Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

ĐƯỜNG LỐI CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.2 KB, 18 trang )

Họ và tên:
Đơn vị: TRƯỜNG THCS HOÀNG HOA THÁM QUẬN TÂN BÌNH
Lớp: H729

ĐỀ CƯƠNG THẢO LUẬN LẦN 2
ĐƯỜNG LỐI, CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG – NHÀ NƯỚC
Câu 1) Thông qua mối quan hệ giữa con người và sự phát triển văn hóa. anh chị hãy cho biết con người Việt
Nam trong bối cảnh hiện nay cần hoàn thiện những giá trị nhân cách văn hóa cốt lõi nào? Vì Sao?
Hội nghị Trung ương lần thứ 9, khóa XI của Đảng đã ra Nghị quyết về xây dựng và phát triển văn hóa, con người
Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Nghị quyết đã nhấn mạnh các quan điểm chỉ đạo về xây
dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam. Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc, thể hiện các đặc trưng dân tộc - nhân văn - dân chủ và khoa học. Xây dựng và phát triển con người
Việt Nam là trọng tâm, là cốt lõi và thực chất của xây dựng, phát triển văn hóa. Hệ giá trị của con người Việt Nam
thống nhất hữu cơ với các đặc trưng của văn hóa đồng thời các giá trị của con người Việt Nam lại là sự thể hiện
sinh động, tiêu biểu nhất các giá trị, sức sống của văn hóa, của bản sắc truyền thống dân tộc, của sự kết hợp hài
hòa truyền thống với hiện đại, dân tộc với thế giới và thời đại.
Diện mạo tinh thần của dân tộc Việt Nam - một dân tộc giàu truyền thống văn hóa và văn hiến được thể hiện tập
trung và nổi bật ở trí tuệ và tâm hồn, đạo đức, nhân cách và lối sống tốt đẹp của con người Việt Nam. Đó là những
con người yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo như Nghị quyết của Đảng đã chỉ ra.
Chỉ như vậy, văn hóa và con người mới thực sự là mục tiêu và động lực của phát triển bền vững và hiện đại hóa
đất nước, mới tạo ra sức mạnh của nguồn lực nội sinh, sức mạnh tổng hợp của đất nước, dân tộc, con người và văn
hóa đưa sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế Việt Nam tới thành công, vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh. Nội sinh của văn hóa như nguồn trữ năng vật chất - tinh thần của cả xã hội, kết hợp với ngoại sinh
được tận dụng nhờ hội nhập quốc tế có hiệu quả, tạo ra nội lực và ngoại lực thúc đẩy phát triển nhanh và bền vững
của Việt Nam. Cả nội sinh lẫn ngoại sinh, cả nội lực lẫn ngoại lực kết hợp lại thành ra nguồn lực tổng hợp như vốn
xã hội để phát triển. Không có nguồn lực nào quan trọng và quý giá bằng nguồn lực con người, bằng nguồn nhân
lực, từ nhân lực hiện hữu bằng sức lao động đã trưởng thành, đang được sử dụng đến nhân lực tiềm tàng, tiềm
năng đang được nuôi dưỡng, đào tạo, nó như “của để dành”, như “vốn dự trữ” cho tương lai. Do đó, vốn người,
“tư bản” người là quan trọng bậc nhất, quyết định nhất vốn xã hội, nhìn từ quan điểm phát triển, từ lăng kính quản
lý xã hội, quản trị doanh nghiệp và sâu xa hơn từ tầm nhìn văn hóa, từ triết lý nhân văn của phát triển văn hóa,
phát triển con người.


Vì lẽ đó, Nghị quyết Trung ương 9, khóa XI xác định rằng, “phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con
người và xây dựng con người để phát triển văn hóa”.
Quan điểm chỉ đạo này cho thấy, mối liên hệ bên trong mật thiết, gắn bó chặt chẽ, không thể tách rời giữa văn hóa
với con người, giữa con người với văn hóa. Về thực chất, phát triển văn hóa là phát triển con người, lấy phát triển
con người là trọng tâm. Phát triển con người không chỉ tạo ra chất lượng nguồn nhân lực để phát triển văn hóa mà
con người với năng lực sáng tạo, trình độ học vấn, tiềm lực trí tuệ, phẩm giá đạo đức, lối sống của nó, tựu trung lại
là sự phát triển và hoàn thiện nhân cách của con người là tính hướng đích, là mục đích, mục tiêu của phát triển văn
hóa. Xét theo quan điểm giá trị thì hệ giá trị Chân - Thiện - Mỹ của văn hóa cũng chính là hệ giá trị phát triển con
người, con người vừa với tư cách là chủ thể mang nhân cách của chính mình, phản ánh những chuẩn mực, yêu cầu
của mẫu nhân cách xã hội vừa với tư cách là chủ thể sáng tạo văn hóa, sản xuất ra văn hóa dưới dạng các sản
phẩm, các giá trị đồng thời còn là chủ thể quản lý, cảm thụ, tiêu dùng văn hóa, thực hiện các hoạt động quảng bá,
giao lưu văn hóa, tiếp xúc và tiếp biến văn hóa để phát triển xã hội, phát triển chính mình. Chỉ có con người mới là
chủ nhân đích thực của sáng tạo văn hóa, cả văn hóa vật chất (vật thể) lẫn văn hóa tinh thần (phi vật thể); cũng chỉ
có con người, từ cấp độ cá nhân - cá thể đến cấp độ xã hội - cộng đồng, dân tộc, rộng nhất là nhân loại, mới tạo
1


dựng nên môi trường văn hóa - xã hội để phát triển văn hóa và phát triển xã hội nói chung, để làm cho hiệu ứng xã
hội của văn hóa (nhất là văn hóa tinh thần), lan tỏa, mở rộng, thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống, nhân lên
sức sống, sức phát triển của con người, của văn hóa, không chỉ những thế hệ người trong một dân tộc - quốc gia,
nền văn hóa của mỗi dân tộc mà còn là sự phát triển của các dân tộc, của các nền văn hóa trong thế giới nhân loại.
Dòng chảy của sáng tạo và phát triển văn hóa là liên tục từ quá khứ đến hiện tại và tương lai. Con đường đi của
phát triển, văn minh, tiến bộ của dân tộc cũng như của thế giới và thời đại là con đường của sáng tạo, phát triển
văn hóa, của hội nhập văn hóa mà trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, không một nước nào có thể ở bên ngoài tiến
trình hội nhập để phát triển.
Biện chứng của mối quan hệ văn hóa với con người, con người với văn hóa là ở tương tác nhân - quả giữa chủ thể
và đối tượng. Con người sáng tạo ra văn hóa và chính văn hóa lại tác động sâu xa, rộng lớn tới phát triển con
người, hoàn thiện nhân cách, nhân tính. Có thể nói, con người là giá trị văn hóa cao nhất, giá trị của mọi giá trị.
Hoàn thiện nhân cách, nhân tính của con người là sứ mệnh của văn hóa, là nỗ lực cao nhất mà sáng tạo văn hóa
cần đạt đến, mà mọi thành quả, thành tựu của văn hóa đều góp phần vào sự bộc lộ các năng lực người, khẳng định

sức mạnh bản chất người của con người trong phát triển, từ cá thể người đến cộng đồng người trong dân tộc và
trong nhân loại. Giáo sư Vũ Khiêu đã từng nhấn mạnh, văn hóa là tất cả những gì cho thấy nhân tính vượt lên trên
thú tính. Hoàn thiện nhân tính, nhân cách con người rõ ràng là thước đo văn hóa. Đây là chỗ nói lên bản chất nhân
văn đích thực của văn hóa, cũng là chỗ phân biệt văn hóa với phản văn hóa, phát triển với phản phát triển. Trong
bản chất của nó, văn hóa chỉ biểu đạt cái tốt đẹp, sự lương thiện và tử tế, sự chính trực và lẽ công bằng, trọng sự
thật và lẽ phải, tôn trọng chân lý khoa học, đạo lý và đạo nghĩa ở đời và làm người. Văn hóa có cốt lõi của nó là
đạo đức, mà đức là gốc của nhân cách. Tiềm lực tư tưởng và trí tuệ là xung lực mạnh mẽ của văn hóa nên khoa học
có mặt trong văn hóa như một hợp phần không thể thiếu, không thể yếu.
Lịch sử văn hóa bao giờ cũng gắn liền với lịch sử của khoa học. Nhân cách trí thức khoa học cũng như nhân cách
nhà văn hóa sáng tạo, đặc biệt là trong lĩnh vực tinh thần - văn học nghệ thuật phải là những đại biểu xứng đáng và
tiêu biểu cho nhân cách của dân tộc mình, thời đại mình. Phát triển giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ ở
tầm quốc sách hàng đầu không chỉ là đột phá để tháo gỡ các điểm nghẽn trong phát triển mà sâu xa hơn, còn là lựa
chọn một định hướng có triển vọng nhất cho phát triển bền vững, từ hiện tại tới tương lai. Bởi lẽ, phát triển bền
vững của đất nước thực chất là phát triển bền vững con người mà muốn vậy, phải đặc biệt chú trọng thực hiện
chiến lược phát triển văn hóa. Chỉ có tạo dựng môi trường xã hội lành mạnh mới có thể tạo ra những con người
mang nhân cách văn hóa, mới sáng tạo, sản sinh ra văn hóa vì con người, vì phát triển. Đúng như điều Mác nói,
nếu con người là sản phẩm của hoàn cảnh thì phải làm cho hoàn cảnh ngày càng có tính người nhiều hơn, và sự
phong phú của mỗi cá nhân (nhân cách) tùy thuộc vào sự phong phú của những mối liên hệ xã hội của nó.
Xây dựng và phát triển văn hóa để hoàn thiện nhân cách con người phải làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh
vực của đời sống, mọi quan hệ xã hội của con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói rõ chủ kiến ấy của mình, văn hóa
không ở bên ngoài mà ở trong kinh tế và chính trị. Văn hóa soi đường cho quốc dân đi. Phải đem văn hóa mà chữa
thói phù hoa, xa xỉ, quan liêu, lãng phí, tham ô, tham nhũng. Cũng phải dùng thực hành văn hóa mà xây dựng đời
sống mới, phát huy dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân. Trong kháng chiến cũng như trong kiến quốc, luôn
luôn cần đến nhân tài và phải có chính sách để bồi dưỡng, phát huy, phát triển nhân tài, biết quý trọng, tin cậy hiền
tài. Không có con người xã hội chủ nghĩa thì không thể xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội được. Do đó, kiến
thiết đất nước, xây dựng nền văn hóa mới phải đi liền với chiến lược con người, Đảng phải coi đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ là công việc gốc của Đảng.
Những luận điểm như thế của Chủ tịch Hồ Chí Minh thuộc về tầm nhìn chiến lược của nhà tư tưởng và nhà văn
hóa kiệt xuất, mà vào lúc này, Đảng ta đang ra sức vận dụng, phát triển. Để phát triển văn hóa và hoàn thiện nhân
cách con người Việt Nam theo đúng quan điểm, mục tiêu, phương hướng, giải pháp mà Đảng đã xác định, trong

tình hình hiện nay của nước ta và trước yêu cầu phát triển mới của đất nước, cần phải tập trung triển khai thực hiện
2


những công việc cụ thể, thiết thực, có ích cho nước, có lợi cho dân, những việc làm thực tế, hợp với ý nguyện của
lòng dân.

