Tải bản đầy đủ (.pdf) (169 trang)

BẢO VỆ QUYỀN CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG DI TRÚ PHÁP LUẬT & THỰC TIỄN QUỐC TẾ, KHU VỰC VÀ QUỐC GIA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.54 MB, 169 trang )

BẢO VỆ QUYỀN CỦA NGƯỜI
LAO ĐỘNG DI TRÚ
PHÁP LUẬT & THỰC TIỄN QUỐC TẾ, KHU VỰC
VÀ QUỐC GIA

(This publication has been produced with the financial
assistance of CIDA/SEARCH)

1

2


HỘI LUẬT GIA VIỆT NAM
---------

NHỮNG TỪ VIẾT TẮT

BẢO VỆ QUYỀN CỦA
NGƯỜI LAO ĐỘNG DI TRÚ
PHÁP LUẬT & THỰC TIỄN QUỐC TẾ,
KHU VỰC VÀ QUỐC GIA
(SÁCH THAM KHẢO)

Chữ viết tắt

Tên/cụm từ đầy đủ

ILO

Tổ chức Lao động Quốc tế (International Labour


Organization)

IOM

Tổ chức Di cư Quốc
Organization on Migration)

ECOSOC

Hội đồng Kinh tế-Xã hội Liên hợp quốc (The UN
Economic and Social Council)

ASEAN

Hiệp hội các nước Đông Nam Á (Association of
Southeast Asian Nations)

XHCN

Xã hội Chủ nghĩa

UBND

Uỷ ban Nhân dân

HĐND

Hội đồng Nhân dân

Bộ LĐ,TB&XH


Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội

NHÀ XUẤT BẢN HỒNG ĐỨC
HÀ NỘI - 2008
3

4

tế

(International


LỜI GIỚI THIỆU
Ấn phẩm này có nguồn gốc là một báo cáo nghiên cứu
được thực hiện bởi một nhóm chuyên gia của Hội Luật gia Việt
Nam, Bộ Lao động - Thương binh - Xã hội (Bộ LĐ-TB-XH), Bộ
Ngoại giao, Viện Nghiên cứu Quyền con người và Viện Nhà
nước và Pháp luật trực thuộc Học viện Chính trị - Hành chính
Quốc gia Hồ Chí Minh. Báo cáo này là một trong các kết quả
của dự án nghiên cứu về các quy định pháp luật và các cơ chế
quốc tế, khu vực và quốc gia về bảo vệ các quyền và lợi ích hợp
pháp của người lao động ở nước ngoài của Hội Luật gia Việt
Nam, với sự trợ giúp của CIDA Canađa (tài trợ thông qua
Chương trình Hợp tác về Phát triển con người ở khu vực Đông
Nam Á của Canađa - SEARCH).
Việc nghiên cứu và soạn thảo báo cáo này được tiến hành
từ tháng 10/2007. Từng phần trong bản thảo của báo cáo đã
được trình bày tóm tắt tại Hội thảo về “Bảo vệ quyền và lợi ích

hợp pháp của người lao động ở nước ngoài” do Hội Luật gia
Việt Nam tổ chức tại Trung tâm Hội nghị quốc tế, Hà Nội, trong
các ngày 11-12/02/2008 và trong Hội thảo tư vấn về bảo vệ và
thúc đẩy các quyền của người lao động ở nước ngoài cũng do
Hội Luật gia Việt Nam tổ chức ở Khách sạn Bảo Sơn, Hà Nội,
trong các ngày 3-4/03/2008. Báo cáo sau đó đã được chỉnh sửa,
bổ sung trên cơ sở tiếp thu những ý kiến góp ý, các quan điểm, ý
tưởng mới của các đại biểu, thông qua các tham luận và quá
trình thảo luận tại hai Hội thảo kể trên.

nhằm hỗ trợ các cơ quan nhà nước hữu quan trong việc hoàn
thiện cơ chế pháp luật quốc gia cũng như để vận dụng các cơ
chế và quy định pháp luật quốc tế và khu vực để bảo vệ các quyền
và lợi ích hợp pháp của người lao động Việt Nam ở nước ngoài.
Xuất phát từ mục đích đó, báo cáo cố gắng đưa ra một cái nhìn
toàn diện về hệ thống các quy định pháp luật và cơ chế quốc tế,
khu vực về quyền và bảo vệ quyền của người lao động di trú, đồng
thời đề cập một cách khái quát về khuôn khổ pháp luật có liên
quan đến vấn đề quyền của nhóm xã hội này của Việt Nam và
của một số nước tiếp nhận nhiều lao động Việt Nam.
Các đánh giá và khuyến nghị nêu ra trong báo cáo này chỉ
có tính chất tham khảo, cần có sự góp ý, bổ sung của các chuyên
gia, đặc biệt là các chuyên gia đang làm việc trên lĩnh vực này ở
các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức phi chính phủ.
Nhân dịp này, chúng tôi xin chân thành cảm ơn các cơ
quan nhà nước, các tổ chức xã hội, tổ chức phi chính phủ và đặc
biệt là CIDA Canađa và SEARCH đã hỗ trợ Hội Luật gia Việt
Nam trong việc thực hiện dự án nói chung, cũng như trong việc
nghiên cứu và soạn thảo báo cáo này nói riêng. Chúng tôi cũng
đánh giá cao những nỗ lực của nhóm nghiên cứu và chân thành

cảm ơn các nhà khoa học, các chuyên gia pháp lý và các quý vị
đại biểu tham gia hai Hội thảo kể trên vì đã có những góp ý quý
báu vào việc hoàn thành bản báo cáo này.
Hà Nội, tháng 5 năm 2008
HỘI LUẬT GIA VIỆT NAM

Mục đích của báo cáo cũng như của cả dự án kể trên là
5

6


MỤC LỤC

PHẦN III
TÌNH HÌNH NGƯỜI LAO ĐỘNG DI TRÚ VÀ VIỆC BẢO
VỆ QUYỀN CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG DI TRÚ
Ở KHU VỰC ĐÔNG NAM Á

NHỮNG TỪ VIẾT TẮT
LỜI GIỚI THIỆU

3.1.Khái quát về tình hình người lao động di trú ở
khu vực Đông Nam Á

PHẦN I

3.2. Những thách thức với việc bảo vệ quyền của
người lao động di trú trong khu vực ASEAN


GIỚI THIỆU

1.1. Bối cảnh và sự cần thiết của nghiên cứu

3.3. Tình hình tham gia các điều ước quốc tế về
quyền của người lao động di trú ở khu vực ASEAN

1.2. Mục tiêu của nghiên cứu
1.3. Phương pháp và tiến trình nghiên cứu

3.4. Hợp tác bảo vệ người lao động di trú ở khu
vực ASEAN

1.4. Phạm vi và giới hạn của nghiên cứu

3.5. Hoạt động của các tổ chức công đoàn và tổ
chức xã hội ở khu vực ASEAN về bảo vệ người lao động
di trú

1.5. Các khái niệm/định nghĩa quan trọng
PHẦN II

3.6. Thỏa thuận song phương giữa các nước trong
khu vực liên quan đến bảo vệ người lao động di trú

QUYỀN VÀ VIỆC BẢO VỆ QUYỀN CỦA NGƯỜI
LAO ĐỘNG DI TRÚ TRONG PHÁP LUẬT QUỐC TẾ

3.7. Một số kinh nghiệm về xuất khẩu lao động và
bảo vệ người lao động di trú của một số nước châu Á


2.1.Khái quát những nỗ lực và văn kiện pháp luật
quốc tế trên lĩnh vực này
2.2. Công ước của Liên hợp quốc về quyền của
người lao động di trú và gia đình họ

PHẦN IV
BẢO VỆ QUYỀN CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG ĐI LÀM VIỆC
Ở NƯỚC NGOÀI TRONG PHÁP LUẬT VIỆT NAM

2.3. Các tiêu chuẩn của ILO về bảo vệ quyền của
người lao động di trú

4.1.Khái quát

2.4. Nhận xét

4.2.Tổng quan tình hình xuất khẩu lao động và
7

8


pháp luật về quản lý xuất khẩu lao động của Việt Nam.
4.3. Các quy định chủ yếu liên quan đến quyền
của người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài
theo hợp đồng.
4.4. Nhận xét
PHẦN V
CÁC KHUYẾN NGHỊ LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC

BẢO VỆ CÁC QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP
CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG VIỆT NAM ĐI LÀM VIỆC
Ở NƯỚC NGOÀI
5.1. Khuyến nghị của Cục quản lý lao động ngoài
nước, Bộ LĐ-TB-XH
5.2.Khuyến nghị của Cục Lãnh sự, Bộ ngoại giao
5.3.Khuyến nghị của Tổng Liên đoàn Lao động
Việt Nam
5.4. Khuyến nghị nêu ra tại Hội thảo tư vấn ngày
3-4/3/2008.
PHỤ LỤC
I – Khái quát về pháp luật của một số nước và
vùng lãnh thổ ở châu Á tiếp nhận lao động Việt Nam
II- Các điều ước quốc tế quan trọng về quyền của
người lao động di trú
TÀI LIỆU THAM KHẢO
9

10


thấy, phần lớn số người lao động di trú là từ các nước đang phát
triển hoặc các nước quá độ sang các nước phát triển 3. Tuy nhiên,
cũng có một phần dòng người lao động di trú từ các nước đang
phát triển nghèo tới các nước láng giềng cũng thuộc dạng đang
phát triển nhưng giàu có hơn. Nói cách khác, đích đến của
những người lao động di trú là các nước mà họ tin rằng có nhiều
cơ hội việc làm và cải thiện cuộc sống hơn so với nước mình.

