Tải bản đầy đủ (.pdf) (154 trang)

VĂN HIẾN Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2 MB, 154 trang )

VĂN HIẾN VIỆT NAM
Bài 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ KHÁI NIỆM
1.1. Định nghĩa về văn hóa
Nghĩa thông dụng để chỉ học thức (trình độ học vấn)
Nghĩa chuyên môn chỉ trình độ văn minh của một giai đoạn lịch sử nhất định
Nghĩa rộng là bao hàm tất cả về phong tục tập quán, lối sống…
Cho đến nay, trên thế giới đã có hơn 400 định nghĩa về văn hóa và sau đây là một
số định nghĩa mang tính tiêu biểu:
-

-

-

-

-

Unesco (2002): “Văn hóa nên được xem là tập hợp các đặc trưng tâm linh, vật
chất, trí tuệ và cảm xúc riêng biệt của một xã hội hay một nhóm người trong xã
hội, và ngoài văn học và nghệ thuật, nó bao gồm lối sống, cách chung sống, hệ
giá trị, truyền thống và đức tin”
Federico Mayor (Nguyên Tổng giám đốc UNESCO: “Văn hóa là tổng thể sống
động các hoạt động sáng tạo trong quá khứ và trong hiện tại.Qua các thế kỷ
hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên hệ thống các giá trị, các truyền thống
và các thị hiếu-những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc”
Edward Tylor (nhà nhân học học xã hội-Anh): “Văn hóa hay văn minh,hiểu
theo nghĩa rộng trong dân tộc học, là một tổng thể phức hợp bao gồm kiến
thức, đức tin, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục và bất cứ khả năng và
tập quán nào mà con người nhận được với tư cách là một thành viên xã hội”
Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Văn hóa là sự tổng hợp của mọi hình thức sinh hoạt


cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những
nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”
Và GS.Trần Ngọc Thêm đã vận dụng khéo léo về định nghĩa như sau: “ Văn
hóa là hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo
và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người
với môi trường tự nhiên và xã hội của mình”

1.2. Các đặc trưng và chức năng của văn hóa
1.2.1. Tính hệ thống và chức năng tổ chức xã hội
Văn hóa trước hết phải có tính hệ thống. Với tư cách là một đối tượng bao trùm
mọi hoạt động của xã hội, cung cấp cho xã hội mọi phương tiện để đối phó với môi
trường tự nhiên và môi trường xã hội của mình


1.2.2. Tính giá trị và chức năng điều chỉnh xã hội
Bao gồm giá trị vật chất và giá trị tinh thần, nhờ các giá trị này mà văn hóa thực
hiện được chức năng điều chỉnh xã hội, định hướng được các chuẩn mực, duy trì được
trạng thái cân bằng động, không ngừng hoàn thiện, thích ứng với những biến đổi của môi
trường không ngoài mục đích tự bảo vệ để tồn tại và cũng là động lực cho sự phát triển.
1.2.3.Tính nhân sinh và chức năng giao tiếp
Văn hóa là một hiện tượng xã hội, hoạt động thực tiễn của con người. Văn hóa là
cái tự nhiên đã được biến đổi dưới tác động của con người.Do gắn liền với con người và
hoạt động của con người trong xã hội, văn hóa có chức năng giao tiếp và văn hóa là nội
dung của việc giao tiếp.
1.2.4. Tính lịch sử và chức năng giáo dục
Văn hóa bao giờ cũng hình thành và được tích lũy qua nhiều thế hệ chính vì thế
văn hóa đã có một bề dày lịch sử mang tính truyền thống, truyền thống văn hóa được tồn
tại nhờ giáo dục và văn hóa đóng vai trò quyết định trong việc hình thành nhân cách ở
con người (dưỡng dục nhân cách)
Văn hóa mang tính kế tục của lịch sử

1.3.Văn hóa với văn minh, văn hiến, văn vật
1.3.1. Văn hóa và văn minh
Văn hóa và văn minh là những khái niệm gần gũi nhưng không đồng nhất
a/ Văn hóa giàu tính nhân văn, hướng tới giá trị vĩnh cửu, bao gồm giá trị tinh thần
và giá trị vật chất. Văn minh chỉ sự phát triển của KHKT, tính logic và thiên về các giá
trị vật chất
b/ Văn hóa và văn minh còn khác nhau về tính lịch sử. Văn hóa luôn có bề dày của
quá khứ (tính lịch sử). Văn minh đại diện cho trình độ phát triển của văn hóa (trình độ
phát triển của một thời đại)
c/ Văn hóa mang tính dân tộc (tinh thần và tính lịch sử là của riêng); Văn minh có
tính quốc tế cho một khu vực rộng lớn hoặc cho cả nhân loại (chứa giá trị vật chất, dễ
phổ biến)
d/ Văn hóa gắn bó nhiều hơn với phương Đông nông nghiệp (các nền văn hóa cổ
đại hình thành từ trên hai ngàn năm TCN đều là sản phẩm của phương Đông); Văn minh
gắn bó nhiều hơn với phương Tây đô thị
1.3.2.Văn hiến và văn vật


VĂN HÓA
VĂN HIẾN
VĂN VẬT
Bao gồm các giá trị Thiên về giá trị tinh Thiên về giá trị vật
vật chất và giá trị
thần
chất
tinh thần

VĂN MINH
Thiên về giá trị vật
chất-kỹ thuật


Có bề dày lịch sử

Chỉ trình độ phát
triển

Có tính dân tộc

Tính quốc tế

Gắn bó nhiều hơn
với phương Đông
nông nghiệp

Gắn bó nhiều hơn
với phương Tây đô
thị

1.3.3. Tìm hiểu về khái niệm Văn hiến
Cách hiểu về văn hiến sau khi Nho học bị bãi bỏ: Nguyên gốc của từ văn hiến là
từ vựng gốc Hán. Vào năm 1919, sau khi Nho học bị bãi bỏ ở Việt Nam, và nhất là kể từ
sau khi chữ Hán chữ Nôm bị thay thế hoàn toàn bằng chữ quốc ngữ bắt đầu từ năm 1945,
thì văn hiến cùng những từ gốc Hán khác đã cũng đã mất dần đi. Chính từ đó gây khó
khăn cho chúng ta rất nhiểu trong việc tìm hiểu khái niệm này sao cho sát nghĩa nhất. Tại
mục này, chúng tôi sẽ lần lượt tiến hành khảo lại các định nghĩa của một số từ điển tiếng
Việt được biên soạn trong thế kỷ XX, để hiểu thêm về lịch sử các cách định nghĩa cho
khái niệm này.
Trong Hán Việt từ điển giản yếu (1932), của Đào Duy Anh ghi: “văn hiến: sách vở
và nhân vật tốt trong một đời” [tr.537]. Tự điển Việt- Hoa- Pháp (1937) của Gustave Hue
ghi nhận văn hiến = văn minh [tr.1113]. Việt Nam tân từ điển (1951) của Thanh Nghị

ghi: “văn hiến. Sách vở hay và nhân vật tốt, nghĩa rộng như tiếng văn minh: nghìn năm
văn hiến” [tr.1428]. Từ điển Việt Nam phổ thông (1951) của Đào Văn Tập, sau ghi giải
thích đúng từ nguyên chữ văn hiến, lại phân suất nghĩa thành: “chỉ những cái hay trong
một đời, đáng làm gương mẫu”[tr.689].Tự điển Việt Nam của Ban Thu thư Khai trí
(1971) ghi văn hiến cũng như văn minh [tr.911]. Từ điển tiếng Việt (tb lần 2, 1977) do
Văn Tân và Nguyễn Văn Đạm chỉnh lý bổ sung ghi: “văn hiến văn vật. Yêu chuộng văn
học, văn hóa: Việt Nam là nước văn hiến” [tr.846]. Từ điển Hán Việt từ nguyên (1999)
của Bửu Cầm ghi: “văn hiến. Văn: sách sử. Hiến: kẻ hiền tài...Một nước có nhiều hiền tài
có sử sách thì gọi là nước văn hiến” [tr. 2309]. Từ điển tiếng Việt (2000) của Viện Ngôn
ngữ học ghi: “văn hiến. Truyền thống văn hóa lâu đời và tốt đẹp” (tr.1100). Từ điển bách
khoa Việt Nam (2003) ghi: “văn hiến. truyền thống văn hoá tốt đẹp và lâu đời. Chu Hy
đời Tống chú thích một câu trong sách "Luận ngữ" như sau: "Văn là điển tịch; hiến là tốt
đẹp, tài giỏi". Như vậy, "văn hiến" nguyên nghĩa là văn chương, sách vở hay, bảo tồn