Trước hết, phải sử dụng có hiệu quả các nguồn lực vật chất, tinh thần từ công sức, mồ hôi nước mắt, sức sáng tạo
của dân mà có được để phát triển kinh tế, tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho người dân, giải quyết nạn thất
nghiệp đang nhức nhối trong xã hội hiện nay, bởi tình trạng hàng vạn thanh niên sinh viên tốt nghiệp, có học thức
mà không có việc làm. An sinh là cái gốc của ổn định và phát triển, là tiền đề cho phát triển con người và văn hóa.
Thực hành triệt để tiết kiệm, chống lãng phí và đẩy lùi tham nhũng để chăm lo cuộc sống cho người dân, nâng cao
chất lượng cuộc sống và trình độ của dân, từ chăm lo dân sinh, nâng cao dân trí, đảm bảo dân quyền để đi tới dân
chủ. Đó là một tổng hợp chương trình, chính sách phát triển kinh tế, xã hội, đó còn là chính trị, là đường lối, chính
sách chính trị vì dân, cũng là văn hóa trọng dân trọng pháp rất cần trong lúc này, khi lòng dân không yên, do
không ít cán bộ suy thoái, hư hỏng.
Không có văn hóa và văn hóa chính trị nào cao quý hơn khi thực hiện cho được một nguyên tắc, một phương châm
hành động “làm điều lợi cho dân, tránh điều hại tới dân”, có an dân thì mới đo được kết quả của việc trị quốc. Có
quốc thái thì sẽ có dân an. Từ bài học của ông cha ta trong lịch sử đến Di sản cao quý của Chủ tịch Hồ Chí Minh
mà kế thừa, thực hiện và phát triển vào lúc này thì mọi việc lớn và nhỏ phải luôn luôn vì dân, phải coi “dĩ công vi
thượng” là văn hóa đạo đức, văn hóa chính trị hàng đầu trong giáo dục, rèn luyện cán bộ đảng viên, trong chỉnh
đốn Đảng, trong cải cách thể chế, xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Giáo dục đạo đức, đặc
biệt là giáo dục liêm sỉ, lương tâm, danh dự, giáo dục ý thức trách nhiệm đi liền với thực hành đạo đức, lối sống
liêm khiết phải được coi trọng trong văn hóa của Đảng, của các tổ chức công quyền.
Cùng với giáo dục phải siết chặt kỷ luật, kỷ cương, tính tôn nghiêm luật pháp, áp dụng chế tài mạnh mẽ để trừng
phạt tất cả những người, những việc gây hại tới dân. Đó là sức mạnh của văn hóa, của chính trị đảm bảo “quang
minh chính đại” theo chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Những người tốt phải được tôn vinh, những kẻ xấu phải
bị phê phán, lên án, sàng lọc khỏi bộ máy để dân tin, dân tự mình bảo vệ Đảng và chế độ. Sức mạnh của văn hóa
và giá trị nhân cách con người, nhất là văn hóa trong Đảng và nhân cách văn hóa của mỗi cán bộ đảng viên, ở các
cơ quan Đảng, cơ quan Nhà nước và các đoàn thể luôn là chỉ số quan trọng để thuyết phục dân, lấy lại niềm tin của

dân đối với Đảng, với chế độ. Tăng trưởng niềm tin của dân vào lúc này có tác dụng như một động lực phát triển,
nó minh chứng cho sự trong sạch vững mạnh của Đảng từ tác động của văn hóa. Tăng trưởng niềm tin của dân còn
quan trọng và khó khăn hơn nhiều so với tăng trưởng kinh tế.
Đẩy mạnh giáo dục đạo đức từ gia đình đến nhà trường và xã hội, giáo dục lý tưởng, lẽ sống và rèn luyện đạo đức
cho thế hệ trẻ phải được chú trọng, góp phần quan trọng vào công cuộc chấn hưng đạo đức, phát triển văn hóa ở
nước ta.
Câu 2) Thông qua mối quan hệ giữa môi trường văn hóa và sự phát triển văn hóa. anh chị hãy chỉ rõ cần
phải phát triền đồng bộ các môi trường văn hóa nào trong bối cảnh cùa đất nước ta hiện nay? Vì sao?
Tác động của môi trường văn hóa đến môi trường gia đình
Môi trường văn hóa là môi trường tạo nên nhân cách con người. Môi trường văn hóa là điều kiện bên ngoài làm
nên sự hình thành hay tha hóa nhân cách, sự phát triển hay thụt lùi của cá nhân, sự tiến bộ hay lạc hậu của nhóm
xã hội hoặc cộng đồng. Khi đời sống con người với các mặt như phong tục, tập quán, lối sống, xu hướng đạo đức,
ý thức pháp quyền, mặt bằng dân trí, tính năng động hay mức độ bảo thủ của một xã hội được xem như điều kiện,
cơ sở, hoàn cảnh cho sự hình thành nhân cách, phát triển cá nhân, phát triển nhóm hoặc cộng đồng thì đó chính là
môi trường văn hóa.
3


Môi trường văn hóa cũng chính là hạt nhân cơ bản của sự phát triển xã hội. Nếu môi trường văn hóa có ảnh hưởng
lớn đến mỗi người và cộng đồng, thì ngược lại, mỗi người và cộng đồng sẽ có vai trò và trách nhiệm nhất định
trong việc tạo ra, cải tạo hoặc thay đổi môi trường văn hóa, góp phần sự phát triển xã hội nói chung và sự phát
triển của mỗi cá nhân nói riêng.

Ngày nay, trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, môi trường văn hóa ở Việt Nam ngày càng phong phú,
phức tạp. Đó là những hiện tượng và quan hệ văn hóa - xã hội đa dạng, đa chiều và năng động, có khả năng nuôi
dưỡng mọi ý tưởng tốt đẹp, khích lệ mọi lợi thế trong phát triển, sáng tạo, nhưng cũng tạo ra không ít thách thức
và cám dỗ khiến cho bất cứ cá nhân, gia đình, cộng đồng nào cũng phải cảnh giác trước nguy cơ lạc lối, sai lầm.
Trong sự phát triển mạnh mẽ của mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội đất nước cũng còn có những bất cập, trong đó
môi trường văn hóa bị xâm hại, lai căng, thiếu lành mạnh, xuất hiện nhiều hiện tượng trái với thuần phong mỹ
tục… nhất là trong thanh, thiếu niên. Nước ta đang trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội

nhập thế giới ngày càng sâu rộng với nhiều thời cơ thuận lợi và không ít những khó khăn, thách thức. Một trong số
những khó khăn, thách thức đặt ra đối với nước ta lúc này chính là sự suy thoái về phẩm chất, đạo đức, lối sống
của một bộ phận không nhỏ thanh niên trước những tác động mạnh mẽ của mặt trái nền kinh tế thị trường. Thanh
niên nước ta hiện nay về cơ bản được sống, học tập và rèn luyện trong môi trường tốt, được phát huy hết khả năng
và trí tuệ của mình. Nhiều người đã thành danh trên các lĩnh vực và có những đóng góp to lớn vào sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, trong xã hội, thực trạng thanh niên sa vào các tệ nạn xã hội, như ma túy, cờ
bạc, mại dâm, đua xe, trộm cắp,… ngày càng gia tăng. Chính thực trạng đó đã đặt ra những mối quan ngại sâu sắc
đối với từng gia đình và xã hội.
Thời gian qua, chúng ta vẫn chưa thực sự quan tâm đúng mức đến việc chăm lo xây dựng môi trường văn hóa
trong sạch, lành mạnh, tạo điều kiện để bồi dưỡng nhân cách cho thanh niên. Ở nhiều địa phương, các nhà máy,
khu công nghiệp, chung cư cao tầng được đầu tư xây dựng nhiều nhưng những khu vui chơi, giải trí công cộng cho
thanh thiếu niên lại chưa được chú trọng. Hoạt động của các tổ chức Đoàn, Đội nhiều nơi còn kém hiệu quả,
không thu hút được đông đảo thanh niên tham gia… Vì vậy, chúng ta càng ngày càng khó kiểm soát một số biểu
hiện lệch lạc, méo mó về nhân cách của thanh niên hiện nay, như dao động mục tiêu, lý tưởng; thờ ơ với thời cuộc,
vận mệnh quốc gia, dân tộc; sống dựa dẫm, ỷ lại, sống vội, sống gấp, sống thử… thiếu trách nhiệm với bản thân,
gia đình và xã hội. Do đó chúng ta cần phải thẳng thắn thấy được những “hạt sạn” đang xâm nhập mạnh mẽ vào tư
tưởng và hành động của thanh niên hiện nay để có biện pháp loại trừ kịp thời. Để có được thế hệ chủ nhân tương
lai của đất nước có đức, có tài, “vừa hồng, vừa chuyên” thì việc xây dựng môi trường văn hóa gia đình lành mạnh
- môi trường đầu tiên và cũng là môi trường quan trọng nhất mà mỗi cá nhân học hỏi để trưởng thành, là một trong
những giải pháp hữu hiệu và thiết thực nhất hiện nay. Nhưng trước tiên, để có môi trường văn hóa gia đình tốt thì
phải có môi trường văn hóa xã hội tốt. Môi trường văn hóa lành mạnh có vai trò quan trọng đối với việc xây dựng
môi trường văn hóa gia đình, làm cho gia đình thực sự trở thành nhân tố tích cực thúc đẩy thành viên trong gia
đình hoàn thiện nhân cách, kế thừa và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Một môi trường văn hóa
lành mạnh sẽ góp phần giáo dục, rèn luyện nhân cách, lối sống cho con người.
Tác động trở lại của môi trường gia đình đến môi trường văn hóa
Môi trường gia đình là nơi tái xuất những công dân có ích cho xã hội.
Gia đình không chỉ giữ vai trò nền tảng, tế bào của xã hội, mà còn là môi trường quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp
sống, hình thành nhân cách. Gia đình có vai trò quan trọng ảnh hưởng tới số lượng, chất lượng dân số và cơ cấu
dân cư của quốc gia. Gia đình không chỉ dừng lại ở việc duy trì nòi giống, mà quan trọng hơn gia đình phải trở
thành môi trường tốt, đầu tiên để giáo dục nếp sống, hình thành nhân cách cho con người. Gia đình ấm no, bố mẹ

hòa thuận hạnh phúc là điều kiện, môi trường quan trọng trực tiếp tạo nên các thế hệ sau có thể chất tốt cũng như
4


tinh thần tốt, góp phần quan trọng vào chiến lược phát triển nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững
của đất nước.

