Tải bản đầy đủ (.doc) (144 trang)

Một số vấn đề của dạy học văn học việt nam trung đại ở trung học cơ sở hiện nay luận văn thạc sĩ ngữ văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (905.1 KB, 144 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

ĐINH THỊ DUNG

MộT Số VấN Đề CủA DạY HọC
VĂN HọC VIệT NAM TRUNG ĐạI ở TRUNG HọC CƠ Sở HIệN NAY

Chuyờn ngnh: LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC BỘ MÔN VĂN - TIẾNG VIỆT
Mã số: 60.14.10

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học:
TS. PHẠM TUẤN VŨ

NGHỆ AN - 2012


2
MỤC LỤC
Hoạt động của thầy và trò...............................................................................90
Nội dung.............................................................................................................90


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Văn học Việt Nam trung đại là một trong những phần chủ yếu của
chương trình Ngữ văn ở THCS. Nó được bố trí thời lượng lớn, ở tất cả các lớp
của cấp học này. Chất lượng dạy học phần này cịn có ảnh hưởng đến việc dạy


học văn học Việt Nam trung đại ở cấp sau.
1.2. Văn học Việt Nam trung đại gồm những văn bản ra đời cách đây đã
lâu so với hiện nay, trong hồn cảnh có những điểm khác biệt lớn. Những
điều này tạo nên những khó khăn đáng kể khi dạy học văn học Việt Nam
trung đại ở trung học cơ sở (THCS) hiện nay.
1.3. Hiện tại nhận thức và tình cảm của người dạy và người học về phần
văn học Việt Nam trung đại đang có những thay đổi theo cả hướng có lợi và
bất lợi, bởi vậy việc dạy học phần này đang đặt ra những vấn đề cần phải giải
quyết để nâng cao chất lượng dạy học.
1.4. Việc dạy học văn học Việt Nam trung đại nói riêng và dạy học Ngữ
văn ở THCS nói chung đang ngày càng được sự hỗ trợ của các phương tiện
dạy học hiện đại. Bên cạnh những kết quả khả quan cũng cịn có những vấn
đề cần phải nghiên cứu thêm để phù hợp với tính chất của văn học Việt Nam
trung đại. Nghiên cứu đề tài này góp phần thiết thực vào việc đổi mới phương
pháp dạy học Ngữ văn.
2. Lịch sử vấn đề
Vấn đề phương pháp dạy học văn nói chung và dạy văn học trung đại
Việt Nam nói riêng đã được nhiều nhà giáo học pháp và nhiều nhà nghiên cứu
quan tâm.
Phương pháp dạy học văn của nhóm tác giả Phan Trọng Luận, Trương
Dĩnh, Nguyễn Thanh Hùng, Trần Thế Phiệt (1988) đã trình bày những vấn đề
lí luận chung về bộ môn, khoa học về phương pháp dạy học văn và phương
pháp dạy học bộ mơn. Có thể nói đây là cơng trình đầu tiên nghiên cứu một
cách tổng thể, toàn diện về phương pháp dạy học văn. Cuốn sách đã đưa ra
các phương pháp dạy học văn ở trường phổ thông: gợi mở, nghiên cứu, tái
tạo, nêu vấn đề. Các tác giả đã đề cập đến vai trò của người học. Cuốn sách
cũng đưa ra những phương pháp cụ thể khi dạy một thể loại. Hoàn cảnh hiện


2

nay đã khác, chương trình SGK cũng đã thay đổi do đó những nội dung các
tác giả nêu ra trong cơng trình ít nhiều khơng cịn phù hợp.
Năm 2007, Trong cuốn Văn học trung đại Việt Nam trong nhà trường, tác
giả Phạm Tuấn Vũ đã đề cập tới một số vấn đề thuộc một số thể loại văn học
trung đại Việt Nam, trong đó tác giả chú trọng tới một số tác phẩm văn học
trung đại được dạy học ở trường phổ thông. Các bài viết trong cuốn sách được
sắp xếp theo bốn nhóm: về phú, về thơ, về văn tế, về văn chính luận. Đây là
tài liệu tham khảo rất có ích cho giáo viên dạy văn ở trường phổ thông bởi tập
sách đã cung cấp cho người đọc những hiểu biết về các thể loại nói trên, thế
nhưng chưa mang lại cách thức tiếp cận cụ thể cho từng thể loại.
Trong cuốn Để dạy tốt học tốt tác phẩm văn chương (phần trung đại) ở
trường phổ thông (2007), tác giả Nguyễn Thanh Hương đã đưa ra các phương
pháp dạy học văn học trung đại như: Hướng dẫn học sinh đọc tác phẩm, dạy
học văn học trung đại thông qua cắt nghĩa, dạy thơ trung đại thông qua chú
giải sâu… Hướng dẫn học sinh đọc hiểu tác phẩm văn học trung đại, tác giả
cho rằng văn học trung đại có các kiểu đọc như đọc đúng, đọc kỹ, đọc hay,
đọc chéo, đọc có định hướng, mục đích, đọc bổ sung, đọc diễn cảm, kèm theo
những giải thích cụ thể về các kiểu đọc và đưa ra ví dụ cụ thể về cách đọc
hịch, đọc cáo…Những vấn đề mà tác giả nêu lên trong cuốn sách chưa thực
sự là phương pháp mà thực ra đó chỉ là những biện pháp, thủ pháp hơn nữa
những kiểu đọc mà tác giả đưa ra không phải chỉ riêng cho văn học trung đại
mà văn học dân gian hay văn học hiện đại cũng có thể áp dụng.
Cơng trình nghiên cứu Văn chính luận Việt Nam thời trung đại (2010)
của tác giả Phạm Tuấn Vũ đã phân tích khá cụ thể các văn bản chính luận
trung đại được dạy học ở trường phổ thơng và thực tế dạy học các văn bản
chính luận ấy. Từ đó tác giả đã đưa ra những cách thức cụ thể để người dạy
người học có thể tiếp cận tốt với thể loại văn chính luận. Những kiến thức mà
tác giả trình bày trong cuốn sách đã giúp ích rất nhiều cho giáo viên dạy ngữ
văn. Tuy nhiên tác giả nghiên cứu chỉ giới hạn ở phần văn chính luận.
Phương pháp dạy học ngữ văn ở trường phổ thông theo hướng tích hợp

và tích cực của Đồn Thị Kim Nhung phục vụ dạy học Ngữ văn THCS đã
đưa ra những định hướng về đổi mới phương pháp dạy học theo quan điểm
tích hợp và tích cực, xây dựng được mơ hình thiết kế giáo án phù hợp.


3
Cuốn sách đã cung cấp cho giáo viên dạy ngữ văn THCS những kiến thức
lí luận, thực tiễn, có được những định hướng đổi mới, phương pháp dạy
học phù hợp với từng phân môn. Thế nhưng phương pháp dạy học từng
phần văn học cụ thể: văn học dân gian, văn học trung đại và văn học hiện
đại chưa được đề cập tới.
Đổi mới phương pháp dạy học văn được bắt đầu bằng việc thay
đổi chương trình SGK. Bộ SGK Ngữ văn đã định hướng cho giáo viên
và học sinh khám phá phân tích tác phẩm bằng hệ thống câu hỏi hướng
dẫn học bài, bằng yêu cầu cần đạt và ghi nhớ ở đầu và cuối mỗi bài học.
Phần yêu cầu cần đạt giúp giáo viên xác định được trọng tâm kiến thức
của bài học, giúp học sinh kiểm tra việc dạy của giáo viên và việc tiếp
thu kiến thức của mình. Phần hệ thống câu hỏi hướng dẫn học bài giúp
HS từng bước khám phá, tiếp cận văn bản và đồng thời hướng dẫn giáo
viên tổ chức giờ học.
Các tài liệu khác là sách giáo viên, sách thiết kế bài giảng và các tài
liệu tham khảo khác đều trình bày cụ thể, chi tiết các văn bản Ngữ văn được
giảng dạy trong nhà trường, trong đó có các văn bản Ngữ văn thuộc phần văn
học trung đại. Tuy nhiên các kiến thức được trình bày riêng rẽ với từng văn
bản cụ thể, chưa có cái nhìn khái qt, hình thành nên những cách thức
phương pháp cụ thể để tiếp cận với từng loại văn bản thuộc những thể loại
khác nhau trong chương trình văn học trung đại ở trường phổ thơng.
Xuất phát từ lí do, mục đích và phạm vi nghiên cứu của luận văn, do hạn
chế về thời gian và nguồn tư liệu tham khảo, chúng tôi không thể xem xét tất
cả các cơng trình nghiên cứu của các tác giả. Chúng tơi thấy đã có nhiều cơng

