Tải bản đầy đủ (.doc) (118 trang)

Đánh giá hiện trạng và đề xuất một số giải pháp bảo vệ môi trường tại nhà máy sản xuất đồ trang sức mỹ ký công ty TNHH shinhan vina KCN sài đồng long biên hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.11 MB, 118 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
------- -------

HOÀNG THỊ THU HẰNG

ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG VÀ ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP
BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TẠI NHÀ MÁY SẢN XUẤT ĐỒ TRANG
SỨC MỸ KÝ- CÔNG TY TNHH SHINHAN VINA- KHU CÔNG
NGHIỆP SÀI ĐỒNG – LONG BIÊN - HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: KHOA HỌC MÔI TRƯỜNG

HÀ NỘI – 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
------- -------

HOÀNG THỊ THU HẰNG

ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG VÀ ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP
BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TẠI NHÀ MÁY SẢN XUẤT ĐỒ TRANG


SỨC MỸ KÝ- CÔNG TY TNHH SHINHAN VINA- KHU CÔNG
NGHIỆP SÀI ĐỒNG – LONG BIÊN - HÀ NỘI

CHUYÊN NGÀNH

: KHOA HỌC MÔI TRƯỜNG

MÃ SỐ

: 60.44.03.01

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN THỊ HỒNG HẠNH

HÀ NỘI – 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là
hoàn toàn trung thực, chưa hề sử dụng cho bảo vệ một học vị nào. Mọi sự giúp đỡ
cho hoàn thành luận văn đều đã được cảm ơn. Các thông tin, tài liệu trình bày trong
luận văn này đã được ghi rõ nguồn gốc.

Hà Nội, ngày..... tháng ..... năm 2015
Tác giả luận văn

Hoàng Thị Thu Hằng

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp


Page i


LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn tốt nghiệp, em xin tỏ lòng biết ơn tới cô Nguyễn
Thị Hồng Hạnh đã tận tình hướng dẫn em trong suốt quá trình viết luận văn tốt
nghiệp.
Em xin chân thành cảm ơn quí thầy cô trong khoa Môi trường- Học viện
Nông Nghiệp Việt Nam đã tận tình truyền đạt về mặt kiến thức trong những
năm em học tập.
Em chân thành cảm ơn ban lãnh đạo và cán bộ công nhân viên Công ty
TNHH Shinhan Vina đã cho phép và tạo điều kiện thuận lới để em thực tập tại
công ty.
Cuối cùng em kính chúc quý thầy cô sức khỏe dồi dào và thành công trong
công việc.
Tác giả luận văn

Hoàng Thị Thu Hằng

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page ii


MỤC LỤC
Lời cam đoan

i


Lời cảm ơn

ii

Mục lục

iii

Danh mục bảng

vi

Danh mục hình

vii

Danh mục các từ viết tắt

ix

MỞ ĐẦU

1

Chương 1 TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

3

1.1


Tình hình phát triển KCN Việt Nam

3

1.2

Giới thiệu về ngành công nghiệp sản xuất đồ trang sức mỹ ký

4

1.2.1

Công đoạn tạo mẫu

4

1.2.2

Công đoạn ép mô cao su, mô silicon

5

1.2.3

Giai đoạn bơm sáp, cắm cây thông

6

1.2.4


Giai đoạn đúc

8

1.2.5

Giai đoạn đánh bóng

10

1.2.6

Giai đoạn xi, mạ

11

1.3

Quy trình mạ điện

12

1.3.1

Gia công bề mặt:

13

1.3.2


Mạ

14

1.3.3

Rửa

15

1.3.4

Sấy khô

15

1.4

Hiện trạng môi trường từ các KCN ở Việt Nam

15

1.4.1

Hiện trạng môi trường các KCN nói chung

15

1.4.2


Hiện trạng môi trường của các khu công nghiệp, cơ sở mạ kim
loại, doanh nghiệp sản xuất đồ trang sức mỹ ký

1.5
1.5.1

Ảnh hưởng của nước thải công nghiệp mạ đến môi trường
Đặc tính và tác hại của Asen