truyền thống văn hoá lâu đời. Từ điển từ Hán Việt (2007) của Lại Cao Nguyện và Phan
Văn Các [tr.534] và Từ điển tiếng Việt của Trung tâm từ điển [tr.1697] ghi: “văn hiến.
Truyền thống văn hóa lâu đời và tốt đẹp”. Đại từ điển tiếng Việt kế thừa và bổ sung “văn
hiến. Truyền thống văn hóa lâu đời, có nhiều nhân tài” [tr.1744].
Thông qua những từ điển nêu trên, có thể cho ta thấy rằng các từ điển tiếng Việt
hiện đại chỉ nêu khái niệm này với một nét nghĩa tương đối chung chung chưa rõ ràng,
đặc biệt là sự chưa có sự phân biệt rạch ròi giữa khái niệm văn hóa và văn hiến, coi văn
hiến là nền văn hóa tốt đẹp được kéo dài.Vậy nên thực tế, thuật ngữ cơ bản trên là xuất
phát từ kinh điển Nho giáo như Nguyễn Vinh Phúc nói “Phương Tây không có khái
niệm văn hiến. Chỉ ở Việt Nam, Trung Quốc và những nước chịu ảnh hưởng của Nho
giáo mới có khái niệm này” là một thực tế đúng.
Khái niệm văn hiến trong lịch sử tiếng Hán: Sách Luận ngữ thiên Bát dật có
đoạn: Tử viết: Hạ lễ, ngô năng ngôn chi, Kỷ bất túc trưng dã; Ân lễ, ngô năng ngôn chi,
Tống bất túc trưng dã; văn hiến bất túc cố dã” nghĩa là “Lễ nhà Hạ thì ta có thể bàn
được, nhưng nước Kỷ (dòng dõi nhà Hạ) chẳng đủ để làm chứng; lễ của nhà Ân, thì ta

cũng bàn được, nhưng nước Tống (dòng dõi nhà Ân) chẳng đủ để làm chứng. Ấy là vì
văn hiến hai nước ấy không đủ”. Chu Hy chú: Văn, điển tịch dã; hiến, hiền
dã (văn là điển tịch; hiến là người hiền vậy).
Đoạn này đã cho thấy ý rất quan trọng về văn hiến. Trong đó, ta nên chú ý đến mối
quan hệ giữa văn hiến và lễ. Đây có thể coi là nghĩa nguyên bản nhất của từ văn hiến từ
bối cảnh tri thức của Nho học Trung Quốc và cũng có thể coi đây là khái niệm trùng
khớp giữa Nho học Tiên Tần và Tân Nho học.
Từ điển Từ nguyên - cuốn từ điển phổ dụng được soạn vào đầu thế kỷ XX, đã giải
thích trên cơ sở định nghĩa của Chu Hy, nên đã viết: “văn trỏ những tư liệu văn tự liên
quan đến điển chương chế độ, hiến trỏ những người nghe rộng biết nhiều”[16].
Cách định nghĩa trên đây của từ điển Từ nguyên là tiếp thu tinh thần của Chu Hy.
Tuy nhiên, định nghĩa hiến (trỏ những người nghe rộng biết nhiều) lại mang nét nghĩa hơi
hẹp hơn so với thực tế. Bậc hiền đương nhiên là “bác lãm quần thư”, tri thức hoàn bị;
song tri thức chỉ là một yếu tố, ngoài ra người hiền còn phải đáp ứng nhiều tiêu chí khác
như đức độ, khí tiết, phải có chính tích, có trứ thư lập ngôn.
Từ điển Từ hải sau khi giải thích về từ nguyên, đã ghi nhận nghĩa của chữ văn
hiến trong tiếng Hoa hiện nay chỉ còn một nghĩa mở rộng là “những tư liệu văn vật có giá
trị lịch sử như: lịch sử văn hiến, đồng thời cũng chỉ những tư liệu sách vở quan trọng liên
quan đến một ngành khoa học cụ thể, ví dụ: y học văn hiến. Nay (văn hiến) còn là tên gọi


chung cho bất cứ một dạng vật chất nào sử dụng văn tự, tranh ảnh, phù hiệu, để kí tải tri
thức, thông tin như: ấn phẩm, băng từ, đĩa CD, băng hình, bản in ốp sét”. [15].
Từ văn hiến trong tiếng Việt lịch sử: Theo tài liệu của Viện Hán nôm trong
cuốn Thiên Nam ngữ lục khi viết về Sĩ Nhiếp. Tác phẩm này đã ca ngợi “Nam Giao học
tổ” như sau:
Quan quân mà lại thầy ta,
Phủ quân tôn vị hiệu là Sĩ vương
Nước nên “văn hiến chi bang”
Đức giáo chẳng nhường Đậu thị Hà Tây (câu 1930-1933)

Ca ngợi Sĩ Nhiếp ở các mặt:
tuần này ắt chẳng lo chi
mối giềng đã tỏ, luật lề đã phân
Đồng niên quý thuế có ngần
Quan quân rõ phép, binh dân rõ đường
Điều hòa chế độ kỷ cương
Mở kho giáo hóa, rỡ ràng nhân luân” (câu 1924-1928)
Đoạn thơ trên ca ngợi Sĩ Nhiếp là bậc vương, bởi ông đã có công giáo hóa biến Giao
Chỉ trở thành “văn hiến chi bang”. Về hình thức, ông là “quan quân”, nhưng thực tế ông
lại là bậc sư biểu (thầy ta). Bậc sư biểu ấy đã dùng đức giáo để cho dân ta hiểu rõ “mối
giềng”, “luật lệ”. Chữ mối giềng dịch từ chữ cương thường. Như thế, văn hiến ở đây tạm
có thể hiểu được những nét nghĩa sau: 1) Cương thường (nhân luân); 2) Luật lệ (cho binh
và dân); 3) Giáo hóa. Trong đó, cương thường là những thiết chế về mặt huyết tộc và đạo
đức xã hội. Luật lệ là những quy phạm mang tính pháp chế và quản lý hành chính nhà
nước.
Sử cũ đều ca tụng Sĩ Nhiếp là vị quan tốt, rất có uy tín trong dân. Ngô Sĩ Liên viết
trong Đại Việt sử ký toàn thư: "Vương (Sĩ Nhiếp)độ lượng khoan hậu, khiêm tốn, kính
trọng kẻ sĩ, người trong nước yêu mến, đều gọi là vương. Danh sĩ nhà Hán tránh nạn


sang nương tựa có hàng trăm người"... Nước ta thông thi thư, học lễ nhạc, làm một nước
văn hiến, là bắt đầu từ Sĩ Vương, công đức ấy không những chỉ ở đương thời mà còn
truyền mãi đời sau, há chẳng lớn sao? Đoạn trên cho ta hai nét nghĩa nữa của khái niệm
văn hiến: 1) Thông thi thư (thông: hiểu; thi: Kinh thi; thư: Kinh thư); 2) Học Lễ và Nhạc.
Khái niệm văn hiến qua bối cảnh tri thức Nho gia Việt Nam : Cũng theo tài liệu
của Viện Hán nôm trong sách Dư Địa Chí của Nguyễn Trãi do Lý Tử Tấn viết thông
luận, có đoạn: “từ khi người Nguyên vào Trung Quốc, về sau thiên hạ biến thành nói
tiếng Hồ, mặc áo Hồ. Không thay đổi thì chỉ có nước ta cùng họ Chu ở Kim Lăng, họ
triệu ở Kim Sơn mà thôi. Đến khi thái tổ nhà Minh lên làm vua, sai Dịch Tế Dân sang
thông hiếu, vua Dụ Tông sai Doãn Thuấn Thần sang cống nhà Minh. Vua Minh úy lại,

hỏi quốc sứ, khen phong tục, y phục vẫn giống như văn minh Trung Hoa, ban cho bài thơ
ngự chế rằng”:
An Nam tế hữu Trần/ Phong tục bất Nguyên nhân
Y quan Chu chế độ/ Lễ nhạc Tống quân thần.
Nghĩa là:
(Đất An Nam có họ Trần/ Phong tục không theo người Nguyên
Áo mũ vẫn theo chế độ nhà Chu/ Lễ nhạc vẫn hệt như vua tôi nhà Tống)
Rồi cho bốn chữ “Văn Hiến Chi Bang” và thăng địa vị cho sứ thần của Đại Việt lên
trên sứ thần Triều Tiên ba cấp”. Đây là đoạn thông luận mà Lý Tử Tấn chua cho phần
chính văn của Nguyễn Trãi đang gián tiếp bàn về văn hiến, đoạn ấy cụ thể như sau:
“Người trong nước không được bắt chước ngôn ngữ và y phục của các nước Ngô, Chiêm,
Lào, Xiêm, Chân Lạp để làm loạn phong tục trong nước” [15].
Qua đoạn văn trên cho chúng ta biết một số dữ kiện như sau: 1) Chữ văn hiến được
dùng cho Đại Việt vào cuối đời Trần; 2) Nho sĩ đời Trần mạt ít nhiều tạo dựng được bối
cảnh tri thức cũng như bối cảnh văn hóa Nho giáo ở một mức độ nhất định, đến mức vua
Minh Thái Tổ làm thơ ngự chế và ban tặng đích danh bốn chữ “văn hiến chi bang vào
năm Đại Trị thứ nhất (1368); 3). Như vậy, đây có thể coi là tư liệu thành văn sớm nhất
(khác với quan niệm phổ biến trước đây, coi chữ văn hiến lần đầu xuất hiện đầu tiên
trong bài Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi).Từ đoạn văn trên cũng cho biết một số
thông tin cụ thể về nội hàm của khái niệm văn hiến trong bối cảnh tri thức Nho giáo. Đó
là bốn yếu tố: 1) Phong tục; 2) Chế độ y quan; 3) Chế độ lễ nhạc; 4) Ngôn ngữ.


Chữ văn hiến được đưa vào văn chương trong bài Bình Ngô đại cáo của Nguyễn
Trãi (1428):
Duy ngã Đại Việt chi quốc/ Thực vi văn hiến chi bang
Nghĩa là:

Như nước Đại Việt ta/ Thực là nước văn hiến.