Gia đình là nơi tiếp thu, giữ gìn và lưu truyền các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Thông qua các câu
chuyện cổ tích, qua các câu ca dao, tục ngữ, cha mẹ, ông bà là những người thầy đầu tiên dạy dỗ, nuôi dưỡng tâm
hồn, phát triển tư duy và từng bước giáo dục hình thành nhân cách cho mỗi con người. Qua lao động, qua việc xử
lý các mối quan hệ hằng ngày, các thành viên lớn tuổi trong gia đình đã truyền thụ cho con trẻ những nét đẹp của
truyền thống gia đình, dòng họ, truyền thống văn hóa dân tộc. Từ đó, mỗi cá nhân dần hình thành nhân cách, được
bồi dưỡng tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, tính cộng đồng, lòng nhân ái, tinh thần tự lực, tự cường, tinh
thần yêu tự do, hòa bình, anh hùng trong công cuộc xây dựng và chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, chăm chỉ cần cù trong
lao động sản xuất… Đảng ta chỉ rõ trong giai đoạn hiện nay để “xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà
bản sắc dân tộc” cần sự chung tay góp sức của toàn xã hội, mà xét đến cùng, đó là trách nhiệm của mỗi gia đình,
mỗi con người cụ thể.
Môi trường gia đình là nơi tốt đẹp nhất để giáo dục con cái biết bảo vệ thiên nhiên, đồng thời là một nét đẹp trong
văn hóa Việt.
Môi trường văn hóa gia đình có quan hệ chặt chẽ với môi trường văn hóa xã hội. Con người sống trong môi trường
nào chịu sự tác động của môi trường đó. Do những tác động của môi trường tự nhiên và điều kiện lịch sử dựng
nước và giữ nước, con người Việt Nam từ xa xưa vốn có truyền thống đoàn kết, tương trợ lẫn nhau. Sự gắn kết của
cá nhân với gia đình (và cao hơn là với làng, xã, Tổ quốc) đã trở thành một trong những giá trị văn hóa cơ bản của
dân tộc Việt Nam. Với con người Việt Nam truyền thống, môi trường gia đình có vai trò hết sức quan trọng. Môi
trường gia đình không chỉ là nơi sinh sống, nuôi lớn mỗi cá nhân về thể chất mà còn là cái nôi nuôi dưỡng tâm
hồn, hình thành nhân cách cho con người. Môi trường gia đình là giá trị cao đẹp mà con người mong muốn hướng
tới. Trong xã hội Việt Nam truyền thống, gia đình hạnh phúc và đáng tự hào là gia đình có sự chung sống của
nhiều thế hệ kiểu “tam đại”, “tứ đại”, “ngũ đại” đồng đường. Trong đó, hạnh phúc gia đình được duy trì trên cơ sở
gắn kết hài hòa của các mối quan hệ giữa các cá nhân, thế hệ với những tình cảm và chuẩn mực đạo đức, giá trị tốt
đẹp.

Trước cơn lốc toàn cầu hóa, bối cảnh mới của thời kỳ hội nhập quốc tế, văn hóa dân tộc nói chung, văn hóa gia
đình nói riêng đang đứng trước những thời cơ lớn lao và những thách thức không nhỏ. Trong hoàn cảnh đó, nhiều
giá trị mới được sinh ra nhưng cũng nhiều giá trị cũ mất đi. Môi trường gia đình là tế bào cơ sở của xã hội, giữ gìn,
phát triển văn hóa gia đình, làm đẹp đẽ, bền chặt mối quan hệ giữa con người và gia đình, là con đường đúng đắn
để bình ổn và phát triển xã hội. Vấn đề đặt ra là xã hội, môi trường gia đình và chính bản thân mỗi cá nhân cần
phải có giải pháp để cân bằng các mối quan hệ: quyền lợi cá nhân và quyền lợi gia đình, cái lợi trước mắt và cái
lợi lâu dài… Cần phải kết hợp hài hòa các giá trị truyền thống với giá trị hiện đại, biết loại bỏ những yếu tố lỗi
thời, giữ lấy những gì là tinh hoa, bản sắc, đồng thời tăng cường giao lưu văn hóa quốc tế để tiếp nhận những giá
trị văn hóa mới. Có như thế mới khắc phục được tác động tiêu cực của quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế với
văn hóa gia đình nói riêng, văn hóa dân tộc nói chung.
Câu 3) Anh chị hãy trình bày những chính sách cụ thể mà Đảng và Nhà nước đang thực hiện nhằm hiện
thực hóa các quan điểm chỉ đạo về phát triển giáo dục và đào tạo trong giai đoạn hiện nay? Liên hệ thực
tiễn thành phố Hồ Chí Minh.
Tiếp tục thực hiện chủ trương đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo (GD & ĐT) mà Nghị quyết Hội nghị
Trung ương 9 khóa XI (NQ 29-NQ/TW) đề ra, Đại hội Đảng lần thứ XII đề ra phương hướng: Giáo dục là quốc
sách hàng đầu. Phát triển GD & ĐT nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh
quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học; phát
5


triển GD & ĐT phải gắn với nhu cầu phát triển KT - XH, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, với tiến bộ khoa học, công
nghệ; phấn đấu trong những năm tới, tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả GD & ĐT; phấn
đấu đến năm 2030, nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực.
Từ đó, Đại hội XII xác định những nhiệm vụ chủ yếu: Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ các yếu tố cơ bản của
GD & ĐT theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học; hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc
dân theo hướng hệ thống giáo dục mở, học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập; đổi mới căn bản công tác quản
lý GD & ĐT, bảo đảm dân chủ, thống nhất; tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các cơ sở GD & ĐT; coi
trọng quản lý chất lượng; phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục, đáp ứng yêu cầu đổi mới GD &
ĐT; đổi mới chính sách, cơ chế tài chính, huy động sự tham gia đóng góp của toàn xã hội, nâng cao hiệu quả đầu
tư để phát triển GD & ĐT.

Để thực hiện chủ trương đó, thời gian tới cần tập trung đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của GD &
ĐT; coi trọng phát triển phẩm chất và năng lực người học. Trong đó tập trung vào một số vấn đề rất cơ bản và
quan trọng là:
Thứ nhất, cần có sự thống nhất trong nhận thức và hành động của toàn Đảng, toàn dân về chủ trương “Giáo dục là
quốc sách hàng đầu”; từ đó, phát huy trí tuệ, huy động nhiều nguồn lực và có sự phối hợp của nhiều cơ quan, ban
ngành và các tổ chức xã hội, trong đó ngành GD & ĐT đóng vai trò chủ đạo. Đây là vấn đề có tính quyết định, bởi
sự nghiệp giáo dục là của toàn dân, là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng. Chừng nào
chưa làm tốt điều này, chừng đó GD & ĐT chưa thực sự trở thành quốc sách hàng đầu như quan điểm của Đảng đã
xác định.
Thứ hai, đổi mới mục tiêu giáo dục để phù hợp với bối cảnh đất nước bước vào thời kỳ mới, đẩy mạnh CNH,
HĐH và hội nhập quốc tế sâu rộng. Mục tiêu phát triển giáo dục của nước ta từ trước đến nay cơ bản là đúng đắn,
nhưng mỗi thời kỳ có những hoàn cảnh, yêu cầu nhiệm vụ khác nhau, nên mục tiêu GD & ĐT cũng phải điều
chỉnh, thay đổi để đáp ứng thực tiễn cuộc sống đặt ra. Nhiệm vụ xây dựng, phát triển đất nước trong thời kỳ mới,
đòi hỏi tiêu chuẩn phẩm chất, năng lực con người cũng có yêu cầu mới; bên cạnh chú ý con người xã hội, con
người công dân, cần hướng tới phát huy cao nhất tiềm năng của mỗi cá nhân; phát triển hài hòa con người cá nhân
và con người xã hội. Từ đó, cần điều chỉnh mục tiêu GD & ĐT theo hướng vừa chú ý phát triển hài hòa con người
xã hội, con người công dân, vừa hướng tới phát huy cao nhất tiềm năng của mỗi học sinh; chú trọng giáo dục cả
phẩm chất và năng lực của người học; bao gồm các phẩm chất chủ yếu, các năng lực chung và các phẩm chất,
năng lực riêng của từng học sinh, năng lực đặc thù môn học; kết hợp hài hòa dạy chữ, dạy nghề và dạy người; chú
trọng giáo dục hướng nghiệp, kỹ năng thực hành, tác phong công nghiệp... Từ đó, sẽ tạo sự thay đổi căn bản về
chất lượng giáo dục. Mục tiêu giáo dục trong chương trình mới phải phù hợp với bối cảnh, trình độ và chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội; trình độ, đặc điểm tâm sinh lý của học sinh Việt Nam; học tập kinh nghiệm và xu hướng
quốc tế.
Thứ ba, đổi mới nội dung, chương trình GD & ĐT theo hướng phải phù hợp, thiết thực với từng cấp học, từng đối
tượng; bảo đảm tính khoa học, cơ bản, hiện đại; nhưng tinh giản, dễ hiểu, lựa chọn những kiến thức có tính ứng
dụng cao; chú trọng các môn khoa học xã hội - nhân văn; đổi mới nội dung, phương pháp dạy - học ngoại ngữ;
chuyển từ nặng về trang bị kiến thức lý thuyết trừu tượng sang nội dung giáo dục gắn với thực tiễn đời sống nhằm
giảm tải kiến thức, giảm áp lực học hành, thi cử cho học sinh; chú trọng yêu cầu vận dụng kiến thức, rèn luyện kỹ
năng sống. Theo đó, Chương trình mới chuyển sang cách tiếp cận năng lực, chú trọng đến mục tiêu phát triển các
phẩm chất của học sinh; không chỉ đòi hỏi học sinh nắm vững những kiến thức, kỹ năng cơ bản mà còn chú trọng

yêu cầu vận dụng kiến thức, kỹ năng vào thực hành, giải quyết các tình huống trong học tập và cuộc sống... Với
cách tiếp cận này, đòi hỏi tất cả các khâu của quá trình dạy - học (nội dung, phương pháp, phương tiện, hình thức
tổ chức, cách kiểm tra, đánh giá, thi cử; cách thức quản lý và thực hiện...) cũng phải thay đổi. Nội dung các môn
6


học cần lựa chọn những gì cần thiết cho việc phát triển phẩm chất và năng lực người học; những tri thức thiết thực,
gần gũi, gắn với đời sống và có thể vận dụng tốt trong thực tế. Cần xác định rõ chuẩn đầu ra của từng cấp học để
biên soạn chương trình và sách giáo khoa các môn học đảm bảo tính thống nhất, liên thông; chú ý tài liệu hỗ trợ
dạy học phù hợp với đặc thù của các địa phương, các đối tượng, nhất là học sinh dân tộc thiểu số và học sinh có
hoàn cảnh khó khăn.
Thứ tư, đổi mới phương pháp dạy và học theo hướng vận dụng các phương pháp giáo dục đa dạng, linh hoạt, phù
hợp với đối tượng và hoàn cảnh, ưu tiên cho thực hành, khuyến khích sáng tạo; phát huy tính tích cực, chủ động,
sáng tạo và vận dụng kiến thức với phương châm “giảng ít, học nhiều”, “học đi đôi với hành”; chú trọng hình thức
tổ chức các hoạt động giáo dục trong và ngoài nhà trường, rèn luyện phương pháp tự học và mong muốn học suốt
đời. Đổi mới phương pháp giáo dục kỹ thuật, đào tạo nghề và giáo dục đại học theo hướng giảm thời lượng dạy lý
thuyết, tăng thời lượng thảo luận và thực hành; gắn đào tạo với nghiên cứu khoa học; chuyển quá trình đào tạo
thành quá trình tự đào tạo; chú trọng rèn luyện năng lực tự học, tự nghiên cứu, kỹ năng nghề nghiệp, kỹ năng làm
việc nhóm.
Thứ năm, đổi mới hình thức và phương pháp thi, kiểm tra và đánh giá kết quả GD & ĐT một cách mạnh mẽ, nhằm
bảo đảm độ tin cậy, chính xác, tính khách quan, trung thực về kết quả học tập của học sinh; làm cơ sở cho việc
điều chỉnh cách dạy, cách học. Xác định đúng mục tiêu kiểm tra, đánh giá phù hợp với đối tượng và yêu cầu; xây
dựng nội dung và hình thức kiểm tra, thi, đánh giá theo chuẩn năng lực; đánh giá được sự tiến bộ của người học.
Đổi mới việc ra đề thi, phương pháp xử lý kết quả và sử dụng kết quả; không chỉ tập trung vào việc xem học sinh
học cái gì mà quan trọng hơn là kiểm tra học sinh đó học như thế nào, có biết vận dụng không; đề bài sẽ yêu cầu
vận dụng tổng hợp kiến thức và kỹ năng của nhiều lĩnh vực, môn học để giải quyết một vấn đề chung, liên quan
nhiều đến thực tiễn.
Thứ sáu, hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng hệ thống giáo dục mở, học tập suốt đời và xây dựng
xã hội học tập; quy hoạch lại mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học gắn với quy hoạch phát triển
kinh tế - xã hội, quy hoạch phát triển nguồn nhân lực. Khuyến khích thành lập viện, trung tâm nghiên cứu và

