Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Về vấn đề giải quyết tranh chấp liên quan đến hoạt động mở rộng kinh doanh sang việt nam bằng hình thức xuất khẩu hàng dệt may và đầu tư trực tiếp sản xuất sữa bò

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (746.9 KB, 12 trang )

1

MỤC LỤC
A. BỐI CẢNH TƯ VẤN ........................................................................................... 2
B. XÁC ĐỊNH VẤN ĐỀ TƯ VẤN THEO YÊU CẦU CỦA TẬP ĐOÀN ................. 2
C. NỘI DUNG TƯ VẤN CỤ THỂ ............................................................................ 2
Các tranh chấp có thể phát sinh .......................................................................... 2

I.
II.

Phương thức giải quyết tranh chấp .................................................................. 3

1. Thương lượng, môi giới, trung gian, hòa giải .................................................. 3
2. Tòa án............................................................................................................. 5
3. Trọng tài ......................................................................................................... 6
III.

Luật áp dụng để giải quyết tranh chấp ............................................................. 8

1. Luật tố tụng .................................................................................................... 8
2. Luật nội dung ................................................................................................. 8
D. Ý KIẾN TƯ VẤN CỦA LUẬT SƯ ...................................................................... 9
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................... 12


2

BẢN BÁO CÁO TƯ VẤN
Về vấn đề giải quyết tranh chấp liên quan đến hoạt động mở rộng kinh doanh sang
Việt Nam bằng hình thức xuất khẩu hàng dệt may và đầu tư trực tiếp sản xuất sữa bò


A. BỐI CẢNH TƯ VẤN
-

Bên được tư vấn: Tập đoàn kinh tế ABC của Nhật Bản.

-

Thông tin sự việc: tập đoàn muốn mở rộng kinh doanh sang Việt Nam bằng các
hình thức xuất khẩu hàng nông sản và đầu tư trực tiếp sản xuất sữa bò.

-

Yêu cầu tư vấn: tư vấn về các vấn đề giải quyết tranh chấp liên quan đến các hoạt
động trên.

B. XÁC ĐỊNH VẤN ĐỀ TƯ VẤN THEO YÊU CẦU CỦA TẬP ĐOÀN
(1) Các tranh chấp có thể phát sinh
(2) Các phương thức có thể sử dụng để giải quyết tranh chấp
(3) Luật áp dụng để giải quyết tranh chấp
C. NỘI DUNG TƯ VẤN CỤ THỂ
I.

Các tranh chấp có thể phát sinh

Xuất khẩu và đầu tư trực tiếp (FDI) đều là những hoạt động thương mại quốc tế, do
đó các tranh chấp phát sinh liên quan đến hoạt động xuất khẩu thuộc phạm vi tranh chấp
thương mại quốc tế. Tranh chấp thương mại quốc tế có thể hiểu là các mâu thuẫn, bất
đồng về quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong quan hệ thương mại quốc tế. Dựa vào chủ
thể và đối tượng của tranh chấp, tranh chấp thương mại quốc tế được chia làm hai loại
cơ bản: tranh chấp thương mại quốc tế công và tranh chấp thương mại quốc tế tư.1

Tranh chấp thương mại quốc tế công là tranh chấp thương mại quốc tế giữa các thực
thể công về việc xây dựng và thực thi các chính sách thương mại, trường hợp của tập
đoàn là một tập đoàn kinh tế thực hiện các hoạt động thương mại, do đó không thuộc
phạm vi loại tranh chấp này.
Tranh chấp thương mại quốc tế tư là tranh chấp giữa các thương nhân (bao hàm cả
tranh chấp thương mại quốc tế giữa thương nhân và quốc gia). Nguyên nhân phổ biến
dẫn đến tranh chấp hợp đồng thương mại quốc tế bao gồm: sự khác biệt nhất định về
truyền thống pháp luật và tập quán thương mại, hạn chế trong hiểu biết và tin cậy lẫn
1

Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế, Nxb. Tư pháp, Hà Nội,
2017, tr.13


3

nhau; các điều kiện ngoại cảnh ảnh hưởng đến việc thực hiện hợp đồng của các bên; ý
thức chủ quan của các bên về tuân thủ hợp đồng; sự bất cẩn của một hoặc các bên,…
Hầu hết các tranh chấp thương mại quốc tế tư liên quan tới hợp đồng thương mại quốc
tế, trong trường hợp này có thể phát sinh từ hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế hoặc
hợp đồng đầu tư quốc tế mà tập đoàn ký kết. Các vấn đề trong tranh chấp có thể là về
việc đàm phán, kí kết hợp đồng, do bên mua/bên tiếp nhận đầu tư vi phạm hợp đồng, về
việc vận chuyển hàng hóa, về thanh toán quốc tế bằng phương thức tín dụng chứng từ,…
Trong tranh chấp giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp, mục đích là buộc doanh nghiệp
có hành vi vi phạm (nếu có) chấm dứt hành vi vi phạm và/hoặc bồi thường thiệt hại.
Loại tranh chấp giữa thương nhân và quốc gia thường liên quan đến hình thức đầu
tư quốc tế mà cụ thể là nhà đầu tư nước ngoài phát sinh tranh chấp với chính phủ nước
tiếp nhận đầu tư (hay cơ quan nhà nước có liên quan). Nhà đầu tư nước ngoài (tập đoàn)
là bên khởi kiện; nhà nước (chính phủ) tiếp nhận đầu tư hay cơ quan nhà nước có liên
quan là bên bị kiện. Tranh chấp này phải liên quan đến khoản đầu tư của nhà đầu tư

nước ngoài tại nhà nước (chính phủ) tiếp nhận đầu tư theo quy định của: (i) pháp luật
đầu tư của nước tiếp nhận đầu tư; (ii) hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư hay
chương về đầu tư trong các hiệp định thương mại song phương/khu vực; hoặc (iii) hợp
đồng liên quan đến đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài với cơ quan nhà nước có thẩm
quyền. Trong tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài và chính phủ tiếp nhận đầu tư, mục
đích là xác định có bồi thường thiệt hại do vi phạm (nếu có) của chính phủ tiếp nhận
đầu tư cho nhà đầu tư nước ngoài hay không.
Các sự kiện chủ yếu dẫn đến tranh chấp đầu tư thường là việc Chính phủ nước tiếp
nhận đầu tư tiến hành việc thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư, Giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh; điều chỉnh/không điều chỉnh Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư, Giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh; thu hồi đất; áp thuế đối với chuyển nhượng vốn,…
Hoặc nguyên nhân từ phía nhà đầu tư nước ngoài là thiếu trung thực, thiếu thiện chí khi
thực hiện các thủ tục đầu tư, thiếu hiểu biết pháp luật, vi phạm pháp luật,…
II.

Phương thức giải quyết tranh chấp

1. Thương lượng, môi giới, trung gian, hòa giải
Thương lượng là bước tiếp cận đầu tiên mà các bên sử dụng nhằm giải quyết tranh
chấp nảy sinh trong giao dịch thương mại quốc tế. Mặc dù các tranh chấp thường không


4

được giải quyết dứt điểm bằng phương thức này, nhưng nó giúp các bên nắm bắt được
vấn đề của tranh chấp và hiểu rõ hơn quan điểm của bên kia. Ngoài ra, các bên cũng có
thể nối lại thương lượng vào bất kì giai đoạn nào thích hợp, không liên quan đến việc
phương thức giải quyết khác đang được tiến hành để giải quyết tranh chấp giữa họ, nhằm
mục đích sớm đạt được thoả thuận chấm dứt tranh chấp.2
Môi giới là phương thức giải quyết tranh chấp trong đó bên thứ ba (bên môi giới) trợ