Thế kỷ XV trên bia tiến sĩ ở Văn Miếu Hà Nội khoa Quang Thuận thứ 4 (1463) có
ghi đoạn văn sau: “Học trò may được khắc trên bia đá này, phải theo danh nghĩa sửa đức
hạnh, bắt chước tính giữ gìn văn hiến”.
Tuy nhiên, với hai ngữ cảnh trên đều không cho biết nội hàm của khái niệm văn
hiến. Bình Ngô đại cáo cung cấp một thông tin lịch sử đáng chú ý, đó là sự ghi nhận Đại
Việt “vốn xưng nền văn hiến đã lâu”. Phải chăng đây chính là cứ liệu quan trọng (duy
nhất!) để các nhà làm từ điển hiện đại đã căn cứ nghĩa của từ văn hiến thành “truyền
thống văn hóa lâu đời” như đã nói đến ở trên?
Bài ký văn bia đề danh Tiến sĩ khoa Đinh Mùi niên hiệu Cảnh Trị năm thứ 5 (1667)
do Nguyễn Kiều soạn và khắc năm Vĩnh Thịnh 13 (1717) có đoạn như sau: “kính nghĩ
quốc triều nhân nghĩa dựng nước, văn hiến nức danh. Khoa thi Tiến sĩ đặt ra từ lâu, khắc
đá đề tên quy mô to lớn...Thực nhớ một lòng sửa đức, trăm việc mở mang, chính sự tốt
đẹp của nước nhà đổi thay rạng rỡ, hiền tài trong thiên hạ nượp nượp kéo về... Đến nay,
hoàng thượng vẻ vang kế thừa ngôi báu, hết sức xây đắp cơ đồ, nắm giữ quyền bàn bạc
nghi lễ, theo thể thức tôn quý người hiền...Như vậy đủ biết sự chế tác của thánh triều có
quan hệ đến phong hóa”. Đoạn văn trên cho biết một số dữ kiện về khái niệm văn hiến
như sau: 1.Khoa cử; 2. Văn vật (khắc đá); 3. Hiền tài; 4. Nghi lễ. và 5.Phong hóa (phong
tục giáo hóa).
Thế kỷ XIX, trong sách Lịch triều hiến chương loại chí, Phan Huy Chú đã viết: “Khi
nhà Lê dựng nước, văn hóa lại thịnh dần, hơn 300 năm chế tác đầy đủ kỹ càng, văn hiến
đứng đầu trung châu, điển chương rạng cả triều đại” (Văn tịch chí, bản dịch, Q4, tr. 41).
Tại điện Thái Hòa (Huế) đời Nguyễn còn khắc một bài thơ phiên âm như sau:
Văn hiến thiên niên quốc
Xa thư vạn lý đồ
Hồng Bàng khai tịch hậu
Nam phục nhất Đường Ngu
Nghĩa là:
Nước nghìn năm văn hiến
Cơ đồ muôn dặm xa thư



Kể từ sau khi Hồng Bàng mở nước
Nước Nam lại là một Đường Ngu
Đây cũng có thể coi là một định nghĩa nữa về văn hiến, trong đó, khái niệm quan
trọng nhất là Xa thư. Xa là xe, thư là sách. Xa thư nguyên dẫn từ thiên Trung dung sách
Lễ ký: kim thiên hạ xa đồng quỹ thư đồng văn nghĩa là “nay thiên hạ: xe cùng cỡ trục,
sách chung văn tự”, sau xa thư trỏ thể chế pháp độ của nhà nước theo mô hình Nho giáo.
Xét về từ nguyên thì thể chế pháp độ ấy bao gồm văn tự- thư tịch và quy tắc xã hội. Sách
Đại Nam quốc sử diễn ca của Phạm Đình Toái có câu: dõi truyền một mối xa thư, cũng là
nói về văn hiến nước Đại Nam vậy.
Tại Văn miếu Quốc tử giám Hà Nội có đôi câu đối:
Nam bang văn hiến thiên niên quốc
Đông Lỗ nho tông vạn thế sư
Nghĩa là:
Nam bang là nước ngàn năm văn hiến
Ngài sáng lập đạo Nho ở đất Đông Lỗ là bậc thầy của muôn đời.
Qua nội dung câu đối và bài thơ trên, có thể thấy văn hiến Đại Việt luôn được so
sánh, đối chiếu với thời đại thịnh trị viễn cổ là Đường Ngu (nhà Chu) với các nhân vật lý
tưởng, các thánh nhân của Nho gia như Chu Công, Khổng Tử. Rõ ràng, văn hiến là một
khái niệm của Nho giáo, và được dùng bởi các nhà Nho thuần thành. Văn hiến được dùng
để ngợi ca một cảnh tượng thái hòa về chính trị, bình ổn về xã hội và nhân tâm. Đặt
trong, bối cảnh như vậy, những biểu tượng và ý nghĩa của khái niệm này đã dần rõ nét.
Đến đây, chúng ta thấy, sách vở thư tịch cũ đã ghi chép những đoạn khen ngợi , xác
nhận nước ta là “văn hiến chi bang” từ thời Sĩ Nhiếp cho đến Lý, Trần, Lê, Nguyễn.
Bài văn sách đình đối của đệ nhị giáp tiến sĩ Nguyễn Đình Dương khoa Canh thìn
niên hiệu Tự Đức thứ ba mươi ba (1880): Ngã quốc tố xưng văn hiến, nhi nhân gian thư
tịch chi truyền, thực giác quả lậu. Bất duy ngoại quốc chư thư, nhân sở hãn kiến, nhi
kinh, sử, tử, điển, diệc sở hãn kiến. Nghĩa là: Nước ta vốn xưng là văn hiến mà việc lưu
truyền sách vở trong dân gian thực là ít ỏi. Không chỉ có các sách nước ngoài người ta ít
được thấy, mà các sách kinh, sử, chư tử, điển chế cũng ít được coi .

Với những cứ liệu nêu trên, chúng ta có thể hiểu cấu trúc của khái niệm Văn hiến
được hiểu gồm cách lĩnh vực sau.
1. Ngôn ngữ
2. Văn tự


3. Sách vở, điển tịch
4. Văn chương
5. Các yếu tố văn hóa- chính trị thuộc điển chương, chế độ của Nho giáo, như: chế độ y
quan, chế độ lễ nhạc, pháp độ tiên vương, hiến pháp hoàng triều. Điển chương là “các
khuôn phép lễ chế từ vua trước đặt ra, chế độ là “những phép tắc định lập rõ ràng”, pháp
độ là những quy định tiêu chuẩn (pháp) về hành vi để đánh giá (độ) phẩm hạnh, đức độ,
học vấn của một người.
6. Phong tục (phong giáo): những ảnh hưởng của chế độ lễ nhạc quan phương đối với
cộng đồng xã hội.
7. Giáo dục và chế độ khoa cử.
8. Người hiền tài (chủ yếu hiểu là Nho sĩ, nhưng bản thân mỗi Nho sĩ lại là một phức thể
dung hội Tam giáo và có thể còn hơn thế nữa, nên đối tượng ngoại diên thuộc loại hình
nhân vật lịch sử này cũng khá là phong phú).[15]


Bài 2: KHÁI QUÁT VỀ NỀN TẢNG VĂN HIẾN VIỆT NAM
2.1. Bối cảnh không gian
Việt Nam với diện tích không rộng những ở nhưng ở vị trí đại lý quan trọng trên
bán đảo Đông Dương và khu vực Đông Nam Á, Việt Nam nằm ở vị trí trung tâm; với
Mianma, Thái Lan, Lào và Campuchia ở phía tây; Malaixia, Inđônêxia và Philipin ở phía
nam và phía đông. Với vị trí như vậy trở thành cầu nối liền giữa Đông Nam Á lục địa và
Đông Nam Á hải đảo, trong vị trí này Việt Nam thuộc vùng nhiệt đới gió mùa, nắng lắm
mưa nhiều, có hai đồng bằng lớn với nhiều sông ngòi kênh rạch, cực kỳ thuận lợi cho sự
hình thành và phát triển nghề trồng lúa nước.

Với sự tồn tại mang tính áp đảo của nghề trồng lúa nước, không gian của Việt
Nam là không gian nông thôn – nông nghiệp trong suốt chiều dài lịch sử.
Nằm ở vị trí giao điểm của hai khu vực Đông Nam Á và Đông bắc Á, giáp ranh
với Trung Quốc là một quốc gia lớn, có nền văn hóa lâu đời.
Việt Nam là mặt tiền hướng ra biển của bán đảo Đông Dương, cũng là vị trí giao
điểm của các luồng giao thông thủy bộ theo bốn hướng bắc – nam, đông – tây.
Nhìn vào bản đồ Việt Nam ta sẽ thấy đất nước với hình thể kéo dài theo chiều bắc
– nam, địa hình phức tạp với nhiều loại hình sinh thái đồi núi, đồng bằng ven biển, không
gian văn hóa Việt Nam đã bị phân hóa mạnh theo chiều Bắc – Nam.
Theo nghĩa rộng, Việt Nam chia thành hai miền: từ đèo Hải Vân trở ra Bắc là nơi
có khí hậu bốn mùa xuân, hạ, thu, đông và từ đèo Hải Vân trở vào phía Nam là sứ xở
nắng nóng quanh năm với hai mùa mưa và khô.
Theo nghĩa hẹp, Việt Nam chia làm ba miền văn hóa Bắc – Trung – Nam cũng rất
rõ rệt. Trong đó hai miền là miền Bắc và miền Trung mỗi miền đều chia làm ba vùng.
Riêng với Nam Bộ theo GS Trần Ngọc Thêm thì chia làm 2 vùng là Đông Nam Bộ và
Tây Nam Bộ, như vậy không gian văn hóa Việt Nam tổng cộng chia làm ba miền với 8
vùng văn hóa.
MIỀN
I.