trình nghiên cứu về phương pháp dạy mơn Ngữ văn nói chung, giảng dạy văn
học trung đại nói riêng trong nhà trường THCS với những quy mô và hướng
tiếp cận khác nhau. Giới nghiên cứu đã đề cập đến nhiều vấn đề, thể loại của
văn học trung đại để đưa ra những cách thức tiếp cận các văn bản văn học
trung đại giúp người dạy người học có thể thâm nhập vào thế giới hình tượng
để từ đó hiểu được tác phẩm... Dạy học các tác phẩm văn học trung đại vẫn
còn nhiều vấn đề phải bàn luận. Chính vì vậy chúng tôi chọn đề tài Một số
vấn đề của dạy học văn học Việt Nam trung đại ở trung học cơ sở hiện
nay để nghiên cứu.


4
3. Mục đích nghiên cứu
3.1. Nhận thức thêm về vị trí của phần văn học Việt Nam trung đại và
những thuận lợi, khó khăn của dạy học phần văn học này trong chương trình
Ngữ văn THCS.
3.2. Đánh giá và lý giải chất lượng dạy học phần văn học Việt Nam trung
đại ở THCS hiện nay.
3.3. Đề xuất một số ý kiến để việc đổi mới việc dạy học văn học Việt
Nam trung đại ở THCS đúng thực chất và việc huy động các phương tiện dạy
học hiện đại phù hợp với bộ phận văn chương này.
4. Phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu việc dạy học và đọc thêm các văn bản văn học Việt Nam
trung đại trong chương trình Ngữ văn THCS hiện nay về các phương diện
nhận thức văn bản, phương pháp dạy học.
- Nghiên cứu đặc điểm của người dạy và người học văn học Việt Nam
trung đại ở THCS hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu Ngữ văn: thống kê phân loại, tổng hợp - phân tích, đối sánh… kết hợp với sử dụng các phương
pháp nghiên cứu khoa học giáo dục: phương pháp quan sát, phương pháp điều

tra, phương pháp thực nghiệm.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, nội dung của luận văn được trình bày
trong ba chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung
Chương 2: Vấn đề nâng cao chất lượng dạy học văn học Việt Nam
trung đại ở THCS hiện nay
Chương 3: Thực nghiệm


5
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Khái niệm văn học trung đại Việt Nam
1.1.1. Tên gọi
Thuật ngữ “Văn học trung đại” được dùng khá phổ biến ở Việt Nam
trong mấy thập kỷ gần đây. Văn học trung đại là là khái niệm dùng để chỉ
văn học viết của Việt Nam từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX.
Trước đây người ta gọi thời kỳ văn học này bằng nhiều tên gọi khác
nhau. Trước Cách mạng tháng Tám Dương Quảng Hàm, Phạm Thế Ngũ gọi
theo triều đại; bộ Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam của nhóm Lê Quý Đôn
đã dùng thuật ngữ văn học cổ điển. Trong Mấy vấn đề văn học sử Việt Nam
nhà nghiên cứu Trường Tửu gọi đây là văn học cổ điển. Các bộ giáo trình lịch
sử văn học Việt Nam của đại học sư phạm, Đại học tổng hợp Hà Nội hoặc gọi
theo niên đại hoặc gọi văn học thời phong kiến. Có nhà nghiên cứu gọi là Văn
học Hán – Nôm. Đến cuốn Đặc điểm có tính quy luật của lịch sử văn học Việt
Nam xuất bản nội bộ ở trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh năm
1984, người viết chuyên luận này mới dùng thuật ngữ văn học trung đại để
gọi tên cho thời kỳ văn học dân tộc từ thế kỷ X đến thế kỷ XIX. Cách gọi này
đã được dùng khá phổ biến trong mấy chục năm qua, đã đi vào sách giáo khoa

phổ thông, giáo trình đại học, các chuyên đề giảng dạy ở bậc cao học.
Các cách gọi tên này đều có những điều hợp lí và những bất hợp lí. Cách
gọi tên theo triều đại Lí Trần, Hậu Lê, Lê Trung Hưng… là cách gọi theo tiến
trình lịch sử khơng xuất phát từ văn học. Cách gọi theo niên đại từ thế kỷ này
đến thế kỷ khác là cách gọi lấy những mốc thời gian để đánh dấu sự chuyển
biến trong văn học. Gọi tên văn học phong kiến hay văn học thời phong kiến
là để phân biệt với văn học dân gian truyền miệng và với văn học thời hiện
đại. Thuật ngữ văn học trung đại xuất hiện từ những năm 80 đến nay, đây là
tên gọi phù hợp và có cơ sở khoa học nhất.
1.1.2. Một số đặc điểm của văn học trung đại
Văn học trung đại Việt Nam có ý nghĩa to lớn trong lịch sử văn học nước
nhà. Trong mười thế kỷ phát triển, văn học trung đại gắn liền với nền tảng mỹ


6
học thời phong kiến. Do đó văn học Việt Nam trung đại có những đặc điểm
riêng.
1.1.2.1. Quan niệm văn học
Văn học trung đại được sáng tác trên cở sở ý thức: Nho - Phật - Lão
trong đó chủ yếu là đạo Nho. Ảnh hưởng của các học thuyết này đã dẫn đến
việc hình thành những nét đặc thù trong quan niệm của con người trung đại về
bản chất vũ trụ, không gian, thời gian, thiên nhiên, con người. Những quan
niệm này có quan hệ đến việc hình thành những đặc trưng về nội dung và
hình thức nghệ thuật của văn chương trung đại. Vì vậy lí giải được những vấn
đề thuộc về bản chất của văn học trung đại, tìm hiểu được cái hay, cái đẹp của
mỗi tác phẩm tất yếu phải dựa vào những quan niệm nghệ thuật đặc thù về thế
giới và đời sống con người ở thời trung đại. Văn học trung đại là sản phẩm
của các thế hệ trí thức dân tộc đương thời. Các tầng lớp tri thức ấy luôn chịu
ảnh hưởng của Nho học, từ lâu Nho gia đã gắn với đạo “ văn sở dĩ tải đạo dã”.
Quan niệm trên coi văn là cái hình thức, cái để chứa, để chuyên chở đạo lí..

Có lúc đạo ấy được hiểu là đạo lí của thánh hiền, cũng có khi hiểu cái đạo lí
ấy là đạo lí của nhân dân, mang tư tưởng thân dân. Do vậy văn trở đạo ở đây
là chuyên trở đạo u nước thương dân. Từng nghe trong Bình Ngơ đại cáo
Nguyễn Trãi đã khẳng định:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Hay lời Nguyễn Đình Chiểu trong Than đạo:
Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm,
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà.
Người xưa đòi hỏi tác phẩm văn học phải thật sự chân thành, phải là
tiếng nói phát ra từ đáy lịng. Nội dung ấy phải được thể hiện thống nhất trong
một hình thưc đẹp để phục vụ để làm cho nội dung thêm hay. Với nhận thức
văn là dùng để biểu hiện các chân lí phổ biến, là hình thức đẹp để chuyển tải
nội dung Ngôn nhi vô văn, hành chi bất viễn (Khổng Tử) nên phạm vi của văn
học được quan niệm rất rộng. Từ công việc chép sử, luận triết học, viết chế,
chiếu, biếu, cáo, hịch… Đều trau chuốt hình thức câu văn sao cho ý đẹp lời
hay. Văn được dùng để chuyên trở đạo lí nên văn chương rất được người xưa
coi trọng. Nó có chức năng giáo hóa (giáo dục làm thay đổi nhân cách con
người theo hướng tốt đẹp) và di dưỡng tinh thần (giúp bản thân con người


