Tải bản đầy đủ (.pdf) (33 trang)

Tìm hiểu thực trạng phát triển của thị trường chứng khoán việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (600.18 KB, 33 trang )

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
TPCP

Trái phiếu chính phủ

TTCK

Thị trường chứng khoán

SGDCK

Sàn giao dịch chứng khoán

UBCKNN

Ủy Ban chứng khoán nhà nước


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN.............................................................................................1
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT............................................................................2
DANH MỤC BẢNG BIỂU..............................................................................3
LỜI MỞ ĐẦU...................................................................................................5
CHƯƠNG 1:.....................................................................................................6
TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN.....................................6
1.1. Sơ lược về lịch sử hình thành và phát triển của TTCK..........................6
1.2. Khái niệm thị trường chứng khoán.........................................................6
1.3. Chức năng và vai trò của thị trường chứng khoán..................................9
1.3.1. Chức năng của TTCK.....................................................................9
1.3.2. Vai trò của TTCK..........................................................................10
1.4. Phân loại thị trường chứng khoán........................................................12


1.4.1. Căn cứ vào sự luân chuyển các nguồn vốn....................................12
1.4.2. Căn cứ vào phương thức hoạt động của thị trường........................14
1.4.3. Căn cứ vào hàng hóa trên thị trường.............................................15
1.5. Các chủ thể tham gia TTCK.................................................................15
1.5.1. Chủ thể quản lý.............................................................................15
1.5.2. Chủ thể kinh doanh ( Trung gian tài chính )..................................16
1.5.3. Các nhà đầu tư...............................................................................16
1.5.4. Tổ chức phát hành chứng khoán....................................................17
1.5.5. Các tổ chức phụ trợ.......................................................................17
CHƯƠNG 2:...................................................................................................19
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT
NAM....................................................................................................................... 19


2.1. Giới thiệu về thị trường chứng khoán việt nam....................................19
2.2. Thực trạng phát triển thị trường chứng khoán việt Nam......................19
2.2.1. Khung pháp lý, thể chế chính sách................................................19
2.2.2. Quy mô và hàng hóa (nguồn cung) của thị trường........................21
2.2.3. Niêm yết và giao dịch chứng khoán..............................................23
2.2.4. Hệ thống cơ sở nhà đầu tư (cầu đầu tư).........................................26
2.2.5. Hệ thống các tổ chức kinh doanh, dịch vụ chứng khoán...............27
2.2.6. Tổ chức thị trường.........................................................................27
2.2.7. Hoạt động quản lý, giám sát thị trường.........................................28
2.3. Những thành tựu đạt được....................................................................29
2.4. Định hướng phát triển TTCKVN giai đoạn 2018-2020........................33
CHƯƠNG 3:...................................................................................................37
MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ NHẰM PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CHỨNG
KHOÁN VIỆT NAM..............................................................................................37
3.1. Hoàn thiện khung pháp lý....................................................................37
3.2. Đối với Ủy ban chứng khoán...............................................................38

3.3. Hàng hóa cho thị trường.......................................................................39
3.4. Đối với các công ty chứng khoán.........................................................39
3.5. Hoạt động giao dịch chứng khoán........................................................40
Kết luận........................................................................................................... 41
Tài liệu tham khảo..........................................................................................42


LỜI MỞ ĐẦU
Do sự phát triển của nền kinh tế, nhu cầu về tích vốn trong xã hội tăng lên và
trở nên đa dạng, phong phú; người thì cần vốn cho mục đích tiêu dùng hay đầu tư,
người thì có vốn nhàn rỗi muốn cho vay để sinh lời. Đầu tiên, họ tìm gặp nhau trực
tiếp trên cơ sở quen biết. Tuy nhiên sau đó, khi cung cầu vốn không ngừng tăng lên
thì hình thức vay, cho vay trực tiếp dựa trên quan hệ quen biết không đáp ứng được.
Vậy cần phải có một thị trường cho cung và cầu gặp nhau, đáp ứng các nhu cầu tài
chính của nhau – Đó là thị trường tài chính. Thông qua thị trường tài chính, nhiều
khoản vốn nhàn rỗi được huy động vào tiêu dùng, đầu tư, tạo đòn bẩy cho phát triển
kinh tế. Căn cứ vào thời gian luân chuyển vốn, thị trường tài chính bao gồm:
- Thị trường tiền tệ: mua bán, trao đổi các công cụ tài chính ngắn hạn dưới một
năm.
- Thị trường vốn: mua bán, trao đổi các công cụ tài chính trung và dài hạn.
Ban đầu nhu cầu vốn cũng như tiết kiệm trong dân chưa cao và nhu cầu về vốn
chủ yếu là vốn ngắn hạn. Theo thời gian, sự phát triển kinh tế, nhu cầu về vốn dài
hạn cho đầu tư phát triển ngày càng cao. Chính vì vậy, thị trường vốn đã ra đời để
đáp ứng các nhu cầu này. Để huy động được vốn dài hạn, bên cạnh việc đi vay ngân
hàng thông qua hình thức tài chính gián tiếp, Chính phủ và doanh nghiệp còn huy
động vốn thông qua hình thức phát hành chứng khoán. Khi một bộ phận các chứng
khoán có giá trị nhất định được phát hành, thì xuất hiện nhu cầu mua, bán chứng
khoán; và đây chính là sự ra đời của thị trường chứng khoán với tư cách là một bộ
phận của Thị trường vốn nhằm đáp ứng nhu cầu mua, bán và trao đổi chứng khoán
các loại.

Để làm rõ sự ra đời và phát triển của Thị trường chứng khoán Việt Nam, nhóm
em chọn đề tài “Tìm hiểu thực trạng phát triển của thị trường chứng khoán Việt
Nam”.