Phần I

GIỚI THIỆU
1.1. Bối cảnh và sự cần thiết của nghiên cứu
Lao động di trú (migrant worker) không phải là vấn đề
mới nảy sinh mà đã diễn ra từ rất lâu trong lịch sử nhân loại.
Tuy nhiên, thế kỷ XX là khoảng thời gian chứng kiến sự phát
triển tăng vọt của hiện tượng lao động di trú, và dự đoán vấn đề
này sẽ còn trở lên phổ biến hơn nữa trong thế kỷ XXI.
Theo thống kê của Tổ chức Di cư Quốc tế (IOM), hiện có
192 triệu người đang làm việc ở nước khác, chiếm 3% tổng dân
số của thế giới 1. Còn theo ước tính của Tổ chức Lao động quốc
tế (ILO) trung bình cứ 25 người lao động trên thế giới thì có một
người là lao động di trú. Số lượng người lao động di trú trên thế
giới ngày càng tăng nhanh. Nếu như trong giai đoạn 1965 đến
1990 mức tăng này là 2,1%/năm thì hiện tại đã là 2,9%. Ở nhiều
nước, xu hướng ra nước ngoài tìm việc làm rất phổ biến, đặc
biệt trong thanh, thiếu niên. Theo một số nghiên cứu, 51% thanh
niên các nước A-rập muốn ra nước ngoài tìm việc làm; tỷ lệ này
ở Bosnia là 63%, ở khu vực Viễn Đông của Nga là 60%, ở Pê-ru
là 47%, ở Slovakia là 25% 2...Những nghiên cứu gần đây cho
IOM, Global Statistics 2007.
Dẫn theo Quỹ Dân số Liên hợp quốc UNFPA, Tình trạng dân số thế giới năm 2006,
Phụ lục về thanh niên, tr. vi.

1

Cùng với sự ra tăng của làn sóng người lao động di trú,
lực lượng này ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc thúc
đẩy sự phát triển kinh tế ở cả nước đến và nước gốc. Đối với
nước gốc, tiền (thu nhập) gửi về nước của người lao động di trú
chiếm tỷ lệ ngày càng lớn trong tổng thu nhập quốc dân của

nhiều quốc gia. Đơn cử, ở khu vực châu Á, số tiền hàng năm
những người lao động di trú gửi về nước hiện lên tới 80 tỷ đô la
Mỹ. Ở hai trong số những nước có nhiều lao động di trú nhất của
khu vực này là Phi-líp-pin và Sri Lan-ka, tiền gửi về của người lao
động di trú chiếm hơn 10% tổng thu nhập quốc dân hàng năm. Các
nước đến, đặc biệt là những nước có dân số ngày càng già đi, cũng
đang được hưởng lợi rất nhiều từ những người lao động di trú, bởi
lực lượng lao động này sẵn sàng đảm nhiệm những công việc
lương thấp, nguy hiểm, độc hại, những công việc lao động chân
tay hay trong các ngành bị coi là ‘thấp kém’ như nông nghiệp,
xây dựng...mà lao động bản địa không muốn làm, từ đó góp
phần duy trì và phát triển nền kinh tế của nước đến.
Xét về cách thức, dòng chảy người lao động di trú ra nước
ngoài rất đa dạng. Một số người đi theo các con đường hợp pháp
(ký kết hợp đồng lao động với người sử dụng lao động nước

2

11

3

Tài liệu trên, tr.vi.

12


ngoài một cách trực tiếp hoặc gián tiếp qua các công ty xuất
khẩu lao động) nhưng cũng có rất nhiều người khác đi theo con
đường bất hợp pháp (tự mình hoặc trả tiền cho các băng buôn

lậu người để được đưa ra nước ngoài làm việc bằng cách vượt
biên bằng đường bộ, đường không, đường biển; hay giả dạng
khách du lịch, đi thăm nhân thân ở nước đến rồi tìm cách ở
lại...). Trong trường hợp ra đi bằng con đường bất hợp pháp, rủi
ro và nguy cơ với người lao động di trú lớn hơn rất nhiều lần so
với ra đi bằng con đường hợp pháp. Đã có vô số câu chuyện đau
lòng về số phận bi thảm của những người lao động ra nước
ngoài làm việc theo con đường bất hợp pháp như bị cướp, giết,
hãm hiếp hoặc bị bỏ mặc ở dọc đường, bị bán vào nhà chứa (với
phụ nữ và trẻ em gái), bị bắt làm việc như nô lệ mà không được
trả công...Bên cạnh đó, cũng có vô số câu chuyện cho thấy sự
tháo vát, kiên cường và sức chịu đựng bền bỉ đến kinh ngạc của
những người lao động di trú trên con đường tìm đến ‘vùng đất
hứa’ 4. Ở góc độ nhất định, những câu chuyện như vậy thể hiện
khát vọng mãnh liệt và chính đáng của con người về một cuộc
sống tốt đẹp hơn cho bản thân và cho những người thân của họ;
tuy nhiên, ở góc độ pháp lý, đây là hành động bất hợp pháp,
không được khuyến khích, do nó tạo ra gánh nặng với lực lượng
biên phòng, an ninh và nhiều cơ quan khác của các quốc gia.
Trong rất nhiều trường hợp, tình trạng di trú lao động bất hợp
pháp thường gắn liền với các băng nhóm tội phạm buôn người.

những đóng góp to lớn vào sự phát triển kinh tế ở nước đến,
nhưng họ vẫn là một trong những nhóm người dễ bị bóc lột và
phân biệt đối xử nhất trên thế giới. Do vị thế đặc biệt của họ,
những người lao động di trú thường phải đối mặt với hàng loạt khó
khăn như sự bấp bênh về việc làm, tình trạng thiếu nhà ở, không
được chăm sóc y tế, bị loại trừ về giáo dục, bị trục xuất, thậm chí
một số trường hợp còn bị bắt giữ, giam cầm một cách bất hợp
pháp, bị tra tấn, đối xử tàn ác hay hạ nhục...Về vấn đề này, các

chuyên gia đã tổng hợp các nguy cơ và khó khăn chính mà người
lao động di trú trên thế giới thường phải đối mặt, đó là:

Ngay cả khi ra đi theo con đường hợp pháp, những người
lao động di trú vẫn phải đối mặt với nhiều nguy cơ và rủi ro.
Mặc dù lao động di trú có vai trò ngày càng quan trọng và có
4

Tài liệu trên, tr.vi.

13

14

-

Không được chủ lao động nước ngoài trả lương hoặc
không được trả lương theo đúng thỏa thuận trong hợp
đồng.

-

Thiếu những bảo đảm về an toàn và vệ sinh lao động
dẫn đến tình trạng tỷ lệ bị tai nạn lao động và bệnh
nghề nghiệp cao.

-

Phải sống trong điều kiện thiếu vệ sinh khiến sức khỏe
giảm sút và bị mắc bệnh tật.


-

Bị hành hạ và lạm dụng, kể cả lạm dụng tình dục, đặc
biệt là với lao động di trú nữ làm việc trong các ngành
nghề nhạy cảm như trong các cơ sở giải trí hoặc giúp
việc gia đình.

-

Phải trả phí tuyển dụng cao cả ở nước mình và nước
tiếp nhận, dẫn đến những khoản nợ đáng kể cho người
lao động và làm gia đình họ trở lên bần cùng do người
lao động không thể gửi thu nhập đầy đủ về cho gia
đình.


-

Hợp đồng lao động bị người sử dụng lao động đơn
phương thay đổi nhưng người lao động vẫn phải bồi
thường cho cơ quan tuyển dụng lao động hoặc bị cáo
buộc là "vi phạm hợp đồng lao động" nếu như vì việc
đó mà họ từ bỏ công việc;

-

Tình trạng hộ chiếu và giấy tờ tuỳ thân thường bị người
sử dụng lao động hoặc nhân viên của họ thu giữ.


-

Nguy cơ người lao động bị buộc trở thành người lao
động di trú không có đăng ký, khiến họ dễ trở thành
nạn nhân của bọn buôn bán người.

-

Bị bỏ rơi khiến cho các quyền chính đáng của họ không
được bảo vệ hoặc bảo vệ không đầy đủ và hiệu quả.

Xét xu thế phát triển, thực trạng và những đóng góp của
người lao động di trú cả cho nước gốc và nước tiếp nhận, việc
bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động di trú
và các thành viên trong gia đình họ là rất cần thiết và cấp thiết.
Kinh nghiệm cho thấy, để giải quyết vấn đề này đòi hỏi những
nỗ lực cả ở ba cấp độ: quốc gia, khu vực và quốc tế, cả trong
quan hệ đa phương và song phương. Ở hai cấp độ quốc tế và
khu vực, trong khoảng hơn nửa thế kỷ qua, đã có hàng trăm văn
kiện pháp lý đề cập trực tiếp hoặc gián tiếp đến vấn đề quyền và
bảo vệ quyền của người lao động di trú. Bên cạnh đó, một số cơ
chế mang tầm quốc tế và khu vực cũng đã được các tổ chức liên
chính phủ và phi chính phủ quốc tế và khu vực lập ra nhằm thúc
đẩy việc thực hiện các tiêu chuẩn quốc tế có liên quan.

Ngoài các yếu tố kể trên, lao động di trú có nghĩa là xa gia
đình, bạn bè, cộng đồng, xa những người ủng hộ, bảo vệ, chỉ
bảo và phải làm quen với những người xa lạ, những phong tục,
tập quán, quy định pháp luật mới mà tiềm ẩn những xung đột,
mâu thuẫn hay nguy cơ mà không phải người lao động nào

cũng có thể biết trước và giải quyết chúng một cách hài hòa, tốt
đẹp. Thêm vào đó, do nhiều người lao động di trú khi ra nước
ngoài làm việc đã mang theo hoặc lập gia đình với những người
lao động di trú khác ở nước ngoài nên vấn đề lao động di trú
không chỉ gắn với những người lao động, mà còn gắn với những
thành viên trong gia đình họ. Cụ thể, ở đây còn xuất hiện những
vấn đề cần giải quyết trong quan hệ của những thành viên gia
đình họ với cộng đồng bản địa, trên một loạt khía cạnh như giáo
dục, y tế, nhà ở, bảo vệ và chăm sóc trẻ em...