Miền văn

VÙNG
1. Vùng văn hóa Việt Bắc


hóa Bắc Bộ

2. Vùng văn hóa Tây Bắc
3. Vùng văn hóa Bắc Bộ


II.

III.

Miền Văn
hóa Trung
Bộ

4. Vùng văn hóa Bắc Trung Bộ

Miền Văn
hóa Nam Bộ

7. Vùng văn hóa Đông Nam Bộ

5. Vùng văn hóa duyên hải Bắc Trung Bộ
6. Vùng văn hóa duyên hải Nam Trung Bộ
8. Vùng văn hóa Tây Nam Bộ

2.2. Bối cảnh chủ thể.
Cư dân Việt Nam truyền thống chủ yếu sống bằng nghề trồng lúa nước. Theo
thống kê vào năm 1945, tỉ lệ người sống ở nông thôn chiếm khoảng trên 90% dân số Việt
Nam;[8] trước khi tiếp xúc với văn hóa phương Tây chắc chán tỉ lệ này còn cao hơn
nhiều. Trong đời sống chất nông dân - nông nghiệp – nông thôn giữ vai trò chủ đạo trong
việc chi phối tính cách dân tộc và hệ giá trị văn hóa của người Việt Nam.
Do điều kiện địa hình phức tạp, lại ít di chuyển, nên sự phân hóa tộc người ở Việt
Nam và Đông Nam Á diễn ra rất mạnh và rất nhanh tạo nên tính đa dân tộc. Trên một
diện tích không phải là rộng như Việt Nam đã có tới 54 tộc người. Tuy đa tộc người,
nhưng tuyệt đại bộ phận có cùng nguồn gốc và trong đó có một tộc người có số dân vượt

trội là người Việt (người Kinh chiếm 85% dân số) nắm vai trò chủ đạo, nên văn hóa và
hệ giá trị của dân tộc có tính thống nhất cao.
Sống bằng nghề trồng trọt trong điều kiện địa hình rất phức tạp nên người nông
dân Việt Nam suốt đời gần như rất ít khi di chuyển ra khỏi nơi cư trú.
Về tầm vóc của người Việt Nam là vóc dáng nhỏ, sức yếu, không chỉ so với người
phương Tây, mà cả với người Đông Bắc Á.
2.3. Bối cảnh thời gian.
Lịch sử hình thành và phát triển của những giá trị nền tảng văn hiến Việt Nam qua
bốn thời kỳ biến động cơ bản.
Lần biến động thứ nhất là sự chuyển biến từ hệ giá trị văn hóa bản địa Đông Nam
Á sang hệ giá trị chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa. Sự biến động này từ những thế
kỷ đầu công nguyên và chủ yếu diễn ra trong giai đoạn thế kỳ XI là khi nhà Lý tiếp nhận


Nho giáo đến thế kỷ XV khi Nho Giáo đạt đến đỉnh điểm dưới thời nhà Lê. Những giá trị
có nguồn gốc Nho giáo thâm nhập và phát triển trong giai đoạn sau này.
Lần biến động thứ hai, là sự chuyển biến từ hệ giá trị văn hóa truyền thống theo
phong cách phương Đông sang giá trị chịu ảnh hưởng của Văn hóa phương Tây. Sự biến
động này diễn ra từ thế kỷ XVII là khi Việt Nam bắt đầu tiếp xúc với phương Tây và đạt
đến đỉnh cao vào cuối thế kỷ XIX và những thập niên đầu của thế kỷ XX là khi Pháp tiến
hành xâm lược, cai trị trên toàn cõi Đông Dương. Sự giao lưu tiếp thu các giá trị phương
Tây về sau tiếp tục diễn ra ở miền Nam thông qua đại diện văn hóa Mỹ cho đến năm
1975. Những giá trị văn hóa dương tính hơn, những giá trị tương đối hiện đại, có nguồn
gốc phương Tây thâm nhập và phát triển trong giai đoạn này.
Lần biến động thứ ba, là sự chuyển biến từ hệ giá trị văn hóa truyền thống dưới
ách thực dân sang hệ giá trị chịu ảnh hưởng của văn hóa xã hội chủ nghĩa. Sự biến động
này bắt đầu diễn ra từ khi Việt Nam tiếp xúc với văn hóa xã hội chủ nghĩa thông qua đại
diện là Liên Xô thời I.V.Stalin mà người tiếp thu trực tiếp là những nhà cách mạng Việt
Nam giai đoạn 1930 – 1945, rồi sau đó thông qua đại diện là Trung Quốc thời Mao Trạch
Đông, đỉnh điểm là thập niên 50 – 70 của thế kỷ XX. Những giá trị và phi giá trị có

nguồn gốc xã hội chủ nghãi và xâm nhập, phát triển trong giai đoạn này.
Những giá trị nội sinh như làm chủ tập thể, năm điều bác Hồ dạy…cũng hình
thành trong giai đoạn này.
Lần biến động thứ tư, là sự chuyển biến từ hệ giá trị văn hóa truyền thống đang
trong quá trình xã hội chủ nghĩa hóa sang hệ giá trị trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa và hội nhập quốc tế. Sự biến động này bắt đầu diễn ra từ giữa cuối những năm 80,
khi công cuộc đổi mới của Việt Nam bắt đầu, cũng là lúc quá trình toàn cầu hóa đi vào
giai đoạn phát triển mạnh mẽ trên toàn thế giới có những thành tựu vượt bậc về viễn
thông và công nghệ thông tin, mạng thông tin toàn cầu www hình thành. Sang những
năm 90 và sau đó, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế ở Việt
Nam thu được nhiều kết quả, đồng thời cũng là lúc hệ giá trị Việt Nam đi vào giai đoạn
biến động giữ dội nhất.


Bài 3: NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC
3.1. Vấn đề tổ quốc Việt Nam.
Có thể khẳng định rằng người Việt Nam là con người của tổ quốc luận, điều đó có
nghĩa là đối với người dân Việt Nam, tổ quốc lớn hơn tất cả. Nếu như gia đình có cơ sở
tự nhiên là do hôn nhân tạo nên thì tổ quốc lại là một tổ chức hình thành khá muộn và
thay đổi theo những nước khác nhau. Điều đó được minh chứng như sau.
Ở Trung Quốc trong tâm thức của người dân, nước gắn liền với dòng họ cai trị,
khi bàn đến vấn đề đất nước là nói đến dòng họ và đất nước, đến mức như Hàn Tín nói
“Người ta nói nước Tề mất không phải là nói đất đai thành quách nó mất mà nói họ Lữ
không cầm quyền mà họ Điền được dùng” [6]. Hay như thời Tam Quốc chiến tranh diễn
ra khốc liệt, họ chém giết nhau không phải vì Trung Quốc mà vì để cho họ Tào, họ Tôn,
họ Lưu cai trị thiên hạ, tất cả những người hy sinh cho những trận chiến đó được người
Trung Quốc cho là trung thần. Trong chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn về sau cũng
khẳng định “Cái mà người Trung Quốc sùng bái nhất là chủ nghĩa gia tộc và chủ nghĩa
tông tộc…Còn đối với quốc gia, trước nay người ta chưa một lần hy sinh cực lớn, do đó
sức đoàn kết của người Trung Quốc chỉ có thể đạt đến tông tộc, chưa mở rộng đến quốc

gia”. [6] Lịch sử Trung Quốc đã trải qua nhiều lần phân chia rồi bị dị tộc cai trị một phần
hoặc cả nước thì các cuộc chiến tranh cũng là vì dòng họ và tông tộc.
Ở các nước Châu Âu, khi xã hội phong kiến được hình thành, các lãnh địa ra đời,
toàn bộ ruộng đất được các lãnh chúa chiếm đoạt. Trong lãnh địa là một mô hình xã hội
khép kín, người nông dân chỉ biết có lãnh chúa, không biết có quốc gia, họ chỉ biết nộp tô
cho lãnh chúa và khi lãnh chúa bán đất thì bán luôn cả nông nô trên mảnh đất đó. Các
cuộc chiến tranh liên miên sảy ra giữa các lãnh chúa không phải là do chiến tranh giữa
các nước với nhau, mà là các cuộc chiến tranh diễn ra với nhiều nguyên nhân khác nhau
của các lãnh chúa và nước được hình thành cũng do sự lớn lên của các vùng đất của các
lãnh địa mà ra.
Ở Việt Nam vấn đề về tổ quốc có sự khác biệt rõ ràng, đó là từ việc hình thành các
nhà nước đầu tiên cho đến các nhà nước tiếp theo sau này và lòng yêu nước cũng vậỵ.
Trước khi đất nước ta rơi vào cảnh hơn nghìn năm Bắc thuộc thì cũng giống như các
nước ở Đông nam Á khác người cai trị là các phía, tạo chiếm giữ một vùng, khi có xâm
lăng các người đứng đầu của các vùng tập hợp lại đánh đuổi xâm lăng, nhưng khi xong


thì ai trở về nhà người ấy. Người thủ lĩnh được tôn làm vua nhưng chỉ về danh nghĩa,
không có quyền cai trị vùng đất ngoài vùng của mình. Đó là nguyên nhân khiến cho các
cuộc khởi nghĩa thất bại khi giặc phương Bắc kéo sang mà các thủ lĩnh chưa kịp đoàn kết
với nhau, các trường hợp như Hai Bà Trưng, Lý Nam Đế…là minh chứng.
Để tạo nên tinh thần dân tộc có nhiều yếu tố hợp thành. Trước hết phải có một sự
thống nhất về ý thức hệ. Nếu như ở châu Âu là thị trường nội địa tạo nên ý thức dân tộc,
phá vỡ các hang rào thuế khóa của các lãnh chúa. Còn ở Đông Nam Á là tôn giáo đảm
nhiệm vai trò thống nhất ý thức hệ, Việt Nam cũng không nằm trong trường hợp ngoại lệ.
Ở Việt Nam ngay từ thế kỷ thứ II Luy Lâu cũng đã trở thành trung tâm Phật giáo của cả
nước, hay như sử gia Lê Văn Hưu thời Trần cũng đã nhận thấy là đa số các thanh niên
vào chùa tu một thời gian và các nhà sư nhan nhản khắp nước. Tiếp theo đó là xây dựng
huyền thoại để chứng minh cho sự thống nhất về nguồn gốc sự tích cha Rồng mẹ Tiên
cho cả dân tộc là vậy. Tuy nhiên ý thức hệ bền vững để tạo nên tổ quốc luận của người