chuyển giao công nghệ, doanh nghiệp khoa học, công nghệ trong nhà trường; thí điểm chuyển mô hình trường
công lập sang cơ sở giáo dục do cộng đồng, doanh nghiệp quản lý, đầu tư.
Trong năm học này, Sở GD-ĐT TPHCM tiếp tục yêu cầu các trường chuyển quá trình dạy học chủ yếu từ trang bị
kiến thức sang rèn luyện, phát triển toàn diện phẩm chất, năng lực của người học.
Cụ thể, Sở sẽ chỉ đạo tất cả các trường, các lớp đều phải đổi mới phương pháp dạy học trên cơ sở thực hiện đầy đủ
chương trình của Bộ GD-ĐT để học sinh đạt được chuẩn kiến thức, kỹ năng cần thiết. Các nội dung dạy học phải
luôn được cập nhật, không gò bó trong sách giáo khoa hay trong giáo án như thời gian trước đây.
Đáng chú ý, giáo viên các trường tại TPHCM được toàn quyền chủ động về thời gian truyền đạt kiến thức trong
một tiết học để đảm bảo các em học sinh vừa sức tiếp thu kiến thức. Bên cạnh đó giáo viên phải áp dụng các
phương pháp dạy học tích cực giúp học sinh phát huy tính chủ động, sáng tạo của mình.
“Bên cạnh đó, thành phố vẫn luôn quan tâm đến giáo dục mũi nhọn theo định hướng hội nhập quốc tế. Do vậy
chúng tôi kiên trì phát triển chương trình tiếng Anh tăng cường và Tin học tăng cường với các giáo trình cập nhật
thế giới để học sinh thành phố bám sát chuẩn thế giới”, ông Nguyễn Văn Hiếu cho biết thêm.
Với các mô hình STEM, STEAM, trường học tiên tiến, chương trình tích hợp, TPHCM sẽ tiếp tục được đổi mới
theo hướng phù hợp nhất với năng lực tiếp thu của các em học sinh trên địa bàn.
Cũng tại buổi đối thoại, vấn đề được nhiều người dân quan tâm là chất lượng thực chất của các chương trình giáo
dục chất lượng cao theo hướng hội nhập nằm ở đâu và TPHCM chuẩn bị đội ngũ giáo viên như thế nào để đáp ứng
tốt các chương trình này.
7


Trả lời câu hỏi của người dân, đại diện ngành GD-ĐT TPHCM cho rằng tất cả các giáo viên trong chương trình
tiên tiến, tích hợp hay tiếng Anh tăng cường đều phải trải qua quá trình kiểm tra chất lượng chặt chẽ và chất lượng
của các chương trình đào tạo cũng vậy.
Và cùng với việc ngày càng siết chặt chất lượng dạy và học, ngành GD-ĐT TPHCM cho biết sẽ tăng cường hoạt
động ngoài nhà trường giúp học sinh phát huy tư duy, nâng cao tinh thần tự học, tự nghiên cứu và trải nghiệm.
Câu 4) Anh chị hãy trình bày những chính sách cụ thể mà Đảng và Nhà nước đang thực hiện nhằm hiện
thực hóa các quan điểm chỉ đạo về phát triển khoa học và công nghệ trong giai đoạn hiện nay? Liên hệ thực
tiễn thành phố Hồ Chi Minh.
trong Văn kiện Đại hội XII của Đảng, lần đầu tiên khoa học, công nghệ được đưa vào một mục riêng (mục VIPhát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ)[1], không gộp vào với các vấn đề khác như: Giáo dục đào tạo, văn

hóa, môi trường như trong các Văn kiện Đại hội trước. Việc trình bày thành một mục riêng đã cho thấy tầm quan
trọng của khoa học, công nghệ và nhận thức mới của Đảng ta về phát triển khoa học, công nghệ trong giai đoạn
phát triển mới của đất nước.
Vấn đề khoa học, công nghệ luôn được Đảng, Nhà nước quan tâm, coi là quốc sách hàng đầu
Trong tiêu đề mục cũng như trong phần nội dung Văn kiện, Đảng ta thường xuyên sử dụng cụm từ “khoa học,
công nghệ” thay cho “khoa học và công nghệ” như trong các văn kiện Đại hội trước. Thay từ “và” bằng dấu phẩy
trong cụm từ khoa học, công nghệ không chỉ đơn thuần là cách diễn đạt mà nó cho thấy tư duy của Đảng coi khoa
học, công nghệ có quan hệ chặt chẽ với nhau, thâm nhập vào nhau và đôi khi rất khó để tách bạch giữa “khoa học”
và “công nghệ”.
Về nội dung của Văn kiện Đại hội XII của Đảng đã chứa đựng những nhận thức mới về phát triển khoa học, công
nghệ:
Thứ nhất, trong Văn kiện Đại hội XII, lần đầu tiên Đảng ta khẳng định: “Khoa học và công nghệ thực sự là quốc
sách hàng đầu”.[1] Các Văn kiện Đại hội trước, Đảng ta đã khẳng định khoa học và công nghệ là quốc sách hàng
đầu, tuy nhiên, hoạt động khoa học, công nghệ nước ta thời gian qua vẫn chưa thực sự trở thành động lực phát
triển kinh tế - xã hội. Việc huy động nguồn lực của xã hội vào hoạt động khoa học, công nghệ chưa được chú
trọng; đầu tư cho khoa học, công nghệ còn thấp, hiệu quả sử dụng chưa cao. Việc đào tạo, trọng dụng, đãi ngộ cán
bộ khoa học, công nghệ còn nhiều bất cập. Cơ chế quản lý hoạt động khoa học, công nghệ chậm được đổi mới.
Công tác quy hoạch, kế hoạch phát triển khoa học, công nghệ chưa gắn với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội; cơ
chế tài chính còn chưa hợp lý...

Trong Văn kiện Đại hội XII, khi thêm vào hai chữ “thực sự” trước cụm từ “là quốc sách hàng đầu”, Đảng ta muốn
nhấn mạnh sự cần thiết phải phát triển khoa học, công nghệ, đặt ra yêu cầu phát triển khoa học, công nghệ của đất
nước lên một tầm cao mới, khắc phục những yếu kém trong thời gian qua, coi đây là công việc trọng yếu và
thường xuyên của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. “Khoa học, công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu”
cũng có nghĩa là mọi chủ trương, chính sách phát triển đất nước, phát triển kinh tế - xã hội cũng như bảo vệ Tổ
quốc đều phải dựa vào khoa học, công nghệ và thực hiện bằng khoa học, công nghệ; khoa học, công nghệ phải
đứng hàng thứ nhất và đi trước một bước trong mọi chính sách phát triển của Đảng và Nhà nước.
Thứ hai, trong Văn kiện Đại hội XII, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “khoa học và công nghệ là động lực quan trọng
nhất để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại.”[2]
8



Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã chỉ ra các nhân tố tạo thành động lực: hài hòa lợi ích; phát huy
lòng yêu nước, tinh thần dân tộc; phát huy sức mạnh toàn dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa; phát huy nhân tố con
người, vai trò của khoa học - công nghệ... tạo thành động lực tổng hợp để đổi mới và hội nhập. Như vậy, có nhiều
nhân tố tạo thành động lực trong quá trình đổi mới và hội nhập, tuy nhiên, tại Văn kiện Đại hội XII, Đảng ta đã chỉ
ra và khẳng định khoa học, công nghệ là động lực quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại và
“Công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong giai đoạn tới ... lấy khoa học, công nghệ, tri thức và nguồn nhân lực chất
lượng cao làm động lực chủ yếu”.[3] Đây là sự đánh giá đúng đắn, khách quan, khoa học vai trò của khoa học,
công nghệ trên quan điểm, lập trường chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta.

Bởi vì, chỉ có đánh giá đúng đắn vai trò của khoa học, công nghệ mới có chính sách đầu tư đúng đắn và phát huy
tác dụng của nó một cách hiệu quả. Khi coi khoa học, công nghệ là động lực quan trọng nhất để phát triển lực
lượng sản xuất hiện đại tức là Đảng ta đã khẳng định vai trò to lớn của khoa học, công nghệ trong sự phát triển của
lực lượng sản xuất, phương thức tổ chức, quản lý, phân công lao động xã hội và tăng năng suất lao động. Đồng
thời, đó là sự phát triển của các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất, làm cho nền sản xuất tiến từ thủ công lên cơ
khí hoá, tự động hoá, tin học hoá… Từ đó đặt ra nhiệm vụ cấp thiết đối với toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta là
phải làm cho khoa học, công nghệ thật sự trở thành động lực mạnh mẽ phát triển kinh tế - xã hội trong sự nghiệp
đổi mới và xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba, trong Văn kiện Đại hội XII, lần đầu tiên Đảng ta khẳng định: “Xây dựng chiến lược phát triển công nghệ
của đất nước, chiến lược thu hút công nghệ từ bên ngoài và chuyển giao công nghệ từ các doanh nghiệp FDI đang
hoạt động trên đất nước ta.”[4]
Trong bối cảnh môi trường quốc tế cạnh tranh ngày càng gay gắt, công nghệ được xem là công cụ chiến lược để
phát triển kinh tế - xã hội một cách nhanh chóng và bền vững, là bí quyết để mỗi quốc gia phát triển và khẳng định
vị thế trên trường quốc tế. Thực tế này đang đặt ra yêu cầu bức thiết về đổi mới, phát triển công nghệ, nhằm nâng
cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm, tạo được ưu thế cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Nhận thức được yêu cầu
này, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương và chính sách lớn nhằm phát triển công nghệ như: Nghị quyết
Trung ương 2 khóa VIII về định hướng chiến lược phát triển khoa học và công nghệ trong thời kỳ công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nhiệm vụ đến năm 2000, Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ Việt Nam đến năm 2010,
Luật Khoa học và công nghệ, Chương trình quốc gia phát triển công nghệ cao đến năm 2020 và Nghị quyết số 20NQ/TW Hội nghị Trung ương 6 khóa XI về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa,

hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế
Đây là những chính sách, chủ trương lớn về lĩnh vực công nghệ, tuy nhiên, trước yêu cầu phát triển rất nhanh của
lĩnh vực công nghệ trên thế giới, tại Văn kiện Đại hội XII lần này, Đảng đã khẳng định phải: “Xây dựng chiến lược
phát triển công nghệ của đất nước, chiến lược thu hút công nghệ từ bên ngoài và chuyển giao công nghệ từ các
doanh nghiệp FDI đang hoạt động trên đất nước ta”. Đây là một định hướng phát triển lớn và mới về phát triển
công nghệ của đất nước trong thời gian tới.
Phải khẳng định rằng, đây là lần đầu tiên Đảng ta đề ra chủ trương xây dựng chiến lược phát triển công nghệ quốc
gia. Khi chiến lược này được xây dựng và triển khai trong thực tiễn sẽ tạo ra động lực lớn kích thích thích quá
trình đổi mới công nghệ hiện vẫn còn đang rất chậm đổi mới; từ chiến lược này sẽ định hướng cho các chương
trình trọng điểm về công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu, tự động hóa, công nghệ cơ khí 9


chế tạo máy... và chắc chắn sẽ góp phần nâng cao năng lực nội sinh trong một số lĩnh vực công nghệ tiên tiến,
nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả của nhiều ngành kinh tế.
Cũng cần thấy rằng, trong Văn kiện Đại hội XII, lần đầu tiên Đảng đã chỉ ra định hướng “chiến lược thu hút công
nghệ từ bên ngoài và chuyển giao công nghệ từ các doanh nghiệp FDI đang hoạt động trên đất nước ta”. Đây là tư
duy mới và là sự “dũng cảm” nhìn thẳng vào sự thật của Đảng, bởi vì trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, thời
gian đưa kết quả nghiên cứu vào áp dụng và vòng đời công nghệ ngày càng rút ngắn. Lợi thế cạnh tranh đang
thuộc về các quốc gia và các doanh nghiệp biết lợi dụng các công nghệ mới để tạo ra các sản phẩm và dịch vụ mới
đáp ứng nhu cầu đa dạng và luôn thay đổi của khách hàng. Với tiềm lực hùng mạnh về tài chính và khoa học và
công nghệ, các công ty xuyên quốc gia, đa quốc gia đang nắm giữ và chi phối phần lớn thị trường công nghệ tiên
tiến.
Nếu theo tư duy cũ chỉ biết dựa vào năng lực nội sinh của đội ngũ cán bộ khoa học trong nước thì chắc chắn chúng
ta sẽ ngày càng tụt hậu xa hơn về công nghệ so với các nước trong khu vực và thế giới. Chính vì thế, tư duy mới
của Đảng là chúng ta phải có “chiến lược thu hút công nghệ từ bên ngoài và chuyển giao công nghệ từ các doanh
nghiệp FDI đang hoạt động trên đất nước ta”. Đây là cách làm nhanh nhất, ít tốn kém nhất và hiệu quả nhất đối với
nước ta hiện na,y bởi vì phần lớn các hãng công nghệ lớn trên thế giới đã, đang và sẽ có cơ sở sản xuất ở Việt Nam
như: Intel, Microsoft, Samsung, Panasonic, Canon... và họ rất muốn các doanh nghiệp nước ta cùng hợp tác kinh
doanh, sản xuất. Khi hợp tác kinh doanh, sản xuất cùng các doanh nghiệp FDI này, chúng ta sẽ được họ chuyển
giao công nghệ theo hướng cả hai bên cùng có lợi, và như vậy sẽ tiết kiệm được rất nhiều công sức, tiền bạc để

nghiên cứu cơ bản và ứng dụng về công nghệ.
Bám sát các giải pháp tổ chức thực hiện Nghị quyết 16, thời gian qua, TP Hồ Chí Minh đã chủ động nghiên cứu,
đề xuất Trung ương cho phép thành phố được thực hiện thí điểm đối với những vấn đề mới phát sinh mà thực tiễn
thành phố đặt ra trong quá trình phát triển nhưng chưa có quy định, hoặc những quy định hiện hành của Nhà nước
không còn phù hợp. Chẳng hạn về tổ chức bộ máy, từ thực tiễn quản lý, thành phố đã chủ động nghiên cứu, đề
xuất và được Chính phủ chấp thuận cho thành lập Sở Du lịch đầu tiên của cả nước; thí điểm thành lập Ban quản lý
An toàn thực phẩm trong ba năm nhằm thống nhất đầu mối, nâng cao hiệu quả tổ chức thực thi pháp luật về lĩnh
vực này trên địa bàn thành phố.
Một số đề xuất, kiến nghị của thành phố về cơ chế liên kết các vùng kinh tế, trong đó có Vùng kinh tế trọng điểm
phía nam đã được Trung ương ghi nhận, thể chế hóa trong các văn bản mới ban hành về chính sách vùng. TP Hồ
Chí Minh đã triển khai chương trình hợp tác thương mại, kết nối cung - cầu hàng hóa giữa thành phố và các tỉnh,
thành phố thuộc khu vực Đông Nam Bộ, Tây Nam Bộ từ năm 2011; tổ chức ký hợp tác phát triển toàn diện với 36
địa phương trên cả nước.
Thành phố cũng chủ động phối hợp, đề xuất các bộ, ban, ngành Trung ương tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, nhất là
các quy định pháp luật chưa phù hợp thực tiễn quản lý, điều hành trên địa bàn thành phố…
Đồng chí Nguyễn Thiện Nhân, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy TP Hồ Chí Minh đánh giá, các mặt hạn chế
của thành phố đã được Nghị quyết 16 nêu cơ bản có chuyển biến sau 5 năm thực hiện. Tuy nhiên, về tổng thể vẫn
còn những hạn chế, đặc biệt là cơ sở hạ tầng. Giải pháp khung để TP Hồ Chí Minh phát triển nhanh, bền vững hơn
mà Nghị quyết 16 đã chỉ ra vẫn còn nguyên giá trị. Vấn đề quan trọng nhất hiện nay là phải năng động hơn nữa
trong việc tìm những giải pháp khả thi để khai thác tốt nhất tiềm năng, lợi thế của thành phố.
Ngày 19-10 vừa qua, Bộ Chính trị có buổi làm việc với Ban Thường vụ Thành ủy TP Hồ Chí Minh về sơ kết 5
năm thực hiện Nghị quyết 16. Phát biểu ý kiến kết luận buổi làm việc, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng mong muốn
trong thời gian tới, Đảng bộ, nhân dân TP Hồ Chí Minh tiếp tục bám sát những nội dung tư tưởng, thực hiện thật
tốt Nghị quyết 16/NQ-TW của Bộ Chính trị, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ TP Hồ Chí Minh, cũng là cụ thể hóa
Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, tiếp tục nỗ lực vươn lên, đạt nhiều thành tựu to lớn hơn nữa, xây dựng TP Hồ
10


Chí Minh ngày càng giàu đẹp, văn minh, hiện đại, nghĩa tình, đóng góp xứng đáng vào sự phát triển chung của cả
nước. Tổng Bí thư lưu ý, cần lựa chọn một số việc cần làm ngay, bằng chương trình hành động cụ thể, tập trung

vào một số giải pháp, trên cơ sở đó xác định rõ lộ trình, bước đi từ nay đến năm 2020 và sau năm 2020, làm sao
cho phù hợp, khả thi, hiệu quả. TP Hồ Chí Minh cần chủ động phối hợp, tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của các cấp,
các ngành nhằm tăng thêm sức mạnh cho thành phố phát triển. Đồng thời, các ban, bộ, ngành, cơ quan Trung ương
cũng cần quan tâm hỗ trợ để TP Hồ Chí Minh vươn lên mạnh mẽ hơn nữa.
Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tài chính cũng đã làm việc với thành phố để thảo luận nội dung
của dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về cơ chế, chính sách thí điểm phát triển TP Hồ Chí Minh. Cơ chế, chính
sách này được xây dựng trên nguyên tắc đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, tăng tính tự chủ, tăng trách nhiệm của
chính quyền thành phố, được đặt trong mối quan hệ TP Hồ Chí Minh vì cả nước và cả nước vì TP Hồ Chí Minh;
bảo đảm phù hợp khả năng nguồn lực của Nhà nước, huy động đa dạng các nguồn lực xã hội để tập trung phát
triển hạ tầng kinh tế - xã hội của thành phố.
TP Hồ Chí Minh đã, đang và tiếp tục cụ thể hóa phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp được Nghị quyết 16 chỉ ra để
phát triển nhanh hơn, bền vững hơn. Một trong những lĩnh vực đang được thành phố ưu tiên tập trung là tạo đột
phá về giao thông. Với truyền thống đoàn kết, năng động, sáng tạo và bản lĩnh được rèn luyện qua nhiều thời kỳ,
chắc chắn TP Hồ Chí Minh sẽ phát triển nhanh, bền vững hơn trong thời gian tới. Sự phát triển của đô thị lớn nhất
miền nam sẽ tạo đà phát triển cho toàn vùng và cả nước.
Câu 5) Vai trò của chính sách xã hội đối với sự nghiệp xây dựng đất nước hiện nay? Trong các chính sách xã
hội cần thực hiện nhằm giải quyết những vấn đề cấp bách hiện nay, theo anh chị chính sách nào là chìa
khóa then chốt? Vì sao?
Vai trò
Chính sách xã hội là chính sách nhằm giải quyết các vấn đề xã hội của đời sống con người, bao hàm cả việc giải
quyết các khía cạnh xã hội trong quá trình sản xuất, trong hoạt động sản xuất-kinh doanh, trong lĩnh vực kinh tế.
Đầu tư cho xã hội thông qua các chính sách xã hội là đầu tư cho sự phát triển, trước hết là phát triển kinh tế, và
cùng với phát triển kinh tế là phát triển xã hội để phát triển con người. Từ nhận thức đó càng thấy rõ chính sách xã
hội có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng trong toàn bộ hoạt động tổ chức, điều hành và quản lý xã hội, trong việc
giải quyết các vấn đề bức bách hiện nay. Hiệu quả của việc giải quyết các vấn đề thuộc chính sách xã hội không
những góp phần tích cực tạo nên sự ổn định, phát triển lành mạnh các mối quan hệ xã hội mà nó còn thúc đẩy sự
phát triển sản xuất, tăng trưởng kinh tế một cách bền vững, lâu dài. Như vậy, ở bất kỳ thời đại nào, chế độ chính trị
nào, chính sách xã hội cũng đóng vai trò là động lực thúc đẩy sự phát triển xã hội. Mặt khác, không giải quyết
đúng mức cần thiết các vấn đề xã hội và chính sách xã hội thì bản thân con người và xã hội không thể có động lực
để tự phát triển, cũng không có những tiền đề vật chất để thực hiện hoạt động kinh tế.