CHƯƠNG 1:
TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
1.1. SƠ LƯỢC VỀ LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TTCK
TTCK được xem là đặc trưng cơ bản, là biểu tượng của nền kinh tế hiện đại.
Với tư cách là một bộ phận cấu thành của thị trường tài chính, TTCK được hiểu một
cách chung nhất là nơi diễn ra các giao dịch mua bán chứng khoán-các hàng hoá và
dịch vụ tài chính giữa các chủ thể tham gia, theo những quy tắc ấn định trước.
TTCK ra đời xuất phát từ nhu cầu phát triển tất yếu của nền kinh tế.
Hình thức sơ khai của TTCK đã xuất hiện cách đây hàng trăm năm vào
khoảng thế kỷ 15, ở các thành phố trung tâm thương mại của các nước phương Tây.
Cho đến nay, quá trình phát triển của nó đã trải qua nhiều bước thăng trầm. Lịch sử
đã đánh dấu hai đợt khủng hoảng lớn, đó là khi các TTCK lớn ở Mĩ, Tây Âu, Nhật
Bản bị sụp đổ chỉ trong vài giờ vào “ ngày thứ 5 đen tối”, 29/10/1929 và “ngày thứ
2 đen tối”, 19/10/1987. Song, cùng với yêu cầu phát triển của nền kinh tế, thị trường
đã được phục hồi, tiếp tục phát triển và trở thành một thể chế tài chính không thể
thiếu của kinh tế thị trường.
1.2. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
TTCK được hiểu một cách chung nhất là nơi diễn ra các giao dịch mua bán,
trao đổi các chứng khoán. Nghĩa là ở đâu có giao dịch mua bán chứng khoán thì đó
là hoạt động của TTCK.
Chứng khoán được hiểu là các loại giấy tờ có giá hay bút toán ghi sổ, nó có
khả năng chuyển nhượng, xác định số vốn đầu tư, cho phép chủ sở hữu có quyền
yêu cầu về thu nhập và tài sản của tổ chức phát hành.
Đặc điểm cơ bản nhất của TTCK là thị trường tự do, tự do nhất trong các loại
thị trường. Ở TTCK không có sự độc đoán, can thiệp cưỡng ép về giá. Giá mua bán

hoàn toàn do quan hệ cung cầu trên thị trường quyết định.
Quá trình vận động của tư bản được thực hiện xuất phát từ chức năng kinh tế
nòng cốt của thị trường tài chính trong việc dẫn vốn từ những người tạm thời dư


thừa vốn sang những người cần vốn. Sự chuyển dịch vốn được thể hiện qua sơ đồ
1.1.
Sơ đồ 1.1. Các dòng vốn qua hệ thống tài chính
Tài trợ gián tiếp

Vốn

Người cho vay
vốn
1. Hộ gia đình
2. Doanh nghiệp
3. Chính phủ
4. Nước ngoài

Vốn

Các trung gian tài chính
- Ngân hàng thương mại
- Bảo hiểm, quỹ hưu trí
- Tổ chức nhận tiền gửi và
cho vay
Vốn

Thị trường tài
chính

- Thị trường tiền
tệ-

Vốn

Người đi vay
vốn
1. Hộ gia đình
2. Doanh
nghiệp
3. Chính phủ
4. Nước ngoài
Vốn

Tài trợ trực tiếp
- Thị trường vốn
Như vậy, thị trường tài chính có vai trò hết sức quan trọng trong việc tích tụ,
tập trung, phân phối vốn một cách hiệu quả trong nền kinh tế. Được xem là đặc
trưng cơ bản của thị trường vốn, TTCK là thị trường mà giá cả của chứng khoán
(hàng hoá trên thị trường) chính là giá cả của vốn đầu tư. Vì vậy, TTCK được coi là
hình thức phát triển bậc cao của nền kinh tế thị trường.
1.3. CHỨC NĂNG VÀ VAI TRÒ CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
1.3.1. Chức năng của TTCK






Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế

Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng
Tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán
Đánh giá hoạt động của doanh nghiệp
Tạo môi trường giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô


1.3.2. Vai trò của TTCK
Thực tế phát triển kinh tế ở các quốc gia trên thế giới đã khẳng định vai trò
quan trọng của TTCK trong phát triển kinh tế:
- TTCK cùng với sự vận hành của mình đã tạo ra các công cụ có tính thanh
khoản cao, có thể tích tụ, tập trung và phân phối, chuyển thời hạn của vốn phù hợp
với yêu cầu phát triển của nền kinh tế.
- TTCK tạo điều kiện cho việc tách biệt giữa sở hữu và quản lý doanh nghiệp,
từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động của toàn doanh nghiệp.
- TTCK góp phần thực hiện tái phân phối công bằng hơn, thông qua việc buộc
các tập đoàn gia đình trị phát hành chứng khoán ra công chúng.
- TTCK tạo cơ hội cho Chính phủ có thể huy động được các nguồn tài chính
để phục vụ cho các mục đích của mình mà không tạo áp lực về lạm phát, hơn nữa,
hoạt động của TTCK còn giúp tăng thu ngân sách cho Nhà nước, đồng thời tạo các
công cụ cho việc thực hiện chính sách tài chính tiền tệ của Chính phủ.
- Việc mở cửa TTCK làm tăng tính lỏng và cạnh tranh trên thị trường quốc tế
hay nói khác đi muốn khẳng định đến tính hiệu quả của quốc tế hoá TTCK.
- TTCK cung cấp một dự báo tuyệt vời về các chu kỳ kinh doanh trong tương
lai.
1.4. PHÂN LOẠI THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
1.4.1. Căn cứ vào sự luân chuyển các nguồn vốn
Thị trường chứng khoán được chia thành:
 Thị trường sơ cấp
 Thị trường thứ cấp.
Thị trường sơ cấp (Primary Market)

Thị trường sơ cấp là thị trường mua bán các chứng khoán mới phát hành.
Thị trường thứ cấp (Secondary Market)
Thị trường thứ cấp là nơi giao dịch các chứng khoán đã được phát hành trên
thị trường sơ cấp.


1.4.2. Căn cứ vào phương thức hoạt động của thị trường
Thị trường chứng khoán bao gồm Sở giao dịch chứng khoán (thị trường tập
trung) và thị trường OTC (thị trường phi tập trung).
Sở giao dịch chứng khoán
Tại Sở giao dịch chứng khoán, các giao dịch được tập trung tại một địa điểm;
các lệnh được chuyển tới sàn giao dịch và tham gia vào quá trình ghép lệnh để hình
thành nên phiên giao dịch. Chỉ có các loại chứng khoán đủ tiêu chuẩn niêm yết mới
được giao dịch tại đây.
Thị trường OTC (Over the Counter Market)
Thị trường OTC là thị trường phi tập trung cùng với thị trường tập trung
(Trung tâm giao dịch chứng khoán – Sở giao dịch chứng khoán) tạo nên một thị
trường chứng khoán hoàn chỉnh. Thị trường OTC là một thị trường có tổ chức dành
cho những chứng khoán không niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán.
1.4.3. Căn cứ vào hàng hóa trên thị trường
Thị trường cổ phiếu: là thị trường giao dịch và mua bán các loại cổ phiếu, bao
gồm cổ phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi.
Thị trường trái phiếu: là thị trường giao dịch và mua bán các loại trái phiếu
đã được phát hành, các trái phiếu này bao gồm các trái phiếu công ty, trái phiếu đô
thị và trái phiếu chính phủ.
Thị trường các công cụ chứng khoán phái sinh: là thị trường phát hành và
mua đi bán lại các chứng từ tài chính khác như quyền mua cổ phiếu, chứng quyền,
hợp đồng quyền chọn,…
1.5. CÁC CHỦ THỂ THAM GIA TTCK
1.5.1. Chủ thể quản lý

Chủ thể quản lý có nghĩa vụ bảo đảm cho TTCK hoạt động theo đúng các quy
định của pháp luật, nhằm bảo đảm cho việc mua bán chứng khoán trên thị trường
diễn ra một cách công khai, công bằng, tránh những yếu tố tiêu cực có thể xảy ra, từ
đó bảo vệ lợi ích của người đầu tư.