Việt Nam đó là yếu tố xuất phát từ thực tế cuộc sống của chính bản thân họ. Người Việt
sinh sống và phát triển gắn liền với nghề trồng lúa nước, mà vấn đề trị thủy là yếu tố vô
cùng quan trọng trong nghề nông của người Việt, họ phải đào kênh, sông dẫn nước, đắp
đê phòng úng, phòng lũ lụt, lúc đầu là những vùng đất hẹp rồi sau là cả đồng bằng.
Những việc làm đó yêu cầu phải có một tập thể chứ không thể cá nhân nào có thể làm
được, từ thực tế cuộc sống như vậy đã tạo nên một tinh thần tập thể và nó phát triển dần
thành một tinh thần chung cho người Việt. Tiếp theo một nước phải có hệ thống chính
quyền tiêu biểu cho chế độ chính trị của mình , muốn thế phải đập tan chế độ phì tạo ở
đồng bằng, thống nhất đồng bào vào một chính quyền thống nhất, Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn
12 sứ quân cũng chính là việc thống nhất mang ý nghĩa như trên. Bên cạnh đó phải có
chữ viết để thống nhất việc cai trị từ trung ương đến địa phương cần có ba yếu tố để cai
trị, thứ nhất là quyền đúc tiền, điều này được Lý Bôn thực hiện vào thế ký VII; thứ hai
quyền duy nhất tuyển mộ quân đội; thứ ba là quyền duy nhất thu thuế.
Sự thống nhất quốc gia cũng không chỉ dựa vào lưỡi kiếm ngọn giáo như ở Trung
Hoa, cũng không phải như các vua thần ở Đông Nam Á mà phải là người lãnh đạo dân
đánh bại được xâm lăng, làm được công tác đê điều. Do đó mỗi lần cố nguy có bị xâm
lược thì thường ở Việt Nam lại diễn ra sự thay đổi về triều đại và sự hy sinh trong các
cuộc chiến như vậy là sự hy sinh cho tổ quốc đánh ngoại xâm chứ không như ở Trung
Hoa đó là sự hy sinh cho các dòng họ. Trung Quốc tự gọi nước mình là Tần, Hán,


Đường, Tống, Nguyên , Minh Thanh…theo tên của các dòng họ. Còn người Việt Nam
tên nước, tên quốc gia là độc lập với các triều đại, các triều đại Lý, Trần, Lê …vẫn lấy
tên quốc gia là Đại Việt.
Vấn đề chủ quyền dân tộc không thể có ngay được trong một sớm một chiều mà
nó phải có thời gian nhất đinh, nó được hình thành dần dần qua các thời kỳ, qua các cuộc
khởi nghĩa. Đinh Bộ Lĩnh là vị vua đầu tiên mà Trung Quốc phải thừa nhận, bài thơ của
Lý Thường Kiệt khẳng định “Nam quốc sơn hà Nam đế cư”, “Hịch Tướng sĩ” của Trần
Quốc Tuấn, đặc biệt là “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi (1427) được coi là tuyên
ngôn đầu tiên về quyền tự quyết dân tộc và định nghĩa đầu tiên trên thế giới về nhà nước

dân tộc. Có thể nói Nguyễn Trãi đã đi trước UNESCO gần 600 năm đã lấy văn hóa làm
nền tảng cho chủ quyền dân tộc (Nhớ nước Đại Việt ta từ trước. Vốn xưng nền văn hiến
đã lâu), trước Stalin 465 năm đã thấy dân tộc là một thể thống nhất gồm 4 yếu tố cơ
bản:(Núi sông bờ cõi đã chia), phong tục (phong tục Bắc Nam cũng khác), lịch sử (Từ
Triệu, Đinh, lê, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập), chính quyền thống nhất (cùng Hán,
Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương), cao hơn nữa Nguyễn Trãi nêu lên
được thực chất của chế độ chính trị mà Việt Nam theo là con đường “Chí nhân, Đại
nghĩa”, sức mạnh của đất nước là những người “manh lệ bốn phương”và chính trách
nhiệm của một chính quyền thực sự dân tộc là “duy tân từ đấy”.[6] Bản tuyên ngôn độc
lập dân tộc đầu tiên đấy có giá trị cho đến ngày nay, cho nên có thể nói văn hóa Việt Nam
trước hết là văn hóa vì tổ quốc.
Để luận giải cho vấn đề văn hiến này chúng ta cần phải xem xét ở những hiện
tượng sau:
1. Người Việt Nam khi tiếp thu văn hóa Trung Hoa, người Việt chỉ tiếp thu các cái
phần cần thiết của văn hóa Trung Quốc để bảo vệ chủ quyền dân tộc mà thôi, chứ không
phải bắt chước một cách hoàn toàn nguyên bản. Sự tiếp thu này thể hiện trong cách thức
tổ chức chính quyền nhà nước bằng con đường dân sự không có sự can thiệp của tôn
giáo, chế độ thi cử, đào tạo ra những người cai trị đất nước, văn tự chữ Hán, chế độ cha
truyền con nối…là các yếu tố để đảm bảo cho việc tiếp thu văn hóa để giữ độc lập dân
tộc của người Việt.
2. Các khái niệm đạo đức của Nho giáo của người Trung Quốc được họ nâng lên
thành chuẩn mực của người quân tử: nhân, trí, dũng, hiếu, nghĩa, anh hùng được du nhập


vào Việt Nam thì nó cũng không còn hiểu giống như ở Trung Quốc nữa. Ở Trung Quốc
nó là cá nhân quân tử, là những khái niệm tách rời nhau còn sang Việt Nam nó được quy
vào đối tượng chung là dân và nước Việt Nam.
3. Trong tín ngưỡng dân gian từ Bắc chí Nam, tín ngưỡng thành hoàng là phổ biến
nó biểu hiện cho việc ghi nhớ công ơn. Nhìn qua tổng quan chúng ta có thể nhận thấy
việc tôn thờ các vị đầu tiên là các anh hùng cứu nước cứu dân như Hai bà Trưng và các

tướng lĩnh của bà, những người cầm đầu các cuộc khởi nghĩa chống ngoài xâm, sau đó là
đến các vị quan có tài có đức, những người là tổ sư các ngành nghề…như vậy tín ngưỡng
dân gian quy chiếu là trách nhiệm với đồng bào.
4. Tín ngưỡng dân gian ở Việt Nam có vị trí quan trọng trong lòng người dân thì
tôn giáo nào khi vào Việt Nam cũng không thoát khỏi ảnh hưởng. Phật giáo vào Việt
Nam nó cũng là Phật giáo tổ quốc luận. Dưới thời Bắc thuộc nó là nơi bảo vệ ý thức dân
tộc, chống lại sự đồng hóa không phải ngẫu nhiên mà có những vị vua tự xưng là Lý Phật
Tử. dưới các thời Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần phật giáo trở nên phát triển mạnh mẽ, Phật
giáo cũng trở thành cái lò để đào tạo các anh hùng, các nhà sư trở thành những sứ giả,
những vị quan bảo vệ đất nước.
Có một số tôn giáo khi du nhập vào Việt Nam nhưng không phát triển được như
Đạo lão của Trung Quốc, đạo Lão với quan điểm chống lại chính trị. Ở một nước tổ quốc
luận, những con người được sinh ra là con của làng của một đất nước thống nhất, tổ quốc
là số một thì đạo Lão không có chỗ đứng mà phải nhường chỗ cho một đạo riêng thuần
túy của người Việt Nam với các Thánh Mẫu, những con người quan tâm đến cuộc sống
của người dân, tới vận mệnh của quốc gia dân tộc, đó là thứ đạo có thể tồn tại bền vững ở
Việt Nam.
5. Đạo Nho ở Việt Nam được du nhập và trở nên thịnh đạt, thậm chí có thể coi là
chính quyền chủ động tiếp nhận và được xác lập thành ý thức hệ của xã hội phong kiến
và xây dựng đất nước thành một quốc gia hùng mạnh dưới thời Lê sơ. Người Việt học
chữ, đọc sách Trung Hoa để thi cử những văn học bằng chữ Hán lại là văn học yêu nước,
không một chúng ta chưa thấy một nhà Nho nào coi nhẹ văn hóa dân gian, chính tầng lớp
Nho sĩ lại là tầng lớp yêu nước, điều đó ta có thể thấy ở phong trào Cần Vương khi Thực
dân pháp xâm lược, đó là những sĩ phu yêu nước chân chính.