7
thanh lọc tâm hồn, gạn đục, khơi trong, bày tỏ tấm lịng trung qn ái quốc,
ni dưỡng nhân cách chính nhân quân tử).
Nhìn chung văn học trung đại quan niệm văn trở đạo đã ảnh hưởng rất rõ
đến mục đích viết văn, phạm vi đề tài và hình thức thể hiện. Tuy nhiên các tác
giả càng tách rời khỏi những giáo điều của Nho gia càng gần với thực tế cuộc
sống dân tộc thì càng phát huy được mặt tích cực của quan niệm đó, thành cơng
ấy ta có thể thấy trong những tác phẩm của Hồ Xuân Hương, của Nguyễn Du.
1.1.2.2. Hiện tượng Văn - Sử - Triết bất phân
Hiện tượng Văn - Sử - Triết bất phân có liên quan mật thiết đến quan

niệm văn chương thời trung đại. Khái niệm văn gần như đồng nhất với văn
hiến, văn hóa, với học thuật nói chung. Mặt khác hiện tượng trên cũng bắt
nguồn từ quan niệm văn dĩ tải đạo, văn dĩ quán đạo, văn dĩ minh đạo, thi dĩ
ngơn chí.
Hiện tượng Văn - Sử - Triết bất phân thể hiện trong phạm vi văn xuôi rõ
nét hơn. Trong loại hình văn xi các thể loại của nó có thể chia làm hai bộ
phận: bộ phận thứ nhất là những thể loại thuộc văn chính luận thì hiện tượng
Văn - Sử - Triết bất phân trở thành đặc trưng thể loại.
1.1.2.3. Hệ thống ước lệ thẩm mỹ cổ điển
Ước lệ là thuộc tính của văn học vì các hiện tượng được phản ánh trong
văn học khơng như nó vốn tồn tại mà đã được tổ chức lại theo những phương
thức nào đó, nhằm những mục đích nào đó. Trong văn học trung đại, tính ước
lệ được thể hiện phổ biến, lâu dài, sâu sắc.
1.2. Vị trí của phần văn học Việt Nam trung đại trong chương trình Ngữ
văn ở THCS hiện nay
Văn học trung đại Việt Nam là thời kỳ văn học đầu tiên và dài nhất, là
một di sản văn học q báu của dân tộc. Nó khơng chỉ để lại cho đời sau
những giá trị thẩm mỹ lớn lao, chứa đựng trong đó biết bao giá trị văn hóa,
những vui buồn trăn trở, tâm tư của người xưa gửi gắm đến đời sau. Để duy
trì tiếp nối, phát huy truyền thống cha ông không thể bỏ qua chiếc cầu nối văn
học này. Chính vì vậy dạy học văn học trung đại được coi là nội dung quan
trọng trong chương trình Ngữ văn phổ thơng ở bậc THCS với sự phân bố thời
lượng khá lớn. Thể loại văn học trung đại được đưa vào dạy học trong chương
trình Ngữ văn THCS khá đầy đủ.


8

1.3. Thống kê, phân loại các văn bản văn học Việt Nam trung đại được dạy học ở THCS
TT


Tên tác phẩm

Tác giả

Loại văn
Văn
chương
thẩm
mỹ

1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19

20
21
22

Con hổ có nghĩa
Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lịng
Nam quốc sơn hà
Phị giá về kinh
Cơn Sơn ca
Bánh trôi nước
Thiên Trường vãn vọng
Sau phút chia li (Đoạn trích)
Qua Đèo Ngang
Bạn đến chơi nhà
Chiếu dời đơ
Hịch tướng sĩ
Nước Đại Việt ta
Bàn luận về phép học
Chuyện người con gái Nam Xương
Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh
Hoàng Lê nhất thống chí (hồi 14)
Truyện Kiều của Nguyễn Du
Chị em Thúy Kiều ( Đoạn tích)
Cảnh ngày xuân (Đoạn trích)
Kiều ở lầu Ngưng Bích (Đoạn trích)
Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga

Vũ Trinh
Hồ Nguyên Trừng
?

Trần Quang Khải
Nguyễn Trãi
Hồ Xuân Hương
Trần Nhân Tông
Đặng Trần Cơn
Bà Huyện Thanh Quan
Nguyễn Khuyến
Lí Cơng Uẩn
Trần Quốc Tuấn
Nguyễn Trãi
Nguyễn Thiếp
Nguyễn Dữ
Phạm Đình Hồ
Ngơ gia văn phái
Nguyễn Du
Nguyễn Du
Nguyễn Du
Nguyền Đình Chiểu

Văn
học
chức
năng

Văn
vần

Văn
biền
ngẫu


Nơm

Dạy
học

x

x
x
x
x
x
x

x
x
x
x
x
x
x

x
x
x
x
x
x
x

x

x
x
x
x

x
x
x
x
x
x

Sổ
tiết

Lớp

1
1
1/2
1/2
1
1
1/2
1/2
1
1
1

2
1
1
2
1
2
2
1
1
2
2

6
6
7
7
7
7
7
7
7
7
8
8
8
8
9
9
9
9

9
9
9
9

Đọc thêm

x
x
x
x

x
x

x
x
x
x

Hán

Hình thức học

x

x
x
x
x

x

Văn tự

x
x
x
x
x

x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x

x
x
x
x

Văn
xi


x
x

x
x
x
x
x
x
x
x
x

x
x
x

Hình thức văn bản


9
Toàn bộ phần văn học trung đại Việt Nam được dạy học trong chương
trình là 22 bài, sắp xếp trong 26 tiết trên tổng số 595 tiết của chương trình
Ngữ văn ở THCS.
Văn học trung đại ở bậc THCS được dạy học cả: Văn học chức năng và
văn chương thẩm mỹ, trong đó các văn bản được bố trí, sắp xếp theo thể loại
từ dễ đến khó, phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh ở từng cấp lớp.
Văn chương thẩm mỹ gồm các thể loại văn bản: truyện ngắn, truyện truyện
truyền kỳ, thơ, tiểu thuyết chương hồi, tùy bút; Các văn bản thuộc thể loại văn

học chức năng cũng đa dạng: hịch, cáo, chiếu, tấu. Các văn bản thuộc loại văn
chương thẩm mỹ được dạy học ở lớp 6.7.9. Các văn bản thuộc loại văn học
chức năng được dạy học ở lớp 8. Hình thức văn bản cũng rất đa dạng từ văn
xuôi, văn vần đến văn biền ngẫu. Văn bản được dạy học có cả bằng chữ Nơm
và chữ Hán. Hình thức dạy học: từ dạy chính khóa đến hướng dẫn học thêm,
đọc thêm, với thời lượng phân bố khá hợp lí cho từng văn bản thuộc từng thể
loại bài học.
1.4. Một số ghi nhận về thực trạng của việc dạy học văn học Việt Nam
trung đại ở THCS
Môn Ngữ văn là một trong những môn học chính trong nhà trường, được
học ở mọi lớp học với thời lượng lớn. Trong chương trình Ngữ văn THCS
phần văn học trung đại là một trong những trọng tâm. Và dù ở trong chương
trình cải cách hay chương trình sách giáo khoa hiện hành thì phần văn học
trung đại cũng có vị trí đó. Tuy nhiên so với chương trình văn học được học
trong bộ sách giáo khoa từ năm 2002 trở về trước, phần văn học trung đại
được tập trung trong SGK văn học lớp 9 tập 1 với 30 bài học chính thức và 17
đọc thêm. Các tác phẩm được sắp xếp theo trình tự phát triển của lịch sử văn
học trung đại . Sự sắp xếp này một mặt tạo ra cho người học có được cái nhìn
tổng quan, dễ dàng nắm bắt được tiến trình phát triển của nền văn học trung
đại, mặt khác số lượng tác phẩm mà học sinh phải học lại quá nhiều đó là điều
hết sức nặng nề. Như vậy sẽ dẫn đến tình trạng học sinh biết nhiều những
khơng thể hiểu sâu. So với SGK cũ các văn bản văn học trung đại Việt Nam
trong SGK hiện hành lại nằm rải đều trên cả bốn khối lớp với số lượng văn
bản cũng được giảm tải, mang tính chọn lọc hơn, chỉ cịn 21 bài gồm cả chính
thức và đọc thêm. Mức độ khó của văn bản cũng được nâng dần lên theo từng


