Tải bản đầy đủ (.doc) (77 trang)

Sơ lược văn hóa thanh hoá

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (465.58 KB, 77 trang )

Sở giáo dục và đào tạo thanh hóa
Phòng giáo dục mầm non
Tài liệu bồi dỡng thờng xuyên
Chu kì III (2004-2007) Cho giáo viên mầm non
Phần kiến thức địa phơng

tHanh hóa - 2006
1
Tæ chøc biªn so¹n : Phßng gi¸o dôc mÇm non
Biªn so¹n : Lu ®øc h¹nh
2
lời nói đâu
Thực hiện Quyết định của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc ban hành Chơng trình bồi
dỡng thờng xuyên chu kì III (2004-2007) cho giáo viên mầm non, Sở Giáo dục &
Đào tạo tổ chức biên soạn và ấn hành tài liệu Kiến thức về địa phơng này.
Tài liệu nhằm trang bị cho giáo viên những tri thức căn bản về truyền thống văn
hóa tỉnh nhà ; theo yêu cầu tự học. Đợc biên soạn trên cơ sở của các công trình
nghiên cứu về Thanh Hoá của nhiều tổ chức, nhiều nhà Thanh Hóa học. Nhân đây
chúng tôi xin trân trọng cám ơn.
Tài liệu gồm 5 bài, thời lợng 30 tiết. Cụ thể nh sau :
Bài 1- Nhìn chung Xứ Thanh truyền thống. Hiểu theo nghĩa là Xứ Thanh từ
thời trung đại (chế độ Phong kiến) trở về trớc. Đợc soi chiếu bằng cái nhìn văn hóa
về con ngời và lịch sử. Thời lợng tuơng đơng 7 tiết.
Bài 2- Danh thắng, di tích Xứ Thanh. Giới thiệu các thắng cảnh thiên nhiên
và di tịch lịch sử tiêu biểu. Thời lợng tuơng đơng 4 tiết.
Bài 3- Văn học dân gian. Chỉ tập trung làm sáng tỏ hai phơng thức biểu đạt
chính là tự sự và trữ tình. Thời lợng tuơng đơng 4 tiết.
Bài 4- Diễn xớng dân gian. Sau khi có cái nhìn chung, bài học đi sâu hơn
vào các trò diễn điển hình của một số dân tộc. Thời lợng tuơng đơng 6 tiết.
Bài 5- Nghề truyền thống Xứ Thanh. Cung cấp sự hiểu biết chính yếu một số
nghề nổi bật của các vùng miền. Thời lợng tuơng đơng 4 tiết.


Viết bài thu hoạch tổng hợp và thực hành - giới thiệu về Xứ Thanh hoặc cái
hay, cái đẹp của địa phơng - Thời lợng tuơng đơng 5 tiết.
Để nắm vững bài học, đề nghị các bạn giáo viên đọc kĩ, lập đề cơng và thực hiện
theo Hớng dẫn học ở cuối mỗi bài. Tìm đọc thêm các sách đợc kê ở mục Tài liệu
tham khảo và các sách, báo khác liên quan. Cá nhân hoặc nhóm cố gắng tìm hiểu
thêm truyền thống văn hóa của địa phơng ; tổ chức tham quan di tích, thắng cảnh
trong tỉnh. Cuối cùng yêu cầu cao nhất là vận dụng. Mong sao các bạn sau khi học
có thể giới thiệu đợc cho các cháu về Thanh Hóa chúng ta, để các cháu thêm yêu quê
hơng.
Tài liệu đợc biên soạn tơng đối kĩ lỡng, tuy nhiên không thể tránh khỏi thiếu sót.
Rất mong nhận đợc góp ý để chúng tôi có sự hoàn thiện hơn trong tơng lai.
Phòng giáo dục mầm non
Sở giáo dục & đào tạo thanh hóa


3
Bài 1
Nhìn chung xứ Thanh truyền thống
I. Mở đầu
1. Xứ đợc hiểu theo các nghĩa sau :
a) Một vùng đất canh tác nhất định của làng xã xa kia (xứ đồng ngoài, xứ bãi trong).
b) Một vùng đất canh tác (thổ canh) vùng đất c trú (thổ c) của làng xã xa : 12 xứ
Láng, 18 xứ Neo (để chỉ các làng xã thuộc huyện Thọ Xuân trớc đây).
c) Một đơn vị của giáo hội công giáo, nhỏ hơn địa phận, do một linh mục cai quản
phần hồn (giáo xứ, nhà thờ xứ).
d) Một phạm vi lãnh thổ, cộng đồng c dân có chung truyền thống, đặc điểm văn hoá
nào đó. Thờng lớn hơn, bằng một tỉnh ngày nay. Ví dụ : xứ Kinh Bắc (Bắc Giang,
Bắc Ninh), xứ Đông (Hải Dơng, Hải Phòng), xứ Đoài (Sơn Tây cũ), xứ Thanh, xứ
Nghệ (Nghệ An, Hà Tĩnh), xứ Quảng (Quảng Nam), xứ Đồng Nai (các tỉnh miền
đông Nam bộ)

đ) Một phạm vi lãnh thổ gắn với chủ yếu một cộng đồng c dân - tộc ngời (xứ Thái,
xứ Mờng).
2. Khái niệm Xứ Thanh đợc dùng theo nghĩa thứ t : một phạm vi lãnh thổ - cộng
đồng c dân có chung truyền thống, đặc điểm văn hoá nào đó.
Vậy, Xứ Thanh là tỉnh Thanh Hoá chúng ta ngày nay, bao gồm một diện tích
nhất định, một cộng đồng dân c nhất định, với những đặc điểm truyền thống lịch
sử - văn hoá khác biệt nhất định làm nên một diện mạo văn hoá có những đặc sắc
riêng trong cái chung của đất nớc, dân tộc Việt Nam, văn hoá Việt Nam.
3. Văn hoá, theo thống kê của một nhà dân tộc học ngời Mĩ, có đến hơn bốn trăm
định nghĩa về văn hoá. Tuy nhiên, tựu trung lại, chúng ta có thể hiểu nh thế này:
trong mọi sự tồn tại ở thế giới , có thể chia ra làm hai loại. Loại không do con ngời
làm ra và loại do con ngời làm ra, mang dấu ấn của con ngời. Loại thứ nhất là tự
nhiên, loại thứ hai là văn hoá. Văn hoá là tất cả những sản phẩm vật chất, tinh
thần do con ngời sáng tạo ra, mang dấu ấn con ngời trong trờng kì lịch sử sinh
tồn, phát triển của mình.
Cũng bởi vì con ngời là một cộng đồng : cộng đồng chính trị - xã hội, cộng đồng
dân tộc, cộng đồng c dân trong quá trình lịch sử dài lâu và nhất định (thời kì lịch sử
nhất định nào đó) nên ta sẽ có văn hoá của dân tộc này, đất nớc kia, giai đoạn lịch sử
nọ, t tởng chính trị - xã hội nào đó từ văn hoá của một vùng đến văn hoá thế giới, văn
hoá loài ngời. Tất cả những điều ấy sinh ra đặc điểm văn hoá chung, truyền thống
văn hoá chung cho đến đặc điểm văn hoá, truyền thống văn hoá riêng biệt. Do vậy ta
có thể nói văn hoá (với đặc điểm và truyền thống) nhân loại, thế giới, Việt Nam,
Trung Quốc, Nga, Mĩ, Pháp, Văn hoá các dân tộc khác nhau trên thế giới hay
trong một đất nớc ; văn hoá các địa phơng ; Văn hoá các thời đại (cổ đại, trung đại,
4
hiện đại) ; ăn hoá t tởng (phong kiến, t bản, xã hội chủ nghĩa ) ; văn hoá công
giáo, phật giáo ; văn hoá nhà trờng, công sở, giao tiếp, gia đình .
4. Vì vậy nói đến Văn hoá truyền thống Xứ Thanh là nói đến nhữngsắc thái đặc
điểm và truyền thống trong quá trình tồn tại, phát triển đợc tổng kết, lu giữ (để lại
dấu ấn) bằng những sản phẩm vật chất, tinh thần, bằng chính những chân dung