giúp các bên tranh chấp trao đổi, đối thoại, khởi tạo các cuộc đàm phán để thống nhất
giải pháp giải quyết tranh chấp.3 Việc giải quyết tranh chấp thông qua phương thức môi
giới là tự nguyện giữa các bên và bên môi giới phải thích hợp với các bên tranh chấp –
thường là quốc gia, cá nhân có uy tín đối với các bên. Khi các cuộc thương lượng giữa
các bên tranh chấp bắt đầu, vai trò của bên môi giới coi như chấm dứt.
Hòa giải là quá trình trong đó bên thứ ba, do các bên tranh chấp chỉ định, dàn xếp
giữa các bên tranh chấp trước hoặc sau khi họ khởi kiện hoặc sử dụng phương thức trọng
tài.4 Các nỗ lực hoà giải giúp cho các bên thấy được các mặt đối lập của tranh chấp,
nhằm đưa các bên xích lại gần nhau và hướng tới một giải pháp thường đạt được trên cơ
sở sự thoả hiệp của cả hai bên.
Trung gian là hình thức can thiệp của bên thứ ba, với sự chấp thuận của các bên liên
quan trong tranh chấp. Chức năng của người trung gian là đưa ra giải pháp cho tranh
chấp với mong muốn được các bên chấp thuận. Người trung gian sẽ là một cá nhân trung
lập, với kiến thức chuyên sâu liên quan đến lĩnh vực tranh chấp.5
Các phương thức môi giới, trung gian, hòa giải được xác định là phương thức tự
nguyện, có sự chấp thuận của các bên tranh chấp, có thể bắt đầu và kết thúc vào bất kì
thời điểm nào của quá trình giải quyết tranh chấp giữa các bên. Điều 118 của Hiệp định
đối tác kinh tế Việt Nam – Nhật Bản (VJEPA) và Khoản 2 Điều 14 Hiệp định Đầu tưViệt
Nam – Nhật Bản cũng đề cập đến việc áp dụng các phương thức này
 Điều 18 Hiệp định VJEPA

2

Hanoi Law University, Textbook on International Trade and Business Law, The Youth Publishing House, 2017,
tr.1070
3
Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế, tr.18
4
Hanoi Law University, Textbook on International Trade and Business Law, tr.1074
5

Charles Chatterjee và Anna Lefcovitch, Alternative Dispute Resolution: A Practical Guide (2008), tr. 20


5

“1. Một Bên trong tranh chấp có thể yêu cầu tiến hành môi giới, trung gian, hòa giải
ở bất kỳ thời điểm nào. Các Bên tranh chấp có thể bắt đầu và kết thúc trung gian, hòa
giải vào bất kỳ lúc nào theo yêu cầu của bất kỳ Bên nào.
2. Nếu các Bên đồng ý, môi giới, trung gian, hòa giải có thể vẫn tiếp tục cùng với
thủ tục giải quyết tranh chấp bằng Ủy ban trọng tài theo quy định của Chương này.”
 Khoản 2 Điều 14 Tự do, Xúc tiến và Bảo hộ đầu tư Việt Nam – Nhật Bản:
“Bất kỳ tranh chấp nào, trong chừng mực có thể, sẽ được giải quyết thông qua hòa giải
bằng cách thương lượng giữa các bên tranh chấp đầu tư”.
2. Tòa án
Theo phương thức này, các thương nhân đưa tranh chấp giữa họ ra tòa án – cơ quan
tài phán Nhà nước, tòa án nhân danh Nhà nước để xem xét, giải quyết và đưa ra phán
quyết bắt buộc các bên phải tuân thủ và thi hành. Phán quyết của tòa án có thể bị kháng
cáo, kháng nghị để xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm. Đây là phương thức truyền thống
trong giải quyết tranh chấp nói chung và cũng là phương thức duy nhất mang tính quyền
lực nhà nước.6
Thẩm quyền của tòa án (về vụ việc, về lãnh thổ, về cấp xét xử), trình tự và thủ tục
xét xử được pháp luật (điều ước quốc tế có liên quan và pháp luật tố tụng dân sự nước
có tòa án) quy định một cách chặt chẽ. Thẩm quyền của tòa án phát sinh trên cơ sở quy
định pháp luật chứ không phụ thuộc vào các bên tranh chấp. Một tranh chấp thương mại
quốc tế có thể thuộc thẩm quyền xét xử của tòa án nhiều quốc gia khác nhau – xung đột
về thẩm quyền xét xử. Nhìn chung, theo quy định của các điều ước quốc tế và pháp luật
các nước thì cơ sở để xác định thẩm quyền xét xử đối với các tranh chấp thương mại
quốc tế bao gồm thỏa thuận lựa chọn của cá bên tranh chấp và các tiêu chí cụ thể khác.
Đối với thẩm quyền xét xử theo thỏa thuận lựa chọn của các bên tranh chấp, thỏa
thuận này mới chỉ là sự thống nhất giữa các chủ thể mà chưa có giá trị đương nhiên xác

