thiên vương dẫn chúng Dạ-xoa, Lasát cùng đến tụ hội.
Lúc bấy giờ Ðại sĩ Di-lặc bảo các Bồ-tát trong Hiền kiếp:
- Các Ðại sĩ hãy khuyên các thiện nam và tín nữ đọc tụng, thọ trì Tăng Nhất Tôn
Pháp, giảng nói rộng rãi khiến Trời Người vâng làm.
Lúc ngài nói lời này thì chư Thiên, loài Người, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Mahầu-la-già, Khẩn-na-la v.v... đều tự nói:
- Chúng tôi đều cùng nhau ủng hộ thiện nam, tín nữ nào đọc tụng, thọ trì Tăng Nhất
Tôn Pháp, giảng nói rộng rãi, trọn không dừng nghỉ nửa chừng.
Lúc ấy Tôn giả A-nan bảo Tôn giả Ưu-đa-la rằng:
- Nay tôi đem Tăng Nhất A-hàm này giao phó cho Hiền giả. Xin hãy khéo tụng đọc,
chớ để thiếu sót. Vì sao vậy? Vì nếu có người khinh mạn tôn kinh này liền bị đọa lạc,
là hạnh phàm phu. Vì cớ sao? Này Ưu-đa-la! Tăng Nhất A-hàm nêu lên lời dạy Ba

mươi bảy đạo phẩm và các pháp đều do đây sanh.
Tôn giả Ðại Ca-diếp hỏi A-nan:
- Này Hiền giả A-nan, Tăng Nhất A-hàm lại có thể xuất binh Ba mươi bảy đạo phẩm
và các pháp đều do đây sanh sao?
Tôn giả A-nan đáp:

Kinh Tăng Nhất A-Hàm Tập I
Page 19 of 351


- Ðúng thế! Ðúng thế! Thưa Tôn giả Ca-diếp, Tăng Nhất A-hàm xuất sanh Ba mươi
bảy phẩm và các pháp đều do đây sanh. Không những thế mà chỉ một kệ trong Tăng
Nhất A-hàm cũng xuất sanh ra Ba mươi bảy phẩm và các pháp.
Ngài Ca-diếp hỏi:
- Trong loại kệ nào xuất sanh ra Ba mươi bảy phẩm và các pháp?
Tôn giả A-nan liền nói bài kệ này:
Các điều ác chớ làm,
Các điều thiện vâng làm,
Tự trong sạch ý mình,
Là lời chư Phật dạy.
Vì sao thế? 'Các điều ác chớ làm' là các pháp vốn đã sanh ra các pháp lành, do sanh
pháp lành mà tâm ý trong sạch. Thế nên Ca-diếp! Chư Phật Thế Tôn thân, miệng, ý
thường tu thanh tịnh.
Tôn giả Ca-diếp hỏi:
- Thế nào A-nan, riêng Tăng Nhất A-hàm xuất sanh Ba mươi bảy phẩm và các pháp,
còn bốn A-hàm khác cũng lại sanh ra chăng?
Tôn giả A-nan đáp:
- Không những thế, thưa Tôn giả Ca-diếp, nghĩa của bốn bộ A-hàm chỉ trong một bài
kệ cũng đầy đủ lời chư Phật, lời Bích-chi Phật và Thanh văn. Vì sao thế? 'Các điều ác
chẳng làm' là đầy đủ giới cấm; hạnh thanh bạch là 'các điều thiện vâng làm'. 'Tâm ý

trong sạch', là tự sạch ý mình, trừ tà chấp điên đảo; 'Là lời chư Phật dạy', là bỏ các
tưởng ngu dốt, nghi hoặc. Thế nào Tôn giả Ca-diếp, người giới thanh tịnh thì tâm ý
của họ lại bất tịnh sao? Người mà ý thanh tịnh thì không điên đảo; vì không điên đảo
nên tướng ngu hoặc diệt, Ba mươi bảy phẩm quả nhiên liền được thành tựu. Ðã thành
đạo quả há chẳng phải là các pháp sao?
Tôn giả Ca-diếp hỏi:
- Thế nào A-nan, tại sao đem Tăng Nhất A-hàm này giao phó cho Ưu-đa-la mà chẳng
giao cho Tỳ-kheo khác tất cả các pháp?
Tôn giả A-nan đáp:
Kinh Tăng Nhất A-Hàm Tập I
Page 20 of 351