Di cư ra nước ngoài làm việc không phải là hiện tượng
mới xuất hiện ở Việt Nam. Nhìn lại lịch sử, có thể thấy ngay từ
thời Bắc thuộc, ở một số thời điểm, một số thợ thủ công, thầy
thuốc, thầy địa lý...giỏi của nước ta đã bị bắt sang Trung Quốc
làm việc, phục vụ cho các triều đình phương Bắc và một vài
người trong số họ đã có những đóng góp to lớn vào sự phát triển
của nền kiến trúc và y học của nước này. Trong thời kỳ thuộc
Pháp, một số công nhân người Việt đã bị đưa sang làm việc ở
các đồn điền ở một số nước thuộc địa khác của Pháp. Đặc biệt,
trong thời gian Chiến tranh thế giới thứ nhất, hàng chục ngàn
lính thợ và lính bộ binh người Việt đã bị chính quyền thuộc địa
ép buộc hoặc bị chiêu mộ gửi về Pháp chiến đấu với quân Đức
để ‘bảo vệ mẫu quốc’. Mặc dù có những khập khiễng nhất định
khi đối chiếu với các khái niệm hiện đại về vấn đề này, song ở

15

16



góc độ nhất định, những sự kiện đã nêu phần nào có thể coi là
hiện tượng lao động di trú 5.
Thập kỷ 1980-1990 đánh dấu sự bùng nổ trở lại vấn đề
lao động di trú của Việt Nam. Theo thống kê, tính chung trong
giai đoạn này có khoảng 300.000 lao động Việt Nam làm việc ở
nước ngoài một cách chính thức (được Nhà nước Việt Nam gửi
đi theo các hiệp định song phương với các nước nhận). Phần lớn
trong số này (244.186 người) làm việc ở các nước thuộc Liên
Xô cũ và một số nước thuộc khối XHCN Đông Âu (CHDC Đức,
Tiệp Khắc, Bun-ga-ri...) với tư cách công nhân kỹ thuật. Số ít
hơn làm việc ở một số nước châu Phi (chủ yếu dưới dạng
chuyên gia, khoảng 7.000 người), và một số nước Trung Đông
(chủ yếu là I-rắc, dưới dạng công nhân xây dựng, khoảng 18.000
người).
Sự tan rã của hệ thống XHCN Liên Xô-Đông Âu và chiến
tranh vùng Vịnh lần thứ nhất đầu những năm 1990 đã dẫn tới
việc hồi hương chính thức của hầu hết số lao động di cư ở hai
khu vực này, mặc dù nhiều người làm việc ở các nước Liên XôĐông Âu đã tìm cách để được ở lại để làm việc cho đến hiện
nay. Sau những biến cố đó, hoạt động xuất khẩu lao động tiếp
tục được Nhà nước khuyến khích, song hướng tới các thị trường
khác. Hiện tại, lao động di trú của Việt Nam (cả hợp pháp và
không hợp pháp) đang có mặt ở khoảng 40 nước trên thế giới,
với tổng số vào khoảng 500.000 người, trong đó đáng kể là ở
Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaysia, một số nước Trung
Đông (Cô-oét, Ả-rập Xê-út, Các Tiểu vương quốc Ả-rập thống
5

Xem Hội Luật gia Việt Nam, Pháp luật quốc gia và quốc tế về bảo vệ quyền của các
nhóm xã hội dễ bị tổn thương, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.201-202.


17

nhất), Liên bang Nga, một số nước châu Âu (chủ yếu là Đông
Âu) và một số nước châu Phi...Theo kế hoạch của các cơ quan
chức năng nhà nước, phấn đấu đến năm 2015 sẽ có khoảng một
triệu lao động Việt Nam được gửi đi làm việc ở nước ngoài theo
hợp đồng. Điều này có nghĩa là đến thời điểm 2015, sẽ có hơn
một triệu người lao động di trú Việt Nam (cả hợp pháp và bất
hợp pháp) trên thế giới.
Lao động di trú đang đóng góp ngày càng quan trọng vào
tổng thu nhập quốc dân của đất nước. Đơn cử, vào năm 2006, số
tiền người lao động Việt Nam ở nước ngoài gửi về cho gia đình
ước tính lên tới 1,6 tỷ đô la Mỹ (trong khi đó, vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài trong năm là 10,2 tỷ đô la, ODA theo cam kết
của các nhà tài trợ là 4,2 tỷ đô la) 6. Tuy nhiên, do số lượng lao
động ngày càng tăng và địa bàn làm việc ngày càng mở rộng,
công tác quản lý ngày càng trở lên phức tạp, yêu cầu bảo vệ các
quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động Việt Nam ở nước
ngoài ngày càng trở lên cấp thiết.
Thấy được vấn đề trên, ngày 29/11/2006, Quốc Hội đã
thông qua Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước
ngoài theo hợp đồng. Luật này quy định về hoạt động đưa người
lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; quyền và
nghĩa vụ của người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp
đồng; quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp, tổ chức sự nghiệp
đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng và
các tổ chức, cá nhân có liên quan. Việc ban hành Luật là một
6

Nguồn: Tham luận của ông Đào Công Hải, Cục Quản lý lao động ngoài nước, Bộ

LĐ-TB-XH tại Hội thảo về Pháp luật và cơ chế quốc tế, khu vực và quốc gia về bảo
vệ người lao động ở nước ngoài do Hội Luật gia Việt Nam tổ chức trong các ngày 1112/01/2008 tại Hà Nội.

18


bước tiến rất quan trọng, không chỉ trong việc thúc đẩy hoạt
động xuất khẩu lao động mà còn trong việc bảo vệ các quyền và
lợi ích hợp pháp của người lao động Việt Nam đi làm việc ở
nước ngoài. Mặc dù vậy, thực tế thời gian qua vẫn diễn ra nhiều
vụ việc vi phạm các quyền và lợi ích hợp pháp của người lao
động chuẩn bị ra nước ngoài làm việc hoặc đang làm việc ở
nước ngoài. Tình trạng này cho thấy sự cần thiết phải tiếp tục
nghiên cứu hoàn thiện các quy định pháp luật trên lĩnh vực xuất
khẩu lao động, đặc biệt là các quy định liên quan đến việc quản
lý, giám sát các doanh nghiệp xuất khẩu lao động. Để làm được
điều đó, việc đầu tiên là phải có những nghiên cứu chuyên sâu
về các quy định pháp luật, cơ chế quốc gia, quốc tế và khu vực
về lao động di trú. Tuy trong thời gian qua đã có một số công
trình nghiên cứu về vấn đề trên được tiến hành bởi một số cơ
quan nhà nước, tổ chức xã hội, trường đại học, viện nghiên cứu
của Việt Nam cũng như các tổ chức liên chính phủ, phi chính
phủ quốc tế và các cá nhân song hiện chưa có công trình nào tập
trung phân tích một cách toàn diện các quy định pháp luật, cơ
chế quốc gia, quốc tế và khu vực về lao động di trú. Nghiên cứu
này nhằm góp phần khỏa lấp khoảng trống đó.

Để thực hiện được mục tiêu phát triển kể trên, những mục
tiêu cụ thể của nghiên cứu này là:
-


Tập hợp và phân tích những tiêu chuẩn pháp luật và cơ
chế quốc tế có liên quan đến vấn đề quyền và bảo vệ
quyền của người lao động di trú.

-

Tập hợp và phân tích những tiêu chuẩn pháp luật và cơ
chế khu vực có liên quan đến vấn đề quyền và bảo vệ
quyền của người lao động di trú.

-

Tập hợp và phân tích những tiêu chuẩn pháp luật và cơ
chế quốc gia có liên quan đến vấn đề quyền và bảo vệ
quyền của người lao động di trú.

-

Ở mức độ nhất định, so sánh giữa các quy định pháp luật
Việt Nam và các tiêu chuẩn pháp luật quốc tế, khu vực
có liên quan đến vấn đề quyền và bảo vệ quyền của
người lao động di trú để đưa ra những khuyến nghị sửa
đổi, bổ sung hệ thống quy định pháp luật quốc gia cho
phù hợp hơn nữa với các tiêu chuẩn pháp luật quốc tế và
khu vực về vấn đề này, từ đó bảo vệ có hiệu quả các
quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động.
1.3. Phương pháp và tiến trình nghiên cứu

1.2. Mục tiêu của nghiên cứu

Mục tiêu phát triển của nghiên cứu này là nhằm góp phần
bảo vệ có hiệu quả các quyền và lợi ích hợp pháp của người lao
động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài và hoàn thiện hệ thống
pháp luật Việt Nam theo các tiêu chuẩn pháp luật quốc tế và khu
vực trên lĩnh vực này.
19

Các phương pháp nghiên cứu chính được sử dụng để xây
dựng báo cáo này là tổng hợp, phân tích và so sánh. Báo cáo này
chủ yếu được thực hiện trên cơ sở khảo sát và phân tích văn bản
(desk review), tuy nhiên, trong một số nội dung, việc đưa ra các
nhận xét, kết luận và khuyến nghị còn dựa trên một số tình
huống thực tế và kết quả của một số nghiên cứu khác có liên
20


quan do một số tổ chức quốc tế và cơ quan, tổ chức ở Việt Nam
thực hiện trong thời gian gần đây.



Công ước số 97 của ILO về hỗ trợ việc làm cho người
lao động di trú.

Về tiến trình nghiên cứu, như đã đề cập ở trên, báo cáo
này được nhóm chuyên gia thực hiện trước khi tổ chức hai hội
thảo về cùng chủ đề, với hai mục đích: (i) sử dụng các kết quả
nghiên cứu là cơ sở để thảo luận trong hội thảo và (ii) thu thập
các ý kiến góp ý, bình luận và các phân tích, đánh giá của các
chuyên gia khác tham dự hội thảo nhằm hoàn thiện báo cáo.

Thêm vào đó, để bảo đảm các kiến thức, thông tin và những
nhận xét, đánh giá trong báo cáo là phù hợp và hữu ích, bản thảo
báo cáo còn được gửi cho một số chuyên gia trên lĩnh vực này
để xin ý kiến góp ý.



Công ước số 143 của ILO về bảo vệ người lao động di
trú.