Ở Việt Nam hiện nay, UBCKNN đang trực thuộc Bộ Tài chính là cơ quan
quản lý cao nhất về chứng khoán và TTCK. Theo đó, UBCKNN sẽ nghiên cứu vạch
kế hoạch, dự thảo các văn bản pháp luật và các thể lệ chế độ về tổ chức và hoạt
động TTCK để trình cấp có thẩm quyền quyết định ban hành. Đồng thời quản lý,
giám sát hoạt động của TTCK, đưa ra các giải pháp hữu hiệu để đảm bảo thị trường
hoạt động tốt. Ngoài UBCKNN, các cơ quan quản lý khác như Ngân hàng Nhà
nước, các Bộ, đặc biệt là Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán cũng có vai trò
rất lớn trong hoạt động quản lý các thành viên tham gia thị trường, và bảo vệ lợi ích
cho các thành viên.
1.5.2. Chủ thể kinh doanh ( Trung gian tài chính )
Các trung gian tài chính là một chủ thể quan trọng của TTCK, TTCK hoạt
động hiệu quả một phần là nhờ sự thủ vai tốt của các trung gian này. Với tư cách là
nhà kinh doanh chứng khoán, họ thực hiện việc mua bán chứng khoán cho chính
bản thân mình nhằm mục tiêu lợi nhuận. Bên cạnh đó, họ còn đóng vai trò là thành
viên hỗ trợ cho hoạt động của thị trường thông qua các nghiệp vụ đại lý bão lãnh
phát hành, tư vấn và môi giới chứng khoán, quản lý danh mục đầu tư. Sự tham gia
của các công ty chứng khoán này đã góp phần làm cho hoạt động của thị trường
diễn ra liên tục, thúc đẩy sự phát triển của thị trường.
1.5.3. Các nhà đầu tư
Chủ thể đầu tư là những người có tiền nhàn rỗi, sử dụng tiền đầu tư vào TTCK
bằng cách thực sự mua các chứng khoán đang được phát hành nhằm hưởng lãi và
lợi nhuận. Chủ thể đầu tư trên thị trường có thể là tổ chức đầu tư hoặc các nhà đầu
tư cá nhân.
1.5.4. Tổ chức phát hành chứng khoán

Là những người huy động vốn bằng cách phát hành và bán các chứng khoán
trên thị trường sơ cấp. Các chủ thể phát hành bao gồm: Chính phủ, các tổ chức tài
chính trung gian khác, và các doanh nghiệp. Trong số đó chủ yếu là Chính phủ và
các doanh nghiệp.
Các chủ thể phát hành tham gia huy động vốn bằng nhiều phương thức khác
nhau nhằm phục vụ cho các mục đích khác nhau.


1.5.5. Các tổ chức phụ trợ
Sự tham gia của các tổ chức phụ trợ giúp cho hoạt động của thị trường diễn ra
trôi chảy, đó là Trung tâm Lưu ký, thanh toán và bù trừ chứng khoán, các công ty
đánh giá hệ số tín nhiệm…
Như vậy, có thể thấy rằng TTCK hoạt động được là nhờ hoạt động của các chủ
thể tham gia. Tuy khác nhau về tính chất, mục tiêu và cách làm, hoạt động của họ
liên đới và bổ sung chặt chẽ cho nhau, nhờ thế tài sản tài chính từ sở hữu của người
này chuyển sang sở hữu của người khác một cách hợp lý và hài hoà để nền kinh tế
hoạt động với những giá trị mới được tạo ra từng giờ, mỗi ngày.
1.6. CÁC TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA THỊ TRƯỜNG
CHỨNG KHOÁN
Mức độ phát triển của TTCK là một khái niệm đa chiều, thường được đo
lường bởi các yếu tố như quy mô thị trường, khung pháp lý (gồm quy định pháp
luật và hệ thống giám sát đối với thị trường chứng khoán), số lượng công ty niêm
yết và khối lượng giao dịch trên thị trường chứng khoán, số lượng các nhà đầu tư,
các tổ chức kinh doanh, dịch vụ chứng khoán, sự phát triển của tổ chức thị trường
và hoạt động quản lý, giám sát thị trường.
1.6.1. Các chỉ tiêu về quy mô thị trường
- Quy mô vốn hóa thị trường (Market capitalization):
Giá trị vốn hoá thị trường của một công ty là thước đo quy mô của một doanh
nghiệp, là tổng giá trị thị trường của doanh nghiệp, được xác định bằng số tiền bỏ ra
để mua lại toàn bộ doanh nghiệp này trong điều kiện hiện tại. Giá trị vốn hoá thị

trường tương đương với giá thị trường của cổ phiếu nhân với số cổ phiếu phổ thông
đang lưu hành. Giá trị vốn hóa của toàn thị trường là tổng giá trị vốn hóa của tất cả
các công ty niêm yết trên thị trường đó.
- Tỷ lệ vốn hóa thị trường so với GDP (Market capitalization ratio):
Vốn hóa tổng của các thị trường chứng khoán hoặc các khu vực kinh tế có thể
được so sánh với các chỉ số kinh tế khác, thường so sánh với GDP. Đây là một tỉ lệ
được sử dụng để xác định xem liệu toàn bộ thị trường có đang bị định giá cao hơn
hoặc thấp hơn giá trị thực hay không.


1.6.2. Khung pháp lý, thể chế chính sách
Kinh nghiệm thế giới cho thấy, để thị trường chứng khoán (TTCK) ra đời phát
triển lành mạnh và ổn định mọi quốc gia đều phải phấn đấu đạt tới các điều kiện: ổn
định kinh tế, chính trị và có đầy đủ điều kiện pháp lý Khung pháp lý là yếu tố cơ
bản được xét đến đầu tiên trong hệ thống những nguyên tắc cơ bản của Cơ sở hạn
tầng tài chính ban hành bởi Ngân hàng thanh toán quốc tế (BIS). Theo đó cơ sở hạ
tầng tài chính tốt cần có một khung pháp lý đầy đủ, rõ ràng, minh bạch, và có khả
năng thực thi.
1.6.3. Niêm yết và giao dịch chứng khoán
Chỉ tiêu này chủ yếu dựa trên số lượng công ty niêm yết trên sàn giao dịch
chứng khoán, khối lượng giao dịch chứng khoán trên 1 lần giao dịch hoặc trong 1
tháng, 1 quý để phân tích.
1.6.4. Hệ thống cơ sở nhà đầu tư
Chỉ tiêu này đánh giá sự phát triển của thị trường chứng khooán dựa trên các
tiêu chí sau:
- Số lượng nhà đầu tư
- Đa dạng hóa nhà đầu tư (ví dụ: cá nhân, tổ chức,...)
1.6.5. Hệ thống các tổ chức kinh doanh dịch vụ chứng khoán
Tổ chức kinh doanh chứng khoán bao gồm công ty chứng khoán, công ty quản
lý quỹ tại Việt Nam.