- Tăng Nhất A-hàm tức là các pháp. Các pháp tức là Tăng Nhất A-hàm, là một chứ
không có hai.
Tôn giả Ca-diếp hỏi:
- Vì những lý do nào mà đem Tăng Nhất A-hàm phó chúc cho Ưu-đa-la, không giao
cho Tỳ-kheo khác?
Tôn giả A-nan đáp:
- Tôn giả Ca-diếp nên biết, chín mươi mốt kiếp xưa, đức Tỳ-bà-thi Như Lai Chí Chân
Ðẳng Chánh Giác xuất hiện ở đời. Lúc đó Tỳ-kheo Ưu-đa-la này tên là Y-câu-ưu-đala. Lúc đó, đức Phật đã đem pháp Tăng Nhất giao phó cho người này khiến tụng đọc.
Từ đây cho đến ba mươi mốt kiếp về sau, kế đó có Phật Thi-khí Như Lai Chí Chân
Ðẳng Chánh Giác. Lúc đó Tỳ-kheo Ưu-đa-la này tên là Mục-già-ưu-đa-la. Thi-khí
Như Lai lại đem pháp này giao phó cho người này khiến đọc tụng. Cũng chính trong
ba mươi mốt kiếp kia, Tỳ-xá-phù Như Lai Chí Chân Ðẳng Chánh Giác lại xuất hiện ở
đời. Lúc đó Tỳ-kheo Ưu-đa-la này tên là Long Ưu-đa-la. Ðức Phật lại lấy pháp này
giao phó cho người này khiến tụng đọc.
Tôn giả Ca-diếp nên biết, trong Hiền kiếp này có Câu-lưu-tôn Như Lai Chí Chân
Ðẳng Chánh Giác xuất hiện ở đời. Lúc đó Tỳ-kheo Ưu-đa-la tên Lội Ðiện Ưu-đa-la.
Phật lại đem pháp này phó chúc cho người đó khiến đọc tụng. Trong Hiền kiếp này,

kế đó lại có Phật Câu-na-hàm Như Lai Chí Chân Ðẳng Chánh Giác xuất hiện ở đời.
Lúc đó Tỳ-kheo Ưu-đa-la tên Thiên Ưu-đa-la. Phật lại đem pháp này giao phó cho
ông ta khiến đọc tụng. Trong Hiền kiếp này, kế đó lại có Phật tên Ca-diếp Như Lai
Chí Chân Ðẳng Chánh Giác xuất hiện ở đời. Bấy giờ Tỳ-kheo Ưu-đa-la, tên Phạm
Ưu-đa-la, Phật lại đem pháp này giao phó cho ông ta khiến tụng đọc.
Tôn giả Ca-diếp nên biết, nay Thích-ca Văn Như Lai Chí Chân Ðẳng Chánh Giác xuất
hiện ở đời. Nay Tỳ-kheo này tên Ưu-đa-la. Thích-ca Văn Phật tuy đã Bát-niết-bàn
nhưng Tỳ-kheo A-nan vẫn còn ở đời. Thế Tôn đem hết pháp giao phó cho tôi. nay tôi
lại lấy pháp này trao cho Ưu-đa-la. Vì sao thế? Hãy xem vị này, xét biết nguồn gốc,
sau đó mới truyền pháp. Vì sao? Thời quá khứ trong hiền kiếp này, Câu-lưu-tôn Như
Lai Chí Chân Ðẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô
Thượng Sĩ, Ðạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn xuất hiện ở đời.
Lúc đó có vua tên Ma-ha-đề-bà, lấy pháp cai trị, giáo hóa dân chúng chưa từng sai lạc,
thọ mạng rất dài, đoan chánh vô song, hiếm có ở đời. Trong tám vạn bốn ngàn năm
với thân đồng tử mà tự vui chơi. Trong tám vạn bốn ngàn năm dùng thân thái tử đem
pháp cai trị. Trong tám vạn bốn ngàn năm lại dùng vương pháp cai trị thiên hạ.
Kinh Tăng Nhất A-Hàm Tập I
Page 21 of 351