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

25
27
28
Page 3


12
59
13
50
13
51
13
52
1 3
. 3
6
N3
I6

2 3
. 6
2 3
. 6
2 3
. 6
23
36
1
T
S
d3
c6
c
m3
6

23
36
2.4

Phương pháp nghiên cứu

36

2.4.1

Phương pháp bản đồ, khảo sát thực địa

36


2.4.2

Phương pháp thu thập tài liệu thứ cấp

38

2.4.3

Phương pháp lấy bụi khí và phân tích mẫu khí

38

2.4.3

Phương pháp lấy mẫu nước thải và phân tích mẫu nước

40

2.4.4

Phương pháp so sánh

42

2.4.5

Phương pháp nhận dạng môi trường

42


2.4.6

Phương pháp xử lý số liệu

42

Chương 3 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1

Điều kiện môi trường tự nhiên và kinh tế - xã hội Quận Long Biên

43
43

3.1.1

Điều kiện môi trường tự nhiên

43

3.1.2

Điều kiện kinh tế - xã hội

46

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 4



3 4
. 8
34
28
34
29
3 5
. 9
35
39
36
37
38
34
3 8
. 6
38
46
38
47
2
nh8
7

38
47
K 8
ẾT 9

K8
ế 9
K9
i 0
TÀ 9
I
1
PH 9
Ụ 3

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 5


DANH MỤC BẢNG
ST Tang
T ê
n 2
1.1 b 7
1.2 Đ

K
h
2.1 C
á
2.2 P
h
2.3 P
h

3.1 N
h
3.2 S

3.3 L
ư
3.4 Đ

3.5 C
ô
3.6 N
g
3.7 D
a
3.8 K
ết
3.9 K
ết
3.1 K
0
ết
3.1 S
1
o
3.1 S
2
o

2
7

3
8
3
9
4
1
4
4
4
4
4
5
4
5
4
9
5
3
5
4
6
2
6
3
6
5
7
9
8
0


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 6


DANH MỤC HÌNH
ST
T
1.1
1.2
1.3
1.4
1.5
1.6
1.7
1.8
1.9
1.1
0
1.1
1
1.1
2
1.1
3
1.1
4
1.1
5

2.1
3.1
3.2

ang
T
ê
n1
3
S 1
ơ 4
T

l 1
ư 6
H
à
T 1
r 7
H 1
à 7
H 1
à 8
T

đ 1
o 9
H
à
2 1

0 9
D 2
iễ 0
N

L 2
o 1
H
à
B 2
ắ 2
N

n 2
ă 2
N

N 2
ội 3
Ư 2
ớ 4
Ư 2
ớ 4
S 3
ơ 7
S 5
ơ 1
S 5
ơ 3


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page vii


3.3 C
ô
3.4 D
â
3.5 M

3.6 S
ơ
3.7 S
ơ
3.8 S
ơ
3.9 S
ơ
3.1 S
0
ơ
3.1 T
1

3.1 M
2
ặt
3.1 H
3

à
3.1 H
4
à
3.1 H
5
à
3.1 H
6
à

5
5
5
6
5
8
6
0
6
1
6
9
7
0
7
1
7
2
7

3
8
1
7
6
8
2
8
3

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 8


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BOD

Nhu cầu ô xy sinh hóa (Biochemical Oxygen Demand)

BTNMT

Bộ Tài nguyên Môi trường

BVMT

Bảo vệ Môi trường

BYT


Bộ y tế

COD

Nhu cầu ô xy hóa học (Chemical Oxygen Demand)

DN

Doanh nghiệp

HĐND

Hội đồng nhân dân

KCN

Khu công nghiệp

KT – XH

Kinh tế - xã hội

KH

Kế hoạch

TCMT

Tổng cục Môi trường


TC

Tiêu chuẩn

TCVN

Tiêu chuẩn Việt Nam

TSS

Tổng chất rắn lơ lửng (Total Suspended Solids)

QCVN

Quy chuẩn Việt Nam

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 9


MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, đất nước ta đang trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, các khu công nghiệp, các nhà máy đóng vai trò quan trọng trong quá trình
phát triển KT-XH, là nhân tố chủ yếu thúc đẩy tăng trưởng công nghiệp, tăng
khả năng thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước vào phát triển công nghiệp,
đẩy mạnh xuất khẩu, tạo công ăn việc làm và thu nhập cho người lao động. Tuy
nhiên, bên cạnh những đóng góp tích cực, quá trình phát triển các khu công
nghiệp ở Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều thách thức lớn về ô nhiễm môi

trường do chất thải, nước thải.
Chính vì thế hiện nay việc phân tích, đánh giá ảnh hưởng đến môi trường
do hoạt động của các xí nghiệp nhà máy, đề xuất các giải pháp thích hợp về
bảo vệ môi trường là hết sức quan trọng, bắt buộc phải thực hiện đối với
những đối tượng được nêu trong văn bản pháp luật về môi trường hiện hành.
Những ảnh hưởng đến môi trường do hoạt động sản xuất của các nhà máy, xí
nghiệp có thể tốt hoặc xấu, có lợi hoặc có hại nhưng việc đánh giá thực trạng
môi trường sẽ giúp những nhà quản lý ra quyết định chủ động lựa chọn
những phương án khả thi, tối ưu về kinh tế và kỹ thuật trong bất cứ một kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội nào.
KT- XH quận Long Biên đã và đang đạt tốc độ tăng trưởng khá và ổn định.
Giá trị sản xuất các ngành đạt tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm: thương mại,
dịch vụ 24,2%, công nghiệp 18,2%; sản xuất nông nghiệp chuyển dịch đúng hướng,
giá trị sản xuất nông nghiệp trên một ha canh tác tăng bình quân hàng năm
5,5%. Năm 2013, Quận Long Biên đã có những bước phát triển kinh tế mới. Tổng
giá trị sản xuất ước 18.483 tỷ đồng, tăng 14,72% so kế hoạch (KH) và đạt 11,9%
cao hơn chỉ tiêu HĐND quận giao là 10,9%; thu ngân sách đạt 7.931 tỷ đồng, đạt
193%, (vượt gần 2 lần) so với dự toán, đây là kết quả ấn tượng trong bối cảnh khó
khăn như năm 2013. Tuy nhiên bên cạnh những phát triển về kinh tế là vấn đề môi
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 1


trường đang hết sức nan giải với các khu CN trên địa bàn, điển hình là KCN Sài
Đồng B, Sài Đồng A, KCN Đài Tư, …
Nhà Máy sản xuất đồ mỹ ký thuộc Công ty TNHH Shinhan Vina nằm trên
địa bàn Phường Sài Đồng- KCN Sài Đồng A được thành lập từ năm 2008 đến nay
đã và đang đóng góp cho sự phát triển kinh tế Quận, bên cạnh đó do hoạt động sản
xuất mà phần nào có sự ảnh hưởng tới môi trường khu vực nhà máy.

Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Đánh giá hiện trạng và đề
xuất một số giải pháp bảo vệ môi trường tại nhà máy sản xuất đồ trang sức mỹ ký
- Công ty TNHH Shinhan Vina- KCN Sài Đồng- Long Biên- Hà Nội” để đánh giá
hiện trạng môi trường và đề ra các giải pháp phòng ngừa, giảm thiểu tác động xấu
của nhà máy tới môi trường.
2 Mục tiêu của đề tài
- Tìm hiểu được hiện trạng môi trường của khu vực nhà máy
- Đánh giá được các nguồn gây tác động và mức độ ảnh hưởng đến môi
trường không khí, nước, đất và sinh thái cảnh quan do hoạt động sản xuất của nhà
máy, nhận xét mức độ chi tiết, độ tin cậy của các đánh giá
- Đưa ra các phương án giảm thiểu dựa trên đánh giá các nguồn gây tác
động và mức độ ảnh hưởng
3 Yêu cầu của đề tài
- Các số liệu điều tra, thu thập phải đảm bảo độ chính xác, tin cậy
- Đưa ra được các đề xuất có tính khả thi

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 2


Chương 1. TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1 Tình hình phát triển KCN Việt Nam
Theo Vụ Quản lý Các Khu kinh tế, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, lũy kế đến hết
2013, trên cả nước có 289 KCN (không bao gồm khu chế xuất, khu kinh tế) với
tổng diện tích đất tự nhiên 81.000 ha, trong đó, 191 KCN (chiếm 66,08%) đã đi vào
hoạt động với tổng diện tích đất tự nhiên 54.060 ha và 98 KCN đang trong giai đoạn
đền bù giải phóng mặt bằng và xây dựng cơ bản với tổng diện tích đất tự nhiên
27.008 ha. Các KCN đã đóng góp hơn 80 tỷ USD kim ngạch xuất - nhập khẩu hàng
năm, chiếm khoảng 35% tổng kim ngạch xuất - nhập khẩu của nền kinh tế. Các

KCN thu hút khoảng 472 dự án, với tổng vốn đăng ký 8,742 tỷ USD vốn FDI,
chiếm 70% vốn FDI của cả nước, tạo việc làm trực tiếp cho trên 2 triệu lao động
(Tạp chí KCN, 2014)
Bên cạnh đó, lũy kế đến cuối quý I/2014, các KCN trong cả nước đã thu
hút được 5.300 dự án FDI, với tổng vốn đầu tư đăng ký hơn 112 tỷ USD (Tạp
chí KCN, 2014)
Năm 2013, các KCN đã thu hút được nhiều dự án quy mô lớn, công nghệ
hiện đại, như: các dự án của Tập đoàn Samsung tại Thái Nguyên (hơn 3,2 tỷ USD);
Dự án Công ty TNHH Lọc hóa dầu Nghi Sơn - Thanh Hóa (điều chỉnh tăng vốn đầu
tư 2,8 tỷ USD); hay Dự án Công ty TNHH LG Electronics Việt Nam - Hải Phòng
(1,5 tỷ USD)... (Tạp chí KCN, 2014)
Cũng theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, riêng trong quý I/2014, các KCN đã thu
hút 70 dự án FDI, với tổng số vốn đầu tư lên đến 800 triệu USD. Riêng Tập đoàn
Triple Eye Infrastructure (Canada) đầu tư Dự án bệnh viện quốc tế tại KCN Đại An
(Hải Dương) đã chiếm 225 triệu USD và là nhà đầu tư có dự án quy mô lớn nhất
vào các KCN trong quý I năm nay. (Tạp chí KCN, 2014)
Hệ thống KCN còn góp phần hiện đại hóa hệ thống cơ sở vật chất hạ tầng,
đơn giản hóa thủ tục hành chính, tạo ra một môi trường đầu tư thông thoáng, phù
hợp hơn với thông lệ quốc tế, đồng thời, góp phần củng cố an ninh, quốc phòng.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 3


Các KCN đã trở thành điểm đến của nhiều dự án quan trọng và có quy mô lớn, là
lựa chọn hàng đầu của các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các nhà đầu tư trong
lĩnh vực chế biến, chế tạo.
1.2. Giới thiệu về ngành công nghiệp sản xuất đồ trang sức mỹ ký
Hiện nay nhu cầu làm đẹp của con người ngày càng cao, đặc biệt là các chị
em phụ nữ. Để đáp ứng nhu cầu đó hàng loạt các mặt hàng: mỹ phẩm, quần áo, giày

dép, đồ trang sức... ngày càng phát triển để theo kịp thị trường. Trên cơ sở đó ngành
sản xuất đồ trang sức mỹ ký ngày càng mở rộng hơn trên thị trường quốc tế. Theo
nghiên cứu của một tổ chức quốc tế phi lợi nhuận thì một nửa số trang sức trên thị
trường hiện nay là đồ mỹ ký.
Sản xuất đồ trang sức mỹ ký trải qua các công đoạn sau.
Công đoạn tạo
mẫu