Chỉ tiêu này đánh giá sự phát triển của thị trường chứng khoán dựa trên các
tiêu chí sau:
- Số lượng các công ty chứng khoán
- Thực trạng hoạt động của các công ty chứng khoán có tốt không?
- Số lượng khách hàng giao dịch,...
1.6.6. Tổ chức thị trường
Chỉ tiêu này đánh giá sự phát triển của thị trường chứng khoán dựa trên các
tiêu chí sau:


- Thị trường hoạt động theo nguyên tắc nào, có đảm bảo tính công khai, minh
bạch hay không?
- Vai trò, vị trí của các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán như thế
nào?,...
1.6.7. Hoạt động quản lý, giám sát thị trường
Chỉ tiêu này đánh giá sự phát triển của thị trường chứng khoán dựa trên các
tiêu chí sau:
- Quy trình quản lý giám sát thị trường đã chặt chẽ chưa? tiến hành đồng bộ
chưa hay chỉ mới tiến hành đơn lẻ ở một vài bộ phận?
- Số lượng giao dịch nội gián tăng hay giảm?
- Chế tài xử phạt vi phạm đã hợp lý chưa?,…


CHƯƠNG 2:
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CHỨNG
KHOÁN VIỆT NAM
2.1. GIỚI THIỆU VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
Thị trường chứng khoán ở Việt Nam ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn
trong quá trình phát triển kinh tế và thúc đẩy quá trình đổi mới các DNNN. Nền
kinh tế Việt Nam được định hướng chuyển sang cơ chế thị trường kể từ Đại hội

Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI năm 1986. Trong quá trình chuyển đổi nền
kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa đặt ra vấn đề huy động vốn cho quá trình phát
triển kinh tế xã hội và thúc đẩy quá trình cổ phần hoá, nâng cao hiệu quả hoạt động
của khu vực kinh tế quốc doanh.
Những cột mốc đánh dấu sự hình thành và phát triển của thị trường chứng
khoán Việt Nam:
Ngày

Sự kiện

1990

Luật Doanh nghiệp được thông qua và có hiệu lực

6/11/1993

Quyết định số 207/QĐ-TCCB của Thống đốc Ngân hàng nhà nước với nhiệm vụ nghiên
cứu, xây dựng đề án và chuẩn bị các điều kiện để thành lập thị trường chứng khoán

29/6/1995

Quyết định số 361/QĐ-TTg thành lập Ban Chuẩn bị tổ chức TTCK giúp Thủ tướng Chính
phủ chỉ đạo chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho việc xây dựng TTCK ở Việt Nam

28/11/1996

Nghị định số 75/CP của Chính phủ thành lập Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước

20/7/2000


Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh khai trương hoạt động

28/7/2000

Phiên giao dịch đầu tiên của Trung tâm Giao dịch
Thành phố Hồ Chí Minh với 2 cổ phiếu có mã giao dịch là REE và SAM

8/3/2005

Giao dịch thứ cấp tại Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội bắt đầu được thực hiện

23/6/2006

Quốc hội khoá XI thông qua Luật chứng khoán là văn bản xác định hành lang pháp lý cao
nhất trong lĩnh vực chứng khoán

8/8/2007

Sở Giao dịch chứng khoán TP. Hồ Chính Minh chính thức được khai trương

2/6/2008

Thị trường trái phiếu chuyên
352/QĐ-UBCK ngày 16/5/2008.

24/6/2009

Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội được khai trương


24/6/2009

Khai trương Thị trường giao dịch chứng khoán công ty đại chúng chưa niêm yết (UPCoM)
với 10 công ty đại chúng đăng ký giao dịch

biệt

hình

thành

theo

Chứng

Quyết

khoán

định

số


2.2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT
NAM
2.2.1. Khung pháp lý, thể chế chính sách
Kể từ khi Luật Chứng khoán được Quốc hội ban hành ngày 29/6/2006 và có
hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2007, đã tạo lập được khuôn khổ pháp lý cao,
đồng bộ và thống nhất cho hoạt động của TTCK, từng bước loại bỏ những mâu

thuẫn, xung đột với các văn bản pháp luật khác có liên quan (về cơ bản thống nhất
với Luật Doanh nghiệp và Luật đầu tư); phù hợp hơn với luật pháp, thông lệ quốc
tế, tạo nền tảng cho TTCKVN khả năng hội nhập với các thị trường vốn quốc tế và
khu vực; tăng cường tính công khai minh bạch cho thị trường và nâng cao khả năng
quản lý giám sát thị trường của cơ quan quản lý nhà nước.
Luật chứng khoán sửa đổi số 62/2010/QH12 ngày 24/11/2010, có hiệu lực thi
hành kể từ ngày 01 tháng 07 năm 2011 với những sửa đổi bổ sung phù hợp hơn với
tình hình thực tế so với Luật chứng khoán ban hành ngày 29/6/2006.
Trong năm qua, UBCKNN đã dự thảo hồ sơ đề nghị xây dựng Luật Chứng
khoán sửa đổi đã được Bộ trình Chính phủ thông qua tại Nghị quyết số 83/NQ-CP
ngày 31/08/2017; trình các cấp có thẩm quyền ban hành nhiều văn bản pháp luật
quan trọng, trong đó có Nghị định số 71/2017/NĐ-CP ngày 6/6/2017 hướng dẫn về
quản trị công ty áp dụng đối với công ty đại chúng và 9 Thông tư hướng dẫn.
Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đã đạt được thì Luật Chứng khoán vẫn còn hẹp về
phạm vi điều chỉnh, mới chỉ bao hàm những nội dung cơ bản và chưa bao quát mọi
hoạt động trên TTCK theo thông lệ quốc tế; một số quy định của văn bản hướng dẫn
Luật Chứng khoán còn chồng chéo, chưa thống nhất với các văn bản pháp luật
khác; việc ban hành các quy định pháp lý nhìn chung đều có độ trễ so với mục tiêu
đề ra, đồng thời, nhiều quy định tại Luật Chứng khoán chưa được hướng dẫn thực
hiện.
2.2.2. Quy mô và hàng hóa (nguồn cung) của thị trường
Quy mô thị trường có bước tăng trưởng mạnh mẽ, vững chắc, từng bước đóng
vai trò là kênh dẫn vốn trung và dài hạn quan trọng, đóng góp tích cực cho sự
nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Trong suốt thời kỳ từ 2000-2005,