con ngời Thanh Hoá trong trờng kì lịch sử ở những thời đại đã qua giữa lòng quốc
gia - dân tộc Việt Nam.
Nhng để tìm hiểu những điều đó, trớc hết cần nắm vững một sồ nét về địa lí và quá
trình phát triển lịch sử xã hội.
II. Đại cơng về địa lí
1. Tỉnh ta nằm ở cực bắc Trung Bộ. Phía bắc giáp Sơn La, Hoà Bình, Ninh
Bình, đờng ranh giới 175 km. Phía nam ; tây nam giáp Nghệ An, ranh giới dài 160
km. Phía tây, giáp tỉnh Hủa Phăn, nớc Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào với đờng biên
giới 192 km. Phía đông là vịnh Bắc Bộ có đờng ven biển 102 km và một vùng thềm
lục địa khá rộng. Nằm trong khoảng 104
0
kinh đông

đến 106
0
kinh đông ; 19
0
vĩ bắc
đến 20
0
vĩ bắc. Kinh tuyến 105 đi dọc gần nh giữa, trên cùng trục với Thái Nguyên,
Hà Nội, kéo đến miền Tây Nam bộ. Vĩ tuyến 20, cũng gần nh chia đôi tỉnh, ngang
với đảo Hải Nam (Trung Quốc), bắc Phi-líp-pin, bắc Lào, Thái lan, miền trung Mi-
an-ma, ấn Độ, miền nam bán đảo ả- rập, phía bắc Sa-ha-ra, ngang với Cu Ba và một
số nớc Trung Mĩ.
Thanh Hoá có hai loại gió mùa, đông bắc (gió bấc) và tây nam (gió Lào). Tuy rõ
nét, nhng dều không mạnh bằng phía Bắc và phía Nam.
Tổng diện tích toàn tỉnh 29.168 km2, gồm hai phần. Phần đất nổi : 11.168
km
2

; Vùng thềm lục địa : 18.000 km
2,
chia làm

3 vùng : Miền núi - Đồng bằng -
Vùng biển.
Miền núi hay còn gọi là miền tây hơn 8 ngàn km
2
, chiếm 3/4 diện tích toàn
tỉnh. Dân số khoảng 1,3 triệu ngời chiếm 1/3 dân số. Đây là vùng biên viễn của Xứ
Thanh nghĩa là vùng biên giới và địa giới. Nếu nhìn vào bản đồ, trên đất liền,Thanh
Hoá đợc viền bằng các huyện miền núi với gần 500/527 km. Lần lợt từ tây bắc đến
tây nam là Thạch Thành, Cẩm Thuỷ, Bá Thớc, Quan Hoá, Mờng Lát, Quan Sơn,
Lang Chánh, Thờng Xuân, Nh Xuân, Nh Thanh. Riêng Ngọc Lặc, huyện miền núi
nhng không nằm trên đờng viền này, gần nh trung tâm điểm của tỉnh. Địa hình
nghiêng dốc theo hớng biển. Bờ biển nh một vành trăng lỡi liềm đầu tháng từ đông
bắc (Nga Sơn) đến đông nam (Tĩnh Gia). Vành đai bán phần Bỉm Sơn, Hà Trung,
Vĩnh Lộc, Yên Định, Thọ Xuân, Triệu Sơn, Nông Cống tạo nên vùng trung du -
đồng bằng. Bán phần còn lại cùng với Thiệu Hoá, Đông Sơn, Thành phố Thanh Hoá,
Nga Sơn, Hậu Lộc, Hoằng Hoá, Thị xã Sầm Sơn, Quảng Xơng, Tĩnh Gia là vùng
đồng bằng- ven biển. Tổng cộng khoảng 2.900 km
2
.
Dân số độ bốn triệu ngời với bảy dân tộc anh em. Kinh (khoảng 3,3 triệu), Mờng
(khoảng 350 ngàn), Thái (khoảng 220 ngàn), H.Mông (khoảng 15 ngàn), Thổ
(khoảng 12 ngàn), Dao (khoảng 6 ngàn), Khơ Mú (khoảng 1 ngàn). Các dân tộc dù
5
là bản địa hay di c, dù miền núi hay miền xuôi, từ hàng ngàn năm trớc cho đến ngày
nay, luôn có truyền thống hoà thuận, đoàn kết để xây dựng và bảo vệ đất nớc, quê h-
ơng, làng bản. Và cùng chung nhau một gia sản là truyền thống và thành tựu văn hoá

- lịch sử - xã hội.
Về mặt hành chính, hiện nay toàn tỉnh chia làm 27 huyện, thị, thành phố.
Bá Thớc : 7.474 km
2
, khoảng 110 ngàn ngời, 23 xã, thị trấn.
Bỉm Sơn : 0.673,2 km
2
, khoảng 58 ngàn ngời, 6 xã phờng
Cẩm Thuỷ : 4.312,3 km
2
, khoảng 120 ngàn ngời, 20 xã, thị trấn.
Đông Sơn : 1.067,626 km
2
, khoảng 125 ngàn ngời, 21 xã, thị trấn.
Hà Trung : 2.509,696 km
2
, khoảng 127 ngàn ngời, 25 xã, thị trấn.
Hậu Lộc : 1.468,5 km
2
, khoảng 186 ngàn ngời, 27 xã, thị trấn.
Hoằng Hoá : 2.246,875 km
2
, khoảng 260 ngàn ngời, 50 xã, thị trấn.
Lang Chánh : 6.165,8 km
2
, khoảng 48 ngàn ngời, 11 xã, thị trấn, trong đó có 8 xã
miền núi cao
Mờng Lát : 8.455,803 km
2
, khoảng 30 ngàn ngời, 8 xã, thị trấn..