lập thẩm quyền cho tòa án được lựa chọn, bởi nó còn phụ thuộc vào quy định của Tư
pháp quốc tế nước có tòa án được chọn. Thỏa thuận lựa chọn tòa án xét xử chỉ có giá trị
nếu thỏa thuận đó phù hợp với quy định của điều ước quốc tế, pháp luật quốc gia có liên
quan.
6

Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế, tr.21


6

Đối với thẩm quyền xét xử được xác định theo các tiêu chí khác do pháp luật quy
định, thẩm quyền của tòa án phụ thuộc vào quy định của điều ước quốc tế mà quốc gia
đó là thành viên về vấn đề này và pháp luật tố tụng dân sự của quốc gia đó, có hai dạng:
thẩm quyền xét xử chung và thẩm quyền xét xử riêng biệt. Thẩm quyền xét xử chung là
thẩm quyền của tòa án một nước nhất định đối với những vụ việc mà các vụ việc đó
cũng có thể được xét xử bới tòa án nước khác, khi đó thẩm quyền xét xử thuộc về toán
án nước nào phụ thuộc vào viejc nộp đơn khởi kiện của bên chủ thể. Thẩm quyền xét
xử riêng biệt là trường hợp quốc gia sở tại tuyên bố chỉ có tòa án nước họ mới có thẩm
quyền xét xử đối với những vụ việc nhất định, thường liên quan tới an ninh, trật tự quốc
gia hoặc để bảo vệ các cá nhân, pháp nhân một lĩnh vực ngành nghề nhất định.
Phán quyết của tòa án đối với các tranh chấp thương mại quốc tế tư muốn được công
nhận và thi hành ở các nước có liên quan thì cần được các nước đó công nhận và thi
hành.
3. Trọng tài
Trọng tài là hệ thống giải quyết tranh chấp mang tính chất tư. Các bên sử dụng trọng
tài đã quyết định giải quyết tranh chấp của họ bên ngoài bất kỳ hệ thống tư pháp nào.
Trong đa số các trường hợp, trọng tài sẽ đưa đến một quyết định cuối cùng và ràng buộc,
đưa ra một phán quyết có thể thi hành tại toà án quốc gia. Người đưa ra quyết định (trọng
tài viên), nhìn chung là do các bên lựa chọn. Các bên cũng quyết định về việc nên để