vốn hóa thị trường chỉ đạt trên dưới 1% GDP. Quy mô thị trường đã có bước nhảy
vọt mạnh mẽ lên 22,7% GDP vào năm 2006 và tiếp tục tăng lên mức trên 43% vào
năm 2007. Trước biến động của thị trường tài chính thế giới và những khó khăn của
nền kinh tế trong nước, chỉ số giá chứng khoán đã sụt giảm liên tục trong năm 2008

và làm mức vốn hóa thị trường giảm hơn 50%, xuống còn 18%. Khi nền kinh tế
trong nước và thế giới bắt đầu hồi phục nhẹ từ quý II/2009, chỉ số giá chứng khoán
đã bắt đầu tăng trở lại cùng với số lượng các công ty niêm yết trên thị trường cũng
gia tăng nhanh chóng. Giá trị vốn hóa thị trường cổ phiếu tính đến cuối năm 2009
đã đạt 37,71% GDP. Sau giai đoạn này TTCK phát triển ổn định. Quy mô thị trường
tăng lên hàng năm, đến nay, TTCK Việt Nam đã có 731 doanh nghiệp niêm yết; 679
công ty giao dịch trên UPCoM, giá trị vốn hóa đạt 1.947 nghìn tỷ đồng, tương
đương 42,3% GDP năm 2017.
Riêng thị trường trái phiếu Việt Nam, dư nợ trái phiếu đạt 24% GDP, được
đánh giá là có mức tăng trưởng dẫn đầu các nền kinh tế mới nổi tại khu vực Đông
Nam Á và ngày càng khẳng định là kênh huy động vốn quan trọng của Chính phủ.
Hoạt động phát hành huy động vốn trên TTCK thực tế chỉ mới phát sinh từ
năm 2006 trở lại đây. Trong năm 2006, có 44 công ty cổ phần thực hiện việc chào
bán hơn 203 triệu cổ phiếu và đến năm 2007, hoạt động phát hành mới thực sự bùng
nổ, khi có gần 200 đợt phát hành của 192 công ty và 4 ngân hàng thương mại được
đăng ký với UBCKNN với tổng lượng vốn huy động lên đến gần 40.000 tỷ VND.
Trong năm 2008, do sự suy giảm của TTCK, tổng số vốn huy động chỉ đạt hơn
14.300 tỷ đồng thông qua hơn 100 đợt chào bán chứng khoán ra công chúng. Thị
trường hồi phục vào năm 2009 đã tạo điều kiện cho hoạt động phát hành qua thị
trường chứng khoán, đặc biệt là phát hành cổ phiếu. Tổng số vốn huy động qua phát
hành cổ phiếu năm 2009 đã tăng hơn 50% so với 2008, đạt 21.724 tỷ đồng. Đến
nay, quy mô vốn hóa của thị trường đã vượt cả mục tiêu tới năm 2020 khi đạt trên
70% GDP.
Trên thị trường cổ phiếu, chỉ số VN-Index tăng 43% so với cuối năm 2016 –
mức cao nhất gần 10 năm trở lại đây; mức vốn hóa thị trường đạt gần 3,360 ngàn tỷ
đồng, tăng 73% so với cuối năm 2016, tương đương 74.6% GDP, vượt chỉ tiêu đặt


ra cho năm 2020; thanh khoản cải thiện mạnh, quy mô giao dịch bình quân đạt gần
4,981 tỷ đồng/phiên, tăng 63% so với bình quân năm 2016.

Thị trường trái phiếu diễn ra sôi nổi với giá trị niêm yết đạt 1,015 ngàn tỷ
đồng, tăng 8% so với cuối năm 2016 (tương đương 23% GDP); tổng giá trị giao
dịch bình quân đạt hơn 8,890 tỷ đồng/phiên, tăng 38% so với bình quân năm 2016.
Thị trường chứng khoán phái sinh mới chính thức đi vào hoạt động từ tháng
8/2017 nhưng đã chứng tỏ sức hấp dẫn với nhà đầu tư với tổng khối lượng giao dịch
đạt 946,326 hợp đồng tương ứng với tổng giá trị giao dịch theo quy mô danh nghĩa
hợp đồng đạt 80,899 tỷ đồng và có 15,808 tài khoản giao dịch chứng khoán phái
sinh được mở, gấp đôi so với cuối tháng 8/2017 (tháng đầu tiên mở cửa thị trường).
Ngoài ra, công tác cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) đã được gắn
kết với việc huy động vốn từ công chúng đầu tư, góp phần thúc đẩy nhanh việc sắp
xếp khu vực DNNN theo tiến trình cải cách nền kinh tế của Chính phủ và huy động
vốn cho ngân sách nhà nước. Thực tế, việc gắn kết công tác cổ phần hóa DNNN với
công tác tạo hàng cho TTCK là nhân tố chủ đạo quyết định thành công trong việc
tạo ra một nguồn hàng phong phú, góp phần thúc đẩy tăng trưởng quy mô của thị
trường.
Tuy nhiên, hoạt động phát hành của các công ty đại chúng vẫn còn mang tính
tự phát, không hoàn toàn dựa trên nhu cầu sử dụng vốn của doanh nghiệp, làm giảm
hiệu quả sử dụng vốn. Không ít tổ chức phát hành huy động vốn trên TTCK để đầu
tư trở lại vào chứng khoán mà không phải để mở rộng sản xuất kinh doanh, góp
phần tạo nên bong bóng thị trường và rủi ro mất vốn khi thị trường sụt giảm. Hoạt
động chào bán riêng lẻ không có sự điều chỉnh đầy đủ của pháp luật và quản lý của
các cơ quan có thẩm quyền dẫn đến các hành vi lạm dụng, ảnh hưởng đến sự lành
mạnh của TTCK. Bên cạnh đó, việc tuân thủ chào bán ra công chúng phải đăng ký
với UBCKNN còn hạn chế (đặc biệt vào thời kỳ ngay sau khi Luật chứng khoán
mới ban hành) đã tạo nên những rủi ro tiềm ẩn cho TTCK. Hoạt động phát hành
TPCP còn nhiều bất cập, công tác kế hoạch hoá phát hành trái phiếu chưa tốt, cơ
chế phát hành trái phiếu còn nhiều bất cập, chưa có các tổ chức tạo lập thị trường
TPCP đúng nghĩa để đảm bảo thành công cho các đợt phát hành cũng như tạo tính



thanh khoản cho thị trường thứ cấp. Thiếu đường cong lợi suất chuẩn và tổ chức
định mức tín nhiệm.
2.2.3. Niêm yết và giao dịch chứng khoán