Nông Cống : 2.871 km
2
, khoảng 200 ngàn ngời, 33 xã, thị trấn.
Nga Sơn : 1.449,52 km
2
, khoảng 156 ngàn ngời, 27 xã, thị trấn.
Nh Xuân : 7.053,28 km
2
, khoảng 63 ngàn ngời, 17 xã, thị trấn.
Nh Thanh : 6.355,72 km
2
, khoảng 85 ngàn ngời, 16 xã, trong đó có 4 xã miền núi
cao.
Ngọc Lặc : 4.765,6 km
2
, khoảng 140 ngàn ngời, 23 xã, thị trấn.
Quan Hoá : 10.435,089 km
2
, khoảng 45 ngàn ngời, 18 xã, thị trấn.
Quan Sơn : 8.652,885 km
2
, khoảng 35 ngàn ngời, 11 xã, thị trấn.
Quảng Xơng : 2.274,669 km
2
, khoảng 290 ngàn ngời, 41 xã, thị trấn.
Thị xã Sầm Sơn : 0.180,603 km
2
, khoảng 59 ngàn ngời, 6 phờng, xã.
Tĩnh Gia : 4.381,72 km
2

, khoảng 230 ngàn ngời, 34 xã, thị trấn, trong đó có 4 xã
miền núi.
Thành phố Thanh Hoá : 0.578,959 km
2
, khoảng 200 ngàn ngời, 17 phờng, xã.
Thạch Thành : 5.938,6 km
2
, khoảng 145 ngàn ngời, 30 xã, thị trấn, trong đó có 6 xã
miền núi cao.
Thiệu Hoá : 1.734,452 km
2
, khoảng 210 ngàn ngời, 31 xã, thị trấn.
Triệu Sơn : 2.922,177 km
2
, khoảng 225 ngàn ngời, 36 xã, thị trấn, trong đó có 4 xã
miền núi.
Thọ Xuân : 2.967,2 km
2
, khoảng 245 ngàn ngời, 41 xã, thị trấn, trong đó có 5 xã
miền núi.
Thờng Xuân : 11.104 km
2
, khoảng 90 ngàn ngời, 20 xã, thị trấn, trong đó có 10 xã
vùng núi cao.
Vĩnh Lộc : 1.140,8 km
2
, khoảng 93 ngàn ngời, 16 xã, thị trấn, trong đó có 5 xã miền
núi.
Yên Định : 2.102,412 km
2

, khoảng 118 ngàn ngời, 29 xã, thị trấn, trong đó có1 xã
miền núi.
6
2. Từ bắc vào nam, Thanh Hoá có 4 hệ thống sông : sông Hoạt, sông Mã,
sông Yên, sông Lạch Bạng.
Hệ thống sông Hoạt nằm trên địa phận Hà Trung - Nga Sơn, bao gồm sông Hoạt,
sông Tống, sông Báo Văn, sông Lèn.
Hệ thống sông lớn nhất và quan trọng nhất là sông Mã. Lu vực 9.000km2, bao
trùm 4/5 diện tích toàn tỉnh. Phát nguyên từ Điện Biên, chảy qua Sơn La, qua Lào rồi
vào tỉnh ta ở Quan Hoá. Trong toàn chiều dài 528km, chảy trên đất Việt 410km,
sông Mã đã có 242km thuộc Thanh Hoá ; có 89 nhánh từ 10 km trở lên. Nhng chủ
yếu là 3 suối và 6 sông : suối Sim từ Sầm Na, suối Quanh, suối Xia từ Hoà Bình ;
sông Luồng, sông Lò, sông Chu từ Sầm Na, sông Hón Nủa, sông Bởi từ Hoà Bình,
sông Cầu Chày từ Ngọc Lạc dồn nớc cho nó. Trong các phụ lu này, sông Chu với 3
nhánh đổ vào (sông Khao, sông Âm, sông Đạt) là lớn nhất. Ta có thể hình dung hành
trình sông Mã nh sau : Quan Hoá - Bá Thớc - Cẩm Thuỷ - Vĩnh Lộc - Yên Định -
Thiệu Hoá - Hoằng Hoá và ra biển ở cửa Lạch Trờng và cửa Hới. Suối Sim, suối
Quanh, suối Xia, sông Luồng, sông Lò, Hón Nủa đổ vào sông Mã ở Mờng Lát và
Quan Hoá. Sông Bởi, sông Cầu Chày, sông Chu đổ vào sông Mã ở giao điểm 3
huyện Vĩnh Lộc, Yên Định, Thiệu Hoá. Ngã ba sông lớn nhất là Ngã ba Bông và
Ngã ba Giàng, mà quanh nó là các huyện Vĩnh Lộc, Yên Định, Thiệu Hoá, Hoằng
Hoá. Sông Mã có một phân lu là sông Lèn ở Ngã ba Bông, một phân lu là sông Tào
ở Hàm Rồng.
Hệ thống sông Yên. Bắt nguồn từ vùng núi Nh Xuân, sông Yên chảy qua đồng
bằng Nông Cống, Quảng Xơng và đổ ra biển ở Hải Ninh - Tĩnh Gia, dài 94,2 km.
Gặp sông Nhơm (cũng từ Nh Xuân) nhập với sông Hoàng đổ vào ở ngã ba Yên Sở,
lại gặp sông Lí đổ vào ở ngã ba Hoà Trờng, cách biển 19 km. Sông Thị Long cũng
bắt nguồn từ Nh Xuân chảy qua Tĩnh Gia, Nông Cống và đổ vào sông Yên ở ngã ba
Tuần, cách biển khoảng 13,5 km. Hệ thống Sông Yên, cùng một số sông nhỏ, kênh
đào khác nh sông Đơ, sông Dừa, sông Mơ, sông Thọ Hạc, kênh Vĩnh, kênh Than tạo

nên mạng lới sông ngòi của Nh Xuân, Nông Cống, Quảng Xơng, Đông Sơn, Tĩnh
Gia.
Hệ thống sông Lạch Bạng. Sông dài 34,5 km, nằm hoàn toàn trên đất Tĩnh Gia, nối
với sông Hoàng Mai (Nghệ An) bằng kênh Son, nối với sông Yên qua kênh Than.
Sông Lạch Bạng đổ ra biển ở cửa Bạng.
Khi đề cập đến sông ngòi, không thể không nói đến hệ thống sông đào. Đây là
thành quả to lớn nhất trong hơn 1000 năm, dấu ấn rõ nhất của con ngời in trên địa
hình tự nhiên Thanh Hoá. Với vai trò căn cứ địa, các vơng triều phong kiến Việt
Nam, thời nào cũng đều có các cuộc xuất phát từ Thanh Hoá ra Bắc vào Nam. Do
vậy, thời nào cũng bồi cũ, đào mới kênh sông, nối chúng với các sông tự nhiên để
đảm bảo mục đích quân sự và kinh tế xã hội. Cho nên, thời phong kiến tự chủ, tất cả
40 lần đào sông, Thanh Hoá đã chiếm 19 lần. Đầu tiên, Lê Hoàn tạo ra con đờng
thuỷ từ Đồng Cổ (Đan Nê - Yên Định) đến Bà Hoà (Tĩnh Gia). Thời Lí - Trần bảo
trì, mở rộng và đào thêm sông Lí, sông Chiếu Bạch, sông Bố Vệ, Đan Nãi, sông
7
Lẫm, sông Trầm, sông Hào, sông Bà Lễ...Nhà Lê tạo ra các sông, kênh ven biển. Từ
Nga Sơn theo sông Hoạt vào sông Báo Văn đến Lèn, lên Đồng Cổ, theo kênh Ngọc
Quang vào Sông Chu về Lam Kinh hoặc theo sông đào Đu, Bôn, Nấp gặp sông
Hoàng, vào sông Ngọc Giáp, theo kênh Trầm, kênh Hào ra cửa Bạng, đi kênh Xớc
vào Nghệ An. Lại từ Lèn đến Hậu Lộc, sang Hoằng Hoá rồi đến Quảng Xơng, Tĩnh
Gia bằng kênh De, kênh Choán, sông Rào... Nhà Nguyễn đào mới sông Thọ Hạc để
cùng với các con sông có trớc : Hải Yến, Bố Vệ, Viện Giang (ở núi Nhồi) đều có thể
ra sông Mã, tạo vẻ đẹp và tăng cờng thế quân sự - kinh tế cho trấn thành. Ngoài ra,
triều đình còn tu bổ tuyến sông ven biển để thực sự có tác dụng phòng thủ.
Có thể nói, bốn hệ thống sông tự nhiên phân bố đều khắp từ tây xuôi đông ; từ bắc
đến nam, cùng với các sông đào trong 11 thể kỉ (X-XX) trải qua các vuơng triều Tiền
Lê, Lí, Trần, Hồ, Hậu Lê, Nguyễn cho đến ngày nay đã tạo nên huyết mạch Xứ
Thanh. Sẽ không hề ngoa ngôn khi khẳng định, có thể xuất phát ở bất kì bến sông
nào, cứ lênh đênh sóng nớc, ta sẽ qua đợc hầu hết các con sông, các miền đất quê h-
ơng này.