Giai đoạn xi, mạ

Công đoạn ép mô
cao su, mô silicon

Giai đoạn bơm
sáp, cắm cây thông

Giai đoạn đánh
bóng

Giai đoạn đúc

1.2.1. Công đoạn tạo mẫu
Đây là công việc của phòng thiết kế tạo mẫu. Đầu tiên, những ý tưởng sơ
khai nhất về một mẫu trang sức mới sẽ được hình thành. Các thiết kế viên có thể
tham khảo những sản phẩm có sẵn, các nguồn tài liệu từ những tạp chí hay tài liệu
mạng để tạo cảm hứng cho mình.
Sau khi đã có một hướng đi rõ ràng, những thiết kế viên thường sẽ phác thảo
những mẫu vẽ bằng 2D trước (có thể bằng tay – bút chì, bút bi hay các phầm mềm
có chức năng tương tự như Alias …) sau đó vẽ lại bằng 3D. Cũng có những người
vẽ trực tiếp các mẫu thiết kế lên 3D bằng những chương trình chuyên dụng như

Modela Player 4, 3Ds Max, Rhinoceros, Artcam Jewelsmith … Các mẫu này sau đó
được đưa vào những chương trình render như Vray, Hypershot … và thực hiện các
thao tác cẩn hột, gắn hột ngay trên mô Hình 2D ấy. Khi kết thúc quá trình thiết kế,

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 4


ta sẽ có một mẫu trang sức y như thật theo dạng 3D, với đúng tỉ lệ và kích thước mà
nó sẽ hình thành.
Ở đoạn tiếp theo, mẫu trang sức này sẽ được xuất ra cho máy chạy khắc
thành những mô hình bằng sáp cứng. Sáp cứng có màu xanh ngọc hoặc xanh lá
cây sậm. Tính chất của chúng khá đặc biệt: cho phép liên kết các phần sáp với
nhau, có thể gọt tạo hình bằng dao, chạm khắc và đánh bóng. Sau khi một khối
sáp cứng nguyên vẹn (thường là có hình hộp chữ nhật, sẽ được cắt gọt trước khi
đưa vào máy tùy theo hình dáng sản phẩm sắp được chạy ra) được đưa vào
máy, chúng sẽ được máy khắc ra thành những hình dạng đẹp đẽ tùy thuộc vào
bản vẽ 3D mà chúng dựa trên. Đây là mô hình ba chiều thực sự đầu tiên, giúp
người thiết kế được nhìn thấy bản vẽ của họ “hiện thực hóa”. Khi đó, họ sẽ
nghiên cứu một cách thận trọng hơn cách nhận hột, kiểu dáng, chi tiết hoa
văn… của sản phẩm, và sửa nó trực tiếp trên khối sáp.
1.2.2. Công đoạn ép mô cao su, mô silicon
Có những mẫu trang sức thuộc loại “độc bản”, chỉ được thiết kế một lần theo
yêu cầu của khách. Nhưng phần lớn, các trang sức được chế tác số lượng lớn, chế
tác hàng loạt. Khi đó, cái ta cần chính là thật nhiều khuôn để đúc ra nhiều mẫu sáp,
sau đó đem đúc cả cây với số lượng theo yêu cầu của khách hàng. Khuôn trong
trường hợp này thường được gọi là mô. Việc ép khuôn được gọi là ép mô.
Có hai loại mô, thực ra là mô làm từ hai chất liệu khác nhau: mô cao su và
mô silicon. Hai mô này nhìn vào là phân biệt được ngay, do có màu sắc khác nhau.

Mô silicon có màu trắng trong và cứng hơn, trong khi đó mô cao su có màu vàng
nhạt đặc trưng và mềm hơn khá nhiều. Chúng còn khác nhau ở chỗ khả năng: mô
cao su có thể ép được cả mẫu sáp lẫn các mẫu bằng kim loại (vàng, bạc …) trong
khi mô cao su không ép được mẫu sáp, chỉ có thể ép được mẫu kim loại mà thôi.
Ngoài ra, việc sửa mô silicon cũng khó hơn mô cao su, do chúng cứng hơn nhiều (ví
dụ sửa khi mô bị những lỗi nhỏ). Dù là mô nào thì lúc đầu mới ép ra cũng đều là
một khối liền, sau đó, chúng được thợ tách ra làm đôi bằng dao mổ. Tách ra như thế
mới lấy mẫu cao su được bơm trong đó ra. Mẫu kim loại trước khi đem ép mô cao


su ban đầu, nếu có hột đá thì phải tháo đá ra, nếu có vết trầy xước thì phải được
đánh bóng lại. Có thể đánh bóng bằng giấy nhám mịn 1200 hoặc đánh bóng bằng
điện hóa. Bước tiếp theo là tạo các rãnh dẫn đủ lớn (để dẫn sáp vào trong) và bố trí
chúng chính xác vị trí cho sáp lỏng chảy qua. Nếu các rãnh quá hẹp hay góc
nghiêng lớn, sáp sẽ khó chảy vào khuôn. Các tấm cao su phải được cắt sao cho
khớp với mặt trong khung nhôm. Tiếp theo, người ta sẽ bóc lớp nhựa bảo vệ trên
các tấm cao su, chèn chúng vào cho cao đến một nửa khung. Đặt tiếp trang sức cần
làm mẫu vào khung sao cho ống rót khớp với lỗ rót ở một đầu khung. Đặt nốt các
tấm cao su còn lại vào khung cho đầy. Kế tiếp, ta phải lót lớp cao su mỏng lên hai
tấm thép để khi nung nóng cao thì cao su không bị dính. Chính nhiệt độ cho phù
0