6. Đạo Thiên Chúa khi du nhập vào Việt Nam, châu Á, hay châu Mĩ nó không còn
là tôn giáo của những người bị áp bức dưới thời đế chế La Mã nữa, mà nó trở thành vũ
khí tinh thần của chế độ thực dân châu âu, chế độ thực dân lợi dụng vào tôn giáo để tìm
hiểu các nước phương đông, còn công giáo muốn lợi dụng thực dân để phát triển thế lực.

Các cố đạo người Pháp đã tích cực nhất trong cái gọi là “khai hóa văn minh”. Công giáo
có điểm mạnh là năm được cái khoa học kĩ thuật mới của phương tây, có tinh thần hy
sinh vì chúa, một giáo lý chặt chẽ và một tổ chức thống nhất kỷ luật không gì sánh nổi.
Tuy nhiên nhược điểm là coi thường văn hóa Phương Đông, tự mãn về tinh thần phương
tây. Từ thế kỷ XVI đến XVIII, đạo thiên chúa phát triển thuận lợi do chiến tranh Trịnh Nguyễn gây nên sự bất ổn trong tâm lý nhân dân . Nhân dân lưu tán, cuộc sống bếp bênh,
trong một cuộc nội chiến không liên quan gì đến vận mệnh đất nước nên tìm một chỗ dựa
tinh thần mà các vua chúa không đem lại được cho nhân dân là điều dễ hiểu. Họ hy vọng
60 vạn người sẽ đứng về phía Pháp khi đánh chiếm Đà Nẵng, nhưng họ đã tính sai, không
có người công giáo bỏ nước theo họ, Thực dân Pháp hiếm Việt Nam và ra sức ủng hộ đạo
Thiên chúa nhưng dù thực dân và thiên chúa có câu kết đến đâu thì số người cũng theo
không nhiều, đặc biệt nó trái ngược với tâm thức thờ cúng tổ tiên, quan hệ làng xã và gia
đình Việt Nam. Nhìn chung đây chỉ là một mặt bị lợi dụng nhưng Công giáo Việt Nam
thì vẫn là Việt Nam, trước khi là Công giáo, tức là yêu nước đi đôi với kính chúa. Đa số
vẫn tham gia tích cực vào phong trào cách mạng chiến đấu không kém gì ngoại đạo.
Thực tế xã hội Việt Nam không thể giống các quốc gia khác mà Việt Nam có sắc thái văn
hóa riêng để tồn tại và phát triển thì Thiên chúa giáo bắt buộc phải kính chúa trong yêu
nước, tức bị khúc xạ qua văn hóa dân tộc.
7. Với tình hình trên đạo Cao Đài cũng có nhiều điểm tương tự. Những người sáng
lập ra như Ngô Minh Chiêu, Phạm Công Tắc, họ sử dụng biện pháp cầu cơ của phương
Tây để tiếp xúc với thần linh và lập ra một tôn giáo kết hợp Phật giáo, Thiên chúa giáo,
tín ngưỡng dân gian và cả thong thiên học phương Tây. Trong hoàn cảnh đất các phong
trào yêu nước bị đàn áp khốc liệt, trong tâm tưởng của người dân Nam Bộ có tình trạng
hoang mang thì đạo này có điều kiện để phát triển. Cho dù một số người chống lại cách
mạng nhưng theo Ban tôn giáo khẳng định “tuyệt đại bộ phận tín đồ và số đông chức sắc
Cao Đài…đã có những đóng góp xứng đáng cho dân tộc trong hai cuộc kháng chiến”[6].
Với những luận cứ như đã nói ở trên chứng minnh một điều rằng muốn tranh thủ
thiện cảm, sự ủng hộ của nhân dân Việt Nam đều phải phù hợp với tinh thần yêu nước


của người dân Việt Nam và như sự khẳng của GS Phan Ngọc “người Việt Nam theo nhân

cách luận chứ không theo kinh tế luận”.
3.2. Vấn đề gia đình Việt Nam.
Gia đình là một tổ chức ra đời cùng với xã hội loài người, gia đình ra đời bắt
nguồn từ quan hệ nam nữ và việc sinh để duy trì nòi giống và nuôi dưỡng con cái. Điều
đầu tiên phải khẳng định gia đình là một cộng đồng gồm những người có cùng quan hệ
huyết thống gắn bó mật thiết với nhau. Việc tồn tại được bền vững của tổ chức gia đình
hay không là tùy thuộc vào mối quan hệ này. Tính chất của mỗi gia đình trong lịch sử lại
khác nhau tùy theo phương thức sản xuất, có chế chính trị - xã hội và các nền văn hóa
khác nhau.
Trong xã hội Việt Nam thời Đại Việt là một xã hội nông nghiệp trồng lúa nước tổ
chức sản xuất theo kiểu một nền kinh tế tiểu nông. Đơn vị kinh tế nền tảng của nhà nước
là làng xã. Làng là đơn vị quản lý, quân cấp ruộng đất công và thu tô thuế nộp cho nhà
nước. Người dân theo hộ gia đình mà nhận ruộng đất công để cày cấy. Nhà nước coi từng
cá nhân không phải là độc lập mà là người của từng làng, gánh vác các việc chung theo
làng vì vậy việc quản lý chặt hộ khẩu không cho dân ly tán là một vấn đề rất quan trọng
của làng.
Về mắt kinh tế, có thể thấy gia đình nông dân thuộc tầng lớp trung lưu là phổ biến
vì nó tiêu biểu cho cách thức tổ chức sản xuất nông nghiệp nhằm tự túc và đóng góp cho
làng nước. Gia đình trung nông là gia đình có đủ ruộng cày, có đủ sức lao động và sắp
xếp công việc làm ăn quy củ, có sản nghiệp để tạo nên một hình ảnh phồn vinh ở thôn
quê. Có đời sông khá giả hơn là những gia đình địa chủ, phú nông có dư thừa ruộng đất
nên có thể thuê người làm học cho người làm rồi nộp tô. Do vậy, các gia đình này có sự
khác với các gia đình trung nông về quan hệ lao động phương diện và phương diện bóc
lột. Phần lớn còn lại trong làng xã Việt Nam thời kỳ đó là gia đình các hộ nông dân
nghèo không đủ hoặc không có ruộng đất, phải làm thuê hoặc làm nhiều các việc khác
nhau ngoài đồng rộng. Nhìn chung hầu như toàn bộ người Việt trong xã hội truyền thống
của Đại Việt xưa sống bằng nghề trồng lúa nước nên cư dân ở nông thôn chưa hình thành
một giai cấp thợ thủ công như ở các nước khác trên thế giới.
Về quan hệ giữa các thành viên, gia đình truyền thống của người Việt là gia đình
hạt nhân. Gia đình hạt nhân gồm một cặp vợ chồng và các con chưa vợ chưa chồng của



họ. Trong gia đình hạt nhân có ba mối quan hệ: quan hệ vợ - chồng, quan hệ bố mẹ - con
cái và hệ anh – chị - em. Gia đình hạt nhân của người Việt truyền theo tộc bố, mang
danh tộc về phía bố (mang họ cha). Người con trai cả đã có vợ có con sẽ vẫn ở lại với bố
mẹ. Khi bố mất anh ta được thừa hưởng ngôi nhà và phần tài sản lớn nhất, còn các con
trai thứ khi lấy vợ thì sẽ rời khỏi nhà bố mẹ để sống với vợ con trong một ngôi nhà riêng,
có kinh tế riêng. Vì là bố mẹ già vẫn giữ con trai cả ở lại trong nhà khi đã có vợ con nên
có thể coi đây là dạng gia đình hạt nhân mở rộng hay gia đình; trong gia đình này ngoài
bố mẹ già ra còn có một số em trai hoặc em gái còn bé.
Trật tự mối qua hệ giữa các thành viên trong gia đình truyền thống theo dòng bố
và mang tộc danh bố dựa trên nguyên tắc phân biệt thế hệ, trưởng – thứ theo lối hàng dọc
bậc: ở bậc trên là cha mẹ, anh chị, ở bậc dưới là con, em. Trật tự trên dưới còn được xác
định theo nguyên tắc phân biệt giới tính: vị trí của nam giới cao hơn nữ, nghĩa là của
chồng cao hơn của vợ, bố cao hơn mẹ, anh cao hơn chị. Những đặc điểm đó là gia đình
truyền thống Việt Nam là gia đình phụ quyền. Tính chất phụ quyền ấy biểu hiện khá
thống nhất trên các phương diện kinh tế, xã hội, tín ngưỡng, giáo dục …về kinh tế là ví
dụ, bất động sản của gia đình do đàn ông nắm và chỉ truyền cho con trai. Việc giáo dục
con cái cũng chủ yếu là thuộc về người cha. Con gái là thuộc về nhà chồng nên sẽ không
tham gia vào các công việc trong nhà. Con dâu nhất là con dâu trưởng tuy không sinh ra
trong gia đình nhưng vì sẽ sinh cháu nối dõi tông đường nên có vị trí cao hơn con gái
(dâu là con, rể là khách).
Về mặt tín ngưỡng, để thực hiện việc thờ cúng tổ tiên người Việt dựa trên nguyên
tắc quyền con trưởng của các thành viên nam trong gia đình. Mỗi một hộ con trai đều có
một bàn thờ tổ tiên trong nhà, nhưng các tổ tiên được tờ cúng chỉ là các tổ tiên trực tiếp
về phía bố, tức là chỉ thờ bố mẹ, ông bà nội, ông bà cụ nội, ông bà kỵ nội anh ta thôi. Các
em trai của anh ta không có bàn thờ trong nhà, đến ngày giỗ thì cùng gia đình đến nhà
anh trai cả dự lễ.
Tính chất phụ quyền của gia đình truyền thống Việt trước hết là sản phẩm của lịch
sử nền kinh tế tiểu nông và của tổ chức xã hội phong kiến trong đó người đàn ông có vai