10
khối lớp cân đối, phù hợp với trình độ sự phát triển của học sinh. Những tác
phẩm ấy được sắp xếp theo thể loại và cùng chủ đề cụ thể là: Lớp 6 học thể

loại truyện trung đại; lớp 7 chủ yếu học các thể loại thơ trung đại; lớp 8 tập
trung học các tác phẩm nghị luận trung đại; Lớp 9 có sự đa dạng hơn về thể
loại nhưng trọng tâm đổ dồn chủ yếu là thể loại truyện. Từ truyện truyền kỳ
đến truyện thơ Nôm. Sự sắp xếp và giảm tải chương trình như vậy tạo ra rất
nhiều điều kiện thuận lợi cho cả người dạy và người học, nó phù hợp với trình
độ nhận thức, tâm lí lứa tuổi của học sinh. SGK hiện hành xây dựng chương
trình theo hướng tích hợp, chú trọng đến việc rèn luyện cả bốn kĩ năng: nghe,
nói, đọc, viết cho học sinh. Dạy học các văn bản văn học phải đảm bảo sự tích
hợp với kiến thức của hai phân mơn Tập làm văn và Tiếng Việt trong cụm bài
học. Điều đó địi hỏi người dạy và người học phải có những cách thức mới
trong việc dạy và học. Chính vì vậy cùng với sự thay đổi chương trình SGK
mới việc đổi mới phương pháp dạy học ngữ văn đã được tiến hành trên diện
rộng và khá triệt để. Người dạy được trang bị thêm những kiến thức lí luận và
thực tiễn qua các buổi tập huấn, học tập chuyên đề, và qua thực tế giảng dạy,
vững vàng hơn trong việc áp dụng chun mơn vào q trình giảng dạy,
người học cũng có thái độ tích cực, tự giác hơn trong việc tiếp cận tác phẩm
trước khi nhận được sự hướng dẫn tận tình của người dạy.
Cấu trúc chương trình cho thấy văn học Việt Nam trung đại được dạy
học trong nhà trường một cách có hệ thống. Những văn bản văn học trung đại
được tuyển chọn dạy học chính thức cũng như đọc thêm không nhiều nhưng
đều là những tác phẩm ưu tú thuộc những thể loại khác nhau có đóng góp lớn
cho văn học dân tộc. Về mặt nội dung, những văn bản này đều thể hiện nội
dung tư tưởng tốt đẹp, có những biểu hiện của chủ nghĩa yêu nước và chủ
nghĩa nhân đạo, chứa đựng những khát vọng vươn tới lí tưởng, thể hiện tình
u q hương đất nước, tinh thần u hịa bình, phản đối chiến tranh, tình
bạn, tình yêu thiên nhiên và cái đẹp... Đây là những giá trị trị trường tồn gắn
kết người xưa với hôm nay và làm cho người dạy người học văn học Việt
Nam trung đại thấy gần gũi với di sản này. Về mặt nghệ thuật, các văn bản
này đều có những đặc sắc về nghệ thuật. Những giá trị văn chương này đã
được thử thách trong thời gian dài, được lựa chọn thích hợp với tình hình mới.

Mặt khác cũng phải thấy được những văn bản văn học trung đại được tuyển


11
chọn dạy học trong chương trình là tác phẩm của những tác giả ưu tú mà
nhiều người trong số họ là những anh hùng dân tộc hoặc danh nhân văn hóa
được nhân dân tơn sùng và kính trọng, lịng kính yêu tác giả cũng là động lực
tích cực cho việc tiếp nhận các văn bản văn chương từ cả hai phía người học
và người dạy.
Cùng với sự đổi mới chương trình SGK, sự đổi mới phương pháp dạy
học đã có rất nhiều cơng trình nghiên cứu về phương pháp dạy học văn nói
chung, dạy và học văn học trung đại nói riêng của các nhà nghiên cứu, các
thầy cơ trực tiếp đứng lớp... Chính điều đó đã tạo ra nguồn tài liệu tham khảo
vô cùng phong phú, từ sách giáo viên, sách để học tốt, sách thiết kế bài giảng,
sách hướng dẫn tự học đến sáng kiến kinh nghiệm, đề tài nghiên cứu với
những quy mô lớn nhỏ khác nhau. Do đó người dạy và người học có nhiều
điều kiện thuận lợi để tìm ra cho mình những định hướng chính xác khi tiếp
cận với các văn bản văn học trung đại.
Trên đây là những điều kiện thuận lợi về phía chương trình, người dạy và
người học văn học trung đại ở nhà trường THCS. Việc dạy văn học trung đại
ở trường THCS cũng gặp khơng ít khó khăn.
Văn học trung đại mang dấu ấn đậm nét của một thời một đi không trở
lại và mang ý nghĩa to lớn trong lịch sử văn học nước nhà. Nó là nguồn động
viên tinh thần lớn lao đối với thời đại bấy giờ. Việc học tập văn học trung đại
không chỉ đơn thuần là là tìm hiểu một giá trị văn hóa tinh thần, một thành
tựu văn học nghệ thuật của dân tộc mà cịn là tìm kiếm những phương tiện
cách thức để khai thác và kế thừa những di sản văn hóa của cha ơng. Tuy
nhiên nền văn học này lại chủ yếu được viết bằng chữ Hán, chữ Nôm - những
tử ngữ. Người Việt Nam sau hơn một trăm năm dùng chữ Quốc ngữ la tinh
do đó phần đơng người Việt Nam hiện tại khơng có khả năng tiếp xúc trực

tiếp với các văn bản Hán, Nôm. Những người biết chữ Hán, Nơm cũng khơng
phải đều có khả năng hiểu đúng tất cả các tác phẩm văn chương Hán Nôm của
người Việt Nam các thế kỷ trước. Ở đây xuất hiện một khoảng cách lớn
không chỉ là vấn đề ngôn ngữ - văn tự mà cả về tư duy văn hóa. Văn học
trung đại là sản phẩm của một khơng gian văn hóa khác, một khơng gian đã
lùi hẳn vào quá khứ đồng thời cũng ít nhiều trở nên xa lạ với nhiều người,


12
chính điều đó đã tạo nên những khó khăn lớn trong việc nhận thức giá trị của
tác phẩm.
Các tác giả văn học trung đại thường khơng nói hết, khơng nói trực tiếp ý
mình mà để cho người đọc suy ngẫm cảm thụ. Ngôn ngữ văn học trung đại
tinh luyện hàm súc với những dư ba, lời ít ý nhiều, ý tại ngôn ngoại. Bởi vậy
giảng dạy văn học trung đại cho học sinh thật sự là một công việc đầy thử
thách. Cái khó lớn nhất là phải vượt qua hàng rào ngôn ngữ để hiểu và cảm
cái hay, cái đẹp, sự thâm thúy của người xưa trong những tác phẩm. Các văn
bản văn học trung đại Việt Nam được dạy trong chương trình đều được viết
bằng chữ Hán, Nơm, người dạy và người học tiếp xúc với tác phẩm đều phải
thơng qua bản dịch nên có những khúc xạ nhất định, hơn nữa trong các văn
bản văn học ấy có rất nhiều điển tích, điển cố, những từ ngữ cổ, được viết
dưới nhiều dạng thể loại văn học mà ngày nay khơng cịn tồn tại, điều đó cũng
tạo nên tâm lí ngại khó, ngại khổ trong cả người học lẫn người dạy.
Văn học trung đại cách xa chúng ta vì ngôn ngữ, về cả không gian thời
gian, cả phương thức tư duy nghệ thuật. Người dạy văn và học văn hôm nay
sống trong những điều kiện khác với con người Việt Nam thời trung đại trên
nhiều phương diện. Có những vấn đề nhân sinh trọng yếu thời trung đại, ngày
nay khơng cịn vị trí đó nữa. Và cũng có những vấn đề chưa được người xưa
quan tâm lắm thì ngày nay lại trở thành vấn đề sống còn. Người dạy văn và
người học văn hôm nay đang từng bước đi vào xã hội hiện đại với điều kiện