hợp rồi đưa khung vào trong thiết bị lưu hóa. Khi nhiệt đến 150 C thì đóng chặt cửa
thiết bị lưu hóa. Thời gian lưu hóa dài hay ngắn là tùy theo có bao nhiêu lớp cao su
đã ép trong khung – cứ khoảng 2,5 phút cho 1mm. Sau thời gian này, thiết bị được
tắt và khung để nguội dần. Lấy khuôn cao su ra (hoặc gọi là mô), dùng dao mổ để
tách và cắt khuôn làm đôi, tháo ống rót. Khuôn này có thể dùng được rất nhiều lần
để tạo các mẫu sáp đồng nhất
1.2.3. Giai đoạn bơm sáp, cắm cây thông
Bơm sáp: Thiết bị được sử dụng chính là máy bơm (phun) sáp Vacuum Wac

Injector. Ngoài ra, người ta còn sử dụng bột phấn để đập vào các ổ hột của mô hay
dùng keo xịt silicon để xịt vào cái mô đã sử dụng lâu ngày và bị bịt lại.
Đầu tiên, phấn được đập vào giữa hai lớp của mô. Đóng mô lại cho khớp,
xong đặt mô và hai miếng mica để định vị, sát một mép. (Tùy theo khuôn/ mô dày
hay mỏng mà người ta đặt một hay hai tấm mica). Sau đó, đẩy toàn bộ mô và mica
vào đế định vị của máy bơm sáp. Chú ý đặt sao cho lỗ của ống rót của tấm mô (đã
được vạch thành rãnh bên trong để dẫn sáp lỏng – như đã nói ở trên) khớp với ống
bơm sáp của máy. Điều chỉnh lượng sáp lỏng sẽ bơm vào khuôn, và chạy máy. Sau
khoảng 5 giây là bơm xong, mô được lấy ra và để nguội cho sáp có thời gian đông
khô lại. Theo kinh nghiệm của những người thợ, khoảng thời gian này ước chừng
một tiếng.


Khi bơm sáp, phải đảm bảo cho lượng sáp lỏng được bơm đầy và bơm đủ vào
trong mô, nghĩa là không dư đến trào ra cũng không bị thiếu hụt, đồng thời tất cả
các mẫu cũng đều phải được bơm đều như nhau. Nếu không làm tốt điều này thì
sẽ xuất hiện những mẫu bơm bị lỗi. Sáp sau khi đã khô cứng và được lấy ra khỏi mô
(các thợ thường gọi chúng là những con sáp) phải qua tiếp một giai đoạn nữa là
kiểm tra, chỉnh sửa lại bề mặt và các chi tiết của mẫu bằng phương pháp hàn sáp hay
gọt giũa. Những con sáp này có màu hồng, tuy không dễ tạo hình như sáp cứng kia
nhưng cũng không phải là không chỉnh sửa được. Theo kinh nghiệm của thợ thì, việc
có những mẫu bị bơm hư là không thể tránh được. Thường thì chỉ có những mẫu nào
đơn giản mới ít bị hư, còn hơi phúc tạp và nhiều chi tiết thì sẽ có nguy cơ cao hơn.
Cắm cây thông: là cái tên hình tượng cho công đoạn nối những con sáp ở
trên vào một ống rót trước khi đem đúc. Lí do gọi chúng là “cắm cây thông”, đơn
giản vì khi hoàn thành công đoạn này, những con sáp được cắm đều nhau trên ống
rót và chĩa ra ngoài, nhìn tổng thể trông rất giống cây thông.
Láp: Thực chất láp là những ống hình trụ có đục lỗ tròn đều đặn, làm bằng
kim loại có thể chịu được nhiệt độ rất cao của lò nung, lò đúc, thường là bằng sắt.
Bên dưới láp vành tròn xòe ra thành đế, đế lớn và dày hơn phần trên. Láp được

công ty đặt mua về số lượng lớn để phục vụ sản xuất. Láp có rất nhiều kích thước,
từ to đến nhỏ, tùy theo từng trường hợp mà sử dụng cái nào.
Các mẫu sáp được nối đến một ống rót chính. Bản thân ống rót này cũng
được tạo thành bằng cách tương tự như những con sáp – nghĩa là bơm sáp lỏng và
mô hình ống trụ. Ống rót được cố định trên một đế cao su trước. Các con sáp riêng
rẽ không tiếp xúc trực tiếp với nhau mà chỉ được nối thông nhau qua các nhánh rót
– là những nhánh phụ chĩa ra từ ống rót chính. Khi cắm, người ta bắt đầu cắm các
mẫu sáp nhỏ ở phía trên trước, sau đó cắm các mẫu lớn ở phía dưới. Hướng cắm là
hướng nghiêng lên trên. Ở khâu này, người thợ phụ trách sẽ đem cân cây thông (lúc
này chưa có gắn đế), từ đó mới tính toán trọng lượng kim loại để đúc. Tùy theo kim
loại cần đúc là kim loại gì, họ sẽ nhân trọng lượng cây thông với một con số. Ví dụ,
nếu là bạc thì nhân với 11, nếu là vàng 18 kara thì nhân với 16 (hoặc theo một số