3. Xứ Thanh còn là xứ của rừng và biển rộng lớn, phong phú, đa dạng, giàu tài
nguyên.
Rừng tự nhiên là rừng rậm nguyên sinh, cả đất và núi đá phân bổ ở các đai
thấp (từ 300m đến dới 1600m). Nếu phân theo mục đích sử dụng gồm cả ba loại đặc
dụng, phòng hộ, sản xuất. Có các quần xã thực vật và quần thể động vật chủ yếu :
lim xanh, chò chỉ, chò nâu, táu mật, sến, lát-đinh, dẻ, re đá, mun đá, nghiến, pơ mu,
quế, luồng, nứa...bò tót, hổ, gấu, báo, hoẵng, cầy, hơu, nai, trăn, rắn, kì đà, tê tê... Và
nguồn dợc liệu trên 600 loài cây thuốc tự nhiên (thiên niên kiện, sa nhân, bách bộ,
ngũ gia bì, hoàng đàn...).
Biển Thanh Hoá nằm trong phạm vi vịnh Bắc Bộ. Nớc biển nóng ấm quanh năm,
nhiệt độ hai mùa đông - hạ từ 20
0
C đến 27
0
C, độ mặn trung bình 3,2%. Có dòng hải
lu hoạt động theo mùa. Mùa hè chảy theo hớng nam, đông nam, vận tốc nhỏ. Mùa
đông theo hớng đông bắc, vận tốc tơng đối lớn, thể hiện rất rõ. Đặc sản biển có
những loại ngon nhất nớc : mực, tôm, cua, cá thu, cá thèn, cá mòi. Nhng có lẽ thế
mạnh nhất của biển Thanh Hoá là bãi biển nông, bằng phẳng, lại nhiều sóng bạc đầu
rất hấp dẫn đối với du lịch.
Trên đây là đại lợc.Tóm lại, về địa lí, nếu cần miêu tả trong một câu thì không gì
bằng câu thơ của Bác Hồ :
Tỉnh Thanh biển bạc, rừng vàng
Ruộng đồng bát ngát, xóm làng liên miên
Còn nếu muốn chỉ ra điểm đặc biệt nhất, thì có thể khẳng định mà không sợ sai lầm,
rằng : nằm trong miền nhiệt đới gió mùa Đông Nam á, nhìn tơng quan toàn quốc,
thiên nhiên Thanh Hoá mang tính chất trung gian giữa miền Bắc và miền Trung. Đây
là nơi giao lu, chuyển tiếp, vùng đệm của đất nớc. Điều này ảnh hởng đến thổ âm
Thanh Hoá. Giọng nói Xứ Thanh có âm sắc, âm điệu riêng rất dễ phân biệt với ba
miền Bắc - Trung - Nam. Và cùng với sự phát triển lịch sử xã hội mấy ngàn năm,

8
tính cách con ngời Xứ Thanh cũng có những nét riêng . Khiến Thanh Hoá dờng nh là
một xứ rõ nét nhất trong các xứ địa văn hoá, địa nhân văn ở nớc ta.
III. Nhìn chung sự phát triển lịch sử xã hội
1. Trong thời tiền sử và sơ sử
Lịch sử tồn tại và phát triển của con ngời đợc hình thành chia xã hội loài ngời, dân
tộc, quốc gia làm ba thời :
Tiền sử (phát triển thành ngời), sơ sử (buổi đầu của xã hội loài ngời) và lịch sử
(khẳng định sự tồn tại, phát triển các quốc gia - dân tộc cho tới ngày nay).
Tiền sử, sơ sử, lịch sử Thanh Hoá và tiền sử, sơ sử, lịch sử Việt Nam có cùng một
thời gian, cùng mô hình lịch sử. Bởi vì, cho đến nay, khoa học vẫn xác định con ng-
ời Việt Nam khởi đầu ở Thanh Hoá cũng nh ở một số nơi khác trên mảnh đất hình
chữ S thân yêu của chúng ta đã nắm tay nhau đi cùng năm tháng.
Tác giả bộ Lịch sử Thanh Hoá, tập I đã ví lịch sử Thanh Hoá (Việt Nam) nh một
sợi giây dài 5 mét, trên đó mỗi thế kỉ tơng ứng với một mi - li - mét, thì thời các Vua
Hùng - An Dơng Vơng cách hiện tại chừng 2cm. Thế nên, nói riêng về thời kì 498
cm này, xin chỉ có thể hình dung nh sau :
- Dòng chảy sông Mã từ miền núi xuống đồng bằng cùng với các đợt biển tiến
và biển lùi hai triệu năm cho đến hơn một vạn năm trớc đã xuất hiện mảnh đất Thanh
Hoá ổn định và gần giống với địa hình ngày nay. Sự có mặt của ngời Thanh Hoá -
ngời Việt Nam tối cổ trong quá trình hình thành, ổn định này đã có cách nay chừng
30-40 vạn năm.
- Từ đó đến khi bớc vào thời đại đồ đồng, 3000 - 2000 năm trớc, với nền Văn
hoá Đông Sơn rực rỡ, Thanh Hoá liên tục tồn tại, phát triển để nằm trong bộ Cửu
Chân (Thanh Hoá chiếm 8/10) của nớc Việt cổ (nớc Văn Lang và Âu Lạc) gồm 15
bộ lạc lớn nhỏ. C dân cũng từ vùng trung du, vùng núi phía tây xuống vùng đồng
bằng, vùng biển phía đông.
- Tựu trung lại, bắt đầu từ mấy xã (Thiệu Tân, Thiệu Khánh, Định Thành,
Định Công, Vĩnh An) của Thiệu Hoá, Yên Định, Vĩnh Lộc mở mang lên Thạch
Thành, Cẩm Thuỷ, Bá Thớc, Ngọc Lạc, Thờng Xuân và tiến xuống phía đông (Hà