trò quan trọng trong lao động và tổ chức sản xuất trong đời sống gia đình cũng như trong
đời sống xã hội, tính chất phụ quyền ấy có phần ảnh hưởng của văn hóa Nho giáo đem
lại. Nho giáo chủ trương trao quyền lực nhà nước, trong xã hội, trong gia đình cho nhà
vua, thầy giáo và người bố trong gia đình (quân, sư, phụ). Tuy nhiên, ảnh hưởng của Nho


giáo chỉ biểu hiện rõ rệt trong các gia đình nhà nho. Gia đình nhà Nho là gia đình của
tầng lớp không chọn con đường sản xuất làm ăn như gia đình nông dân, mà con đường
học hành, thi cử để đạt tới công danh (làm quan, làm thầy), Đối với các gia đình này là
cái làm nên giá trị và xác định vị trí xã hội, do đó được quan tâm tới nhất là gia thanh, gia
phong, gia thế. Các gia đình ấy lấy lễ nghĩa của Nho giáo để củng cố những giá trị đó,
nên nhiều khi đã trở nên nghèo khó mà vẫn cố làm ra vẻ phong lưu để giữ “thể thống gia
đình”.
Nho giáo cũng ảnh hưởng đến gia đình truyền thống của nông dân nhưng nhiều
khi chỉ mang tính chất hình thức. Trong gia đình nông dân, thực chất vị trí của người phụ
nữ không như lễ nghĩa của Nho giáo quy định. Về lao động sản xuất những công việc
người phụ nữ đảm nhiệm trên đồng ruộng, công việc nặng nhọc cũng không kém gì đàn
ông (Thân em vất vả trăm bề, Sớm ra ruộng lúa, tối về ruộng dâu, Lúa tốt thì bởi tại
phân, Vì tay em lấm vì chân em mòn…). Họ không phải chỉ là kẻ phụ việc, mà là người
bạn lao động của người đàn ông, bình đẳng với đàn ông (Trên đồng cạn, dưới đồng sâu,
chồng cày vợ cấy, con trâu đi bừa). Ngoài ra những hoạt động tiểu thương nghiệp, phụ
nữ có vai trò chính. Trong gia đình phụ nữ nắm “tay hòm chìa khóa”, vai trò của người
phụ nữ quyết định các khoản chi tiêu trong gia đình.
Gia đình hạt nhân, gia đình nhỏ của người Việt là đơn vị kinh tế độc lập. Các gia
đình ấy truyền theo dòng bố, mang tộc danh về phía bố, cùng nhận tổ tiên chung về phía
bố, nên khi tập hợp lại thì sẽ tạo thành một thực thể rộng lớn hơn. Thực thể đó là tổ chức
họ của người Việt, liên kết các gia đình với nhau theo họ nội như vậy rất coi trọng việc
thờ cúng tổ tiên, hầu hết các dòng họ đều có các nhà thờ họ, có tộc phả. Gia tộc không
phải là một đơn vị kinh tế như gia đình, nhưng là chỗ dựa tin cậy, vững chắc cho gia
đình, việc gia đình mà không giải quyết được thì đem ra họ giải quyết trước, nếu vẫn

không giải quyết được thì mới đem ra tổ chức cao hơn là làng xã và nhà nước. Người
trong một họ tộc có trách nhiệm cưu mang, hỗ trợ, dìu dắt cả về vật chất lẫn tình thần
(Sẩy cha còn chú, sẩy mẹ bú dì; Một người làm quan cả họ được nhờ; Giọt máu đào hơn
ao nước lã…)
Do mối quan hệ giữa gia tộc (họ) với gia đình (nhà) và giữa gia tộc với làng xã
như vậy, nên mô hình thiết chế xã hội cơ bản ba yếu tố nói trên có thể bổ sung thành mô
hình nhà – họ - làng – nước.[2]


3.3. Vấn đề thân phận
Ở các nước phương Tây, trước khi phong trào dân tộc thắng lợi, người nô lệ,
người nông dân không có thân phận, người dân trong các công quốc không có thân phận
vì họ thuộc công quốc nào thì tùy theo sở thích của ông chủ: một công chúa lấy lấy một
ông chồng là gộp luôn công quốc của mình vào công quốc của chồng. Trong tình trạng
mọi nước đều bị chia cắt, người dân chỉ biết đến vị lãnh chúa của mình không qua tâm
mấy đến thân phận của riêng mình với tính cách của một người dân.
Ở Trung Hoa dưới thời quân chủ, người dân cũng không có thân phận. Dưới bộ
máy quan liêu, do sức mạnh của bạo lực quân sự người ta có thể làm cỏ một vùng, giết
hết già trẻ, lớn bé không chút thương xót ta có thể thấy các hành động của Hạng Võ trong
“Sử ký của” Tư Mã Thiên hay Tào Tháo trong “Tam Quốc chí”. Có những hình phạt cực
kỳ nặng của Trung Quốc như tru di tam tộc, tru di cửu tộc.
1. Ở Việt Nam người Việt có ý thức về thân phận mình, người đầu tiên đưa ra
được vấn đề này với thế giới là Nguyễn Ái Quốc. Trong lời kêu gọi “Hội Quốc Liên”,
năm 1926 về “Quyền tự quyết của nhân dân Việt Nam”, Nguyễn Ái Quốc viết: “Mặt
khác các bạn hãy xem nước Việt Nam trước khi bị Pháp xâm lược là như thế nào, đó là
một nước độc lập biết khiến các nước láng giềng phải kính trọng, trong khi vẫn coi khinh
chiến tranh và nghĩa vụ quân sự, trong khi để bảo vệ quốc phòng chỉ dùng đến dân binh
của nó mà thôi. Đó là một nền dân chủ dưới cái vẻ là quân chủ….”
Con người Việt Nam trước khi bị Pháp xâm lược có một thân phận riêng, không
phải ai muốn làm gì với anh ta cũng được, anh ta không hoàn toàn lệ thuộc vào kinh tế

chính trị của kẻ mạnh, anh ta được hưởng một sự che chở đặc biệt, đảm bảo cho cho anh
ta có thể sống yên ổn, nếu như anh ta sống lương thiện có đạo đức. [6]
2. Xã hội Việt Nam có một truyền thống văn hóa hai mặt do đất nước thống nhất
về chính trị không phải được xây dựng trên một bộ máy quan liêu có sức mạnh to lớn, mà
trên một biển công xã tự quản. một xã hội như vậy phải lo cho dân mình trong hai quan
hệ: Một là, phải chấp hành yêu cầu của chính quyền trung ương chủ yếu là về tô thuế, sưu
dịch, đắp đê, tuyển binh lính cung cấp những sản vật cho triều đình cần đến. Nhưng trong
khi làm phải tính đến quyền lợi của làng xã mình, không thể để cho làng xã mình thiệt
thòi, bởi vì những người đại diện cho làng xã là do dân bầu lên, sống dựa vào dân, không


phải lương của nhà nước chi trả. Hai là, phải đảm bảo một trình độ công bằng nhất định
cho dân vui vẻ sống lao động vì làng xã Việt Nam là một chế độ tự quản nhất định.
Trong xã hội cũ không làng nào là không có hương ước, hương ước như một thứ
hiến pháp được thành lập qua thời gian của một nhân dân quen với tục lệ và sống theo lệ
làng. Hương ước là một thứ giao kèo không chỉ giữa nhân dân một làng mà chủ yếu là
những người được nhân dân cử ra điều khiển làng với toàn dân. Với những điều như đã
nói đó là thân phận riêng của người Việt mà không phải chỗ nào cũng có.
3. Người nông thôn Việt Nam trọng tuổi hơn trọng chức vụ, tiền bạc. Tuổi là cái
mọi người đều có, từ vua cho đến dân. Điều đó khẳng định tình trạng quý trọng kinh
nghiệm, quá trình sinh sống và là cách phân chia quen thuộc của các làng xã cổ xưa chưa
biết đến cá nhân.
Con người Việt Nam trước hết được làng xã che chở, đùm bọc. Về kinh tế họ được
chia một phần ruộng công của làng, cứ khoảng 3 năm chia lại một lần cho các năm giới
từ 18 tuổi trở lên chiếu theo sổ đinh của làng, cho dù có ruộng tư nó phát triển chậm nên
làng nào cũng có ruộng công. Trong số các ruộng công này, ruộng tốt cấp cho binh lính
vì công lao của họ, có các loại trợ sưu điền để giúp đỡ nhân dân khi không đủ tiền nộp
sưu, có bút điền để trợ cấp cho chi phí giấy bút trong công việc của làng, có học điền để
trợ cấp cho việc học, có cô nhi điền và quả phụ điền để trợ cấp cho cô nhi quả phụ…chế
độ tự quản của làng xã cấp cho người dân làng xã có một thân phận riêng che chở cho