1.4. Phạm vi và giới hạn của nghiên cứu
Ở cấp độ quốc tế, do giới hạn về thời gian và nguồn lực,
nghiên cứu này chỉ tập trung khảo sát những quy định trong ba
điều ước được coi là quan trọng nhất đối với việc bảo vệ quyền
của người lao động di trú, bao gồm 7:
• Công ước của Liên hợp quốc về quyền của người lao
động di trú và các thành viên trong gia đình họ.
7

Ngoài các điều ước được đề cập và phân tích trong nghiên cứu này, còn có một điều
ước khác cũng có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ người lao động di trú, đó là
Nghị định thư về chống buôn bán người nhập cư bằng đường biển, đường bộ và
đường hàng không bổ sung Công ước của Liên hợp quốc về chống các tội phạm
xuyên quốc gia. Tuy nhiên, do Nghị định thư này (cùng những quy định pháp luật có
liên quan của Việt Nam) đã được phân tích một cách toàn diện và chi tiết trong một
dự án của Bộ Tư pháp với sự tài trợ của UNICEF và Văn phòng về Tội phạm và Ma
túy của Liên hợp quốc nên nghiên cứu này sẽ không nêu và phân tích lại văn kiện đó.
Để có thông tin tham khảo, xin xem Báo cáo đánh giá so sánh hệ thống pháp luật
Việt Nam với Nghị định thư về chống buôn bán người nhập cư bằng đường biển,
đường bộ và đường hàng không bổ sung Công ước của Liên hợp quốc về chống các

tội phạm xuyên quốc gia (cả tiếng Anh và tiếng Việt), do Nhà xuất bản Tư Pháp ấn
hành năm 2004.

21

Ở cấp độ khu vực, nghiên cứu chỉ tập trung khảo sát
những văn kiện và cơ chế về bảo vệ người lao động di trú ở tiểu
vùng Đông Nam Á mà Việt Nam có tham gia. Ở cấp độ quốc
gia, nghiên cứu này chỉ khảo sát những văn bản pháp luật do
Quốc Hội và các bộ, cơ quan ngang bộ ban hành. Các văn bản
do các cấp chính quyền ở địa phương hoặc do các chủ thể tư
nhân hoặc xã hội (cụ thể là các quy định, quy tắc nội bộ do các
doanh nghiệp xuất khẩu lao động đưa ra...) không được đề cập
trong nghiên cứu này do những giới hạn về nguồn lực và khó
khăn trong việc thu thập tư liệu.
Cũng liên quan đến phạm vi nghiên cứu, ở các cấp độ
quốc tế và khu vực, nghiên cứu này đề cập đến vấn đề quyền và
bảo vệ quyền của những người lao động di trú ra đi theo cả hai
con đường hợp pháp và không hợp pháp. Tuy nhiên, ở cấp độ
quốc gia, do giới hạn bởi khuôn khổ pháp luật hiện hành của
Việt Nam (đã đề cập ở trên), nghiên cứu chủ yếu đề cập đến
quyền việc bảo vệ quyền của những người lao động di trú ra đi
theo con đường hợp pháp (mà ở Việt Nam thường gọi là lao
động xuất khẩu).
1.5. Các khái niệm/định nghĩa quan trọng
1.5.1. Khái niệm ‘người lao động di trú’
Để thống nhất cách hiểu các nội dung được đề cập trong
22



nghiên cứu này, khái niệm người lao động di trú được xác định
theo định nghĩa ở Điều 2 Công ước của Liên hợp quốc về quyền
của người lao động di trú và các thành viên trong gia đình họ,
theo đó:
‘Lao động di trú là một người đã, đang và sẽ làm một công
việc có hưởng lương tại một quốc gia mà người đó không
phải là công dân’.
Xét về tính pháp lý của việc cư trú và lao động, Điều 2
Công ước chia người lao động di trú và các thành viên gia đình
họ thành hai loại: có giấy tờ hợp pháp (hoặc hợp pháp)
(documented migrant) và không có giấy tờ (hoặc bất hợp pháp)
(undocumented migrant). Những người được xem là có giấy tờ
hoặc hợp pháp khi họ được phép vào, ở lại và tham gia làm một
công việc được trả lương tại quốc gia nơi có việc làm theo pháp
luật quốc gia đó và theo những hiệp định quốc tế mà quốc gia đó
là thành viên. Những người được xem là không có giấy tờ hoặc
bất hợp pháp khi họ không đáp ứng được các điều kiện đó.

-

“Người đi biển” - chỉ những lao động di trú được tuyển
dụng làm việc trên một chiếc tàu đăng ký tại một quốc
gia mà họ không phải là công dân, bao gồm cả ngư dân;

-

“Nhân công làm việc tại một công trình trên biển” - chỉ
những lao động di trú được tuyển dụng làm việc trên một
công trình trên biển thuộc quyền tài phán của một quốc
gia mà họ không phải là công dân;


-

“Nhân công lưu động” - chỉ những lao động di trú sống
thường trú ở một nước phải đi đến một hoặc nhiều nước
khác nhau trong những khoảng thời gian do tính chất
công việc của người đó;

-

“Nhân công theo dự án” - chỉ những lao động di trú
được nhận vào quốc gia nơi có việc làm trong một thời
gian nhất định để chuyên làm việc cho một dự án cụ thể
đang được người sử dụng lao động của mình thực hiện
tại quốc gia đó;

-

“Nhân công lao động chuyên dụng” - chỉ những lao
động di trú mà được người sử dụng lao động của mình
cử đến quốc gia nơi có việc làm trong một khoảng thời
gian hạn chế nhất định để đảm nhiệm một công việc
hoặc nhiệm vụ cụ thể mang tính chuyên môn kỹ thuật ở
quốc gia nơi có việc làm;

-

“Nhân công tự chủ” - chỉ những lao động di trú tham gia
làm một công việc có hưởng lương nhưng không phải
dưới dạng hợp đồng lao động mà thường là bằng cách

làm việc độc lập hoặc cùng với các thành viên gia đình
của mình, hoặc dưới các hình thức khác mà được coi là

Xét về nghề nghiệp, phạm vi những đối tượng được coi là
lao động di trú khá rộng, bao gồm 8 dạng:
-

-

“Nhân công vùng biên” - chỉ những lao động di trú
thường trú tại một nước láng giềng nơi họ thường trở về
hàng ngày hoặc ít nhất mỗi tuần một lần;
“Nhân công theo mùa” - chỉ những lao động di trú làm
những công việc có tính chất mùa vụ và chỉ làm một thời
gian nhất định trong năm;
23

24


nhân công tự chủ theo pháp luật của quốc gia nơi có việc
làm hoặc theo các hiệp định song phương và đa phương.
Điều 3 Công ước liệt kê những đối tượng không được coi
là lao động di trú (dựa trên tiêu chí nghề nghiệp), bao gồm:
-

Những người được cử hoặc tuyển dụng bởi các cơ quan
và tổ chức quốc tế, hoặc bởi một nước sang một nước
khác để thực hiện các chức năng chính thức;


-

Những người được cử hoặc tuyển dụng bởi một nước
hoặc người thay mặt cho nước đó ở nước ngoài tham gia
các chương trình phát triển và các chương trình hợp tác
khác;

-

Những người sống thường trú ở một nước không phải
quốc gia xuất xứ để làm việc như những nhà đầu tư;

-

Những người tị nạn và không có quốc tịch;

-

Sinh viên và học viên;

-

Những người đi biển hay người làm việc trên các công
trình trên biển không được nhận vào để cư trú và tham
gia vào một công việc có hưởng lương ở quốc gia nơi có
việc làm.

theo định nghĩa ở Điều 4 Công ước của Liên hợp quốc về quyền
của người lao động di trú và các thành viên trong gia đình họ,
theo đó, thuật ngữ “các thành viên gia đình” để chỉ những người

kết hôn với những người lao động di trú hoặc có quan hệ tương
tự như quan hệ hôn nhân, theo pháp luật hiện hành, cũng như
con cái và những người sống phụ thuộc khác được công nhận là
thành viên của gia đình theo pháp luật hiện hành và theo các
hiệp định song phương và đa phương giữa các quốc gia liên
quan.

1.5.2. Khái niệm ‘thành viên trong gia đình’ của người lao
động di trú
Như đã đề cập ở các phần trên, vấn đề quyền của người
lao động di trú gắn liền với vấn đề quyền của những thành viên
trong gia đình mà theo họ sang sinh sống ở nước ngoài. Tương
tự như khái niệm “người lao động di trú”, để thống nhất cách
hiểu các nội dung được đề cập trong báo cáo này, khái niệm các
thành viên trong gia đình người lao động di trú được xác định
25

26


người lao động di trú. Ngoài ra, còn cần kể đến một số văn kiện
khác có liên quan đến vấn đề lao động di trú của tổ chức này,
bao gồm Khuyến nghị về người lao động di trú năm 1975
(Khuyến nghị số 151); Công ước về xóa bỏ lao động cưỡng bức
và bắt buộc năm 1930 (Công ước số 29); và Công ước về xóa bỏ
lao động cưỡng bức năm 1957 (Công ước số 105)...

Phần II
QUYỀN VÀ VIỆC BẢO VỆ QUYỀN
CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG DI TRÚ

TRONG PHÁP LUẬT QUỐC TẾ
2.1.Khái quát những nỗ lực và văn kiện pháp luật quốc
tế trên lĩnh vực này
Vấn đề người lao động di trú đã được đề cập trên các diễn
đàn quốc tế từ những năm giữa thế kỷ XX. Trong lĩnh vực này,
có thể coi Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) là chủ thể đi tiên
phong. Ngay từ cuối thập kỷ 1930, ILO đã ban hành điều ước
đầu tiên nhằm tạo vị thế bình đẳng cho người lao động di trú
(Công ước Di trú vì việc làm năm 1939, được thông qua tại Kỳ
họp thứ 25 ngày 8/6/1939 của ILO, được sửa đổi bằng Công ước
số 97 năm 1949 về Lao động Di trú), trong đó yêu cầu các quốc
gia thành viên phải đối xử với những người lao động di trú một
cách bình đẳng như những người lao động là công dân của nước
mình. Đến năm 1975, ILO ban hành điều ước thứ hai về vấn đề
này (Công ước số 143 về Người di trú trong môi trường bị lạm
dụng và việc thúc đẩy sự bình đẳng về cơ hội và trong đối xử
với người lao động di trú). Công ước này tiến thêm một bước so
với Công ước năm 1947 bằng việc yêu cầu các quốc gia thành
viên phải tôn trọng và bảo vệ tất cả các quyền con người của
27

Ngoài ILO, từ cuối thập kỷ 1970, Liên hợp quốc cũng bắt
đầu quan tâm đến việc bảo vệ người lao động di trú. Văn kiện
đầu tiên của tổ chức này trực tiếp đề cập đến vấn đề người lao
động di trú là Nghị quyết số 1706 (LIII) ngày 28/7/1972 của Hội
đồng Kinh tế và Xã hội (ECOSOC) trong đó cảnh báo về những
tác động tiêu cực của tình trạng đưa người lao động vào một số
nước châu Âu một cách bất hợp pháp và việc người lao động di
trú từ các nước châu Phi bị bóc lột trong tình trạng tương tự như
nô lệ và cưỡng bức lao động. Nghị quyết bày tỏ sự lo ngại sâu

sắc và lên án việc tuyển dụng trái pháp luật, đưa lậu người lao
động vào một số nước châu Âu và phân biệt đối xử với người
lao động di trú, đồng thời yêu cầu các quốc gia có liên quan phải
thông qua và thực thi các biện pháp toàn diện để trừng phạt
những kẻ vi phạm và ngăn chặn tình trạng này. Cũng trong Nghị
quyết này, ECOSOC yêu cầu Ủy ban Quyền con người Liên hợp
quốc (the UN Commission on Human Rights 8) xem xét vấn đề
và chuẩn bị những khuyến nghị thích hợp nhằm thúc đẩy các
hoạt động trên lĩnh vực này.
Cùng năm 1972, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã thông qua
Nghị quyết số 2920 (XXVII) ngày 15/11/1972 về thực trạng
8

Cơ quan này hiện đã được đổi tên là Hội đồng Quyền con người Liên hợp quốc (the
UN Council on Human Rights).