Chính sách xã hội chỉ trở thành động lực của sự phát triển xã hội nếu đó là những chính sách đúng đắn, thể hiện
được nguyên tắc công bằng, dân chủ và nhân đạo. Những nguyên tắc đó cho chúng ta thấy trung tâm chú ý của xã
hội và đối tượng phục vụ của các chính sách đó là người lao động. Chính sách xã hội giữ vai trò điều hòa các mối
quan hệ giữa lợi ích và trách nhiệm, quyền lợi và nghĩa vụ, cống hiến và hưởng thụ của mỗi cá nhân, tập thể, cộng
đồng, tầng lớp và giai cấp trong xã hội. Chính sách xã hội còn điều hòa các quan hệ giữa người với người, giữa cá
nhân và tập thể, cộng đồng và các giai cấp khác nhau,...
Trong những năm qua, các chính sách an sinh xã hội được tỉnh tổ chức triển khai thực hiện toàn diện, bám sát các
quan điểm tư tưởng nghị quyết Đại hội X, XI của Đảng và Nghị quyết Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh. Các chỉ tiêu
cơ bản về giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, dạy nghề hàng năm đều đạt và vượt kế hoạch đề ra. Các chính
sách ưu đãi đối với người có công, đối tượng xã hội cơ bản đạt được mục tiêu đề ra, góp phần thúc đẩy nhiệm vụ
phát triển kinh tế - xã hội và giữ vững ổn định chính trị, nâng cao đời sống nhân dân trong tỉnh.
11


Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn nhiều hạn chế như: Thông tin về thị trường lao động - việc
làm còn rất hạn chế; chất lượng lao động và năng suất lao động thấp nên khả năng tiếp cận thị trường và cạnh
tranh của lao động còn yếu. Chất lượng đào tạo nghề chưa có bước đột phá để thu hút được sự quan tâm của xã
hội; số lượng các cơ sở dạy nghề còn ít, cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy nghề còn thiếu, cơ cấu ngành nghề đào
tạo còn nhiều bất cập, chủ yếu là đào tạo nghề trình độ sơ cấp và đào tạo nghề thường xuyên, còn trình độ trung
cấp nghề chiếm tỷ lệ rất thấp (chưa tới 2%), cao đẳng nghề hoàn toàn không có ngành nghề đào tạo.
Chính sách xoa đói giảm nghèo là chìa khóa then chốt
1. Khái niệm chính sách xã hội:
Là một loại chính sách nhằm điều chỉnh những quan hệ xã hội của con người, giải quyết những vấn đề xã hội đang
đặt ra và thực hiện bình đẳng, công bằng, tiến bộ xã hội, phát triển toàn diện con người.
2. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO:
- Xóa đói giảm nghèo là chủ trương lớn, nhất quán của Đảng, Nhà nước và là sự nghiệp của toàn dân. Phải huy
động nguồn lực của Nhà nước, của xã hội và của người dân để khai thác có hiệu quả tiềm năng, lợi thế của từng
địa phương, nhất là sản xuất lâm nghiệp, nông nghiệp để xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế - xã hội bền vững.
Cùng với sự đầu tư, hỗ trợ của Nhà nước và cộng đồng xã hội, sự nỗ lực phấn đấu vươn lên thoát nghèo của người
nghèo, hộ nghèo là nhân tố quyết định thành công của công cuộc xóa đói giảm nghèo.

- Công cuộc giảm nghèo nhanh, bền vững đối với các huyện nghèo là nhiệm vụ chính trị trọng tâm hàng đầu, đặt
dưới sự lãnh đạo trực tiếp của cấp ủy Đảng, sự chỉ đạo sâu sát, cụ thể và đồng bộ của các cấp chính quyền, sự phối
hợp tích cực của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân; đồng thời, phải phát huy vai trò làm chủ của người
dân từ khâu xây dựng kế hoạch, đến tổ chức thực hiện, giám sát, đánh giá hiệu quả của Chương trình.
- Cùng với việc tiếp tục thực hiện các chính sách giảm nghèo chung trong cả nước, Trung ương tập trung huy động
các nguồn lực để đầu tư, hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo. Căn cứ vào tinh thần của
Nghị quyết này, các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chọn thêm một số huyện nghèo khác trên địa bàn, nhất
là các huyện có đồng bào dân tộc thiểu số sống tập trung để huy động nguồn lực của địa phương đầu tư hỗ trợ các
huyện này giảm nghèo nhanh và phát triển bền vững.
3. Chính sách xóa đói giảm nghèo:
- Xóa đói giảm nghèo là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta nhằm cải thiện đời sống vật chất và tinh thần
cho người nghèo, thu hẹp khoảng cách về trình độ phát triển giữa các vùng, địa bàn và giữa các dân tộc, nhóm dân
cư. Thành tựu xóa đói giảm nghèo trong những năm qua đã góp phần tăng trưởng kinh tế bền vững và thực hiện
công bằng xã hội, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Tuy nhiên, kết quả giảm nghèo chưa vững chắc, chênh
lệch giàu – nghèo giữa các vùng, nhóm dân cư chưa được thu hẹp, đặc biệt là ở những huyện có tỷ lệ hộ nghèo
cao.
- Những giải pháp đổi mới chính sách giảm nghèo:
+ Đảm bảo cân đối nguồn lực trung hạn cho các chính sách; lựa chọn chính sách ưu tiên; cải cách thủ tục hành
chính, đổi mới phương thức để người dân tham gia xây dựng và tiếp cận chính sách tốt hơn. Tập trung đầu tư cho
địa bàn khó khăn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, thúc đẩy kết nối phát triển kinh tế - xã hội giữa vùng khó khăn với
các vùng phát triển.
+ Nâng cao chất lượng giáo dục phổ cập và có giải pháp để huy động học sinh ra lớp đúng độ tuổi; thay đổi
phương thức đào tạo cử tuyển theo hướng nâng cao chất lượng gắn với hiệu quả sử dụng.
+ Đầu tư cơ sở vật chất, nhân lực để tăng cơ hội tiếp cận các dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe cho người nghèo, đặc
biệt người nghèo đồng bào dân tộc thiểu số, người nghèo ở các vùng khó khăn.
12


+ Tăng cường công tác quản lý nhà nước về giảm nghèo theo hướng ban hành chính sách phải gắn với bố trí
nguồn lực và kết quả đạt được; đổi mới cơ chế điều hành, phân cấp mạnh hơn cho địa phương, trao thêm quyền

cho người nghèo và cộng đồng.
+ Nghiên cứu xây dựng chuẩn nghèo và chính sách giảm nghèo theo phương pháp tiếp cận đa chiều sau 2015.
Ở nước ta hiện nay, việc xoá đói, giảm nghèo đang hướng mạnh tới thu hẹp khoảng cách giàu nghèo. Đây là vấn
đề có liên quan tới công bằng, bình đẳng xã hội, ảnh hưởng tới sự ổn định chính trị. Vấn đề này được nhấn mạnh
trong nhiều văn kiện của Đảng, trở thành hệ thống quan điểm lãnh đạo, chỉ đạo trong quá trình phát triển kinh tế xã hội. Đại hội lần thứ VIII, Đảng ta đã xác định, thực hiện kinh tế thị trường phải “thừa nhận trên thực tế... sự
phân hoá giàu nghèo nhất định trong xã hội”[2], coi đó là một hiện tượng xã hội đang hiện hữu, chi phối đời sống
xã hội. Đại hội chỉ rõ, khuyến khích các tầng lớp nhân dân vươn lên làm giàu, đẩy mạnh xoá đói, giảm nghèo, hạn
chế phân hoá giàu nghèo gắn với mục tiêu “phải luôn luôn quan tâm bảo vệ lợi ích người lao động, vừa khuyến
khích làm giàu hợp pháp, chống làm giàu phi pháp, coi trọng xoá đói giảm nghèo, từng bước thực hiện công bằng
xã hội, tiến tới làm cho mọi người, mọi nhà đều khá giả”[3]. Đại hội lần thứ IX, đã có bước phát triển mới:
“Khuyến khích làm giàu hợp pháp, đồng thời ra sức xoá đói giảm nghèo, tạo điều kiện về cơ sở hạ tầng và năng
lực sản xuất để các vùng, các cộng đồng đều có thể tự phát triển, tiến tới thu hẹp khoảng cách về trình độ phát triển
kinh tế, văn hoá, xã hội”[4]. Đại hội lần thứ X của Đảng tiếp tục chỉ rõ và đề ra mục tiêu cụ thể: “Khuyến khích
mọi người làm giàu theo pháp luật, thực hiện có hiệu quả các chính sách xoá đói, giảm nghèo”, “Kết hợp các mục
tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội trong phạm vi cả nước ở từng lĩnh vực, địa phương; thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển”[5]; phấn đấu đến năm 2010, tỉ lệ hộ nghèo theo chuẩn mới còn 10 11% (năm 2005, tỉ lệ hộ nghèo cả nước còn khoảng 22%). Đặc biệt, trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
2011 - 2020, Đại hội lần thứ XI của Đảng đã đề ra định hướng cơ bản: “Nâng cao thu nhập và chất lượng cuộc
sống của nhân dân. Tạo cơ hội bình đẳng tiếp cận các nguồn lực phát triển và hưởng thụ các dịch vụ cơ bản, các
phúc lợi xã hội. Thực hiện có hiệu quả hơn chính sách giảm nghèo phù hợp với từng thời kỳ; đa dạng hoá các
nguồn lực và phương thức để bảo đảm giảm nghèo bền vững, nhất là tại các huyện nghèo nhất và các vùng đặc
biệt khó khăn. Khuyến khích làm giàu theo pháp luật, tăng nhanh số hộ có thu nhập trung bình khá trở lên. Có
chính sách và các giải pháp phù hợp nhằm hạn chế phân hoá giàu nghèo, giảm chênh lệch về mức sống giữa nông
thôn với đô thị”[6]. Chỉ tiêu phấn đấu cụ thể: “Tỉ lệ hộ nghèo giảm 2%/năm”[7]; dựa trên cơ sở sự định hướng
chiến lược “Tạo môi trường và điều kiện để mọi người lao động có việc làm và thu nhập tốt hơn. Có chính sách
tiền lương và chế độ đãi ngộ tạo động lực để phát triển; điều tiết hợp lý thu nhập trong xã hội. Khuyến khích làm
giàu hợp pháp đi đôi với xoá nghèo bền vững; giảm dần tình trạng chênh lệch giàu nghèo giữa các vùng, miền, các
tầng lớp dân cư”[8].