Năm 2000, với 02 công ty niêm yết khi đưa TTGDCK TP.HCM vào hoạt
động, TTCK đã có mức tăng trưởng nhanh về giá do nguồn cung hàng hóa khan
hiếm, chỉ số VN Index liên tục tăng và đạt tới đỉnh điểm là 571,04 điểm ngày
25/6/2001. Sau đó, thị trường đã liên tục sụt giảm trong suốt 3 năm sau đó, trước
khi tăng mạnh trở lại vào cuối năm 2003. Năm 2005, sau khi TTGDCK Hà Nội đi
vào hoạt động, tổng số các công ty niêm yết trên cả hai thị trường là 44 công ty với
tổng giá trị niêm yết là 4,94 nghìn tỷ đồng. Tuy nhiên, nhìn chung giai đoạn 20002005 là giai đoạn hoạt động khá trầm của TTCK Việt Nam.
Kể từ năm 2006 đến nay, TTCK Việt Nam bắt đầu khởi sắc và đã có bước tăng
trưởng mạnh mẽ cả về số lượng công ty niêm yết lẫn doanh số giao dịch. Tính đến
cuối năm 2017, đã có 1453 doanh nghiệp niêm yết cổ phiếu trên cả hai SGDCK và
214 chứng chỉ quỹ đại chúng niêm yết, với tổng giá trị niêm yết đạt 432,489 nghìn
tỷ đồng, tăng 66,5 lần so với cuối năm 2016. Tổng giá trị vốn hóa thị trường tính tại
thời điểm ngày 31/12/2017 ước đạt 3,620,551 ngàn tỷ đồng tương đương với gần
38% GDP cả năm 2017.


Thị trường chứng khoán đã có sự tăng trưởng không chỉ về quy mô niêm yết
mà cả về tính thanh khoản của thị trường. Nếu như năm 2005, bình quân có 667.600
cổ phiếu được giao dịch một phiên, thì năm 2006, con số này tăng lên 2,6 triệu đơn
vị (tăng 3,93 lần), tiếp tục tăng lên 9,79 triệu và 18,07 triệu trong hai năm sau đó và
đến nay đã đạt 26,73 triệu. Tốc độ luân chuyển thị trường trong giai đoạn này liên
tục tăng từ 0.43 lần (năm 2006) lên 0.64 lần (năm 2010), 0.68 lần (năm 2012) và
ước đạt 1.13 lần (năm 2016).
Giai đoạn 2015-2016 cũng chứng kiến những kỷ lục của TTCKVN. Tháng
3/2016, các chỉ số chứng khoán đạt được mức cao nhất. VNIndex đạt mức 2,170.67
điểm và HASTC-Index đạt 459.36 điểm. Trong khi đó, xét về khối lượng giao dịch,

tháng 5/2016 là tháng có khối lượng giao dịch lớn nhất, bình quân có 177 triệu cổ
phiếu được giao dịch mỗi phiên, với giá trị đạt 8.270,57 tỷ đồng.
Đồng thời, với sự mở rộng của các thị trường chính thức, có sự quản lý với số
lượng ngày càng lớn các tổ chức đăng ký niêm yết, đăng ký giao dịch là sự thu hẹp
của thị trường tự do (thị trường OTC). Mặc dù còn nhiều loại cổ phiếu giao dịch
trên thị trường OTC, chủ yếu từ các DNNN cổ phần hóa, tuy nhiên, tính thanh
khoản của thị trường này trong năm 2016 đã sụt giảm rõ rệt.
Ngoài ra, nhằm từng bước hoàn chỉnh cấu trúc thị trường, mở rộng thị trường
có tổ chức, có sự quản lý của Nhà nước, từng bước thu hẹp thị trường tự do, hệ
thống giao dịch UpCom trên SGDCK Hà Nội – hệ thống giao dịch cho các chứng
khoán của công ty đại chúng chưa niêm yết – cũng đã được đưa vào vận hành vào
ngày 24/6/2009. Cuối 2016, đã có 334 cổ phiếu được giao dịch trên hệ thống
Upcom với tổng giá trị giao dịch đạt gần 540 tỷ đồng. Giá trị thị trường ngày
31/12/2016 đạt 84.075 tỷ đồng.
Trong giai đoạn 2000-2008, TPCP là hàng hóa niêm yết chủ đạo trên SGDCK
Tp.HCM, tuy nhiên, số lượng không nhiều (40 mã). Trong giai đoạn này, TPCP
tương đối kém thanh khoản, giá trị giao dịch bình quân cũng rất thấp, với khoảng
2% giá trị TPCP niêm yết. Giai đoạn 2010-2014, giá trị trái phiếu niêm yết so với
GDP tăng đáng kể, lên tới 11,3% GDP, đồng thời, nhiều quy định mới được áp dụng
nhằm thúc đẩy giao dịch trái phiếu như: không giới hạn tỷ lệ nắm giữ đối với trái
phiếu của các tổ chức, cá nhân nước ngoài; bỏ biên độ dao động giá; cơ chế giao


dịch thỏa thuận; rút ngắn thời gian thanh toán T+1. Vì vậy, tính thanh khoản của thị
trường cũng tăng dần. Trong thời gian gần đây, do biến động của lãi suất, việc phát
hành TPCP không được như mong muốn, dẫn đến tỷ lệ giá trị niêm yết so với GDP
giảm xuống và chỉ còn khoảng 10,81% vào cuối năm 2016. Tuy nhiên, nếu so sánh
với tổng dư nợ trái phiếu phát hành là 16,9% GDP thì vẫn còn một lượng khá lớn
trái phiếu chưa được đưa vào niêm yết và giao dịch trên các SGDCK. Số trái phiếu
này phần lớn là trái phiếu doanh nghiệp phát hành trong thời gian gần đây.

Trước năm 2006, TPCP được giao dịch đồng thời tại HoSE và HNX. Tuy
nhiên, từ ngày 24/9/2009 đến nay, hệ thống giao dịch TPCP chuyên biệt với gần 130
thành viên, trong đó, có nhiều ngân hàng thương mại và các công ty chứng khoán
lớn đã chính thức hoạt động. Hệ thống này tách biệt khỏi hệ thống giao dịch cổ
phiếu và với nhiều đặc điểm mới, được phát triển phù hợp với các đặc thù của giao
dịch trái phiếu đã khắc phục một số hạn chế của hệ thống giao dịch trái phiếu trước
đây.
Mặc dù đã có những bước phát triển nhảy vọt nhưng thị trường giao dịch cổ
phiếu còn nhiều biến động và hạn chế về tính thanh khoản đặc biệt khi thị trường có
dấu hiệu suy giảm. Bên cạnh đó, hàng hóa niêm yết trên TTCK chưa đa dạng, chất
lượng chưa cao, chưa đáp ứng nhu cầu đầu tư và phòng ngừa rủi ro của nhà đầu tư
(chưa có các sản phẩm phái sinh, các sản phẩm đầu tư tập thể). Các dịch vụ tiện ích
cho nhà đầu tư trên thị trường còn nghèo nàn (chưa có nghiệp vụ bán khống, vay ký
quỹ, bán trước ngày hoàn thất giao dịch), tính minh bạch của thị trường chưa đáp
ứng nhu cầu của công chúng đầu tư.