cho tiến trình trọng tài sẽ được điều hành bởi một tổ chức trọng tài quốc tế, hay là một
toà trọng tài vụ việc (ad hoc), có nghĩa là sẽ không có sự tham gia của một tổ chức trọng
tài định chế.
Trong trọng tài ‘ad hoc’, các bên lựa chọn trọng tài viên và quy chế trọng tài. Cách
thức thông thường là các bên liên quan lựa chọn một trọng tài viên, tiếp đó, các trọng
tài viên này sẽ chọn ra một trọng tài viên thứ ba. Hội đồng trọng tài ‘vụ việc’ sẽ tự lựa
chọn quy tắc thủ tục trọng tài (ví dụ, Quy tắc trọng tài UNCITRAL). Trọng tài ‘vụ việc’
có thể được thoả thuận trước, hoặc sau khi tranh chấp phát sinh. Trọng tài ‘vụ việc’ giả
định trước về sự thiện chí và tính linh hoạt của các bên. Nó có thể giúp giải quyết tranh
chấp nhanh hơn và giảm chi phí trọng tài hơn so với trọng tài thiết chế.
Trong trọng tài thiết chế, cần phải lựa chọn một trung tâm trọng tài cụ thể và quy tắc
tố tụng trọng tài của trung tâm đó. Trọng tài thiết chế là trọng tài chuyên nghiệp, hoạt


7

động thường xuyên, có điều lệ riêng và có quy chế hoạt động cụ thể. Mỗi tổ chức trọng
tài quy chế đều đưa ra một bản quy tắc tố tụng hướng dẫn trình tự tiến hành trọng tài.
Các tổ chức trọng tài này được gọi dưới các tên như tòa án trọng tài, trung tâm trọng tài
hay hiệp hội trọng tài (Ví dụ Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam – VIAC). Phán quyết
trọng tài được đưa ra bởi trung tâm trọng tài (bao gồm cả phán quyết có tính mặc định)
dường như là có nhiều khả năng được công nhận tại toà án hơn, nếu việc thực thi phán
quyết đó là cần thiết.
Đối với các tranh chấp đầu tư quốc tế, hiện nay, Trung tâm quốc tế về giải quyết
tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài và Nhà nước tiếp nhận đầu tư (ICSID), Phòng
Thương Mại quốc tế (ICC), Tòa trọng tài thường trực Stockholm (SCC) là các tòa trọng
tài thường trực phổ biến trong việc giải quyết các khiếu nại của nhà đầu tư nước ngoài
liên quan đến quốc gia sở tại
Trọng tài thương mại không có thẩm quyền đương nhiên mà trọng tài chỉ được giải
quyết vụ tranh chấp khi có sự thỏa thuận của các bên bằng một văn bản gọi là “thỏa

thuận trọng tài”. Đây là nguyên tắc cơ bản và là nền tảng để xác định thẩm quyền của
trọng tài. Các phiên xét xử của trọng tài không công khai, do đó ngoài nguyên đơn và bị
đơn, trọng tài chỉ triệu tập các đương sự khác khi cần thiết. Phán quyết của trọng tài có
giá trị chung thẩm, nghĩa là Hội đồng trọng tài ra phán quyết thì phán quyết này không
bị xét lại về mặt nội dung, không bị kháng cáo, kháng nghị và có hiệu thi hành với các
bên.
Việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài cũng được quy định trong Khoản 3 Điều
14 Hiệp định Đầu tư Việt Nam – Nhật Bản, theo đó:
“Nếu bất kỳ một tranh chấp đầu tư nào không thể giải quyết được thông qua thương
lượng trong vòng ba tháng kể từ khi nhà đầu tư đề nghị thương lượng bằng văn bản,
theo yêu cầu của nhà đầu tư liên quan, vụ tranh chấp đầu tư sẽ được đệ trình theo một
trong hai cơ chế sau:
(1) giải quyết bằng hòa giải hoặc trọng tài theo những quy định của Công ước
Washington ngày 18 tháng 3 năm 1965 về Giải quyết Tranh chấp Đầu tư giữa
Nhà nước và Công dân của nước khác, nếu Công ước này có hiệu lực giữa các
Bên Ký kết, hoặc giải quyết bằng hòa giải hoặc trọng tài theo các Quy định của