người dân khiến không một vua chúa của Việt Nam nào dám nghĩ đến chuyện “làm cỏ
một làng”, dù trong thời đại nào cũng có những cuộc nổi dậy của các làng chống lại
những chính sách chưa phù hợp với lòng dân.
4. Một điểm nữa để đánh giá thân phận của côn người ta hãy thông qua thân phận
người phụ nữ Việt trong lịch sử. Người phụ nữ Việt Nam trong làng xã có thân phận rõ
ràng, không ai bó chân họ, bắt họ suốt đời trong “xó bếp”. Lý thuyết nam nữ thụ thụ bất
thân là chuyện của Trung Quốc, chỉ nhìn các hội hè đình đám ở nông thôn cũng thấy
không ai theo chuyện đấy. Phụ nữ Việt Nam đi chợ, tham gia giao tiếp xã hội, có vai trò
quan trọng hơn nam giới trong kinh tế, giáo dục gia đình, họ nắm tay hòm chìa khóa, dân
gian có câu “giàu vì bạn sang vì vợ”. Quan hệ xã hội trong một gia đình nhất là quan hệ
với làng xã, họ hàng do phụ nữ tạo nên còn nam giới chỉ là đại diện ở bên ngoài mà thôi.
Người Việt với tâm thức là lấy phải người vợ lăng loàn, làm mất quan hệ với họ hàng,


một người phụ nữ khi lấy chồng là gánh cả giang sơn nhà chồng, gia đình nhà chồng có
được mọi người kính nể hay không là là do vợ quyết định.
Tín ngưỡng Việt Nam cũng là một biểu hiện. Nếu như chỉ có nam giới là người
tham gia bàn công việc làng ở Đình thì những người đến chùa, các đạo quán gần như là
toàn nữ giới. không những thế thiên đình đạo ở Việt Nam lại do nữ giới làm chủ chứ
không phải nam, người ta gọi những cái tên như Mẫu, các bà mẹ… Mẫu thượng thiên,
Mẫu thoải, Mẫu thượng ngàn..cùng với các cô, các bà chúa…và thế giới tâm linh của
người Việt là do phụ nữ cai quản.
Một văn hóa coi khinh phụ nữ không thể gọi là nhân đạo được, chính những nét
đẹp truyền thống tôn trọng phụ nữ, dành cho nữ giới một địa vị chủ động trong những
phạm vi nhất định mới tạo được một truyền thống nữ giới anh hùng trong những cuộc
kháng chiến đã qua.
3.4. Vấn đề diệm mạo
- Thân phận và diệm mạo của một con người có được là do sự cố gắng của bản
thân mỗi con người và đã được xã hội cấp cho. Trong xã hội xưa con người đã có thân
phận nhưng họ phần lớn là không có ý thức về diệm mạo của mình. Điều này chúng ta cố

thể thấy như: Trong xã hội cổ xưa của người Ê đê và người Giarai ở Tây Nguyên, hình
phạt nặng nhất đối với con người để trừng trị không phải là cái chết. Vì anh ta tin rằng
nếu chết đi anh ta sẽ đầu thai lại ngay trong thị tộc của mình. Hình phạt nặng nhất đối với
anh ta là bị đuổi ra khỏi cộng đồng, bởi vì lúc đó anh ta sẽ bị mất đi thân phận mà anh ta
được hưởng trong cộng đồng của mình. Xã hội Trung Quốc xưa có phân ra hai hạng
người là tiểu nhân và quân tử, đây là sự phân chia theo thân phận không theo diệm mạo.
Người có ý thức về diện mạo nhất có lẽ là các ẩn sĩ, các hòa thượng, họ tìm thấy giá trị cá
nhân của họ trong sự đối lập với tập tục và chấp nhận những thiệt thòi về phía mình để có
được một sung sướng mới: ý thức về diện mạo. Phải có ý thức này mạnh mẽ ở một số
người đến mức hộ vượt lên mọi khổ cực, sống thản nhiên trước những ham muốn lôi
cuốn.[6]
- Trong xã hội xưa, trong xã hội Việt Nam được xây dựng trên cơ sở làng xã làm
tế bào, trong làng xã có chính quyền, trong chính quyền có nhiều vị trí đảm nhiệm như
hội đồng hào mục, có nhiều tổ chức như: giáp, tư văn, tư võ nghệ, rồi nghề đan, mộc,
thêu…đặc biệt có những người được triều đình phong cấp cho các học vị như Cử nhân,


Tiến Sĩ…. Vì là do triều đình phong tặng nên uy tín củ họ vượt ra ngoài một làng, một
xã. Tất cả những cương vị trên, thì diệm mạo được hình thành trong cương vị đảm nhiệm
của từng vị trí trong chính quyền và từng tổ chức một. Ngoài ra về mặt tín gưỡng, chế độ
thờ cúng thì các tộc trưởng, các trưởng chi lại có một diệm mạo riêng.
- Về trật tự cao thấp, thứ hạng trong diệm mạo ở xã hội Việt xưa cũng thể hiện ở
việc trật tự cao thấp, kẻ trên, người dưới, người làm việc này, người làm việc khác và mỗi
người có bổn phận khác nhau. Dĩ nhiên diệm mạo của mỗi người có thay đổi và chính sự
phấn đấu để thay đổi diệm mạo là một động lục rất mạnh để xã hội thay đổi. Tuy nhiên
trong xx hội quân chủ việc thay đổi diệm mạo tương đối chậm, bởi nó bị quy định bởi gia
thế, tài sản, chức vụ.
- Về mặt diệm mạo truyền thống của gia đình Việt Nam xưa. Một gia đình dạy con
biết hiếu, đễ, liêm sỉ không phải để nhờ con cái là gì mà để giữ lấy đạo đức cho gia đình,
cái đó xưa gọi là gia phong. Nó quý hơn ruộng đất, tài sản. Cái gì mất đi cũng có thể lấy

lại được nhưng gia phong mất đi, con người mất đi diệm mạo thì rất dễ làm điều trái với
đạo nghĩa. Khi gia đình là yếu tố tạo nên nhân cách con người Việt Nam, thì truyền thống
gia đình đóng vai trò chủ chốt trong việc xây dựng nhân cách từng người.
Đối với người Việt Nam, điều quan trọng nhất là để lại tiếng thơm cho con cháu
sau khi chết. Một vị vua khi sống thì gọi bằng niên hiệu, ví dụ vua Hồng Đức, vua Chiêu
Thống. Nhưng khi chết , triều đình căn cứ vào cách cai trị của ông mà gọi bằng một cái
tên khác, lịch sử sau này sẽ gọi bằng cái tên ấy. Thí dụ vua Hồng Đức sẽ được gọi là Lê
Thánh Tông, vua Chiêu Thống sẽ được gọi là Lê Mẫn Đế (vua tội nghiệp). Người dân
bình thường khi chết đi cũng có môt cái tên như vậy gọi là hiệu bụt và được ghi vào bài
vị, các tên hiệu bụt là có sẵn được làng tặng, cấp và được ghi vào gia phả.
- Để xây dựng ý thức thường trực về gia phong, có một tín ngưỡng đặc biệt của
người Việt Nam đó là tục thờ cúng gia tiên. Về cơ bản đây là một tín ngưỡng chung của
cư dân Đông Nam Á , kể cả Hoa Nam Trung Quốc trước kia cũng thuộc phạm vi vùng
văn hóa Đông Nam Á. Tín ngưỡng này đối với người Việt Nam khi tiếp nhận tôn giáo
khác thì luôn luôn lấy nó làm gốc, làm nền tảng. Không những Nho giáo, Phật giáo, Đạo
giáo, cả những đạo mới lập như Cao Đài, Hoài Hảo đề lấy nó làm nền tảng, ngay cả Đạo
Thiên chúa theo nguyên lý chỉ thờ Chúa, các gia đình Thiên Chúa vẫn tổ chức những


ngày giỗ tổ tiên, vẫn mời những người thân đến dự, như vậy xét đến cùng rõ ràng đây vẫn
là sự khúc xạ văn hóa nói chung.
3.5. Những chuyển biến tương lai
Văn hóa Việt Nam đang có những chuyển biến hết sức to lớn.
Thứ nhất với những biến đổi hằng ngày, hằng giờ của các thành tựu khoa học kĩ
thuật ngày nay, các phương tiện thông tin đại chúng hiện đại, con người tiếp xúc với thế
giới là vô cùng sâu rộng, không còn biên giới trong lĩnh vực thông tin. Sự tiếp xúc này có
nghĩa là sự thỏa hiệp từ hai phía. Do đó sớm hay muộn văn hóa Việt Nam cũng sẽ mang
sắc thái mới, sắc thái có tính chất thế giới. Trong điều kiện mới này một điều chắc chắn
rằng văn hóa Việt Nam có điều kiện pát huy ra ngoài nước cùng với đó là tiếp thu các yếu
tố mới.

Thứ hai, cùng với các nước ở Đông Nam Á Việt Nam có thể nói là một nước có
truyền thống văn hóa bề dày hơn, đa dạng hơn, trội hơn nhưng vẫn còn nhiều vấn đề bất
cập, chưa tạo ra được thế mạng riêng cho mình, chưa phát huy được hết tiềm năng của
mình. Sẽ có những có những yếu tố mới, cách lý giải mới trong tương lai về vấn đề Tổ
quốc, Gia đình, Thân phận và Diệm mạo, nhưng cái đích sẽ không thay đổi đó là quyền
đời vật chất tinh thần của người dân phải được nâng cao không ngừng.


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×