thợ là 15)… Khi đã biết được trọng lượng kim loại cần đúc rồi, con số ấy sẽ được
ghi lại và báo cho khách hàng – cả trọng lượng lẫn giá cả. Ở bước tiếp theo, “cây
thông” được cắm vào một đế cao su tròn có đường kính lớn hơn đường kính lớn
nhất bao quanh cây thông. Người ta sẽ chọn láp có đường kính và chiều cao phù
hợp với đế cao su và cây thông đó, úp vào, gắn chặt vào đế cao su đó, dán kín băng
keo xung quanh – phải thật kín, quấn chặt thun ở phần đáy. Khi đã làm được một số
lượng đủ lớn, các láp có chứa cây thông như thế sẽ được mang tới phòng đúc.
Tùy theo yêu cầu của khách cần bao nhiêu hàng – một hai cái hay rất nhiều
cái, kích thước thế nào … mà người thợ sẽ tính toán đúc láp to hay láp nhỏ, vì láp có
rất nhiều kích thước và độ dao động kích thước giữa chúng khá đáng kể. Điều này
ảnh hưởng đến năng suất làm việc, tức một ngày có thể làm được bao nhiêu láp. Yêu
cầu của khách khác nhau nên số lượng láp của các ngày cũng không thể giống nhau.
* Đối với những mẫu trang sức được thiết kế là có gắn hột lên, thì trước giai
đoạn cắm cây thông này, những con sáp của mẫu trang sức ấy cũng được gắn hột lên
trước – ở vị trí y như khi nó đã trở thành sản phẩm thật. Sau khi gắn lên xong
rồi, chúng sẽ được cắm lên cây thông, quy trình y như những sản phẩm không gắn đá

khác. Như vậy khi đúc ra trang sức bằng kim loại quý (ở công đoạn sau), những
hột ấy sẽ đính sẵn trên sản phẩm luôn. Đây là phương pháp mới. Trước đây, người ta
phải làm kiểu truyền thống là đúc hẳn ra thành kim loại thật rồi mới gắn hột lên sau.
Phương pháp cắm cây thông có thể sử dụng cho nhiều loại trang sức: có thể
cắm cả nhẫn, vòng, bông tai, mặt dây chuyền.
1.2.4. Giai đoạn đúc
Nung chảy sáp và nung khuôn thạch cao
Dựa vào trọng lượng kim loại đã tính ở giai đoạn trước, người thợ ở xưởng
đúc sẽ ước lượng thạch cao cần thiết để đổ khuôn. Thạch cao được pha theo tỉ lệ
1gram thạch cao với 40cc nước, sau đó được khuấy bằng máy khuấy cho thạch cao
tan đều hết. Tiếp theo, thợ sẽ bỏ chậu thạch cao vào máy hút chân không từ 1-2
phút. Phần thạch cao trên, sau khi lấy ra khỏi máy, sẽ được đổ vào các láp – lúc này
cần kiểm tra lại để chắc chắn rằng thân láp đã được bọc kín, nếu không thạch cao sẽ


chảy tràn ra ngoài. Sau đó, các láp được xếp vào máy hút chân không để hút hết bọt
khí đọng trong láp – nếu còn bọt khí và bọt khí ấy tiếp xúc với bề mặt mẫu sáp, thì
sẽ bị lỗi khi đúc. Một thời gian kế tiếp, khi đã đảm bảo bọt khí được hút hết, ta sẽ
chờ cho thạch cao đông đặc rồi khô hẳn. Thời gian chờ lâu hay mau là tùy theo kích
thước láp, có thể từ 1 – 2 tiếng.
Khi thạch cao trong láp đã khô hẳn, nghĩa là chúng đã bọc cả cây thông thành
một khối, lúc này, người thợ mới dần dần gỡ lớp băng keo bọc bên ngoài cây thông
ra, cho vào lò nung tự động để sáp trong khuôn chảy ra hết. Nhiệt độ nung ở giai
0

đoạn này khoảng 300 C.
Sau khi đã nung cho sáp chảy ra hết, ta tiếp tục cho vào lò nung thạch cao tự
động với mục đích nung cho khuôn thạch cao chín. Nhiệt độ của lò nung lúc này
0


0

khoảng từ 650 C đến 750 C. Nhiệt độ phải được điều chỉnh cẩn thận trong vài giờ
đầu để tránh sự rạn nứt xảy ra cho khuôn.
Đúc kim loại
Để đúc kim loại nóng chảy, nhiệt độ ống thép phải hạ đến một nhiệt độ xác
định và duy trì ở nhiệt độ đó sau khi lấy ra khỏi lò. Nhiệt độ này khác nhau là xác
định tùy theo kim loại được đúc. Đối với vàng, nhiệt độ ở ống thép cần duy trì là
0