8

Quy chế Bổ sung của Trung tâm Quốc tế Giải quyết Tranh chấp Đầu tư, nếu Công
ước trên không có hiệu lực giữa các Bên Ký kết; hoặc
(2) giải quyết bằng trọng tài theo Quy định về thủ tục Trọng tài của Uỷ ban Luật
Thương mại Quốc tế của Liên hợp quốc, được Uỷ ban Luật Thương mại Quốc tế
cuả Liên hợp quốc thông qua từ ngày 28 tháng 4 năm 1976.”
Điều 119 Hiệp định VJEPA cũng quy định về phương thức trọng tài bằng cách cho phép
các bên gửi yêu cầu thành lập Ủy ban Trọng tài trong trường hợp các bên không thể tiến
hành tham vấn hoặc tham vấn không thành công.
III.


Luật áp dụng để giải quyết tranh chấp

1. Luật tố tụng
Trong trường hợp tranh chấp được giải quyết bằng phương thức xét xử tòa án, các
bên phải tuân theo luật tố tụng được quy định trong pháp luật tại quốc gia của tòa án xét
xử. Thủ tục tố tụng trong quá trình tòa án giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế chính
là thủ tục tố tụng dân sự (có thể được quy định trong Bộ Luật Tố tụng dân sự của các
nước) hoặc có thể còn gồm các quy định riêng biệt do đặc thù của tranh chấp thương
mại (về thời hiệu khởi kiện, thời hạn tố tụng, cơ cấu hội đồng xét xử…).
Trong trường hợp tranh chấp được giải quyết bằng phương thức trọng tài, các bên
tranh chấp có thể tham gia xây dựng thủ tục giải quyết tranh chấp hoặc Hội đồng Trọng
tài sẽ tự lựa chọn quy tắc tố tụng. Thông thường, các trọng tài “ad-hoc” sẽ lựa chọn quy
tắc trọng tài của Liên Hợp Quốc (UNCITRAL Arbitration Rules – 1976), đây được coi
là một quy tắc tố tụng mẫu, còn các trọng tài quy chế sẽ sử dụng quy chế riêng của mình
(ví dụ Quy tắc tố tụng trọng tài VIAC).
2. Luật nội dung
Đối với luật nội dung, trong thương mại quốc tế, luật pháp và thực tiễn đều ghi nhận
các bên có quyền lựa chọn luật áp dụng. Luật áp dụng cho để giải quyết tranh chấp
thương mại quốc tế có thể là luật quốc gia, các điều ước quốc tế về thương mại, tập quán
thương mại quốc tế, hợp đồng mẫu, các nguyên tắc chung về hợp đồng và các học thuyết
pháp lý.
Trong trường hợp các bên không thỏa thuận về luật nội dung áp dụng vào giải quyết
tranh chấp, tòa án hoặc trọng tài sẽ là cơ quan lựa chọn luật áp dụng. Chẳng hạn, Điều


9

14 Luật Trọng tài Thương mại Việt Nam 2010 và Điều 24 Quy tắc Tố tụng Trọng tài
VIAC 2017 đều quy định về vấn đề này như sau:
“Đối với tranh chấp có yếu tố nước ngoài, Hội đồng trọng tài áp dụng pháp luật do