Tôn giả Ca-diếp nên biết, lúc đó Thế Tôn dạo đi trong vườn Cam-lê, và sau khi ăn
xong, như thường lệ đi kinh hành trong sân. Tôi làm thị giả. Lúc đó Thế Tôn mỉm
cười, miệng phóng hào quang năm sắc. Tôi thấy vậy liền quỳ trước Thế Tôn mà bạch
rằng:
'- Phật chẳng cười vô cớ, mong cho con được nghe gốc ngọn. Như Lai Chí Chân Ðẳng
Chánh Giác chẳng bao giờ nói lời trống rỗng.'
Bấy giờ, thưa Tôn giả Ca-diếp, Phật bảo tôi rằng:
'- Ở đời quá khứ, trong Hiền kiếp này có Như Lai tên Câu-lưu-tôn Chí Chân Ðẳng
Chánh Giác xuất hiện ở đời. Lại ở chỗ này vì các đệ tử mà thuyết pháp rộng rãi. Sau
đó ở trong Hiền kiếp này, lại có Câu-na-hàm Như Lai Chí Chân Ðẳng Chánh Giác

xuất hiện ở đời. Bấy giờ đức Phật ấy cũng ở chỗ này mà thuyết pháp rộng rãi. Kế nữa,
trong Hiền kiếp này, Ca-diếp Như Lai Chí Chân Ðẳng Chánh Giác xuất hiện ở đời,
Ca-diếp Như Lai cũng ở chỗ này mà thuyết pháp rộng rãi'.
Bấy giờ thưa Tôn giả Ca-diếp, tôi quỳ trước Phật và bạch:
'- Mong sao Thích-ca Văn Phật cũng ở chỗ này thuyết pháp đầy đủ cho các đệ tử. Chỗ
này sẽ là tòa kim cương của bốn Như Lai, mãi không đoạn dứt.'
Bấy giờ, thưa Tôn giả Ca-diếp, Phật Thích-ca Văn tại chỗ ngồi ấy, bảo tôi:
'- A-nan, ngày xưa ở chỗ nầy trong Hiền kiếp, có vị vua ra đời tên Ma-ha-đề-bà trong
suốt tám vạn bốn ngàn năm dùng vương pháp giáo hóa lấy đức dạy dỗ dân; trải qua
nhiều năm, rồi bảo Kiếp-tỷ (người hớt tóc) rằng:
'- Nếu thấy đầu ta có tóc bạc, hãy báo cho ta hay'.
Lúc đó, người kia nghe vua ra lệnh, qua mấy năm lại thấy trên đầu vua có tóc bạc
mọc, liền quỳ trước Ðại vương và bạch:
'- Ðại vương nên biết, trên đầu ngài tóc bạc đã mọc.'
Vua liền bảo người ấy:
'- Lấy nhíp vàng nhổ tóc bạc bỏ lên tay ta.'
Lúc đó, người ấy vâng lệnh lấy nhíp vàng nhổ tóc bạc. Bấy giờ Ðại vương thấy tọc
bạc rồi liền nói kệ rằng:
Kinh Tăng Nhất A-Hàm Tập I
Page 22 of 351