sinh hoạt ngày càng cao và kèm theo đó là những vấn đề nhân sinh mới được
đặt ra. Quan niệm của họ về bản thân, về xã hội và các giá trị nhân sinh có ý
nghĩa phổ quát có nhiều điều khác người xưa. Quan niệm hiện thời về văn
chương cũng có nhiều nội dung khác. Đó cũng là lí do dẫn đến việc tiếp nhận
các giá trị văn chương từ các tác phẩm văn học trung đại khơng phải là điều
đơn giản.
Nhìn ở một khía cạnh khác, hiện nay có rất nhiều phương pháp dạy học
được áp dụng trong trường học theo tinh thần đổi mới, nhưng để đánh giá
được đầy đủ và khách quan hiệu quả của những phương pháp này thật sự cần
sự nhìn nhận về cả phía người học và người dạy. Thực tế mà nói người giáo
viên dạy văn có tâm huyết nào cũng mong muốn bài giảng của mình có thể
giúp học sinh nhận thức rõ cái hay, cái đẹp từ giá trị nội dung và nghệ thuật


13
của tác phẩm, nhưng để làm được điều đó người giáo viên gặp khơng ít những
khó khăn hoặc nếu như những mong muốn ấy trở thành hiện thực thì cũng chỉ
mang tính chất nửa vời. Từ thực tế giảng dạy của bản thân và dự giờ lên lớp
của các đồng nghiệp chúng tôi nhận thấy đa số những tiết dạy này chưa tốt.
Khơng có một phương pháp giảng dạy cụ thể nào để có thể ứng dụng cho mọi
bài giảng mà cần đến sự linh hoạt xử lí của giáo viên, nhưng ngay trong việc
xử trí ấy dường như cịn lúng túng rất nhiều. Sự lúng túng ấy xuất phát khơng
hẳn từ phía giáo viên mà cịn do áp lực từ chương trình, từ chuẩn kiến thức kỹ
năng mà giáo viên phải hình thành cho học sinh qua bài giảng. Các văn bản
văn học trung đại được dạy trong chương trình ngữ văn THCS có những văn
bản với thời lượng hợp lí, nhưng cũng có những văn bản việc bố trí thời lượng
thể hiện rõ sự bất cập, chẳng hạn chỉ trong vịng 45 phút dạy hai văn bản Sơng
núi nước Nam và Phò giá về kinh ; hay khi dạy hướng dẫn đọc thêm hai văn
bản Thiên trường vãn vọng và văn bản Sau phút chia li trích Chinh phụ ngâm
khúc. Dù là bài học chính thức hay đọc thêm nhưng chỉ giới hạn trong thời

gian ấy giáo viên khó có thể thực hiện những yêu cầu của bài học. Đó là cịn
chưa đề cập đến vai trị, thái độ học tập của người học chi phối đến. Khi thực
hiện giảng dạy tác phẩm văn học theo phương pháp đổi mới tức là coi tác
phẩm văn học luôn là một hệ thống mở, nó đa thanh, đa nghĩa. Điều đó cũng
có nghĩa là cùng một tác phẩm văn học nhưng mỗi người đọc khi tiếp nhận sẽ
có những cảm nhận khác nhau tùy theo tâm trạng và nhận thức của họ. Như
vậy, khi áp dụng phương pháp mới học sinh cũng là một bạn đọc và các em
cũng sẽ có những cảm nhận của riêng mình đối với tác phẩm được học. Học
sinh là chủ thể của quá trình tiếp nhận. Người giáo viên lúc này sẽ giữ vai trò
là người hướng dẫn, trong giờ dạy giáo viên phải tạo ra được môi trường giao
tiếp cởi mở cho học sinh để từ đó học sinh hăng hái tích cực tìm hiểu, giải mã
những tín hiệu ngơn ngữ để từ đó lĩnh hội kiến thức bài học. Như vậy học
sinh là một nhân tố quan trọng có ảnh hưởng ít nhiều đến hoạt động dạy của
giáo viên. Nếu học sinh tham gia tích cực vào bài học sẽ làm cho tiết học trở
nên tốt hơn và ngược lại thì chính học sinh sẽ trở thành một trở ngại lớn. Mà
trong thực tế, khi kinh tế, xã hội phát triển, những mơn học thời thượng
(Tốn, Lý, Hóa, Ngoại ngữ, Tin học....) quan trọng hơn bao giờ hết thì văn
chương khơng có tính năng ứng dụng, tương lai người học khơng được đảm


14
bảo, học sinh ngày càng xa rời văn chương. Số học sinh say mê học văn chưa
nhiều, khơng ít học sinh thực chất năng lực yếu kém về môn văn, khả năng
phân tích cảm thụ văn học cịn hạn chế, lại khơng có thói quen chuẩn bị bài ở
nhà, mà có chuẩn bị cũng chỉ là qua loa chiếu lệ nên tỏ ra chán học văn, tiếp
xúc với phần văn học trung đại lại có nhiều khó khăn nên đa phần các em cảm
thụ bài chưa tốt. Đặc biệt một thực tế mà giáo viên dạy văn nhận thấy, đó là
sách tham khảo, sách hướng dẫn, sách để học tốt... q nhiều vơ hình chung
đã làm cho học sinh biết đầy đủ nội dung của tác phẩm văn chương được học
dựa vào bài soạn đã được chép sẵn ở nhà nhưng chưa một lần đọc bài văn, bài

thơ trong sách giáo khoa, trả lời những phát vấn của giáo viên thì các loại
sách tham khảo nghĩ hộ, nói hộ tất cả.
Như vậy điểm qua về thực trạng dạy học văn học trung đại ở trường
THCS hiện nay để thấy rằng còn rất nhiều điều chưa đạt chất lượng tốt từ cả
phía người dạy và người học. Đó là những thách thức, những khó khăn mà
người giáo viên đứng lớp ln trăn trở tìm kiếm hướng đi nào để có thể dung
hịa được tất cả các yếu tố nói trên, từ đó thực hiện tốt vai trị của mình - vai
trị của người dẫn đường tìm kiếm những vẻ đẹp của văn chương.


15
Chương 2
VẤN ĐỀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY HỌC
VĂN HỌC VIỆT NAM TRUNG ĐẠI Ở THCS HIỆN NAY
2.1. Một số vấn đề của thể loại văn học trung đại Việt Nam liên
quan đến việc dạy học
Thể loại của tác phẩm văn học là nhân tố cấu thành hình thức, là hình
thái tồn tại cơ bản của văn bản văn học. Thể loại là hình thức trừu tượng dùng
để phân loại văn bản văn học, đồng thời là phạm trù thẩm mĩ, là cách gọi chung
các loại văn bản văn học. Thể loại văn học là dạng thức cụ thể và hình thái cụ
thể của tác phẩm văn học, là cơ sở để nắm bắt, nhận thức tác phẩm văn học.
Đối tượng biểu hiện, miêu tả của tác phẩm, hình thức tư duy sáng tạo của nhà
văn, phương thức thể hiện tình cảm cho đến bố cục, tiết tấu của tác phẩm, đặc
điểm thủ pháp biểu hiện, vận dụng ngôn ngữ đều biểu lộ thông qua thể loại văn
học. Hiểu, nắm bắt một cách chính xác thể loại và đặc trưng của nó là cơng
việc có ý nghĩa rất quan trọng. Nói như M.M. Bakhtin, thể loại là nhân vật
chính của đời sống văn học. Đối với văn học Việt Nam trung đại như nhiều
nhà nghiên cứu đã nhận thấy, trong một thời gian dài, tác phẩm văn chương
Việt Nam thời trung đại chỉ được lĩnh hội ở phương diện nội dung, cịn ở
phương diện hình thức (trong đó nhất là cấp độ thể loại) chưa được chú ý