Trung, Hậu Lộc, Đông Sơn, Nga Sơn ) để có đợc quê hơng ta hôm nay.
- Góp mặt với biển lớn Văn Hoá Đông Sơn hình thành quốc gia - dân tộc,
Thanh Hoá vừa tiếp nhận vừa hoà đồng vừa giữ lại địa phơng tính.
Theo các nhà khảo cổ học, dấu vết Thanh Hoá thấy rõ trên đồ đá, đồ đồng (lỡi cày
hình cánh bớm, lỡi rìu xéo, mũi giáo có lỗ ở cánh, kiếm ngắn cán hình nữ tù trởng
(kiếm Na - gọi theo tên di chỉ phát hiện đợc), đồ trang sức và nhất là đồ gốm. Để đợc
gọi trong một tên chung là loại hình Sông Mã.
2. Thời Bắc thuộc
Sau thời các Vua Hùng và An Dơng Vơng của nớc Việt cổ (Văn Lang, Âu Lạc) là
1000 năm Bắc thuộc (cuối thế kỉ II - đầu thế kỉ I trớc công nguyên đến thế kỉ IX).
Các vơng triều Trung Hoa (Triệu Đà, Hán, Tấn, Tề, Lơng, Tuỳ, Đờng, Hậu Lơng) đã
9
lần lợt thay nhau đô hộ nớc ta, đặt các vùng đất của lãnh thổ Việt Nam thành quận
huyện của chúng.
Cho đến đầu công nguyên, ngời Việt cổ đã sinh sống trên khắp bốn vùng của Thanh
Hoá (núi, trung du, đồng bằng, ven biển) trong bộ Cửu Chân. Thời Bắc thuộc lần lợt
là các tên : Cửu Chân, ái Châu ( xuất hiện lần đầu năm 502), ái Châu Cửu Chân,
cuối cùng là ái Châu.
Trong đêm trờng này, ngời Thanh Hoá luôn đứng lên chống ách đô hộ, Xứ Thanh
luôn là căn cứ địa của công cuộc giành độc lập tự chủ. Năm 40, khi Hai Bà Trng phất
cờ khởi nghĩa, nhân dân Cửu Chân dới sự lãnh đạo của Đô Dơng - Chu Bá, của nữ t-
ớng Lê Thị Hoa đã vùng dậy hởng ứng. Trận chiến đầu tiên của quân dân Cửu Chân
với quân xâm lợc Tây Hán của Mã Viện là tại cửa Thần Phù (Nga Sơn) năm 43. Tiếp
theo là trận đánh của Chu Bá với Mã Viện năm 44.
Phong trào Hai Bà Trng bị đàn áp, Cửu Chân cũng nh nớc Việt bị thống trị hoàn
toàn. Có điều trong đêm trờng nh vậy, Xứ Thanh vẫn không phai nhạt ý chí, hành
động giành chủ quyền cho đất nớc, quê hơng.
+ Năm 156, khởi nghĩa do Chu Đạt lãnh đạo đã tiến đánh lị sở Cửu Chân
(đóng ở T Phố, Thiệu Dơng, Thiệu Khánh ngày nay) giết chết thái thú nhà Hán.
+ Năm 248, khởi nghĩa Bà Triệu. Nghĩa quân từ Ngàn Na (thuộc Triệu Sơn,

Nh Thanh) tiến về T Phố, xây dựng căn cứ Bồ Điền (Hậu Lộc) chống nhau với Lục
Dận tớng nhà Đông Ngô đang chiếm đóng Cửu Chân. Hơn 30 trận chiến lớn nhỏ đã
xảy ra trong vòng hai tháng cho tới khi Bà Triệu hi sinh tại căn cứ Bồ Điền.
Bà Triệu là ngời Thanh Hoá tiêu biểu nhất thời kì này và là một trong những ngời
Việt Nam tiêu biểu nhất của mọi thời đại. Chẳng thể mà bên cạnh những câu châm
ngôn - thành ngữ : Chúng ta là nòi giống Tiên - Rồng, Con Lạc, cháu Hồng,
Con cháu Bác Hồ, còn thờng nói Con cháu Bà Trng, Bà Triệu.
Bà Triệu sống trong đời sống thờng nhật. Từ những câu đồng dao (bài hát trẻ con)
trong trò chơi con trẻ :
Có Bà Triệu tớng
Vâng lệnh trời ra
Trị voi một ngà
Dựng cờ mở nớc
Lệnh truyền sau trớc
Theo gót Bà Vơng
Đến lời ru ngời bà, ngời mẹ :
Ru con con ngủ cho lành
Để mẹ gánh nớc rửa bành con voi
Muốn coi lên núi mà coi
Coi Bà Triệu Tớng cỡi vo iđánh công
Túi gấm cho lẫn túi hồng
Têm trầu mũi mác cho chồng ra quân
10
Bà Triệu cùng anh là Triệu Quốc Đạt lãnh đạo khởi nghĩa. Tơng truyền ông chỉ huy
quân bằng lệnh, còn bà chỉ huy quân bằng cồng. Quân lệnh của bà có uy lực hơn,
nên dân gian mới có câu Lệnh ông không bằng cồng bà mà ngày nay chúng ta vẫn
dùng. Bà đợc tôn xng là Bà Chúa Thợng Ngàn để quanh năm thờ phụng.
Hình tợng Bà Triệu đã tạc vào lịch sử, vào tâm khảm, tâm linh ngời dân nớc Việt
hàng nghìn năm nay.
+ Năm 299, Triệu Chỉ nổi lên vây bức các quận thành, đánh đuổi thái thú nhà

Tấn.
+ Năm 412, quân dân Cửu Chân đánh phá T Phố, giết chết Thái Thú.
+ Năm 546, sau thất bại của Lí Nam Đế, nhà nớc Vạn Xuân tan rã, Lí Thiên
Bảo, anh ruột Nam Đế đã lấy Dã Năng (Bàn Đào - Bá Thớc) làm căn cứ, xng là Đào
Lang Vơng để tiếp tục chiến đấu chống quân Lơng. Nhng sự nghiệp không thành. Từ
đây trở đi, trong gần 400 năm, Cửu Chân - ái Châu - Thanh Hoá nội thuộc các vơng
triều phơng Bắc : Lơng, Tuỳ, Đờng, Hậu Lơng.
ở thời Bắc thuộc, điều quan trọng không kém sự nghiệp vũ trang giành độc lập mà
cha ông đã làm, làm đợc, còn làm xuất sắc hơn, là bên cạnh tiếp thu văn minh đô hộ
vẫn giữ vững bản sắc văn hoá dân tộc . Xứ Thanh góp phần không nhỏ vào công
cuộc này. Ngời Việt - Thanh Hoá vẫn sống trong nhà sàn với đồ đồng, đồ gốm Đông
Sơn, các nhạc cụ cồng, chiêng, khèn... tục thờ cúng tổ tiên ; lối chôn cất trong mộ
vò, huyệt đất...quen thuộc. Các ngành nghề thuở Văn Lang - Âu Lạc : làm ruộng n-
ơng, chăn nuôi, đánh cá, làm muối, đúc đồng, đục đá, dệt vải , nghề gốm... cùng
những trung tâm tụ c (T Phố, Đông Sơn, Định Công, Xuân Lập, Hoằng Quỳ, Hoằng
Lí, Thần Phù, Lạch Trờng..) vẫn đợc duy trì. Mạnh mẽ hơn, có ngời Thanh Hoá còn
lặn lội sang tận kinh đô đế quốc phơng Bắc vào năm 784 để tỏ rõ ý chí, khẳng định
tài năng của mình bằng khoa cử, hoạn lộ. Đó là anh em Khơng Công Phụ, Khơng
Công Phục ngời làng Cổ Hiểm, phờng Sơn Ôi, nay là làng Tờng Vân xã Định Thành
- Yên Định. Hai ông đều đỗ tiến sĩ. Ông anh làm đến Gián nghị đại phu, ông em làm
Bắc bộ thị lang đời nhà Đờng.
3. Một nghìn năm phong kiến độc lập tự chủ
Xứ Thanh có các tên gọi sau : Châu ái (từ chính quyền họ Dơng - 931 đến Lí Nhân
Tông - 1110). Năm 1111, Lí Nhân Tông đổi Châu ái thành Phủ Thanh Hoá. Tên
Thanh Hoá có từ đây. Năm 1256, Trần Thái Tông đổi thành Trại Thanh Hoá, đến
cuối Trần đổi thành Lộ rồi Trấn. Tháng 4 - 1397 đổi thành Trấn Thanh Đô. Tháng
11 năm ấy, Trần Thuận Tông dời đô về Thanh Hoá. Năm 1400, Hồ Quý Li lên ngôi,
lập nên nhà Hồ định đô ở Tây Đô (Vĩnh Ninh - Vĩnh Lộc). Năm 1403, nhà Hồ đổi
thành Phủ Thiên Xơng. Sau chiến thắng quân Minh, lập nên nhà Lê, Lê Lợi - Lê
Thái Tổ chia cả nớc làm 5 đạo. Thanh Hoá thuộc Hải Tây đạo (1428). Đến 1466 gọi