28


phân biệt đối xử với người lao động nước ngoài ở một số nước
châu Âu và ở một số nơi khác. Nghị quyết kêu gọi chính phủ
của các nước liên quan thực hiện hoặc kiểm tra việc thực hiện
các biện pháp nhằm chấm dứt sự đối xử phân biệt với người lao
động di trú trên lãnh thổ nước mình và có những nỗ lực để cải
thiện những điều kiện cho việc tiếp nhận người lao động di trú.
Nghị quyết cũng khuyến nghị các nước tuân thủ các quy định
của Công ước quốc tế về Xóa bỏ Tất cả các Hình thức Phân biệt
Đối xử về Chủng tộc và yêu cầu Ủy ban Quyền con người Liên
hợp quốc báo cáo về vấn đề bóc lột người lao động di trú trong
kỳ họp tiếp theo. Thêm vào đó, Nghị quyết cũng đề nghị ILO

tiếp tục nghiên cứu sâu hơn về vấn đề này và kêu gọi các quốc
gia thành viên Liên hợp quốc mà chưa là thành viên đặt ưu tiên
cao cho việc phê chuẩn Công ước số 97 năm 1949 của ILO, coi
đó như là một trong các nỗ lực nhằm xóa bỏ tình trạng buôn lậu
người lao động di trú trên thế giới.
Tuân thủ các yêu cầu của Đại hội đồng và ECOSOC, Ủy
ban Quyền con người Liên hợp quốc đã xem xét vấn đề bảo vệ
người lao động di trú trong kỳ họp lần thứ 29 và đã thông qua
Nghị quyết số 1789 (LIV) ngày 18/5/1973, trong đó hối thúc các
quốc gia phê chuẩn các công ước có liên quan của ILO cũng
như ký kết các hiệp ước song phương về vấn đề lao động di trú
khi cần thiết. Nghị quyết này cũng yêu cầu Tiểu ban về Chống
Phân biệt Đối xử và Bảo vệ Người thiểu số 9 và Ủy ban về Vị thế
của Phụ nữ nghiên cứu sâu về vấn đề này dựa trên các tài liệu,
văn bản, khuyến nghị mà các quốc gia thành viên Liên hợp quốc
9

Cơ quan này hiện đã được đổi tên là Tiểu ban về Thúc đẩy và Bảo vệ Quyền con
người.

29

đã trình lên nhằm đưa ra những khuyến nghị về các biện pháp
cần thực hiện để bảo vệ các quyền con người của người lao
động di trú bất kể nguồn gốc của họ. Cũng trong Nghị quyết
này, Ủy ban Quyền con người Liên hợp quốc còn yêu cầu các
quốc gia gửi cho Tổng thư ký Liên hợp quốc các tài liệu, văn
bản có liên quan để phục vụ công việc nghiên cứu của hai cơ
ban đã nêu.
Chấp hành yêu cầu của Ủy ban Quyền con người Liên hợp

quốc, Tiểu ban về Chống Phân biệt Đối xử và Bảo vệ Người
thiểu số đã thảo luận và xác định hai khía cạnh cần tập trung làm
rõ trong việc bảo vệ người lao động di trú, đó là: (i) Các hoạt
động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài một cách lén
lút, bất hợp pháp (ii) Sự phân biệt đối xử với người lao động di
trú ở các nước đến. Để làm rõ hai khía cạnh này, Tiểu ban đã
thông qua Nghị quyết số 6 (XXVI) ngày 19/9/1973 trong đó ủy
nhiệm cho bà Halima Warzazi là Báo cáo viên đặc biệt về người
lao động di trú thực hiện công trình nghiên cứu. Bản thảo Báo
cáo nghiên cứu sau đó đã được bà Halima Warzazi trình lên
Tiểu ban vào năm 1974 và được trình bày tại Hội thảo của Liên
hợp quốc về Quyền con người của người lao động di trú tổ chức
ở Tunis (Tuy-ni-di) ngày 12-24/11/1975 10 và được trình lên Ủy
ban Quyền con người Liên hợp quốc vào năm 1976 11.
Ngày 16/12/1976, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã thông
qua Nghị quyết số 31/127 về “Các biện pháp cải thiện tình hình
và bảo đảm nhân phẩm và các quyền con người của người lao
động di trú’. Nghị quyết này bày tỏ sự quan tâm sâu sắc tới thực
10
11

Xem tài liệu của Liên hợp quốc mã số ST/TAO/HR/50.
Xem tài liệu của Liên hợp quốc mã số E/CN.4/Sub.2/L.640.

30


trạng phân biệt đối xử thường xuyên mà người lao động di trú
phải đối mặt ở một số quốc gia, đồng thời kêu gọi tất cả các
quốc gia tiến hành các biện pháp có hiệu quả để ngăn chặn và

chấm dứt những sự phân biệt đối xử chống lại người lao động di
trú. Đặc biệt, Nghị quyết yêu cầu tất cả các quốc gia:
-

Mở rộng vị thế của người lao động di trú tới mức bình
đẳng về đối xử như với người lao động bản địa trong các
vấn đề về quyền con người và trong các quy định pháp
luật về lao động và xã hội của quốc gia.

-

Thúc đẩy và hỗ trợ tất cả các biện pháp nhằm thực hiện
các văn kiện quốc tế có liên quan và ký kết các hiệp định
song phương nhằm xóa bỏ tình trạng đưa lậu người lao
động vào nước khác.

-

Thông qua các biện pháp và quy định pháp lý cần thiết
để bảo đảm rằng tất cả người lao động di trú được hưởng
các quyền con người cơ bản, bất kể họ di trú theo cách
thức nào.

Cũng trong Nghị quyết kể trên, Đại hội đồng Liên hợp quốc
đã yêu cầu các quốc gia chủ nhà phải cung cấp những tiện ích về
thông tin và nơi tiếp nhận để bảo đảm thực hiện có hiệu quả các
chính sách liên quan đến đào tạo, chăm sóc sức khỏe, nhà ở, giáo
dục và đời sống văn hóa cho người lao động di trú và các thành
viên trong gia đình họ, cũng như bảo đảm cho họ được tự do thực
hành các hoạt động văn hóa của cộng đồng mình. Bên cạnh đó,

Nghị quyết cũng yêu cầu các quốc gia gốc phải tăng cường đến
mức cao nhất có thể việc phổ biến thông tin nhằm tư vấn và bảo
vệ người lao động của nước mình ở nước ngoài.
31

Trong kỳ họp lần thứ 32, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã
thông qua Nghị quyết số 32/120 ngày 16/12/1977, trong đó
khuyến nghị ECOSOC và Ủy ban Quyền con người Liên hợp
quốc xem xét đầy đủ và chi tiết vấn đề người lao động di trú để
báo cáo với Đại hội đồng trong phiên họp tiếp theo. Đại hội
đồng Liên hợp quốc cũng yêu cầu các cơ quan này phối hợp với
ILO, UNESCO và các cơ quan khác có liên quan trong hệ thống
Liên hợp quốc trong các hoạt động về bảo vệ quyền của người
lao động di trú. Vào kỳ họp tiếp theo (lần thứ 33), Đại hội đồng
Liên hợp quốc đã thông qua Nghị quyết số 33/163 ngày
20/12/1978, trong đó kêu gọi tất cả các quốc gia thành viên phê
chuẩn Công ước về người lao động di trú (các điều khoản bổ
sung) của ILO (Công ước số 143 năm 1975). Nghị quyết cũng
yêu cầu Tổng thư ký Liên hợp quốc tham khảo ý kiến của các
quốc gia thành viên và của ILO về khả năng soạn thảo một điều
ước quốc tế về quyền của người lao động di trú.
Trong Hội nghị thế giới lần thứ nhất về chống chủ nghĩa
phân biệt chủng tộc và tệ phân biệt chủng tộc tổ chức ở Giơ-nevơ năm 1978, Liên hợp quốc khẳng định cam kết hành động để
thúc đẩy quyền của người lao động di trú. Cam kết đó được
nhắc lại trong Nghị quyết số 34/172 ngày 17/12/1979 được
thông qua tại kỳ họp thường niên của Đại hội đồng Liên hợp
quốc diễn ra cùng năm (kỳ họp lần thứ 34). Nghị quyết này
đồng thời quy định việc thành lập một Nhóm công tác (mở cho
tất cả các nước thành viên và các tổ chức quốc tế cử đại diện
tham gia) để soạn thảo Công ước quốc tế về quyền của người

lao động di trú và các thành viên trong gia đình họ. Nhóm công
tác bắt đầu công việc soạn thảo công ước từ kỳ họp lần thứ 35
32


của Đại hội đồng Liên hợp quốc vào năm 1980 và kết thúc vào
tháng 6/1990. Dự thảo công ước được Đại hội đồng Liên hợp
quốc thông qua theo Nghị quyết số 45/158 ngày 18/12/1990 12.