đúng mức. Ở tác phẩm văn chương, nội dung và hình thức khơng thể tách
bạch được như ở nhiều sự vật hiện tượng khác nên một khi chưa nhìn nhận
được giá trị của hình thức thì cũng khơng thể nhìn nhận được những giá trị nội
dung theo đúng nghĩa của nó. Do đó nghiên cứu văn học Việt nam thời trung đại
bên cạnh ý nghĩa chung là nhận thức vai trò của phạm trù này trong đời sống văn
học, cịn có ý nghĩa nhận thức mối quan hệ thể loại văn học Việt Nam - Trung
Quốc trong quá khứ vì mối quan hệ giữa văn học trung đại Việt Nam và Văn học
Trung Quốc là mối quan hệ cơ bản, góp phần quyết định số lượng và chất lượng
thể loại văn học Việt Nam trung đại, mặt khác cịn có ý nghĩa nhận thức rõ vai
trị của chữ Nơm, của văn học dân gian với hệ thống thể loại văn học dân tộc và
góp phần lí giải những thành tựu văn chương cụ thể.
Đã có nhiều cơng trình chun sâu đưa ra nhiều cách phân chia thế loại
văn học trung đại Việt Nam trong đó có phân chia thể loại văn học theo chức


16
năng. Dựa vào tiêu chí trên hệ thống thể loại văn học trung đại Việt Nam gồm
hai nhóm: Nhóm thể loại thuần văn chương tiêu biểu gồm thơ, phú, truyện,
truyện truyền kì, kí sự, ghi chép,... và nhóm thể loại văn học chức năng tiêu
biểu gồm hịch, cáo, chiếu, biểu, tấu, sớ, văn bia, văn tế,... Trên hành trình
phát triển của lịch sử văn học dân tộc, loại hình văn học chức năng ngày càng
thu hẹp và mất dần vị trí, nhường chỗ cho văn học nghệ thuật.
Hai loại hình cơ bản của văn học trung đại Việt Nam
Văn học chức năng
Chức năng của một sự vật, hiện tượng là những yêu cầu khách
quan mà sự vật hiện tượng đó có thể đáp ứng. Chỉ thành những chức
năng thực sự khi có sự tồn tại đồng thời cả hai mặt chủ quan và khách
quan. Từ xa xưa, khi sinh hoạt vật chất và sinh hoạt tinh thần của con
người chưa phát triển, các hình thái ý thức xã hội chưa phân hóa cao thì
văn học bên cạnh đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ còn đảm nhiệm một phần

nhu cầu tổ chức xã hội một cách trực tiếp. Đó là lí do trong hệ thống
thể loại văn học trung đại có những thể loại văn học chức năng như cáo,
hịch, chiếu, biểu, tấu, sớ,...
Văn học chức năng là loại hình văn học sáng tác ra nhằm phục vụ cho
mục đích tuyên truyền những tư tưởng tơn giáo chính trị hay đạo đức nào
đó. Đây là loại văn học chủ yếu mang chức năng ngoài văn học.
Đặc điểm của loại văn học chức năng trung đại Việt Nam
Thời trung đại các thể loại văn học thường được giao đảm nhận
các chức năng rõ ràng, nhất là các thể loại văn hành chức. Tên thể loại
thường gắn liền tên tác phẩm nên người đọc dễ dàng nhận diện và phân
loại chức năng thể loại. Hịch là để kêu gọi, thuyết phục. Cáo là để tổng
kết một cơng việc hay một chủ trương chính trị, xã hội nào đó. Chiếu là
để phổ biến một mệnh lệnh nào đó của nhà vua cho thần dân biết. Văn
học chức năng Việt Nam thời trung đại là những văn bản văn xuôi hoặc
văn biền ngẫu trực tiếp viết về những vấn đề liên quan đến đời sống
chính trị của quốc gia dân tộc. Lọai văn bản này có những đặc điểm sau:
Thứ nhất: Tác giả do nhiệm vụ hoặc tình thế buộc phải viết chứ
khơng chờ có cảm hứng mà viết, chẳng hạn khi người ta chép sử, lập
bia, viết hịch, viết cáo, viết văn tế, tấu, sớ... đều là do tình thế quyết


17
định. Tác giả của các tác phẩm văn học chức năng phải gắn liền với
những chức danh cụ thể trong xã hội, như thiên tử, chủ sối, sứ thần...
do đó văn học chức năng đều gắn với những thể loại nhất định.
Thứ hai: Văn học chức năng viết cho những đối tượng nhất định,
chẳng hạn viết cho vua, cho thần dân, cho tì tướng...
Thứ ba: Mỗi thể loại văn học chức năng ứng với một (hoặc
những) loại tác giả, ví dụ thể chiếu chỉ vua chúa mới được viết, để toàn
dân thiên hạ thực thi, biểu là thể loại mà những quan lại viết để dâng

lên nhà vua, chúa để tạ ơn.
Thứ tư: Văn học chức năng có tính cơng thức, được quy định rất
chặt chẽ, về cơ bản không có sự phá cách, rất ít sự sáng tạo, chịu sức ép
của tư tưởng chính thống và quan niệm văn học chính thống, Văn học
chức năng có yếu tố sử và triết rất đậm nét.
Văn học chức năng được phân chia làm hai bộ phận:Văn học chức
năng hành chính và văn học chức năng lễ nghi.
Một số thể của văn học chức năng được dạy học ở THCS
Văn học chức năng hành chính là những tác phẩm văn học mang chức
năng thực thi cơng việc mang tính chất nhà nước, hành chính quốc gia. Nó
bao gồm các tác phẩm thuộc thể: chế, cáo, chiếu, hịch, biểu, tấu, sớ,… Chẳng
hạn như Thiên đơ chiếu của Lí Cơng Uẩn, Dự chu tì tướng hịch văn của Trần
Quốc Tuấn, Bình Ngơ đại cáo của Nguyến Trãi. Các loại văn bản trực tiếp
tham gia vào các lĩnh vực khác của đời sống xã hội khơng phải thực hiện chức
năng đích thực của văn học mà hướng đến chức năng ngoài văn học, chức
năng tổ chức quản lí xã hội cũng đều là các tác phẩm văn học chức năng hành
chính. Chúng tơi trình bày một số thể loại cơ bản của văn học chức năng hành
chính được dạy ở chương trình Ngữ văn bậc THCS.
Chiếu
Văn bản hành chính là một phần khơng thể thiếu trong đời sống chính trị
của một quốc gia. Chúng gắn liền với những hoạt động mang tính chất quan
phương thể hiện sự chú ý của những người lãnh đạo về mọi mặt trong xã hội.
Và trong hệ thống văn bản hành chính thời trung đạị, chiếu là một loại hình
văn bản có tầm quan trọng thiết yếu.