'Bây giờ trên đầu ta,
Ðã sanh lông suy hao,
Thiên sứ đã đến nơi,
Nên ngay đây xuất gia.
Nay ta đã hưởng phước trong loài người, phải nên tự cố gắng tiến lên đức của trời, cạo
bỏ râu tóc, mặt ba pháp y, đem lòng tin kiên cố xuất gia học đạo, lìa khỏi các khổ'.
Bây giờ, vua Ma-ha-đề-bà liền bảo thái tử lớn nhất tên là Trường Thọ:
'- Con có biết chăng, nay đầu ta đã sanh tóc bạc, ý ta muốn cạo bỏ râu tóc, mặc ba

pháp ý, đem lòng tin kiên cố xuất gia học đạo, lìa khỏi các khổ. Con hãy nối ngôi, lấy
pháp cai trị, giáo hóa, chớ khiến cho sai trái lời ta dạy bảo mà tạo hạnh phàm phu. Sở
dĩ như thế vì nếu có người nào trái lời ta dạy, liền làm hạnh phạm phu. Phàm phu thì
cứ ở mãi trong tam đồ, đầy đủ tám nạn.'
Bấy giờ, vua Ma-ha-đề-bà truyền ngôi vua cho thái tử rồi, lại đem tiền của ban cho
Kiếp-tỷ (người hớt tóc) rồi ở chỗ khác cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, đem lòng tin
kiên cố xuất gia học đạo, lìa khỏi các khổ, trong tám vạn bốn ngàn năm khéo tu phạm
hạnh, hành Tứ đẳng tâm: từ, bi, hỉ, xả; khi thân chết, mạng chung sanh lên Phạm
thiên.
Vua Trường Thọ nhớ lời cha dạy chưa hề tạm bỏ, dùng pháp cai trị không có sai lạc,
chưa hết tuần lễ, liền được làm Chuyển luân Thánh vương, có đủ bảy báu.
Bảy báu là xe báu, voi báu, ngựa báu, châu báu, ngọc nữ báu, điển tạng báu, điển binh
báu. Ðó là bảy báu. Lại có ngàn người con dũng mãnh, trí tuệ, hay trừ các khổ, thống
lãnh bốn phương.
Rồi vua Trường Thọ dùng pháp vua trước... và làm kệ:
Nay ở trên đầu tôi,
Ðã sanh lông suy hao,
Sứ trời đã lại đến,
Ðúng lúc nên xuất gia.
'Nay ta đã hưởng phước loài Người, phải nên tự cố gắng tạo đức lên cõi Trời, cạo bỏ
râu tóc, mặc ba pháp ý, đem lòng tin kiên cố xuất gia học đạo, lìa các thứ khổ'.
Rồi vua Trường Thọ, bảo thái tử con trưởng tên Thiện Quán:

Kinh Tăng Nhất A-Hàm Tập I
Page 23 of 351


'- Con có biết chăng, nay đầu ta đã sanh tóc bạc. Ý ta muốn cạo bỏ râu tóc, mặc ba
pháp y, đem lòng tin kiên cố xuất gia học đạo, lìa hẳn các khổ. Con hãy nối ngôi ta,
dùng pháp mà cai trị, chớ sai mất lời ta dạy dỗ mà tạo hạnh phàm phu. Sở dĩ như thế