0

600 C trong một giờ trước khi lấy khỏi lò, và tiếp tục duy trì ở khoảng 450 – 600 C
sau khi lấy ra khỏi lò. Yêu cầu nhiệt độ của bạc trong cả hai trường hợp thì thấp hơn
0

vàng khoảng 100 C.
Sau khi quá trình cấp nhiệt cho láp hoàn tất, người ta đặt láp vào thiết bị
đúc. Láp được đem từ phòng ép mô xuống, có thể nhiều có thể ít. Người ta có thể
chờ số lượng láp lên đến vài chục rồi đúc một lần, hoặc cũng có thể đúc chỉ vài láp
một lần thôi.
Điều cơ bản là phải hoàn tất các tính toán thành phần trước khi bắt đầu quy
trình hợp kim hóa. Bạc, đồng và chất trợ dung là ba thành phần chính cần phải có
khi chuẩn bị hợp kim hóa. Thợ kim hoàn thường gọi nôm na việc hợp kim là chế
“hội” vàng tây (hợp kim – alloy).


Sau khi đã chuẩn bị và tính toán xong thành phần để hợp kim hóa, người thợ
cho kim loại vào chén nấu, thêm một chút hàn the vào rồi dùng mỏ đốt khè lửa vào
chén để nấu chảy kim loại. Những chén này có rất nhiều trong xưởng đúc. Được

biết, loại chén tốt thường làm bằng thạch cao, còn nếu không thì làm bằng đất nung
cũng được. Cả hai loại đều có thể chịu được nhiệt độ rất cao, và trở nên đỏ sẫm khi
dùng để nấu chảy kim loại. Bước tiếp theo, hợp kim nóng chảy được rót vào khuôn.
Để khuôn ổn định trong vài phút rồi đem nhúng láp vào trong nước lạnh đột ngột,
nó sẽ khiến khuôn thạch cao bị nứt, vỡ ra. Khi đó, ta sẽ thu được thành phẩm của
quá trình đúc là một hay nhiều mẫu trang sức thô (bằng chính kim loại dùng để đúc)
chưa được gọt giũa còn dính trên cây thông. Người ta phải tiếp tục một bước nữa là
khử lớp oxy hóa và các tạp chất bằng cách rửa trong dung dịch axit. Các tạp chất
cũng như lớp oxy hóa này làm giảm độ bóng bề mặt và gây khó khăn trong các
công đoạn sau. Dung dịch 20% acid sulfuric thường dùng để rửa vàng bạc. Để tăng
tốc độ rửa, nó có thể được nung nóng đến một nhiệt độ thích hợp.
1.2.5. Giai đoạn đánh bóng
Đây là giai đoạn cũng khá quan trọng, vì nó là một khâu góp phần vào tổng
thể cuối cùng cho bộ mặt của trang sức.
Các dụng cụ thiết bị cần thiết gồm có:
- Máy đánh bóng với động cơ quay 2800 – 3000 vòng/ phút và các công cụ
đánh bóng bằng tay cần thiết
- Các loại đồ gá đặc biệt dùng cho vị trí góc, các mặt trong hoặc các đế để
cẩn hột đá
- Bàn chải, đá và bột đánh bóng. Thông thường, để giúp cho bề mặt món
trang sức bóng đẹp hoàn hảo, người thợ dùng hai bộ dụng cụ riêng, một cho đánh
bóng, một cho mài bóng.
Như vậy, có hai bước để làm cho món trang sức đạt được độ bóng như gương
(gọi tắt là độ bóng gương) là đánh bóng và mài bóng.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 10



Đầu tiên, những người thợ ở khâu này sẽ xem xét thật cẩn thận chi tiết cần
đánh bóng rồi mới lựa chọn dụng cụ đánh bóng thích hợp. Khi đánh bóng, người ta
sẽ đánh với hai loại lơ trắng và lơ đỏ. Theo chỉ dẫn của các thợ, thì một loại là làm
cho sáng lên, còn một loại làm cho mòn đi những chỗ xước nhỏ còn lại sau khi đã
chà qua giấy nhám mịn. Cách sử dụng:
- Lơ trắng thì đánh khô, chỉ cần đưa lơ vào bàn chải rồi đánh bóng thôi.
- Lơ đỏ thì cạo lơ ra, quậy nó sền sệt với xăng để đánh bóng.
Để tránh làm tròn các cạnh mép cần độ sắc sảo thì người thợ sẽ dùng d9a1
mài cứng để mài cho những bề mặt phằng và bánh mài với các dây thép cứng cho
các dạng hình tròn. Tiếp theo là hoàn thiện hơn bề mặt bằng cách mài bóng với bột
mài có độ cứng thấp, rồi lại giảm độ cứng xuống bằng cách mài với nỉ. Cuối cùng,
phải làm sạch toàn bộ chi tiết, rửa sạch với nước nóng và xà bông, sau đó cho vào
máy rung vài phút rồi lau thật khô.
1.2.6. Giai đoạn xi, mạ
Sau khi mài bóng xong, người thợ sử dùng máy xi và nước xi để xi món đồ
này, xi bằng tay. Họ có năm lựa chọn để xi: xi bạc, xi trắng, xi vàng, xi hai màu
hoặc xi màu đồng. Họ có thể xi bằng một lớp plantinum (bạch kim) hoặc rhodium
(kim loại trắng quý) để bảo vệ món trang sức và lâu bị mờ.
Mục đích chính của xi mạ là làm cho sản phẩm đẹp, chống ăn mòn và tăng
giá trị sản phẩm, phục vụ chủ yếu cho mục đích thương mại. Mục đích ban đầu của
xi mạ đơn giản chỉ là làm đẹp, cho nên có nhiều trường hợp lớp xi mạ bị bong ra,
khiến chi tiết bị rỉ sét và trở nên xấu. Hiện nay, hai mục đích trên đã được kết hợp lại
là: vừa bền, vừa đẹp. Mặt khác, xi mạ cũng là một yếu tố góp phần làm tăng tuổi thọ
của sản phẩm lên. Một món trang sức bằng vàng sau khi đã xi mạ hoàn chính có thể
giữ được đến 1 năm mà không bị đen, trang sức bạc sẽ sáng được trong 6 tháng,
trong khi nếu không xi mạ thì số thời gian đó ngắn hơn. Dĩ nhiên, không có món
trang sức nào là sáng đẹp vĩnh cửu. Sau khoảng thời gian nhất định đó, các trang sức
cần được đem đến các thợ để “bảo hành”, tức đánh bóng, xi mạ lại, chưa kể là phải