là đạo thừa tuyên Thanh Hoá. Các đơn vị hành chính trực thuộc là huyện và châu.
Đến năm 1469, Lê Thánh Tông mới đặt thêm cấp phủ, trong phủ có huyện đối với
miền xuôi và châu đối với miền núi.. Miền núi thờng chỉ chia ra 3 đến 4 châu. Tỉnh
ta bấy giờ gồm 4 phủ (16 huyện, 4 châu). Năm 1802, sau khi diệt vơng triều Tây
11
Sơn, Nguyễn ánh (Nguyễn Thế Tổ) đổi Thanh Hoá thành Thanh Hoa, là 1 trong 14
trấn của Bắc Thành. Năm 1831 đổi thành tỉnh. Năm 1841, Thiệu Trị lên ngôi, đổi
tỉnh Thanh Hoa thành tỉnh Thanh Hoá. Đơn vị hành chính này cùng tên Thanh
Hoá, nói chung giữ nguyên cho đến hôm nay. Tên các châu, huyện và địa giới thờng
thay đổi, nhng đến đây cũng đã ổn định, trừ một số chia lại, đặt mới : Triệu Sơn, Bỉm
Sơn, Mờng Lát, Quan Sơn, Sầm Sơn, TP Thanh Hoá.
Về tỉnh lị, thời các Vua Hùng chắc chắn cha hình thành. Chỉ biết trung tâm của
bộ Cửu Chân là vùng Thiệu Dơng (Thiệu Hoá), Đông Khối - Đông Sơn - Hàm Rồng
(TP Thanh Hoá), Quỳ Chữ - ích Hạ (Hoằng Quỳ, Hoằng Hoá). Quận Cửu Chân đầu
Bắc thuộc, lị sở đặt ở T Phố (làng Giàng - Ràng, Thiệu Dơng, Thiệu Hoá). Từ năm
420 chuyển sang Đông Phố, bị đọc chệch thành Đồng Pho (Đông Hoà) mà ngày
nay vẫn gọi. Đông Phố khi ấy là một vùng rộng lớn thuộc các xã Đông Hoà, Đông
Xuân, Đông Ninh - Đông Sơn. Lị sở đóng ở đây hơn 600 năm. Đến thời nhà Lí, sau
khi Lí Thái Tổ rời đô từ Hoa L (Ninh Bình) ra Thăng Long thì chuyển về Duy Tinh
(Văn Lộc, Mĩ Lộc, Thuần Lộc - Hậu Lộc), một trung tâm sản xuất, thơng mại lớn
bấy giờ. Năm 1397, Hồ Quý Li xây thành An Tôn (Vĩnh Lộc), đợc nhà Hồ lấy làm
kinh đô (Tây Đô). Đây cũng chính là trung tâm hành chính của tỉnh. Lê Thái Tổ lên
ngôi, trấn thành xây ở Dơng Xá (T Phố cũ) - Doanh Xá (nay là Thiệu Khánh, Thiệu
Hoá). Năm 1527, Mạc Đăng Dung cớp ngôi, lập vơng triều Mạc, Nguyễn Kim (quê
Hà Long - Hà Trung), dòng dõi công thần Lê triều bắt đầu công cuộc trung hng. Lập
lại ngôi vua (Lê Trang Tông), chiếm miền tây Thanh Hoá làm căn cứ. Nguyễn Kim
bị hàng tờng Mạc sát hại, con rể là Trịnh Kiểm (quê Vĩnh Lộc) kế tục. Năm 1546,
Trịnh Kiểm cho xây dựng kinh đô trung hng ở Vạn Lại (xã Xuân Châu), tiếp đến,
năm 1553 ở Yên Trờng (xã Thọ Lập). Cả hai chỉ cách Lam Kinh 7 đến 10 km về
phía đông, thuộc địa phận Thọ Xuân. Do đó, Thanh Hoá thời này có 3 trung tâm

hành chính là Tây Đô của nhà Mạc, Vạn Lại (7 năm) và Yên Trờng - Nghi Kinh
(50 năm) của nhà Lê Trung Hng. Năm 1593, Lê Thế Tông, vị vua thứ 4 thời Trung
Hng trở lại Thăng Long. Sự nghiệp khôi phục vơng triều hoàn thành nhng đồng thời
nền hành chính phong kiến nớc ta cũng bớc vào chế độ Vua Lê, Chúa Trịnh và cuộc
chiến tranh Trịnh - Nguyễn. Kể từ đây (trừ một thời gian ngắn dời về An Lãng, Phú
Yên - Thọ Xuân) cho đến hết vơng triều Tây Sơn, đô thành Thanh Hoá lại trở về
đóng ở Dơng Xá - Doanh Xá. Vùng đất này, ngay từ thời Bắc thuộc đã nổi tiếng là
thắng địa. Nằm trên bờ ngã ba cuối cùng của sông Mã, sông Chu trớc khi đổ ra biển
(Ngã ba Đầu), có núi Bàn A với mời cảnh đẹp, Trấn lị gồm 2 khu nội và ngoại thành.
Trung tâm là thành đất, dài 1000m, rộng 800m, dày 10m, cao 2m, phía ngoài, hào.
nớc bao bọc. Có 4 cửa Tiền, Hậu, Tả, Hữu.
Tây Sơn mất vào tay nhà Nguyễn. Nguyễn Thế Tổ - Gia Long - Nguyễn ánh, năm
1802, trên đờng tiến quân ra Bắc đánh Thanh Hoá, bắt đợc đốc trấn Tây Sơn -
Nguyễn Quang Bàn (con thứ ba vua Quang Trung) đã dừng chân ở Dơng Xá. Dẹp
yên Bắc Hà trở về, nhận thấy địa thế lị sở Thanh Hoá không đẹp, tháng 4 năm 1803,
vua đã cho rời về làng Thọ Hạc, huyện Đông Sơn, có diện tích thuộc phần đất các
12
phờng Đông Thọ, Điện Biên, Trờng Thi, Tân Sơn, Phú Sơn, Lam Sơn, Ngọc Trạo của
TP Thanh Hoá ngày nay. Trấn thành mới bằng đất, chu vi gần 2,6 km, cao 4 mét, có
4 cửa : cửa Tiền (ngoảnh hớng nam vì phải chầu về kinh đô Phú Xuân), cửa Hậu
(phía bắc), cửa Tả (phía đông), cửa Hữu (phía đông). Ngoài thành có hào bao quanh
rộng khoảng 36 mét, sâu gần 2 mét. Gọi là Hạc Thành. Năm 1828 đổi xây bằng
gạch và đá.
Thanh Hoá là Quý hơng của nhiều vơng triều ; luôn đợc coi là đất xung yếu, nên
triều đại nào cũng cử những bậc anh hùng - danh tớng tin cậy về nắm giữ quyền
bính. Thời Lí là Lí Thờng Kiệt và Tô Hiến Thành. Thời Trần là Trần Thủ Độ, Trần
Nhật Duật. Thời Lê là các bậc công thần. Thời Nguyễn phải thuộc hoàng tộc, cho tới
từ Đồng Khánh trở đi mới xem nhẹ lệ này.
Trải mời thế kỉ, qua 9 vơng triều quốc gia phong kiến độc lập tự chủ : Ngô, Đinh,
Tiền Lê, Lí, Trần, Hồ, Hậu Lê, Tây Sơn, Nguyễn, Xứ Thanh, là mảnh đất của