2. Khuyến nghị chung số 86 về di trú tìm việc làm (sửa
đổi), 1949
3. Công ước số 143 về người lao động di trú (các điều
khoản bổ sung), 1975

Bên cạnh các sự kiện chính kể trên, vấn đề bảo vệ quyền
của người lao động di trú còn được thảo luận trong nhiều kỳ họp
của các cơ quan chính của Liên hợp quốc. Cụ thể, trong kỳ họp
lần thứ 45 ngày 28/7/2000, ECOSOC đã khuyến nghị Đại hội
đồng Liên hợp quốc lấy ngày 18/12 hàng năm là Ngày Quốc tế
về Người Lao động Di trú 13 nhằm nhắc nhở cộng đồng quốc tế
về sự cần thiết và cấp thiết phải tôn trọng, thực hiện và bảo vệ
các quyền con người của nhóm xã hội này. Gần đây nhất, năm
2006, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã có một kỳ họp đặc biệt để
thảo luận về vấn đề di cư quốc tế, trong đó tiếp tục nhấn mạnh
sự cần thiết phải tăng cường các hoạt động và sự phối hợp ở tất
cả các cấp độ nhằm bảo vệ và thúc đẩy các quyền của người lao
động di trú trên thế giới...

4. Khuyến nghị chung số 151 về người lao động di trú,
1975

5. Công ước số 118 về bình đẳng trong đối xử (an sinh xã
hội), 1962
6. Công ước số 157 về duy trì các quyền an sinh xã hội,
1982
7. Khuyến nghị chung số 167 về duy trì các quyền an sinh
xã hội, 1983
Các công ước, khuyến nghị khác có liên quan của ILO
1. Công ước số 29 về xóa bỏ lao động cưỡng bức, 1930
2. Công ước số 87 về tự do lập hội và bảo vệ quyền được
tổ chức, 1948

Dưới đây là bản tổng hợp những văn kiện chính của ILO
và của Liên hợp quốc liên quan đến vấn đề di trú vì việc làm
được thông qua từ trước tới nay 14.

3. Công ước số 98 về quyền được tổ chức và thỏa ước lao
động tập thể, 1949
4. Công ước số 100 về trả lương bình đẳng, 1951

Các công ước, khuyến nghị trực tiếp của ILO

5. Công ước số 105 về xóa bỏ lao động cưỡng bức, 1957

1. Công ước số 97 về di trú tìm việc làm (sửa đổi), 1949

6. Công ước số 111 về chống phân biệt đối xử (việc làm và
nghề nghiệp), 1958
7. Khuyến nghị chung số 111 về chống phân biệt đối xử
(việc làm và nghề nghiệp), 1958


12

Nguồn: United Nations Action in the Field of Human Rights, United Nations, New
York and Geneva, 1994.
13
Nguồn: Official Records of the Economic and Social Council, 2000, Supplement
No. 3 (E/2000/23), chap. II, sect. A.
14
Xem kỷ yếu các hội thảo về bảo vệ người lao động ở nước ngoài do Hội Luật gia
Việt Nam tổ chức trong các ngày 11-12/01/2008 và 3-4/3/2008 tại Hà Nội.

33

8. Công ước số 138 về tuổi lao động tối thiểu, 1973
34


9. Công ước số 169 về các dân tộc thiểu số và bộ lạc, 1989

-

Quy định và bảo vệ các quyền của người lao động di trú
(mà tiêu biểu là Công ước của Liên hợp quốc về quyền
của người lao động di trú và gia đình họ).

-

Hỗ trợ việc làm và bảo vệ người lao động di trú trong
những hoàn cảnh bị ngược đãi (mà tiêu biểu là các Công
ước số 97, Công ước số 143 của ILO và bao gồm một

phần của Công ước của Liên hợp quốc về quyền của
người lao động di trú và gia đình họ).

-

Ngăn chặn tình trạng buôn bán người nhập cư (mà tiêu
biểu là Nghị định thư về chống buôn bán người nhập cư
bằng đường biển, đường bộ và đường hàng không bổ
sung Công ước của Liên hợp quốc về chống các tội
phạm xuyên quốc gia).

10. Công ước số 181 về các cơ sở lao động tư nhân, 1997
11. Công ước số 182 về xóa bỏ những hình thức lao động
trẻ em tồi tệ nhất, 1999
Các văn kiện có liên quan của Liên hợp quốc
1. Công ước quốc tế về bảo vệ các quyền của tất cả những
người lao động di trú và thành viên trong gia đình họ,
1990.
2. Công ước quốc tế về xóa bỏ tất cả các hình thức phân
biệt chủng tộc, 1965.
3. Công ước về xóa bỏ tất các các hình thức phân biệt đối
xử với phụ nữ, 1979.
4. Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa,
1966.
5. Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị, 1966.
6. Công ước về quyền trẻ em, 1989.
7. Nghị định thư về ngăn chặn, trừng trị việc buôn bán
người, đặc biệt là buôn bán phụ nữ, trẻ em, bổ sung
Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm xuyên
quốc gia, 2000.

8. Nghị định thư về chống buôn lậu người di cư qua đường
bộ, đường biển và đường không, bổ sung Công ước của
Liên hợp quốc về chống tội phạm xuyên quốc gia, 2000.
Nhìn chung, các nỗ lực và văn kiện quốc tế trên lĩnh vực
này tập trung vào ba khía cạnh cơ bản, đó là:

Nghiên cứu này sẽ đề cập đến cả ba khía cạnh kể trên, tuy
nhiên, do mục đích và những giới hạn về thời gian và nguồn lực,
các khía cạnh thứ nhất và thứ hai là những nội dung trọng tâm.
2.2. Công ước của Liên hợp quốc về quyền của người
lao động di trú và gia đình họ 15
2.2.1. Khái quát
Mặc dù như đã nêu ở trên, trong hệ thống điều ước quốc tế
về quyền con người của Liên hợp quốc còn có một số điều ước
khác có liên quan đến vấn đề người lao động di trú; tuy nhiên,
cho đến nay, Công ước quốc tế về quyền của người lao động di
trú và các thành viên trong gia đình họ vẫn được coi là điều ước
15

35

Toàn văn công ước đã dịch sang tiếng Việt, xin xem ở phần Phụ lục.

36


quốc tế trực tiếp và hoàn thiện nhất về quyền của người lao
động di trú.
Công ước được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua
ngày 18/12/1990 theo Nghị quyết 45/158 (ngày này sau đó được

Đại hội đồng Liên hợp quốc lấy làm Ngày quốc tế về Người lao
động di trú). Theo Điều 87(1), Công ước sẽ có hiệu lực khi có
20 quốc gia phê chuẩn hoặc gia nhập. Tính đến tháng 4/2008,
Công ước đã có 37 nước thành viên (28 quốc gia khác đã ký
nhưng chưa phê chuẩn). Dưới đây là danh sách các quốc gia
thành viên và các quốc gia đã ký công ước 16.
Bảng 1
Các quốc gia đã ký và tham gia Công ước của Liên hợp quốc
về quyền của người lao động di trú và gia đình họ
Quốc gia

16

Ngày ký

10. Buốc-ki-na Fasô

16/11/2001

26/11/2003

11. Căm-pu-chia

27/9/2004

-

12. Cape Verde

-


16/9/1997 (a)

13. Chi-lê

24/9/1993

21/3/2005

14. Cô-lôm-bi-a

-

24/5/1995 (a)

15. Comoros

22/9/2000

-

16. Ê-cu-a-đo

-

5/2/2002 (a)

17. Ai-cập

-


19/2/1993 (a)

18. En San-va-đo

13/9/2002

14/3/2003

19. Ga-bông

15/12/2004

-

20. Gha-na

7/9/2000

7/9/2000

21. Goa-tê-ma-la

7/9/2000

14/3/2003

Ngày tham gia

22. Ghi-nê


-

7/9/2000 (a)

1. An-ba-ni

-

5/6/2007 (a)

23. Ghi-nê Bít-sao

12/9/2000

-

2. An-giê-ri

-

21/4/2005 (a)

24. Guyana

15/9/2005

-

3. Ác-hen-ti-na


10/8/2004

23/2/2007

25. Hon-đu-rát

-

9/8/2005 (a)

4. A-déc-bai-gian

-

11/1/1999 (a)

26. In-đô-nê-si-a

22/9/2004

-

5. Băng-la-đét

7/10/1998

-

27. Kiếc-ghi-kis-stan


-

29/9/2003 (a)

6. Belize

-

14/11/2001 (a)

28. Lê-sô-thô

24/9/2004

16/9/2005

7. Bê-nanh

15/9/2005

-

29. Liberia

22/9/2004

-

8. Bôlivia


-

16/10/2000 (a)

30. Li-bi

-

18/6/2004 (a)

9. Bosnia & Herzegovina -

13/12/1996 (a)

31. Ma-li

-

5/6/2003 (a)

Nguồn: http:/www2.ohchr.org/english/bodies/ratification.