18
Chiếu là loại văn bản ghi mệnh lệnh của vua cho quan lại trong
triều hoặc toàn dân trong nước được biết.
Chiếu thường đề cập đến những vấn đề rộng lớn trọng đại như việc

chọn kinh đô, việc truyền ngôi, bàn về phép tiền tệ....Đây là loại văn
bản được sử dụng nhiều vì ghi mệnh lệnh của vua chúa, thể hiện chủ
trương, chính sách của triều đình về chính trị, kinh tế, văn hóa...mà
tồn thiên hạ thực hiện.
Về lịch sử hình thành, phát triển của văn bản chiếu. Chiếu là một loại
hình văn bản hành chính đặc biệt đã xuất hiện ở Trung Quốc từ thời cổ và
được truyền sang các nước phương Đơng thuộc vùng ảnh hưởng của văn hóa
Hán, trong đó có Việt Nam. Sở dĩ đặc biệt vì đó là một trong những loại hình
văn bản hành chính có tính quan phương nhất của nhà nước đã ra đời từ rất
lâu, tồn tại trong suốt thời kì phong kiến. Trong tác phẩm Lịch sử văn hóa
Trung Quốc, Đàm Gia Kiện đã viết về nguồn gốc của văn chiếu như sau:
Chiếu là “cáo của triều đình ban bố gọi chung là chiếu lệnh, bắt nguồn từ thể
cáo trong Thượng thư, thời Xuân Thu gọi là mệnh, thời Chiến Quốc gọi là
lệnh. Sau khi Tần thống nhất, đổi mệnh thành chế, đổi lệnh thành chiếu. Đầu
đời Hán mệnh chia làm bốn loại, danh mục, công dụng khác nhau. Chiếu là
cáo với bách quan…” Như vậy, chiếu vốn được bắt nguồn từ thể cáo trong
sách Thượng thư, được gọi là chiếu lệnh, trải qua các tên gọi khác nhau, đến
đời Tần mới có tên gọi là chiếu như hiện nay.
Về nội dung chiếu ghi mệnh lệnh của vua chúa, hình thức thì đó là sự
vận dụng phổ biến các cách diễn đạt của văn xuôi cổ thể, của biền văn, tản
văn, trong đó phổ biến nhất là hình thức biền văn. Từ ngữ được sử dụng
trong văn chiếu cũng rất đa dạng, phong phú. Điều này nhằm phù hợp với
mục đích sử dụng của văn chiếu: vừa đảm bảo tính bác học vừa đảm bảo tính
phổ cập, vì phải để mọi tầng lớp nhân dân đều có thể hiểu được.
Hịch
Hịch là bài văn công khai minh bạch về một nội dung nào đó cho mọi
người được biết. Chính vì vậy nó có tên gọi là “Minh bạch chi văn” - bài văn
làm sáng tỏ một điều gì đó. Cũng chính vì điều đó nên nó cịn có tên gọi là
văn lộ bố - công bố cho mọi người cùng biết.



19
Về mặt nguồn gốc. Hịch vốn xưa là những bài diễn thuyết quân sự gọi
là “thệ sư”, tức là những lời thế trước khi xuất chinh, “thệ sư” có nguồn gốc
từ kinh thư của Trung Quốc. Theo Lưu Hiệp trong Văn tâm điêu long, từ hịch
xuất hiện lần đầu tiên là từ thời chiến quốc Hịch Tề Hồn Cơng đánh Sở. Ở
Việt Nam hịch là thể văn được dùng rất sớm. Tương truyền khi Thi Sách bị
Tô Định giết, hai Bà Trưng đã viết bài Hịch để kể tội kẻ thù và kêu gọi mọi
người đồng tâm chiến đấu.
Hịch là thể văn chính luận thời xưa thường là của vua chúa tướng lĩnh
hay thủ lĩnh của một phong trào, dùng để cổ vũ, kêu gọi quần chúng tham gia
vào một phịng trào xã hội nào đó hoặc đấu tranh chống lại một kẻ thù nào đó.
Hịch có thể được viết bằng tản văn, biền văn, vận văn. Hịch được truyền
ra mặt trận kêu gọi tướng sỹ khi có việc khẩn cấp thì thường được cắm theo
lơng chim do đó cịn gọi là “Vũ hịch”
Về bố cục: Một bài Hịch thường có bốn phần:
Phần I: Phần mở đầu nêu lên một vấn đề có tính chất ngun lí chung
làm cơ sở cho việc sắp xếp trình bày vấn đề trong tồn bài.
Phần II: Nêu truyền thống để tạo niềm tin.
Phần III: Nhận định tình hình địch và ta.
Phần IV: Nêu chủ trương, nhiệm vụ, cách giải quyết vấn đề và ra lời kêu
gọi.
Về Nội dung, một bài Hịch thì thường có hai phần chính, một phần nói
về tình hình qn địch, một phần nói về tình hình của ta. Nói về kẻ thù thì
vạch rõ tính chất phi nghĩa, nêu tội ác để gây lòng căm thù và tranh thủ sự
đồng tình của nhân dân. Nói về ta thì nêu cao tính chất chính nghĩa của ta, đề
cao những gương hy sinh chiến đấu của các đời để cổ vũ tinh thần chiến đấu
dũng cảm và tạo niềm tin tưởng vào thắng lợi cuối cùng, kết thúc là một lời
kêu gọi đồn kết chiến đấu.
Về hình thức, văn hịch thường là văn nghị luận nhưng có cũng các loại

văn tự sự, miêu tả. Tuy nhiên hiệu lực tổng quát vẫn là sức thuyết phục cuốn
hút và cảm xúc mạnh mẽ. Văn hịch phải khúc chiết, đanh thép, chính luận
phải chặt chẽ, lơgic, trữ tình.
Hịch là thể văn chính luận thời trung đại tồn tại lâu dài và có ý nghĩa đối
với lịch sử văn học và lịch sử dân tộc, do chức năng của nó phù hợp với đặc


20
thù lịch sử nước nhà luôn phải chống ngoại xâm và người Việt Nam ln có ý
chí thống nhất đất nước.
Cáo
Nếu hịch thiên về cổ động thì cáo lại thiên về tổng kết một cơng việc hay
trình bày thành quả của một sự nghiệp có tính cách tun ngơn để cho mọi
người cùng biết. Cáo là thể văn của vua chúa hoặc tướng lĩnh thời xưa dùng
để ban bố thành quả của một cơng việc, một sự nghiệp có liên quan đến vận
mệnh dân tộc, đời sống nhân dân hoặc một sự kiện trọng đại của nhà nước
phong kiến. Cáo có thể được viết bằng văn xi hoặc văn biền ngẫu.
Về nội dung, Cáo là loại văn dùng để bá cáo cho mọi người biết một
công việc lớn lao đã hồn thành trong đó nêu rõ mục đích, chủ trương, q
trình, diễn biến và thành quả của cơng việc. Chẳng hạn bài Bình Ngơ đại cáo
của Nguyễn Trãi có nội dung như sau: Phần mở đấu thì nêu lên luận đề chính
nghĩa làm cơ sở chung cho tồn bài, tiếp theo là nói về tội ác của kẻ thù, phần
chính của bài cáo là tổng kết quá trình chiến đấu và thắng lợi của quân dân
Đại Việt và cuối cùng là tuyên bố về nền độc lập dân tộc cho mọi người cùng
biết.
Về bố cục của bài cáo thường có bốn phần.
Phần I: Luận đề chính nghĩa.
Phần II: Xác định kẻ thù, bản cáo trạng tội ác.
Phần III: Quá trình thực hiện cơng việc, hoặc q trình chinh phạt và kết
quả.

Phần IV: Tuyên bố kết thúc.
Về kết cấu, một bài cáo phải có kết cấu chặt chẽ, có sự sắp xếp hệ thống
hệ thống ý tứ nội tại chặt chẽ và logic, ý trước làm tiền đề cho ý sau, ý sau
củng cố và nâng cao ý trước, trên dưới thông thuận, trước sau nhất quán,
không thừa ý không thiếu ý. Mặt khác phải có sự liền mạch, liền hơi, liền
giọng.
Về bút pháp viết cáo, cáo hướng tới cộng đồng do đó giọng phải hùng
hồn trong phần kết quả và đánh giá. Cần có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa bút
pháp tự sự, trữ tình và chính luận vì phải kể được quá trình tạo nên kết quả và
thể hiện cảm xúc của mình về quá trình tạo nên kết quả, nỗi đau và sự hân
hoan (từ bi đến hùng) nhằm để đánh giá một cách đúng đắn về địch về ta, nêu


21
bật được nguyên nhân thắng lợi. Âm hưởng câu văn phải hài hòa, cân đối,
phù hợp với nội dung cần biếu đạt. Tư duy hình tượng sắc sảo, biến hóa phù
hợp với cảm hứng của toàn bài.
Tấu
Sự xác định về thể Tấu đến nay vẫn chưa thật minh bạch, ta có thể hiểu
thể loại này như sau:
Tấu là loại văn bản của bề tôi dâng lên vua chúa, chủ yếu để tâu, bày sự
việc hoặc can gián. Có nguồn gốc từ Trung Quốc. Trước đời Tần, loại văn
bản này được gọi là thư, sau gọi là tấu hoặc sớ. Thời Ngụy- Tấn gọi là khải.
Tấu thường được viết bằng văn xi để việc trình bày ý kiến được thuận lợi.
Tấu là thể loại mang tính sự vụ nhất, điều đó cũng có nghĩa là chất văn
chương bị hạn chế tối đa.
Hịch, chiếu, cáo, tấu. Đây là bốn thể được đưa vào giảng dạy trong
chương trình Ngữ Văn THCS. Từ những kiến thức đã trình bày ở trên, chúng
tơi muốn có cơ sở nền tảng cho việc tìm hiểu các văn bản được đưa vào giảng
dạy trong chương trình.