thăng trầm lịch sử, nên cũng là mảnh đất chịu nhiều cảnh bể dâu. Nhng nhìn chung
đây là hậu phơng, là căn cứ, là mặt trận trong các cuộc kháng chiến chống ngoại
xâm, là cứ địa, nền tảng cho các triều đại khởi phát..
Thanh Hoá là hậu phơng lớn của các công cuộc chống ngoại xâm. Thời Ngô, Tiền
Lê, Lí chống xâm lợc Nam Hán hay Tống đều có quân Châu ái vác nỏ đi đầu. Lê
Hoàn, và các vua đầu triều Lí mỗi khi xuất trận đánh phía Nam đều từ Đan Nê Th-
ợng (Yên Thọ, Yên Định), sau khi làm lề tế ở đền Đồng Cổ. Nhà Trần chống quân
Nguyên cũng lui về Thanh Hoá. Bởi lẽ Hoan, ái do tồn thập vạn binh ( Châu
Hoan, Châu ái ta còn mời vạn quân), rồi từ đây tiến quân ra giải phóng Thăng Long.
Để ngăn chặn quân Chiêm, đánh quân Nguyên, quân Minh, quân Pháp, đất này đã
từng nhiều lần thành chiến địa. Lê Lợi khởi nghĩa chống xâm lợc Minh, đây là mảnh
đất Phất cờ. Quang Trung - Nguyễn Huệ đại phá quân Thanh, lấy Thanh Hoá làm
nơi dỡng binh, tăng lực. Là quê hơng, nên khi làm chính biến lật đổ nhà Trần, Hồ
Quý Li nghĩ ngay đến Thanh Hoá, để lập vơng triều, xây dựng phòng tuyến, cứ địa
chống xâm lợc. Khi Mạc Đăng Dung cớp ngôi, công thần nhà Lê cũng về ngay đất
phát tích lập căn cứ trung hng. Đất và Ngời Thanh Hoá trong 50 năm (1533 - 1593)
lại nuôi dỡng, dốc sức giúp 4 đời vua Lê (Trang Tông, Trung Tông, Anh Tông, Thế
Tông) giành lại vơng quyền. Các đời sau đó, mỗi khi ngai vàng bị uy hiếp, vua tôi lại
kéo nhau về để đợc sự chở che. Năm 1600, Bình An Vơng Trịnh Tùng đa Lê Kính
Tông, chạy thế lực Nguyễn Hoàng. Năm 1619, đến lợt Thanh Đô Vơng Trịnh Tráng
hộ giá Lê Thần Tông đi lánh nạn Trịnh Xuân. Mỗi lần vài tháng. Khi Pháp đánh
chiếm kinh thành Huế (1885), vua Hàm Nghi đợc Tôn Thất Thuyết đa ra sơn phòng
Quảng Trị, hạ chiếu kêu gọi khôi phục đế vị, cũng đã nói rõ ý sẽ lấy Thanh Hoá làm
kinh đô sau này. Và, vào cuối thế kỉ XIX, dẫu chế độ phong kiến đã hết vai trò lịch
sử, nhng vì nghĩa cứu nớc, Xứ Thanh lại một lần nữa trở thành cái nôi Cần Vơng.
Thanh Hóa là một trong những địa phơng phát triển của quốc gia Đại Việt.
Thực thi sự nghiệp kiến quốc ở Xứ Thanh, điểm nổi bật là, tất cả các vơng triều
đều tập trung vào đào sông, đắp đê phục vụ chiến đấu và sản xuất nông nghiệp. Lê
13
Hoàn cho đào các con sông nối liền sông Mã, sông Chu và các con sông thiên tạo

khác. Đây là công trình hết sức vĩ đại thời bấy giờ. Khiến cho cả một vùng từ Bắc
(Ninh Bình trở ra) đến Nam (Nghệ An) qua Thanh Hoá đều thông suốt. Công trình
này do Đào Lang (quê Yên Trung, Yên Định) chỉ huy, hoàn thành trong vòng một
năm. Các đời vua triều sau, cho đến nhà Nguyễn vẫn tiếp tục công cuộc này.
Kinh tế bắt đầu phát triển. Sản xuất nông nghiệp chủ yếu ở ba vùng : trung du,
đồng bằng và duyên hải trong các thái ấp đợc ban cấp, các làng xã do khai hoang lập
ấp, các đồn điền, công điền, t điền. Đã có nhiều loại lúa, cây lơng thực phụ : ngô,
khoai, sắn, đậu, lạc. Nghề thủ công nổi bật nhất là dệt vải, đúc đồng, đục đá. Xuầt
hiện các làng nghề Cổ Đô, Trà Đông (Thiệu Hoá), kẻ Đừng, Hoằng Bột (Hoằng
Hoá), Chè, Rị, An Hoạch (Đông Sơn), Tất Tác (Hậu Lộc), Đạt Tài (Hoằng Hoá)...
Các trung tâm thơng mại mà thành T Phố (Giàng) và thành Tinh Hoa (Duy Tinh) là
đô thị lớn từ thời Lí. Câu ca xa còn truyền :
Làng Giàng trên chợ dới sông
Vui ngời, vui cảnh đến không muốn về
Hay nh An Nam tức sự của Trần Cơng Trung mô tả ; Phủ Tinh Hoa cách thành
Giao Châu 200 dặm, các phiên thuyền hải ngoại tụ tập ở đấy, họp chợ ngay trên
thuyền rất đông. Thật là một thị trấn lớn. Bên cạnh đó một loạt các chợ xuất hiện,
tiếng tăm vẫn lu đến ngày nay. Chợ Giáng ( Vĩnh Lộc), chợ Kiểu, chợ Bản (Yên
Định), chợ Thịnh Mĩ, chợ Đầm (Thọ Xuân), chợ Sen (Nông Cống), chợ Môi (Quảng
Xơng), chợ Quăng (Hoằng Hoá)... Thần Phù, Lạch Trờng (Hoằng Hoá) trở thành
một cảng biển lớn từ thời Trần. Về sau là các cảng sông Ngọc Giáp ở Quảng Xơng ;
Lẫm cảng và Chiếu Bạch ở Hà Trung ; Vi cảng ở Hoằng Hoá ; Hải Yến ở Đông Sơn ;
Đông Hoà, Trầm Mông ở Tĩnh Gia...
Tóm lại, tuy phải trải qua nhiều cuộc tang thơng do chiến tranh xâm lợc, nội chiến,
mất mùa, lụt lội, dịch bệnh, nhng vốn có lịch sử ổn định lâu dài, đợc hầu hết các v-
ơng triều quan tâm u đãi, nên nhìn chung Thanh Hoá là vùng kinh tế phát triển. Có
thể lấy bài thơ của Lê Thánh Tông khi về quê mẹ ở Định Hoà, Yên Định và một câu
trong bài phú của nhà bác học trung đại Lê Quý Đôn làm về làng Phú Khê (Hoằng
Phú, Hoằng Hoá ) để mô tả cảnh tợng Xứ Thanh trong một nghìn năm phong kiến
độc lập tự chủ này.