37

38


o (d) biểu thị quốc gia này kế thừa việc ký hoặc phê
chuẩn hay gia nhập


32. Mô-ri-ta-ni

-

22/6/2007 (a)

33. Mê-hi-cô

22/5/1991

8/3/1999

34. Mông-tê-nê-grô

23/10/2006 (d) -

35. Ma-rốc

15/8/1991

21/6/1993

36. Ni-ca-ra-goa

-

26/10/2005 (a)

37. Pa-ra-goay


13/9/2000

-

38. Pê-ru

22/9/2004

14/9/2005

39. Phi-líp-pin

15/11/1993

5/7/1995

40. Sao Tome & Principe

6/9/2000

-

41. Sê-nê-gan

-

9/6/1999 (a)

42. Séc-bi


11/11/2004

-

43. Xây-sen

-

15/12/1994 (a)

44. Si-ê-ra Lê-ôn

15/9/2000

-

45. Sri Lanka

-

11/3/1996 (a)

46. Sy-ri

-

2/6/2005 (a)

47. Tát-gi-kis-tan


7/9/2000

8/1/2002

48. Đông Ti-mo

-

30/1/2004 (a)

49. Tô-gô

15/11/2001

-

50. Thổ Nhĩ Kỳ

13/1/1999

27/9/2004

51. U-gan-đa

-

14/11/1995 (a)

52. U-ru-goay


-

15/2/2001 (a)

Điểm quan trọng đầu tiên ở Công ước này là nó đã cụ thể
hóa thêm định nghĩa về người lao động di trú (migrant worker)
mà đã được đề cập trong Công ước số 97 của ILO năm 1949 17,
đồng thời bổ sung định nghĩa các thành viên trong gia đình họ
(mà đã nêu ở phần trên). Bên cạnh đó, Công ước đã quy định
một hệ thống quyền con người của người lao động di trú khá
toàn diện và cụ thể. Đây là cơ sở rất quan trọng cho việc bảo vệ
các quyền và lợi ích của người lao động di trú trên thực tế và có
thể coi là đóng góp lớn nhất là Công ước với việc bảo vệ nhóm
xã hội này, bởi lẽ nhiều quyền quan trọng được nêu trong Công
ước chưa hề được các văn kiện quốc tế trước đó chưa đề cập,
hoặc mới chỉ được đề cập trong những văn kiện không ràng
buộc về mặt nghĩa vụ pháp lý của các quốc gia (các văn kiện
‘mềm’).
Tương tự như với các nhóm xã hội dễ bị tổn thương khác
như phụ nữ, trẻ em, người thiểu số...các quyền con người được
quy định trong Công ước quốc tế về quyền của người lao động
di trú và các thành viên trong gia đình họ đã tính đến hoàn cảnh
và những nhu cầu đặc thù của nhóm. Những quyền đặc thù này
17

Ghi chú:
o (a) ngày gia nhập.
39


Theo Điều 11 Công ước số 97 của ILO, thuật ngữ người di trú vì việc làm được
hiểu là một người di cư từ một quốc gia này tới quốc gia khác để tìm kiếm việc làm,
bao gồm bất kỳ người nào được tuyển dụng một cách lâu dài như là một người di trú
vì việc làm. Khái niệm này không bao hàm: (a) những lao động qua lại ở các vùng
biên giới; (b) những nghệ sĩ và người có chuyên môn hành nghề tự do đến làm việc ở
nước khác trong thời gian ngắn; và (c) các thủy thủ. Như vậy, so với định nghĩa này,
định nghĩa được nêu trong Công ước của Liên hợp quốc về các quyền của người lao
động di trú và các thành viên trong gia đình họ mang tính chất cụ thể hơn, vì đã nêu ra
8 dạng người lao động di trú và 6 dạng người không được coi là lao động di trú.

40


chỉ có thể áp dụng với người lao động di trú mà không áp dụng
với bất kỳ nhóm xã hội nào khác. Một số quyền tiêu biểu trong
đó có thể kể như: Quyền được gửi về nước hoặc mang theo số
tiền kiếm được khi hồi hương (Điều 26); Quyền không bị trục
xuất tập thể (Điều 22); Quyền được nhận sự hỗ trợ, bảo vệ của
một cơ quan ngoại giao hoặc lãnh sự của quốc gia xuất xứ, hoặc
của quốc gia đại diện cho lợi ích của quốc gia xuất xứ khi các
quyền được thừa nhận trong Công ước này bị vi phạm
(Điều 23)...

người lao động di trú phải “không được kém thuận lợi
hơn’ so với các chế độ áp dụng với người lao động là công
dân của quốc gia gốc, cụ thể trong các vấn đề như thù lao,
điều kiện làm việc, các tiêu chuẩn tuyển dụng...


2.2.2. Các nguyên tắc và các quyền của người lao động di


Các quyền được áp dụng trong suốt quá trình di trú lao
động: Nguyên tắc này có nghĩa là các quốc gia phải bảo
đảm sự bảo vệ các quyền của người lao động di trú trong
mọi giai đoạn của tiến trình di trú lao động, bao gồm các
giai đoạn chuẩn bị, trên đường đi đến và khi làm việc ở
nước tiếp nhận, và khi trở về nước gốc (Điều 1).

trú
Công ước được xây dựng dựa trên ba nguyên tắc chỉ đạo,
đó là:




Không phân biệt đối xử: Nguyên tắc này có nghĩa là tất
cả các quyền được xác lập trong công ước phải được áp
dụng một cách bình đẳng cho tất cả mọi người lao động di
trú; không được tạo ra bất kỳ sự áp dụng hay đối xử khác
biệt nào dựa trên bất kỳ yếu tố nào như về dân tộc, chủng
tộc, quốc tịch, ngôn ngữ, độ tuổi, địa vị xã hội, nghề
nghiệp, giới tính, tôn giáo, tín ngưỡng, quan điểm xã
hội...(Điều 1).
Đối xử quốc gia (national treatment) với người lao động
di trú: Nguyên tắc này có nghĩa là các quốc gia phải bảo
đảm cho người lao động di trú đang làm việc ở nước mình
được hưởng các quyền mà người lao động nước mình
đang được hưởng. Nguyên tắc này được quy định ở Điều
25 của Công ước, trong đó nêu rõ, các chế độ áp dụng với
41


Để phù hợp với tính đa dạng về nguồn gốc của người lao
động di trú cũng như thông lệ pháp luật của các quốc gia, Công
ước đề cập đến vấn đề quyền của người lao động di trú theo hai
hình thức: các quyền con người cơ bản mà tất cả mọi người lao
động di trú, bất kể hợp pháp hay bất hợp pháp 18, và các thành
viên gia đình họ đều phải được bảo đảm và các quyền bổ sung
áp dụng với những người lao động di trú hợp pháp và các thành
viên gia đình họ. Cụ thể như sau:
Các quyền áp dụng cho mọi người lao động di trú và các
thành viên trong gia đình họ
Phần III (từ điều 8 đến 32) của Công ước ghi nhận những
quyền và tự do cơ bản của con người cần phải bảo đảm cho mọi
người lao động di trú và các thành viên trong gia đình họ (thuộc
cả hai dạng hợp pháp và bất hợp pháp), bao gồm:
18

Trong các tài liệu về vấn đề này, người lao động di trú bất hợp pháp (illegal
migrant) còn được đề cập bằng các thuật ngữ như “irregular migrant” ,
“undocumented migrant” hoặc “clandestine migrant”.

42


o Quyền sống (Điều 9)

o Quyền được gửi về nước hoặc mang theo số tiền
kiếm được khi hồi hương (Điều 26).

o Quyền được thừa nhận là thể nhân trước pháp luật

(Điều 24)

o Quyền không bị trục xuất tập thể (Điều 22).

o Quyền không bị tra tấn hoặc đối xử hay trừng phạt
tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm (Điều
10)

o Quyền được nhận sự hỗ trợ, bảo vệ của một cơ quan
ngoại giao hoặc lãnh sự của quốc gia xuất xứ, hoặc
của quốc gia đại diện cho lợi ích của quốc gia xuất
xứ khi các quyền được thừa nhận trong Công ước
này bị vi phạm (Điều 23)

o Quyền không bị bắt làm nô lệ hay nô dịch, bị lao
động cưỡng bức hay bắt buộc (Điều 11)

o Quyền tự do và an toàn cá nhân (Điều 16, 21), bao
gồm sự bảo vệ người lao động cư trú và các thành
viên trong gia đình họ khỏi bị tịch thu, hủy hoặc cố
gắng hủy một cách tuỳ tiện các giấy tờ nhận dạng,
giấy tờ cho phép nhập cảnh hoặc lưu lại, cư trú hoặc
lập nghiệp trong lãnh thổ quốc gia hoặc giấy phép
lao động.

o Quyền được bảo vệ sự riêng tư (Điều 14)
o Quyền sở hữu tài sản (Điều 15)
o Quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng, nhận thức và tôn
giáo (Điều 12)
o Quyền tự do ngôn luận (Điều 13).

o Quyền tự do rời khỏi hoặc trở về bất kỳ quốc gia
nào, kể cả nước xuất xứ, vào bất kỳ thời điểm nào
(Điều 8).
o Quyền được nhận sự chăm sóc y tế khẩn cấp cần
thiết trên cơ sở đối xử bình đẳng như các công dân
của quốc gia liên quan (Điều 28).
o Quyền có họ tên, được khai sinh và có quốc tịch của
trẻ em các gia đình lao động di trú (Điều 26).
o Quyền của trẻ em các gia đình lao động di trú được
tiếp cận giáo dục trên cơ sở đối xử bình đẳng như
các công dân của quốc gia mà cha mẹ đang làm việc
(Điều 30).

o Các quyền trong tố tụng hình sự (Điều 17, 18, 19),
bao gồm được đối xử nhân đạo, được xét xử một
cách công bằng và được áp dụng những tiêu chuẩn
tư pháp của một xã hội văn minh như không bị áp
dụng hồi tố, không bị bỏ tù vì không hoàn thành một
nghĩa vụ hợp đồng, không bị buộc phải đưa ra lời
khai chống lại chính mình hoặc nhận tội, có quyền
bào chữa và được nhận các trợ giúp pháp lý cần
thiết...
o Quyền được đối xử bình đẳng như các công dân của
quốc gia nơi có việc làm liên quan đến vấn đề thù
lao và những điều kiện làm việc, tuyển dụng khác

o Quyền được tôn trọng và duy trì bản sắc văn hoá
(Điều 26).
43


44


như làm ngoài giờ, giờ làm việc, nghỉ cuối tuần,
ngày nghỉ được trả lương, an toàn lao động, y tế,
chấm dứt quan hệ lao động, độ tuổi lao động tối
thiểu, hạn chế làm việc tại gia và bất kỳ vấn đề nào
khác mà, theo pháp luật và thực tiễn quốc gia, được
coi là điều kiện làm việc, tuyển dụng (Điều 25).
o Quyền được tham gia công đoàn và những hiệp hội
khác được thành lập theo pháp luật, nhằm bảo vệ lợi
ích kinh tế, xã hội, văn hóa và các lợi ích khác của
họ, chỉ phụ thuộc vào những quy định của các tổ
chức liên quan (Điều 26).
o Quyền hưởng an sinh xã hội tương tự như mức độ
dành cho những công dân sở tại trong chừng mực là
họ đáp ứng được những yêu cầu được quy định trong
pháp luật của quốc gia đó và trong các điều ước song
và đa phương (Điều 27).
Đối với những người lao động di trú không có giấy tờ,
các quyền kể trên bảo đảm rằng họ sẽ không bị đối xử như những
kẻ phạm tội, mà như những con người, và trong nhiều trường
hợp là như những nạn nhân của những kẻ buôn người.
Cần lưu ý là một số quyền và tự do kể trên, cụ thể như
quyền tự do ngôn luận, quyền tự do rời khỏi hoặc trở về bất kỳ
quốc gia nào và quyền hội họp, lập hội có thể bị những hạn chế
theo pháp luật nếu cần thiết để bảo vệ an ninh của các quốc gia
liên quan, trật tự công cộng, sức khỏe và đạo đức cộng đồng, các
quyền và tự do của người khác, cũng như để ngăn chặn việc
tuyên truyền chiến tranh và việc tuyên truyền kích động thù địch