vì nếu có người trái lời ta dạy làm hạnh phạm phu mà hạnh phàm phu thì ở mãi trong
ba đường, tám nạn.'
Và vua Trường Thọ trong tám muôn bốn ngàn năm khéo tu Phạm hạnh, hành Tứ đẳng
tâm là từ, bi, hỉ, xả; khi thân chết, mạng chung sanh lên trời Phạm thiên. Còn vua
Thiện Quán nhớ lời cha dạy chưa từng tạm bỏ, dùng pháp cai trị không chút sai lạc'.
Tôn giả Ca-diếp nên biết, khi đó Ma-ha-đề-bà đâu phải người nào khác, đừng có cho
như thế. Vua bấy giờ nay là Phật Thích-ca Văn. Vua Trường Thọ nay là thân A-nan,
còn Thiện Quán lúc đó, nay là Tỳ-kheo Ưu-đa-la, đã hằng nhân vương pháp chưa
từng bỏ mất, cũng chẳng đoạn dứt. Và vua Thiện Quán lại làm hưng phục lệnh của
vua cha, dùng pháp cai trị, chẳng dứt lời vua dạy. Vì sao thế? Vì lời dạy của phụ
vương khó làm trái được.
Bấy giờ Tôn giả A-nan liên nói kệ:
Kính Pháp, vâng lời Tôn,
Chẳng quên báo ân gốc,
Lại hay giữ ba nghiệp,
Chỗ quý của người trí.
Tôi quán nghĩa này rồi, đem Tăng Nhất A-hàm truyền cho Tỳ-kheo Ưu-đa-la. Vì sao?
Tất cả các pháp đều có lý do.
Rồi Tôn giả A-nan bảo Tôn giả Ưu-đa-la:
- Hiền giả lúc trước làm Chuyển luân Thánh vương, chẳng để mất lời vua dạy. Nay tôi
lại đem pháp này trao phó cho Hiền giả, chớ để mất chánh giáo, chớ làm hạnh phàm
phu. Nay Hiền giả nên biết, nếu có người trái mất thiện giáo của Như Lai, liền đọa
trong cõi phàm phu. Vì sao? Lúc ấy vua Ma-ha-đề-bà không được đến chỗ rốt ráo giải
thoát, chưa được giải thoát đến chỗ an ổn; tuy hưởng phước báo Phạm thiên, vẫn
chẳng đến chỗ cứu cánh là thiện nghiệp của Như Lai, tức gọi là chỗ cứu cánh an ổn,
an lạc vô cùng, được Trời, Người cung kính, tất sẽ được Niết-bàn. Vì thế cho nên,
Ưu-đa-la! Hãy nên phụng trì pháp này, phúng tụng, đọc niệm, chớ cho thiếu sót.
Bấy giờ A-nan liền nói kệ:
Ðối với Pháp nên niệm,
Như Lai do đây sanh,

Kinh Tăng Nhất A-Hàm Tập I
Page 24 of 351


Pháp hưng thành Chánh Giác,
Bích-chi, La-hán đạo,
Pháp hay trừ các khổ,
Cũng hay thành kết quả.
Niệm Pháp chẳng rời tâm,
Nay và sau thọ báo,
Nếu muốn thành vị Phật,
Giống như Thích-ca Văn,
Thọ trì ba tạng pháp,
Câu kinh chẳng lầm loạn,
Tam tạng tuy khó giữ,
Nghĩa lý chẳng thể cùng,
Nên tụng bốn A-hàm,
Liên đoạn nẻo Nhân Thiên.
A-hàm tuy khó tụng,
Kinh nghĩa chẳng thể hết,
Giới luật chớ để mất,
Ðây là báu Như Lai.
Luật cấm cũng khó giữ,
A-hàm cũng như thế,
Giữ vững A-tỳ-đàm,
Hàng phục thuật ngoại đạo,
Tuyên dương A-tỳ-đàm,
Nghĩa này cũng khó giữ.
Nên tụng ba A-hàm
Chẳng mất câu của kinh.

Khế kinh, A-tỳ-đàm,
Giới luật lưu bố đời,
Người, Trời được vâng làm,
Liền sanh chỗ an ổn.
Nếu không pháp khế kinh,
Cũng lại không giới luật,
Như mù lao vào tối,
Lúc nào mới thấy sáng?
Lấy đây giao phó ông,
Cùng với bốn bộ chúng,
Nên giữ chớ coi thường,
Ðối với Phật Thích-ca.
Khi Tôn giả A-nan nói lời này, trời đất sáu phen chấn động. Các bậc Trời, Thần ở hư
không, tây cầm hoa trời rải trên Tôn giả A-nan, và tung vào khắp trong bốn bộ chúng.
Kinh Tăng Nhất A-Hàm Tập I
Page 25 of 351


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×