Văn học chức năng lễ nghi – tôn giáo là những tác phẩm thực thi nghi lễ
mang tính chất tơn giáo hoặc tập tục tín ngưỡng. Những tác phẩm thuộc loại
này là: Văn tế, chướng, câu đối, thần phả, những tác phẩm triết học tôn giáo,
những bài thơ của các thiền sư. Nếu những thể loại mang tính chức năng hành
chính gồm những áng văn mang phong cách hoành tráng cao thượng, thì
những thể loại mang tính chức năng tôn giáo lại mang đậm dấu ấn tư tưởng
triết học Phật - Lão - Nho.
Văn chương thẩm mỹ
Văn học nghệ thuật là những tác phẩm nhằm thỏa mãn chức năng thẩm
mỹ cho người đọc người nghe. Chức năng nhận thức thẩm mỹ là thuộc tính cơ
bản của tác phẩm văn học nghệ thuật.
Đặc điểm của văn chương thẩm mỹ
Thứ nhất, văn học nghệ thuật mang tính đa phương, nghĩa là văn học
nghệ thuật là loại hình văn học viết cho tất cả mọi người, khơng dành riêng
cho bất cứ ai, ai cũng có thể nghe cũng có thể đọc. Nói như vậy cũng có nghĩa
là bất kỳ ai cũng có thể cầm bút sáng tác, miễn là người đó có năng lực văn
chương và cảm hứng sáng tạo. Chẳng hạn như thể loại thơ, bất kì ai viết, ai


22
đọc cũng được từ vua, quan cho đến dân thường, có thể bình phẩm hay phê
phán.
Thứ hai, thể loại trong văn học nghệ thuật khơng có sự ràng buộc, tác
giả ln có những khoảng trống để sáng tạo. Chẳng hạn như viết văn tự sự có
thể lựa chọn nhiều hình thức thể loại: truyện ngắn hoặc tiểu thuyết, cũng có
thể lựa chọn thể truyện thơ. Thể loại văn học nghệ thuật ít chịu sức ép của tư
tưởng chính thống và quan niệm văn học chính thống, có sự phá cách, thể
hiện rõ cá tính sáng tạo của người sáng tác. Ta biết tác giả Nguyễn Trãi khi
viết Bình Ngơ đại cáo, Quân trung từ mệnh tập chịu sự chi phối của tư tưởng
chính thống, nhưng khi viết Quốc âm thi tập thì chịu ít sức ép của tư tưởng

chính thống vì viết cho bản thân, cho bạn bè đọc, do đó sự phá cách sáng tạo
thể hiện rõ trong việc lựa chọn đề tài, trong sử dụng thể loại.
Thứ ba, người viết được tư do khi cầm bút sáng tác, miễn là có cảm
hứng, chứ khơng phải do một nhiệm vụ, một tình thế nào quy đinh.
Thứ tư, ở văn học nghệ thuật, phần chủ yếu cấu tạo nên tác phẩm là bức
tranh đời sống, trong đó quan trọng nhất là hình tượng nghệ thuật, do nhà văn
sáng tạo bằng hư cấu. Chính vì vậy tác giả thể hiện tư tưởng tình cảm chủ yếu
thơng qua thế giới hình tượng.
Văn học chức năng công khai đề cập đến những vấn đề của quốc gia dân
tộc còn văn học nghệ thuật khơng nhất thiết như vậy. Do đó trong giai đoạn
đầu văn học chức năng chiếm vị trí chính thống, văn học nghệ thuật ở vị trí
ngoại vi. Sau đó văn học nghệ thuật mới dần dần chiếm vị trí quan trọng hơn
văn học chức năng vì càng về giai đoạn sau chế độ phong kiến suy đồi khi mà
ý thức hệ chính thống khơng cịn dủ sức kiềm tỏa các ý thức hệ khác. Văn học
nghệ thuật quan tâm đến các giá trị đó, đó là các giá trị dân tộc, dân chủ và
nhân đạo. Các giá trị đó đã làm cho văn học nghệ thuật chiếm vị trí trung tâm
của văn học và ngày càng có vị trí quan trọng trong đời sống văn hóa, trở
thành bộ phận văn học thiết thực.
Một số thể của văn chương thẩm mỹ được dạy học ở THCS
Thơ
Ở thời trung đại văn xuôi hình tượng chỉ chiếm một số lượng khiêm tốn
so với thơ ca.


23
Thơ ca trung đại là những sáng tác bằng chữ Hán, chữ Nôm ra đời
(khoảng thời gian từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX) bộc lộ tâm tư, giãi bày tình
cảm, suy nghĩ của thi nhân về thế giới, cuộc đời, con người và trực tiếp bày tỏ
hoài bão, chí khí, ý nguyện của mình.
Thơ ca trung đại sáng tạo theo truyền thống thẩm mĩ đầy những ước lệ

tượng trưng. Những tác phẩm ấy chịu sự chi phối của điều kiện lịch sử xã hội
và hệ tư tưởng của thời đại phong kiến nên có kiểu tư duy nghệ thuật độc đáo,
hệ thống thi pháp đặc thù với những đặc trưng riêng khác biệt so với các tác
phẩm ở giai đoạn văn học trước và sau nó.
Thơ ca trung đại phát triển cùng với sự phát triển của lịch sử xã hội và
vận mệnh dân tộc. Ở thời kỳ đầu nội dung chủ yếu của thơ trung đại là thể
hiện cảm hứng yêu nước. Đến giai đoạn sau đó thơ trung đại lại chủ yếu tập
trung thể hiện cảm hứng nhân đạo chủ nghĩa. Từ việc phản ánh tinh thần yêu
nước, ý thức quyết chiến đấu và chiến thắng vì độc lập chủ quyền của dân tộc,
phản ánh niềm tự hào đân tộc với những chiến công hiển hách oai hùng đến
chỗ hướng ngịi bút của mình vào việc phản ánh những hoàn cảnh éo le của số
phận con người nói lên tiếng nói của cảm xúc cá nhân. Sự mở rộng của nội
dung phản ánh ấy đòi hỏi các thi nhân trung đại luôn luôn phải không ngừng
tìm tịi các hình thức thể hiện phù hợp. Chính lẽ đó đã tạo nên sự phát triển
phong phú cuả hình thức thơ ca trung đại với nhiều thể loại khác nhau. Dưới
đây là những thể loại thơ ca trung đại được các thi nhân sử dụng để thể hiện
những cảm xúc của mình trước cuộc đời và thế sự.
Thơ cổ phong
Thơ cổ phong còn gọi là cổ thể, cổ thi. Là thể thơ ra đời trước đời Đường
hoặc trong hoặc sau nhưng không theo luật của thơ Đường. Đây là thể thơ tự
do ngày xưa của Trung Quốc, không bị niêm luật ràng buộc, số chữ, số câu gị
bó. Cổ phong có màu sắc tự do, phóng khống, có khả năng miêu tả và biểu
hiện phong phú.
Về số câu, số chữ trong bài thơ cổ phong không bị hạn định. Có thể từ
bốn câu cho đến vài trăm câu, khi dài như vậy người ta gọi là cổ phong
trường thiên. Số tiếng có thể là ba tiếng, năm tiếng, chín tiến, mười một tiếng
hoặc nhiều hơn nữa, những ưu tiên cho những số lẻ.



×