các bên lựa chọn; nếu các bên không có thỏa thuận về luật áp dụng thì Hội đồng trọng
tài quyết định áp dụng pháp luật mà Hội đồng trọng tài cho là phù hợp nhất.
Trường hợp pháp luật Việt Nam, pháp luật do các bên lựa chọn không có quy định
cụ thể liên quan đến nội dung tranh chấp thì Hội đồng trọng tài được áp dụng tập quán
quốc tế để giải quyết tranh chấp nếu việc áp dụng hoặc hậu quả của việc áp dụng đó
không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam”.
D. Ý KIẾN TƯ VẤN CỦA LUẬT SƯ
Tập đoàn và bên tranh chấp nên xem xét các phương thức thương lượng, môi giới,
trung gian, hòa giải trong giai đoạn đầu của tranh chấp, trong trường hợp có thể đạt được
thỏa thuận mà không cần phải sử dụng đến trọng tài hay tòa án thì sẽ tiết kiệm kinh phí,
công sức cũng như ít tổn hại nhất đến mối quan hệ giữa các bên. Tuy nhiên, trong thực
tiễn, các phương thức này hiếm khi được vận dụng trong các tranh chấp thương mại
quốc tế do các bên thường không thể đạt được một thỏa thuận chung và có nhiều bất
đồng khiến tranh chấp càng trở nên căng thẳng. Thông thường, các phương thức này
được áp dụng phù hợp hơn trong giải quyết các tranh chấp liên quan đến môi trường.
Trong các tranh chấp thương mại và đầu tư quốc tế, các phương thức này thường được
kết hợp với các phương thức giải quyết tranh chấp khác, nhằm đáp ứng mong muốn của
các bên.
Giữa hai phương thức giải quyết tranh chấp tại tòa án và tại trọng tài, theo xu hướng
hiện nay với hơn 90% doanh nghiệp lựa chọn trọng tài thương mại như là phương thức
giải quyết tranh chấp tối ưu7, tập đoàn cũng nên lựa chọn phương thức này và nên ghi
rõ điều khoản trọng tài trong hợp đồng. Hai ưu điểm quan trọng nhất của phương thức
trọng tài là tính trung lập và khả năng thi hành của Phán quyết trọng tài.
Thứ nhất, các bên trong hợp đồng có yếu tố quốc tế thường đến từ các quốc gia khác
nhau và do đó, tòa án quốc gia của một bên thường sẽ được coi là “tòa án nước ngoài”
đối với bên còn lại. Việc phải lựa chọn tòa án quốc gia của một bên thường sẽ khiến bên

7

Báo cáo khảo sát các năm 2013, 2015, 2016, 2018 của Đại học London – Queen Mary



10

còn lại có “cảm giác bất lợi” và thực tế là có những bất lợi đúng nghĩa có thể nhìn ra
ngay: Tòa án có thể chỉ sử dụng ngôn ngữ của quốc gia đó (không phải ngôn ngữ hợp
đồng) khiến cho cả quá trình tố tụng tại Tòa án trở thành một quá trình tốn kém thời
gian và tiền bạc của việc dịch hợp đồng, thư từ giữa các bên cũng như các tài liệu liên
quan khác sang ngôn ngữ mà Tòa án đó sử dụng; hoặc Tòa án có thể có những quy tắc
và thủ tục được xây dựng phù hợp với các vấn đề trong nước chứ không phải là các vấn
đề quốc tế; hoặc không có những quy tắc và thủ tục riêng phù hợp với các vấn đề quốc
tế . Phương thức trọng tài cho phép các bên lựa chọn địa điểm trọng tài tại một tổ chức
/quốc gia trung lập bởi một Hội đồng Trọng tài (dù là trọng tài viên duy nhất hay 03
trọng tài viên) được thành lập nên bởi một quy trình cũng nhằm đảm bảo tính trung lập
của hội đồng đó.
Thứ hai, phán quyết trọng tài có giá trị ràng buộc về mặt pháp lý và là phán quyết
cuối cùng – tương đương với bản án có hiệu lực của tòa. Theo đó, phán quyết trọng tài
được công nhận hiệu lực và có giá trị thi hành ngay lập tức trong phạm vi quốc gia và
thế giới (tới năm 2019, đã có 159 quốc gia, vùng lãnh thổ là thành viên của Công ước
New York 1958 về công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài). Trong
khi đó, một bản án của Tòa án quốc gia nếu muốn được công nhận và thi hành ở nước
ngoài cần phụ thuộc vào các điều ước quốc tế cụ thể ký kết giữa quốc gia đó và quốc
gia nơi bản án muốn thi hành.
Một số lí do khác cũng được đề cập khi bàn đến lý do nên chọn trọng tài như (i) tính
linh hoạt bởi quy trình giải quyết tranh chấp được xây dựng phù hợp yêu cầu của các
bên trong từng vụ tranh chấp; (ii) tính bảo mật nhằm bảo vệ bí mật kinh doanh, kế hoạch
cạnh tranh hoặc cũng có thể tránh những tác động tiêu cực từ vụ tranh chấp đối với hoạt
động và uy tín của các bên.
Ngoài ra, phương thức tranh tụng trước toà án thường bao gồm nhiều thủ tục phức
tạp, các bên tranh tụng thường bị lôi kéo vào các trò chơi chiến thuật để trì hoãn các