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp


Page 11


làm mờ đi những vết trầy xước gây ra rất nhiều trong hoạt động thường ngày người sử
dụng.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 12


Thời gian mạ lâu hay mau là tùy kích thước món đồ, và cũng tùy theo ý
khách hàng muốn lớp mạ của trang sức mình dày hay mỏng. Nếu muốn dày thì để
càng lâu nó sẽ dày, có khi đến vài phút. Ngược lại, lớp xi mạ càng mỏng thì càng
tốn ít thời gian, có khi chỉ 30s, đặt vào một chút rồi lấy trang sức ra.
Nguyên lí mạ chia làm hai loại lớn, là mạ điện và mạ trao đổi ion. Hiện nay
chủ yếu sử dụng phương pháp mạ điện. Phương pháp mạ điện được phát hiện lần
đầu tiên vào năm 1805 bởi nhà hóa học Luigi V. Brugnatelli để tạo một lớp phủ bên
ngoài kim loại khác. Trong các công đoạn sản xuất đồ trang sức mỹ ký thì công
đoạn mạ điện là một trong các công đoạn quan trọng nhất, đây là công đoạn sử dụng
nhiều hóa chất nhất để tạo ra màu sản phẩm nên có nhiều phát thải về nước thải
chứa thành phần kim loại nặng, hóa chất khó xử lý nhất. Có thể nói nước thải phát
sinh do quá trình sản xuất đồ trang sức mỹ ký kể cả số lượng và hàm lượng chất ô
nhiễm trong nước thải phần lớn là nước thải công đoạn mạ. Chính vì thế công đoạn
mạ điện cần được quan tâm và tìm hiểu để trên cơ sở đó có biện pháp khắc phục đối
với những chất thải phát sinh do công đoạn này phát thải ra môi trường.
1.3 Quy trình mạ điện
Mạ điện là dùng phương pháp điện phân để kết tủa trên lớp kim loại hoặc
hợp kim một lớp kim loại mỏng với mục đích chống ăn mòn, trang sức bề mặt,

tăng tính dẫn điện, tăng độ cứng.
Quy trình mạ điện có thể tóm tắc như sau:
PHÔI

GIA CÔNG BỀ
MẶT

MẠ

RỬA
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

SẤY KHÔ

KIỂM TRA

Page 12


Hình 1.1 Quy trình mạ điện
1.3.1. Gia công bề mặt:
Để sản phẩm sau khi mạ có lớp mạ đồng nhất thì gia công bề mặt là giai
đoạn không thể thiếu trong quá trình xi mạ. Gia công bề mặt trước khi mạ có ảnh
hưởng đến chất lượng lớp mạ. Ngoài việc làm cho bề mặt nhẵn bóng nó còn có tác
dụng khử sạch các lớp gỉ, các màng oxit mỏng hoặc các chất bẩn, dầu mỡ trên bề
mặt vật liệu cần mạ, tạo điều kiện thuận lợi cho lớp mạ gắn chắc với kim loại nền.
Các phương pháp gia công bề mặt:
• Phương pháp cơ khí: mài thô, mài tinh, đánh bóng, quay bóng
• Phương pháp hóa học: Tẩy dầu mỡ, tẩy gỉ
Phương pháp mài: sử dụng các loại bột mài như nhôm oxit, các loại lơ đánh

bóng. Chất thải trong quá trình này là các loại bụi do sử dụng các loại bột mài, các
vật liệu bị mài mòn
Phương pháp quay bóng: Các vật thể nhỏ không thể mài bống được thì sử
dụng phương pháp quay bóng. Có hai cách quay bóng: quay bóng khô và quay bóng
ướt
Tẩy dầu mỡ:Trên bề mặt chi tiết cần mạ thường có các loại dầu mỡ hay
thuốc đánh bóng dính vào. Màng dầu mỡ gây hiện tượng bong lớp kim loại mạ
đồng thời làm bẩn dung dịch mạ
Các phương pháp tẩy dầu mỡ:
Tẩy dầu mỡ trong dung môi hữu cơ
Tẩy dầu mỡ trong dung dịch kiềm và nhũ tương
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 13


×