2.2.4. Hệ thống cơ sở nhà đầu tư (cầu đầu tư)

Số lượng các nhà đầu tư tham gia TTCK ngày càng đông đảo. Số lượng nhà
đầu tư cá nhân và tổ chức, trong nước và nước ngoài đã gia tăng đáng kể. Từ
khoảng gần 3000 tài khoản nhà đầu tư tham gia khi mới mở cửa thị trường vào năm
2000, tính đến nay đã có trên 90.000 tài khoản giao dịch, trong đó số nhà đầu tư tổ
chức trong nước là 2.662, số nhà đầu tư cá nhân trong nước là 807.558, số nhà đầu
tư nước ngoài là hơn 13.000 nhà đầu tư.
Đến nay, hoạt động nhà đầu tư diễn ra sôi nổi, số lượng tài khoản của nhà đầu
tư đạt 1.9 triệu tài khoản, tăng 11% so với cuối năm 2016, trong đó tài khoản nhà
đầu tư nước ngoài tăng 14.3%.
Về hoạt động huy động vốn, đấu giá, tổng mức huy động trên thị trường
chứng khoán ước đạt hơn 224 ngàn tỷ đồng. Huy động qua cổ phần hóa thoái vốn

đạt gần 14.8 ngàn tỷ đồng với tỷ lệ thành công đạt 91%.
Tuy nhiên, hệ thống nhà đầu tư của chúng ta chưa đa dạng, cấu trúc cầu đầu tư
hiện tại chưa bảo đảm sự tăng trưởng một cách bền vững. Hệ thống nhà đầu tư tổ
chức chưa phát triển làm hạn chế sự phát triển của TTCK mà đặc biệt là thị trường
TPCP.


2.2.5. Hệ thống các tổ chức kinh doanh, dịch vụ chứng khoán
Hệ thống các tổ chức kinh doanh, dịch vụ chứng khoán phát triển nhanh về
quy mô và năng lực nghiệp vụ, với hệ thống mạng lưới chi nhánh, phòng giao dịch
trải khắp các tỉnh, thành phố lớn trong cả nước, góp phần giúp công chúng đầu tư
tiếp cận dễ dàng hơn với TTCK. Khi thị trường bắt đầu đi vào hoạt động, toàn thị
trường mới chỉ có 7 công ty chứng khoán và cho đến tận năm 2004 vẫn chưa có một
công ty quản lý quỹ nào. Sau 10 năm hoạt động, tính đến thời điểm hiện tại, đã có
105 công ty chứng khoán và 46 công ty quản lý quỹ đang hoạt động tại Việt Nam.
Số thành viên lưu ký của Trung tâm Lưu ký Chứng khoán (TTLKCK) là 122 thành
viên, trong đó, có 8 ngân hàng lưu ký và 12 tổ chức mở tài khoản trực tiếp.
Số lượng người hành nghề tăng nhanh, phù hợp với sự tăng trưởng của các
Công ty chứng khoán. Từ năm 2007 đến 2018 đã có gần 18400 người hành nghề
được cấp chứng chỉ. Số lượng công ty quản lý quỹ gia tăng nhanh kể từ năm 2006
trở lại đây (năm 2005 mới chỉ có 6 công ty quản lý quỹ thì đến cuối 2016 đã có 247
công ty được cấp phép hoạt động). Nhìn chung, hoạt động kinh doanh của các Công
ty quản lý quỹ là không đồng đều và đang có sự phân hóa rõ rệt.
Tuy nhiên, số lượng các tổ chức kinh doanh và cung cấp dịch vụ cho TTCK
tăng quá nhanh, với năng lực về vốn và chuyên môn còn hạn chế, tiềm ẩn rủi ro hệ
thống và chưa tương xứng với hiệu quả hoạt động chung của thị trường.
2.2.6. Tổ chức thị trường
Mặc dù việc tái cấu trúc lại thị trường bước đầu được thực hiện để khắc phục
sự thiếu đồng bộ và tạo sự phân định của thị trường, nhưng đây vẫn là hạn chế lớn
nhất của TTCK Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Về cơ cấu tổ chức, việc tách các

SGDCK và TTLKCK trở thành pháp nhân độc lập khỏi UBCKNN đã đạt được kết
quả nhất định trong việc tách bạch chức năng quản lý nhà nước trong hoạt động
chứng khoán và chức năng tổ chức vận hành TTCK.
Việc phân chia thị trường tập trung thành hai thị trường bộ phận với cùng một
phương thức giao dịch dựa trên các điều kiện niêm yết về lợi nhuận và vốn điều lệ
trong giai đoạn vừa qua đã góp phần quan trọng mở rộng thị trường có tổ chức, phát
huy tính năng động của các TTGDCK/SGDCK trong việc thu hút các doanh nghiệp
vào niêm yết, đăng ký giao dịch. Tuy nhiên, mô hình này đã và đang làm tăng chi


phí xã hội, chưa phù hợp với xu thế quốc tế là sáp nhập, hợp nhất để tăng sức cạnh
tranh và gây khó khăn cho công tác phát triển chiều sâu để khai thác tối đa hệ thống
công nghệ và đa dạng hóa các loại hình dịch vụ, sản phẩm, đáp ứng nhu cầu khác
nhau của thị trường.
Thị trường giao dịch cổ phiếu chưa niêm yết mới được hình thành dưới hình
thức hệ thống giao dịch Upcom, chưa phát huy được vai trò tạo lập thị trường theo
kiểu thị trường phi tập trung. Ngoài ra, số lượng cổ phiếu đưa vào giao dịch so với
số lượng công ty đại chúng chiếm tỷ trọng quá thấp và thiếu hấp dẫn đối với doanh
nghiệp cũng như công chúng đầu tư. Hiện tại, vẫn còn tồn tại một bộ phận thị
trường cổ phiếu được đăng ký với TTLKCK nhưng chưa có cơ chế giao dịch và
chuyển quyền sở hữu.
2.2.7. Hoạt động quản lý, giám sát thị trường
Trong giai đoạn 2000-2017, công tác quản lý Nhà nước và điều hành TTCK
được thực hiện tương đối linh hoạt, bảo đảm TTCK vận hành an toàn và phát triển
ổn định, không để xảy ra đổ vỡ, xáo trộn lớn ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế –
xã hội của đất nước, từng bước nâng cao năng lực giám sát và cưỡng chế thực thi
quy định của pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư. Hoạt động
quản lý và giám sát TTCK với trọng tâm lấy việc bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư là
nòng cốt; các chính sách quản lý TTCK đã thể hiện mục tiêu tăng cường tính công
khai, minh bạch, từng bước áp dụng các thông lệ về quản trị công ty tốt, các chuẩn