hoạt động tố tụng, buộc đối thủ của họ phải trả những chi phí không cần thiết hoặc chỉ
đạt được các lợi ích không liên quan đến vụ án. Một thẩm phán có thể áp đặt mức phạt
đối với bên lạm dụng quy trình tố tụng, tuy nhiên, toà án đang quá tải và không thể kiểm
soát tất cả các ứng xử đáng nghi ngờ.


11

Đối với các tranh chấp giữa tập đoàn với các thương nhân khác, tập đoàn nên lựa
chọn Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam – VIAC. Đây là tổ chức độc lập, uy tín và
lâu đời nhất tại Việt Nam về giải quyết tranh chấp bằng trọng tài và hòa giải với đội ngũ
Trọng tài viên có chuyên môn sâu trong nhiều lĩnh vực. VIAC đáp ứng được tối đa
quyền tự do thỏa thuận các bên tranh chấp về: (1) Lựa chọn Trọng tài viên, tiêu chuẩn
trọng tài viên và quốc tịch trọng tài viên; (2) Ngôn ngữ trọng tài (Đối với vụ tranh chấp
có yếu tố nước ngoài và vụ tranh chấp có một bên là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài); (3) Luật áp dụng (Đối với vụ tranh chấp có yếu tố nước ngoài); (4) Địa điểm giải
quyết tranh chấp; (5) Thời gian giải quyết tranh chấp. Quy tắc tố tụng của VIAC minh
bạch và được áp dụng thống nhất, phù hợp với thỏa thuận của các bên tranh chấp. Phán
quyết Trọng tài của VIAC được chuyển thẳng sang cơ quan thi hành án Việt Nam để thi
hành và không cần thủ tục công nhận và thi hành tại Tòa án. Trường hợp thi hành tại
nước ngoài, phán quyết trọng tài của VIAC được thi hành tại trên 150 quốc gia, vùng
lãnh thổ là thành viên của Công ước New York năm 1958 về Công nhận và Thi hành
Phán quyết của Trọng tài nước ngoài.
Đối với tranh chấp giữa tập đoàn với quốc gia, chẳng hạn tranh chấp về hoạt động
đầu tư trực tiếp giữa nhà đầu tư (tập đoàn) với nước tiếp nhận đầu tư (Việt Nam), tập
đoàn có thể cân nhắc lựa chọn Trung tâm quốc tế về giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu
tư nước ngoài và Nhà nước tiếp nhận đầu tư (ICSID) do Nhật Bản đã là thành viên kí
kết Công ước ICSID.



12

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Giải quyết tranh chấp thương mại quốc
tế, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2017.
2. Hanoi Law University, Textbook on International Trade and Business Law, The
Youth Publishing House, 2017.
3. Hanoi Law University, International Investment Law Textbook, Youth
Publishing House, Hanoi, 2017.
4. Luật Trọng tài Thương mại Việt Nam 2010.
5. Quy tắc Tố tụng Trọng tài VIAC 2017.
6. Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam – Nhật Bản (VJEPA).
7. Hiệp định giữa Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Nhật Bản ngày 14
tháng 11 năm 2003 về Tự do, Xúc tiến và Bảo hộ Đầu tư (Hiệp định Đầu tư Việt
Nam – Nhật Bản).



×