Như vậy, Đảng ta đã có cách nhìn ngày càng toàn diện và đưa ra những chủ trương, biện pháp thiết thực để xoá
đói, giảm nghèo, hạn chế phân hoá giàu nghèo trên cơ sở tiến hành đồng bộ các giải pháp phát triển cơ sở hạ tầng

gắn liền với phát triển văn hoá - xã hội; chú trọng đẩy mạnh việc thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm an
sinh xã hội, tăng cường trợ giúp với đối tượng yếu thế; tập trung triển khai có hiệu quả các chương trình kinh tế xã hội, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn.
Thực tiễn những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước đã có những chính sách, giải pháp tương đối
đồng bộ, hiệu quả tập trung giải quyết vấn đề xoá đói, giảm nghèo và hạn chế phân hoá giàu nghèo mang tầm quốc
gia được quốc tế ủng hộ và đánh giá cao. Thông qua các chương trình xoá đói giảm nghèo, hàng triệu hộ gia đình,
hàng chục triệu người thoát khỏi đói nghèo, vươn lên làm giàu; góp phần hạn chế phân hoá giàu nghèo, thực hiện
công bằng, bình đẳng và tiến bộ xã hội.
13


Câu 6) Từ lý luận dân tộc cùa chủ nghĩa Mác - Lênin. anh (chị) hãy phân tích những quan điểm của Đảng
về công tác dân tộc? Chính sách dân tộc trong giai đoạn hiện nay cần tập trung hướng đến giải quyết những
vẩn để cốt lõi nào? Vì sao?
những quan điểm của Đảng về công tác dân tộc
Những quan điểm về dân tộc, đoàn kết dân tộc của Đảng và Nhà nước ta là:
- Về dân tộc, đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng nước ta. Đại đoàn kết toàn dân
tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của
Đảng, là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý
nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài; đồng thời là vấn đề cấp bách hiện nay của công
cuộc đổi mới đất nước. Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, yêu thương, tôn trọng và
giúp nhau cùng tiến bộ, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Lấy mục tiêu xây
dựng một nước Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh làm điểm tương đồng, xoá bỏ mặc cảm, định kiến về quá khứ, thành phần giai cấp, chấp nhận
những điểm khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống nhân nghĩa,
khoan dung… để tập hợp, đoàn kết mọi người vào mặt trận chung, tăng cường đồng thuận xã hội.
- Thực hiện bình đẳng giữa các dân tộc là quan điểm nhất quán của Đảng ta trong giải quyết vấn đề dân tộc, chính
sách dân tộc. Các dân tộc có dân số dù ít hay nhiều, ở trình độ phát triển cao hay thấp đều bình đẳng về chính trị,
kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh - quốc phòng, bình đẳng về quyền và nghĩa vụ đối với sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

- Đoàn kết dân tộc phải trên cơ sở lấy mục tiêu xây dựng đất nước Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm điểm tương đồng; tập hợp, đoàn kết mọi
người vào một mặt trận chung, tăng cường đối thoại xã hội, đảm bảo thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, thương yêu, tôn trọng, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
Luôn tôn trọng lẫn nhau về lợi ích, truyền thống, văn hoá, ngôn ngữ, phong tục tập quán của các dân tộc; dân tộc
có trình độ phát triển cao phải có trách nhiệm giúp đỡ dân tộc có trình độ phát triển thấp, vùng kinh tế - xã hội phát
triển phải giúp đỡ vùng kinh tế - xã hội chậm phát triển, nhằm đảm bảo các dân tộc có điều kiện phát triển toàn
diện, tiến kịp trình độ phát triển chung của cả nước. Kiên quyết đấu tranh với mọi âm mưu chia rẽ đoàn kết dân
tộc; tránh tư tưởng kỳ thị dân tộc, tư tưởng ỷ lại trông chờ vào sự hỗ trợ của Trung ương và tương trợ của dân tộc
khác.
+ Phát triển toàn diện chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh - quốc phòng ở vùng dân tộc và miền núi, gắn
tăng trưởng kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội, thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước.
+ Ưu tiên đầu tư phát triển kinh tế - xã hội các vùng dân tộc, khai thác có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của từng
vùng, đi đôi với bảo vệ bền vững môi trường sinh thái, phát huy nội lực, tinh thần tự lực, tự cường của đồng bào
các dân tộc.
+ Công tác dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của các cấp,
các ngành, của toàn bộ hệ thống chính trị.
Năm quan điểm nêu trên vừa cơ bản, vừa có giá trị lâu dài trong công tác dân tộc ở nước ta, đòi hỏi phải nắm vững
và quán triệt thực hiện chặt chẽ, nhất quán trong giải quyết vấn đề dân tộc, nhất là các cơ sở có nhiều dân tộc thiểu
số.
14


Giải quyết vấn đề cốt lõi
Trong thời kỳ mới, Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện chính sách dân tộc, đoàn kết dân tộc như sau:
- Đẩy mạnh công tác xoá đói, giảm nghèo, nâng cao mức sống của đồng bào các dân tộc thiểu số, trọng tâm là
đồng bào vùng cao, vùng sâu, vùng xa, khu vực biên giới. Giúp đồng bào các dân tộc khắc phục tình trạng thiếu
đất sản xuất, nhà ở tạm bợ, thiếu nước sinh hoạt, nâng cấp cơ sở hạ tầng, định canh, định cư, xây dựng khu kinh tế
mới ở khu vực biên giới, xoá nghèo nhanh và bền vững.

- Củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở vùng dân tộc thiểu số. Kiện toàn, củng
cố, nâng cao năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng, đẩy mạnh phát triển đảng viên; nâng cao năng lực quản lý
Nhà nước của bộ máy chính quyền các cấp, vai trò tập hợp quần chúng của mặt trận và các đoàn thể. Kiên quyết
khắc phục tình trạng cán bộ quan liêu, xa dân; thực hiện tốt phương châm “gần dân, hiểu dân, nghe dân nói, nói
dân hiểu, làm dân tin”.
- Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc ở vùng các dân tộc thiểu số,
phát huy sức mạnh tại chỗ, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu và hành động lợi dụng dân tộc, tôn giáo của các thế lực
thù địch; tăng cường công tác đảm bảo an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, không để xảy ra “điểm nóng” trên
các địa bàn chiến lược, trọng điểm: Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ; thực hiện tốt chủ trương xây dựng phát
triển các khu kinh tế - quốc phòng ở khu vực biên giới.
- Thông qua các chương trình phát triển kinh tế - xã hội và chính sách cụ thể đối với các vùng, các dân tộc để động
viên đồng bào phát huy nội lực, ý chí tự lực, tự cường, tinh thần vươn lên trong phát triển kinh tế, xoá đói, giảm
nghèo, nâng cao dân trí, phòng chống và khắc phục hậu quả thiên tai, cứu hộ, cứu nạn, xây dựng đời sống ở khu
dân cư, xây dựng bản làng văn hoá.
Câu 7) Vì sao tôn giáo còn tồn tại dưới chủ nghĩa xã hội? Để bảo đảm thực hiện tốt chính sách tôn giáo,
chúng ta cần tuân thủ những nguyên tắc nào?
Nguyên nhân tồn tại của tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội Các tôn giáo vẫn còn tồn tại lâu dài
trong các nước xã hội chủ nghĩa là do các nguyên nhân chủ yếu sau đây:

- Nguyên nhân nhận thức: Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và trong chếđộ xã hội chủ nghĩa trình độ dân
trí của nhân dân chưa thật cao; nhiều hiện tượng tự nhiên và xã hội đến nay khoa học chưa giải thích được. Hiện
nay, nhân loại đã đạt được những thành tựu to lớn về khoa học và công nghệ, với những tiến bộ vượt bậc của công
nghệ thông tin, sinh học, vật liệu mới... đã giúp con người có thêm những khả năng để nhận thức xã hội và làm
chủ tự nhiên. Song, thế giới khách quan là vô cùng, vô tận, tồn tại đa dạng và phong phú, nhận thức của con người
là một quá trình và có giới hạn, thế giới còn nhiều vấn đề mà hiện tại khoa học chưa thể làm rõ. Những sức mạnh
tự phát của tự nhiên, xã hội đôi khi rất nghiêm trọng còn tác động và chi phối đời sống con người. Do vậy, tâm lý
sợ hãi, trông chờ, nhờ cậy và tin tưởng vào Thần, Thánh, Phật... chưa thể gạt bỏ khỏi ý thức của con người trong
xã hội, trong đó có nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa.

- Nguyên nhân tâm lý: Tôn giáo đã tồn tại lâu đời trong lịch sử loài người, ăn sâu vào trong tiềm thức của nhiều

người dân. Trong m ối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, thì ý thức xã hội bảo thủ hơn so với tồn tại xã
hội, trong đó tôn giáo lại là một trong những hình thái ý thức xã hội bảo thủ nhất. Tín ngưỡng, tôn giáo đã in sâu
vào đời sống tinh thần, ảnh hưởng khá sâu đậm đến nếp nghĩ, lối sống của một bộ phận nhân dân qua nhiều thế
hệđến mức trở thành một kiểu sinh hoạt văn hoá tinh thần không thể thiếu của cuộc sống. Cho nên, dù có thể có
15


những biến đổi lớn lao về kinh tế, chính trị, xã hội... thì tín ngưỡng, tôn giáo cũng không thayđổi ngay theo tiến độ
của những biến đổi kinh tế, xã hội mà nó phản ánh.

- Nguyên nhân chính trị - xã hội: Trong các nguyên tắc tôn giáo có những điểm còn phù hợp với chủ nghĩa xã hội,
với đường lối chính sách của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Đó là mặt giá trịđạo đức, văn hóa của tôn giáo, đáp ứng
được nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Dưới chủ nghĩa xã hội, tôn giáo cũng có khả năng tự biến đổi
để thích nghi theo xu hướng "đồng hành với dân tộc" sống "tốt đời, đẹp đạo", "sống phúc âm giữa lòng dân tộc"...
Nhà nướckhông ngừng nâng cao địa vị, tính tích cực xã hội của những người có đạo bằng cách tạo điều kiện để họ
tham gia ngày càng nhiều vào các hoạt động thực tiễn. Trên cơ sởđó, nhà nước xã hội chủ nghĩa làm cho người có
đạo hiểu rằng, niềm tin tôn giáo chân chính không đối lập với chủ nghĩa nhân đạo xã hội chủ nghĩa, và chủ nghĩa
xã hội đang hiện thực hoá lý tưởng của chủ nghĩa nhân đạo trong cuộc sống của mỗi người dân. Cuộc đấu tranh
giai cấp vẫn đang diễn ra dưới nhiều hình thức vô cùng phức tạp; trong đó, các thế lực chính trị vẫn lợi dụng tôn
giáo để phục vụ cho mưu đồ chính trị của mình. Mặt khác, những cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột dân tộc, sắc
tộc, tôn giáo, khủng bố, bạo loạn, lật đổ... còn xảy ra ở nhiều nơi. Nỗi lo sợ về chiến tranh, bệnh tật, đói nghèo...
cùng với những mối đe dọa khác là điều kiện thuận lợi cho tôn giáo tồn tại.