mực về kế toán, kiểm toán quốc tế và khuyến cáo của Tổ chức quốc tế các UBCK
(IOSCO).
Thiết lập cơ chế giám sát TTCK chuyên sâu, chuyên nghiệp theo thông lệ
quốc tế. Công tác thanh tra, giám sát của UBCKNN tập trung vào: giám sát tuân thủ
các tổ chức trung gian thị trường; giám sát tuân thủ các tổ chức phát hành, tổ chức
niêm yết; giám sát tuân thủ của các SGDCK, TTLKCK; bên cạnh đó, giám sát giao
dịch trên TTCK nhằm phát hiện các hành vi lạm dụng thị trường; thanh tra thực
hiện chức năng cưỡng chế thực thi.
Nhờ có sự giám sát chặt chẽ nên số lượng giao dịch nội gián đã giảm hẳn
trong thời gian qua từ trung bình 179 trường hợp/năm trong giai đoạn 2008 – 2014


thì nay đã giảm xuống còn 121 trường hợp/năm. Trong đó, chủ yếu là các sai phạm
do công bố muộn thông tin.
Mặc dù đã đạt được những thành tựu nhất định trong việc quản lý, vận hành và
giám sát thị trường, nhưng công tác quản lý, điều hành TTCK trong thời gian qua
vẫn còn một số tồn tại và hạn chế nhất định như: công tác ban hành các văn bản
pháp luật, các chính sách điều hành thị trường chưa linh hoạt, còn bị động và chậm
so với yêu cầu thực tiễn phát triển của TTCK; công tác quản lý, giám sát và cưỡng
chế thực thi còn nhiều bất cập.
2.3. NHỮNG THÀNH TỰU ĐẠT ĐƯỢC
Sau 20 năm xây dựng và phát triển, ngành Chứng khoán đã vượt qua nhiều
khó khăn, thách thức và đã đạt được những thành tựu to lớn, đáng tự hào, thể hiện
trên một số nội dung sau:
Đã tạo lập được một thể chế TTCK phù hợp với trình độ phát triển của nước
ta; từng bước tiếp cận các chuẩn mực quốc tế và quá trình hội nhập quốc tế và khu
vực.
Đã xây dựng và ngày càng hoàn thiện một hệ thống khuôn khổ pháp lý, cơ chế
chính sách từ Luật, nghị định cho đến các thông tư, quy chế, quy trình phù hợp với
thực tiễn đời sống kinh tế đất nước.

Trong giai đoạn đầu, văn bản pháp lý cao nhất là Nghị định số 48/1988/NĐCP về chứng khoán và TTCK được Chính phủ ban hành ngày 11/07/1988, điều đó
cho phép sớm có 1 khuôn khổ pháp lý ban đầu để khởi động thị trường, đồng thời
bảo đảm được tính linh hoạt, dễ sửa đổi phù hợp với điều kiện ban đầu của TTCK.
Sau đó, ngày 28/11/2003, Chính phủ đã ban hành Nghị định 144/2003/NĐ-CP
về về chứng khoán và TTCK, thay thế Nghị định 48/1988/NĐ-CP với nhiều nội
dung đổi mới, phù hợp với thực tiễn phát triển của thị trường. Đến năm 2007, Luật
Chứng khoán đầu tiên có hiệu lực và năm 2011 Luật Chứng khoán bổ sung và sửa
đổi được áp dụng.
Nhiều đề án quan trọng đã được xây dựng và trình Thủ tướng ban hành như
Chiến lược phát triển TTCK Việt Nam giai đoạn 2011–2020; mô hình tổng thể


TTCK; đề án quản lý vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài; đề án chống khủng hoảng; đề
án tái cấu trúc TTCK...

Đến nay, khung pháp lý đã được xây dựng đồng bộ cho hệ thống cấu trúc thị
trường từ thị trường sơ cấp cho đến thị trường bậc cao là TTCK phái sinh, góp phần
tăng cường tính công khai minh bạch của thị trường, góp phần nâng cao hiệu quả
quản lý, giám sát và cưỡng chế thực thi của cơ quan quản lý; từng bước phù hợp với
hệ thống luật pháp và thông lệ quốc tế, tạo nền tảng cho TTCK Việt Nam có khả
năng hội nhập với các thị trường vốn quốc tế và khu vực.
TTCK trở thành kênh huy động vốn quan trọng của nền kinh tế. Tổng giá trị
vốn huy động qua TTCK từ khi khai trương hoạt động đến nay đã đạt trên 2 triệu tỷ
đồng (trong đó giai đoạn 2011 đến nay, mức huy động vốn qua TTCK đã đạt 1,5
triệu tỷ đồng, tăng gấp 5,2 lần so với giai đoạn 2005-2010), đóng góp bình quân
23% tổng vốn đầu tư toàn xã hội và tương đương gần 60% so với nguồn cung vốn
tín dụng thông qua hệ thống ngân hàng.
Đặc biệt, TTCK ra đời đã tạo điều kiện thuận lợi cho Chính phủ, các doanh
nghiệp huy động vốn cho đầu tư phát triển và mở rộng sản xuất, kinh doanh, trở
thành kênh phân phối chính của hoạt động phát hành trái phiếu chính phủ, huy động

vốn cho ngân sách nhà nước.


Nguồn: Ủy ban Chứng khoán Nhà nước
TTCK cũng đã góp phần tích cực thúc đẩy cổ phần hóa và cải cách doanh
nghiệp nhà nước (DNNN), tăng cường sự giám sát của xã hội đối với hoạt động của
doanh nghiệp. Đến nay, tổng vốn huy động thông qua đấu giá cổ phần hóa trên
TTCK đạt gần 100.000 tỷ đồng, qua đó góp phần thúc đẩy quá trình cải cách đổi
mới DNNN. TTCK cũng hỗ trợ tích cực cho quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân
hàng, giúp các ngân hàng thương mại tăng tổng vốn điều lệ từ 20,6 nghìn tỷ đồng
lên 278,6 nghìn tỷ đồng.

Nguồn: Ủy ban Chứng khoán Nhà nước
Quy mô vốn hóa TTCK có sự tăng trưởng vượt bậc, tăng hàng nghìn lần so
với thời kỳ đầu. Từ mốc ban đầu chỉ có 2 doanh nghiệp niêm yết với vốn hóa thị
trường chỉ đạt 986 tỷ đồng, chiếm 0,28% GDP vào năm 2000, đến nay, TTCK Việt
Nam đã có 695 công ty niêm yết trên 2 Sở GDCK và trên 400 công ty đăng ký giao
dịch trên UPCoM, quy mô niêm yết đã tăng 2.300 lần; vốn hóa thị trường cổ phiếu


×