45

giữa các quốc gia, chủng tộc, hoặc tôn giáo, dẫn đến việc phân
biệt đối xử, thù địch hoặc bạo lực. Đây là những nguyên tắc
chung áp dụng trong tất cả các điều ước quốc tế về quyền con
người.
Theo Điều 33, tùy từng trường hợp cụ thể, người lao động
di trú và các thành viên gia đình họ phải được quốc gia xuất xứ,
quốc gia nơi có việc làm và quốc gia quá cảnh thông báo về: (a)
Các quyền họ có theo quy định của Công ước này; (b) Các điều
kiện về việc chấp nhận họ, các quyền và nghĩa vụ của họ theo
pháp luật và thực tiễn của quốc gia liên quan và những vấn đề
khác giúp họ tuân thủ các thủ tục hành chính hay các thủ tục
khác tại quốc gia đó. Điều này cũng yêu cầu các quốc gia thành
viên phải áp dụng các biện pháp thích hợp để cung cấp những
thông tin nói trên một cách miễn phí cho người lao động di trú
và các thành viên gia đình họ và trong chừng mực có thể, bằng
ngôn ngữ mà họ có thể hiểu.
Các quyền khác áp dụng riêng cho người lao động di trú
có giấy tờ hợp pháp và các thành viên gia đình họ
Ngoài những quyền được đề cập trong Phần III, những
người lao động di trú và các thành viên gia đình họ mà có giấy
tờ hợp pháp còn được hưởng các quyền khác ghi nhận trong
Phần IV của Công ước (từ điều 36 đến 56), bao gồm:
o Quyền được thông báo đầy đủ về mọi điều kiện liên
quan đến việc cư trú và các công việc mà họ sẽ phải
làm (Điều 37).
o Quyền được vắng mặt tạm thời mà không ảnh hưởng
đến việc được phép cư trú hoặc lao động (Điều 38).
46



trú và các thành viên gia đình họ ở cả các quốc gia
xuất xứ và các quốc gia nơi có việc làm (Điều 42).
Quyền này bao gồm việc tư vấn hay tham gia vào quá
trình đưa ra các quyết định về cuộc sống và việc quản
lý các cộng đồng địa phương, cũng như hưởng các
quyền chính trị ở các quốc gia nơi có việc làm.

o Quyền tự do đi lại và tự do lựa chọn nơi cư trú trong
lãnh thổ của quốc gia nơi có việc làm (Điều 39).
o Quyền lập hội và các nghiệp đoàn tại quốc gia nơi có
việc làm nhằm thúc đẩy và bảo vệ các lợi ích về kinh
tế, xã hội, văn hóa và các lợi ích khác của họ (Điều
40).

o Quyền được đối xử bình đẳng như công dân của quốc
gia nơi có việc làm, liên quan đến việc tiếp cận các tổ
chức và dịch vụ giáo dục; các dịch vụ hướng nghiệp
và việc làm; các cơ sở và tổ chức đào tạo và tái đào tạo
nghề; nhà ở; các dịch vụ xã hội và y tế; tham gia các
hợp tác xã và doanh nghiệp tự quản; tham gia đời sống
văn hóa (Điều 43).

o Quyền tham gia vào các vấn đề công, bầu cử và được
bầu trong các cuộc bầu cử tại quốc gia xuất xứ (Điều
41).
o Quyền được bảo vệ và hỗ trợ để có cuộc sống gia đình
hợp nhất (Điều 44).
o Quyền được chuyển thu nhập để chu cấp cho gia đình

từ quốc gia nơi có việc làm đến quốc gia xuất xứ hoặc
bất cứ một quốc gia nào khác (Điều 47).

o Quyền bình đẳng của các thành viên trong gia đình của
người lao động di trú với người dân bản địa trong các
vấn đề: (i) tiếp cận các tổ chức và dịch vụ giáo dục;
(ii) tiếp cận các tổ chức và dịch vụ hướng nghiệp và
đào tạo nghề; (iii) tiếp cận các dịch vụ y tế và xã hội;
(iv) tiếp cận và tham gia đời sống văn hóa (Điều 45).
Liên quan đến quyền này, Công ước yêu cầu các quốc
gia nơi có việc làm tạo điều kiện cho sự hòa nhập của
con cái của những người lao động di trú vào hệ thống
trường học địa phương cũng như cho việc dạy tiếng
mẹ đẻ và văn hóa cho con cái của người lao động di
trú.

o Quyền được đối xử bình đẳng như công dân sở tại
trong các vấn đề về thuế (Điều 48).
o Quyền tự do lựa chọn công việc có hưởng lương của
họ, chỉ phải theo những điều kiện và hạn chế nhất định
(Điều 52).
o Quyền được đối xử bình đẳng như với công dân của
nước sở tại trong các vấn đề về lao động, việc làm
(Điều 54, 55).
o Quyền không bị trục xuất một cách tuỳ tiện (Điều 56).
o Quyền được hỗ trợ thiết lập và tham gia các thủ tục
hay thể chế nhằm thực hiện những nhu cầu, nguyện
vọng và các nghĩa vụ đặc biệt của người lao động di
47


o Quyền được miễn các loại thuế và phí xuất nhập khẩu
đối với các thiết bị, đồ dùng gia đình và cá nhân, cũng
như các thiết bị cần thiết phục vụ cho làm một công
48


việc có hưởng lương trong các trường hợp: (i) Khi rời
quốc gia xuất xứ hoặc quốc gia thường cư trú; (ii) Khi
được nhận vào quốc gia nơi có việc làm lần đầu; (iii)
Khi rời quốc gia nơi có việc làm lần đầu; (iv) Khi quay
trở về quốc gia xuất xứ hoặc quốc gia cư trú lần cuối
(Điều 46).
o Quyền được cấp giấy phép cư trú trong khoảng thời
gian ít nhất bằng với thời hạn được phép làm công
việc có hưởng lương (Điều 49). Liên quan đến quyền
này, người lao động di trú mà được phép tự do lựa
chọn công việc có hưởng lương sẽ không bị mất giấy
phép cư trú chỉ bởi việc ngừng làm công việc có
hưởng lương trước khi hết hạn của giấy phép lao động.
Cũng theo nguyên tắc chung của luật quốc tế về quyền con
người, một số quyền và tự do kể trên, bao gồm quyền tự do đi
lại, tự do lựa chọn nơi cư trú trong lãnh thổ của quốc gia nơi có
việc làm, quyền lập hội và các nghiệp đoàn có thể phải chịu
những hạn chế do pháp luật quy định, cần thiết để bảo vệ an
ninh quốc gia, trật tự công cộng, sức khỏe hay đạo đức cộng
đồng hay các quyền và tự do của người khác.
2.2.3. Một số khía cạnh khác
Tính thực tiễn của công ước
Như đã nêu ở trên, Công ước đã thừa nhận và tính đến
tính đa dạng về nguồn gốc của người lao động di trú, thể hiện ở

việc chia nhóm đối tượng này thành hai loại (có giấy tờ hợp
pháp và không có giấy tờ hợp pháp) nhưng quy định một khuôn
khổ các quyền con người cơ bản mà tất cả mọi người lao động
49

di trú đều được bảo vệ. Thêm vào đó, Công ước tập trung đề cập
đến các quyền liên quan đến những khía cạnh mà người lao
động di trú thường gặp khó khăn (‘migrant in trouble’ rights),
bao gồm các quyền về giấy tờ tùy thân, về tiếp cận với hệ thống
tư pháp, các quyền về các dịch vụ xã hội thiết yếu với người lao
động di trú và các thành viên trong gia đình họ, và quyền được
hồi hương 19...
Chế độ báo cáo và giám sát thực hiện
Tương tự một số điều ước quốc tế khác về quyền con
người, Công ước quy định chế độ báo cáo và giám sát việc thực
hiện của các quốc gia. Về chế độ báo cáo, các quốc gia thành
viên sẽ phải nộp báo cáo quốc gia về việc thực hiện công ước
theo định kỳ 5 năm, ngoài ra còn có thể phải nộp các báo cáo bất
thường theo yêu cầu của ủy ban giám sát công ước trong trường
hợp có vấn đề đặc biệt nghiêm trọng nảy sinh. Đối với các quốc
gia mới tham gia công ước, báo cáo đầu tiên phải nộp sau một
năm công ước có hiệu lực, sau đó sẽ áp dụng chế độ báo cáo
định kỳ 5 năm.
Về cơ chế giám sát, Công ước quy định thành lập một ủy
ban giám sát (Ủy ban về bảo vệ quyền của người lao động di
trú), gồm 10 chuyên gia độc lập, do các quốc gia thành viên
công ước đề cử và bầu ra (nhưng hoạt động với tư cách cá nhân
chứ không phải trên tư cách đại diện cho quốc gia mà mình có

19


Về vấn đề này, xem thêm bài trình bày của Philip S. Robertson Jr., (cố vấn về các
vấn đề di trú và quyền của người lao động của dự án SEARCH) về Công ước quốc tế
về các quyền của người lao động di trú và các thành viên trong gia đình họ, tại Hội
thảo về ‘Pháp luật và cơ chế quốc gia, khu vực và quốc tế về bảo vệ người lao động ở
nước ngoài’ do Hội Luật gia Việt Nam tổ chức vào ngày 11-12/01/2008 tại Hà Nội.

50


×