- Nguyên nhân kinh tế: Trong chủ nghĩa xã hội, nhất là giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ còn nhiều thành phần
kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường với những lợi ích khác nhau của các giai tầng xã hội, sự bất bình đẳng về
kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội... vẫn là một thực tế; đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân chưa cao, thì con
người càng chịu tác động mạnh mẽ của những yếu tố ngẫu nhiên, may rủi. Điều đó đã làm cho con người có tâm lý
thụ động, nhờ cậy, cầu mong vào những lực lượng siêu nhiên.
Nguyên nhân về văn hoá: Sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo có khả năng đáp ứng ở một mức độ nào đó nhu cầu văn
hoá tinh thần và có ý nghĩa nhất định vềgiáo dục ý thức cộng đồng, đạo đức, phong cách, lối sống. Vì vậy, việc kế

thừa, bảo tồn và phát huy văn hoá (có chọn lọc) của nhân loại, trong đó có đạo đức tôn giáo là cần thiết. Mặt khác,
tín ngưỡng, tôn giáo có liên quan đến tình cảm, tư tưởng của một bộ phận dân cư, và do đó sự tồn tại của tín
ngưỡng, tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội như một hiện tượng xã hội khách quan.
Để bảo đảm thực hiện tốt chính sách tôn giáo, chúng ta cần tuân thủ những nguyên tắc
Một là, công tác tôn giáo vừa phải quan tâm hợp lý nhu cầu tín ngưỡng của quần chúng, vừa phải kịp thời đấu
tranh chống địch lợi dụng tôn giáo đế phá hoại cách mạng. Trong quan điểm này, Đảng ta nhấn mạnh đến hai nội
dung rất quan trọng của công tác tôn giáo. Đó là chăm lo đến đời sống tôn giáo của nhân dân và đấu tranh chống
sự lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch. Trên cơ sở xác định tôn giáo là tình cảm, nhu cầu tinh thần của một
bộ phận nhân dân, Đảng ta chủ trương thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo của nhân dân. Mọi người được tự do theo hoặc không theo một tôn giáo nào, "khắc phục nhận
thức thiển cận đối với tôn giáo và thái độ hẹp hòi, thành kiến, phân biệt đối xử với đồng bào có đạo”. Tín đồ các
tôn giáo được tự do sinh hoạt tôn giáo tại gia đình và nơi thờ tự theo nghi lễ truyền thống, "có kinh sách để tu học,
có chức sắc hướng dẫn việc đạo". Đặc biệt, Nghị quyết 24 đã mở ra việc giải quyết, công nhận về mặt tổ chức các
tôn giáo nếu hội đủ các điều kiện: có đường hướng hành đạo gắn bó với dân tộc, có tôn chỉ, mục đích, điều lệ phù
hợp và luật pháp, chuẩn bị tốt về mặt nhân sự, . . . Sau khi đã được công nhận, tổ chức tôn giáo được thực hiện đầy
đủ theo Hiến chương, Điều lệ (hoặc giáo luật), như tổ chức đại hội, hội nghị, việc đào tạo, phong chức, bổ nhiệm
chức sắc, xuất bản kinh sách, sản xuất đồ dùng việc đạo xây sửa cơ sở thờ tự, quan hệ đối ngoại,... Đây là quan
điểm có ý nghĩa rất quan trọng để ứng xử cụ thể đối với từng tôn giáo, một mặt tạo điều kiện cho các tôn giáo hợp
16


pháp chăm lo đời sống sinh hoạt của tín đồ, mặt khác đưa sinh hoạt tôn giáo vào khuôn khổ quản lý nhà nước, góp
phần loại bỏ các tà đạo nhằm làm lành mạnh hóa sinh hoạt tôn giáo.

Bên cạnh việc chăm lo đời sống mọi mặt của đồng bào các tôn giáo, phải đấu tranh chống âm mưu lợi dụng tôn
giáo của các thế lực thù địch chống phá sự nghiệp cách mạng. Do đặc điểm của tôn giáo ở Việt Nam, trước đây khi
xâm lược nước ta, các thế lực đế quốc đều tìm cách lợi dụng tôn giáo để phục vụ cho mục đích chính trị của
chúng. Ngày nay, các thế lực thù địch vẫn không từ bỏ việc lợi dụng tôn giáo để chống phá cách mạng nước ta. Vì
vậy trong khi tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, Đảng ta chủ trương phải cảnh
giác đấu tranh với những hoạt động lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch. Hai nhiệm vụ này có mối quan hệ

gắn bó hữu cơ mật thiết với nhau. Giải quyết đúng đắn và đầy đủ nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo chính đáng của
quần chúng là làm cho đồng bào có đạo yên tâm, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, tin vào chế độ và sự nghiệp
đổi mới đất nước, hiểu rõ âm mưu thủ đoạn lợi dụng tôn tạo của các thế lực xấu, từ đó nêu cao cảnh giác để họ "tự
giác đấu tranh chống lại chúng, bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng chính đáng của mình, bảo vệ an ninh Tổ quốc".
Ngược lại, khi làm tốt công tác đấu tranh chống địch lợi dụng tôn giáo sẽ tạo môi trường sinh hoạt tôn giáo lành
mạnh, không bị địch lợi dụng để quần chúng yên tâm sinh hoạt tôn giáo.

Khi xác định mối quan hệ hữu cơ giữa hai nhiệm vụ trên, Đảng ta đã đặt vấn đề giải quyết nhu cầu giáo của quần
chúng trước việc đấu tranh chống địch lợi dụng tôn giáo nhằm khắc phục tình trạng có nơi, có lúc khi tập trung
chống địch lợi dụng tôn giáo lại chưa quan tâm đến nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo của quần chúng, thậm chí có nơi
còn đồng nhất quần chúng có đạo với các phần tử lợi dụng tôn giáo chống phá cách mạng13. Điều đó vô hình
chung đã đẩy một bộ phận quần chúng có đạo về phía các thế lực lợi dụng tôn giáo.

Hai là, nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng. Đây là quan điểm thể hiện tư duy
lý luận sâu sắc của Đảng ta về công tác quần chúng nói chung, công tác tôn giáo nói riêng. Khi nói nội dung cốt lõi
của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng, Đảng ta muốn nhấn mạnh đến bản chất và vai trò quyết
định của công tác vận động quần chúng trong công tác tôn giáo; Suy cho cùng, công tác vận động quần chúng có
đạo là công tác đối với con người, đó là những con người-công dân-tín đồ. Họ là một đối tượng quần chúng đặc
thù, có điểm giống, nhưng cũng có điểm khác với các đối tượng quần chúng khác. Ở họ, giữa con người công dân
với con người tín đồ luôn quyện chặt vào nhau, bổ xung cho nhau không thể tách rời và luôn hướng tới "tốt đời,
đẹp đạo". Trong họ, quyền lợi và nghĩa vụ song trùng giữa con người công dân có quyền lợi, nghĩa vụ với Tổ quốc
và con người tín đồ có quyền lợi, bổn phận với đạo, với giáo hội của mình. Bởi vậy, công tác vận động quần chúng
có đạo không đơn thuần chỉ là công tác tuyên truyền giáo dục mà còn là công tác tập hợp tín đồ các tôn giáo trong
các đoàn thể quần chúng, công tác xây dựng cốt cán, công tác đối với các chức sắc, nhà tu hành, các nhân sỹ trí
thức trong các tôn giáo. Công tác vận động quần chúng còn là "tăng cường công tác giáo dục, y tế văn hóa, khoa
học, kỹ thuật, nâng cao dân trí, nhất là ở những vùng đông đồng bào có đạo", tức là phải chăm lo việc ăn, mặc, ở,
đi lại, giáo dục, y tế, hưởng thụ văn hóa,... để nâng cao đời sống dân sinh, trình độ dân trí cho quần chúng. Về khía
cạnh tôn giáo, công tác vận động quần chúng có đạo phải thực hiện tốt chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự
do tín ngưỡng, tôn giáo, chứ không phải là tuyên truyền thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cách mạng để
"giải phóng" quần chúng khỏi "đám mây mù” tôn giáo; cũng không phải tốn thời gian vào các cuộc tranh luận vô

bổ có hay không có Đấng tối cao, có hay không có Thiên đường mà là vận động quần chúng tín đồ các tôn giáo
xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc ngay trên thế gian này. Nói tóm lại, công tác vận động quần chúng có đạo là
làm cho đồng bào được "phần xác no ấm, phần hồn thong dong"14) như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy. Làm được
17


điều đó cũng chính là đã tạo điều kiện để đồng bào có đạo tích cực tham gia xây dựng cuộc sống "tốt đời, đẹp
đạo", góp phần cùng toàn dân thực hiện thắng lợi mục tiêu: "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".

Ba là, làm tốt công tác tôn giáo là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị do Đảng lãnh đạo. Trên cơ sở xác
định công tác tôn giáo mang nét đặc thù với sự tinh tế trong nhiều mối quan hệ, không chỉ là giải quyết chính sách
đối với tín đồ, ứng xử với chức sắc và tổ chức giáo hội mà còn là công tác đấu tranh chống địch lợi dụng tôn giáo,
liên quan đến chính sách đối nội, đối ngoại của Đảng và Nhà nước. Do vậy, Đảng ta xác định lực lượng làm công
tác tôn giáo trong thời kỳ mới là toàn bộ hệ thống chính trị. Gồm Đảng, chính quyền, mặt trận, các đoàn thể chính
trị,... Toàn bộ hệ thống chính trị tham gia làm công tác tôn giáo, nhưng mỗi ngành tuỳ theo chức năng có những
nhiệm vụ cụ thể: Đảng giữ vai trò lãnh đạo, chỉ đạo công tác tôn giáo thông qua chủ trương, đường lối mang tính
định hướng đối với tôn giáo nói chung và đối với từng tôn giáo cụ thể. Đồng thời, thông qua mặt trận và các đoàn
thể thực hiện công tác vận động quần chúng xây dựng lực lượng cốt cán trong tín đồ, chức sắc. Các cấp chính
quyền có trách nhiệm thể chế hóa chủ trương của Đảng bằng các văn bản quy phạm pháp luật về tôn giáo; thực
hiện quản lý các hoạt động tôn giáo, đưa cáo hoạt động tôn giáo vào khuôn khổ của pháp luật. Mặt khác, các cấp
chính quyền còn phải chăm lo đến đời sống vật chất và tinh thần của tín đồ các tôn giáo bằng các chính sách phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội và đấu tranh chống các hoạt động lợi dụng tôn giáo nhằm làm lành mạnh hóa các
sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng. Mặt trận và các đoàn thể tuyên truyền, vận động quần chúng, đưa quần chúng tín
đồ các tôn giáo theo từng giới, từng lứa tuổi tham gia các đoàn thể chính trị-xã hội, các đoàn thể xã hội và các
đoàn thể nghề nghiệp khác15.
Bốn là, việc theo đạo, truyền đạo và hoạt động tôn giáo (sinh hoạt động, truyền đạo và quản đạo) phải tuân thủ
hiến pháp và pháp luật. Đây là quan điểm có vị trí đặc biệt quan trọng phản ánh rõ đời sống sinh hoạt tín ngưỡng,
tôn giáo ở nước ta ngày càng được mở rộng cùng với quá trình đổi mới, dân chủ hóa đời sống xã hội. Nhưng đồng
thời cũng xuất hiện những vấn đế phức tạp trong đời sống sinh hoạt tôn giáo cần được chấn chỉnh. Cùng với việc
khẳng định quyền tự do hoạt động tôn giáo của tín đồ và các tổ chức tôn giáo hợp pháp, cần nghiêm cấm các tổ

chức, cá nhân chưa được nhà nước thừa nhận tư cách pháp nhân truyền đạo, nghiêm cấm việc lợi dụng hoạt động
tôn giáo để tuyên truyền tà đạo, hoạt động mê tín dị đoan, trục lợi cá nhân hay ép buộc người khác theo đạo. Điều
đó không chỉ bảo đảm cho hoạt động tôn giáo trong khuôn khổ pháp luật, giữ vững tình hình chính trị-xã hội mà
còn bảo vệ các tôn giáo chân chính, chống tà đạo, tà giáo và hiện tượng mê tín dị đoan nhằm làm lành mạnh hoá
môi trường sinh hoạt tôn giáo theo nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của quần chúng tín đồ, chức sắc các tôn giáo.

18



×