- Ruộng đồng vạn khoảnh lúa xanh tơi
Dĩ thực vi thiên ấy ý nguời
Dừng ở đầu thôn, dăm kẻ đến
Rằng mùa sẽ vợt mọi năm thôi
- Thơ ngâm thất nguyệt, chốn chốn đều chứa để tằm tang
Lễ cử tam bôi, nhà nhà đã chất đầy tơ lụa
Mặt khác, trong trờng kì đấu tranh bảo tồn, hoà nhập, thu rút tinh hoa, Thanh Hoá
đã tạo cho mình một nền tảng sức mạnh tinh thần, sức mạnh văn hoá lớn lao và
một kho tàng t tởng - tâm linh đa dạng. Xin nêu một số biểu hiện cơ bản.
14
Thứ nhất, Địa Linh tiếp tục sản sinh ra Nhân Kiệt. Lịch sử đã biết đến Bà Triệu
hơn nghìn năm trớc : Tôi muốn cỡi cơn gió mạnh , đạp bằng sóng giữ, chém các
kình ngoài biển Đông, chứ không chịu khom lng làm tì thiếp cho ngời. Ngời nữ
anh hùng đã khiến kẻ thù phải than thở Hoành qua đơng hổ dị ; Đối diện Bà Vơng
nan (Múa gơm đánh hổ dễ ; Đối mặt với Vua Bà khó). Nay lại biết đến Dơng Thị
Ngọc Vân (lâu nay vẫn gọi là Dơng Vân Nga) với hai ngời anh hùng Đinh Bộ Lĩnh,
Lê Hoàn. Bà là con gái Dơng Tam Kha, cháu nội Dơng Đình Nghệ, hoàng hậu của
Đinh Tiên Hoàng (Đinh Bộ Lĩnh), Thái hậu nhà Đinh. Trong thế nớc nghìn cân treo
sợi tóc bởi họa ngoại xâm và nội chiến đã lấy việc nớc làm trọng, đem hoàng bào
của con nhỏ, khoác cho Thập đạo tớng quân Lê Hoàn, mời lên ngôi hoàng đế để
hoàn thành sự nghiệp thắng Tống, bình Chiêm, ổn định triều chính, giữ vững an
ninh quốc gia.
Biết đến Bình Định Vơng Lê Lợi Núi Lam Sơn dấy nghĩa, chốn hoang dã nơng
mình. Ngẫm thù lớn há đội trời chung, căm giặc nớc thề không cùng sống. Đau
lòng nhức óc, chốc đà mời mấy năm trời ; nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm
tối. Quên ăn vì giận, sách lợc thao suy xét đã tinh ; ngẫm trớc đến nay, lẽ hng phế
đắn đo càng kĩ. Những trằn trọc trong cơn mộng mị, chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi
.
Biết đến Lê Lai, ngời làng Tép, xã Kiên Thọ, Ngọc Lặc, giữa trùng vây quân giặc đã
đổi áo, tình nguyện chết thay chủ soái Lê Lợi. Cùng nhiều tấm gơng khác nữa.

Thứ hai, Thanh Hoá đã khẳng định mình là một vùng đất học. Hiếu học trở thành
truyền thống gia đình, khuyến học trở thành phong tục làng xã. Nhiều làng có văn
chỉ, ghi trong hơng ớc những quy định về sự học. Có làng lập ra Làng Văn, nơi sinh
hoạt của các gia đình học tập, có công trong sự thành đạt của con em. Lại lập hẳn
Bảng môn đình nêu danh những ngời học hành, đỗ đạt nh ở Hoằng Lộc, Hoằng Hóa.
Nhà học hầu nh làng nào cũng mở. Đã có những trờng nổi tiếng, những bậc danh s.
Trờng Mai Trai của Lê Văn Linh đầu thế kỉ XV. Trờng Bảng nhãn Lơng Đắc Bằng
ở Hội Triều, Hoằng Hóa hồi đầu thế kỉ XVI, đã đào tạo Trạng Trình Nguyễn Bỉnh
Khiêm. Con, cháu nội cụ Bảng Hội Triều cũng đậu tiến sĩ. Trờng Châu Bối (Định T-
ờng, Yên Định) của ông nghè Trần Ân Triêm. Trong vòng từ 1724 đến 1732 ba học
trò đỗ bảng nhãn, thám hoa, tiến sĩ. Giữa thế kỉ XIX có Nghi Am học hiệu của Nhữ
Bá Sĩ (Hoằng Hoá). Lại có những gia đình đỗ đạt tiêu biểu. Lê Hữu Du, ngời Hậu
Lộc, làm An phủ sứ Lạng Sơn thời cuối Trần. Ba ngời con đầu tuẫn tiết theo cha, vì
không muốn rơi vào tay giặc. Hai ngời sau làm quan thời Lê Thái Tổ. Cháu nội là Lê
Cảnh Tuân, tác giả Vạn Ngôn th, kể tội giặc Minh. Con cháu sau này có Trạng
nguyên Lê Nại, Tiến sĩ đệ nhị giáp Lê Đỉnh, Hoàng giáp Lê Quang Bí. Gia đình
Nguyễn S Lộ, cha, con trai, con rể đều đỗ đại khoa (tiến sĩ trở lên). Làng Cổ Đôi
(Nông Cống) có Lê Nghĩa Trạch đỗ tiến sĩ, cháu nội, chắt nội cũng đỗ tiến sĩ. Gia
tộc Lơng Trí ở Tĩnh Gia cũng nh thế.
Theo thống kê của một số nhà nghiên cứu, thời phong kiến, chỉ riêng đại khoa (từ
tiến sĩ trở lên), tỉnh ta có 205 vị. Cử nhân, tú tài hàng ngàn ngời. Nhiều tấm gơng ng-
15
ời học rất đáng nêu cao. Năm 1442, Trịnh Thiết Trờng (Yên Định) thi đỗ đồng tiến
sĩ. Trong Lễ Xớng danh đã xin trả lại mũ áo vì cho rằng cái học của mình còn nông
cạn. Học trò ông, Nguyễn Nguyên Chẩn noi theo thầy cũng xin về học thêm. Sáu
năm sau, Trịnh Thiết trờng đỗ bảng nhãn, Nguyên Chẩn đỗ tiến sĩ thứ ba.
Giáo dục ở Xứ Thanh thời này có thể nói là một nền giáo dục thành công vì vừa ghi
danh tri thức, lu tên phò vua, trị quốc, yên dân, vừa giữ tròn đạo đức, tiết nghĩa. Đợc
vậy, bởi nền giáo dục ấy đã xuất phát từ một quan niệm đúng đắn Khơi cái nguồn
văn minh, đạo lí cho ngời đời để mong cánh cửa tà vạy, cong queo vĩnh viễn đóng

lại, con đờng công bằng, trong sạch đi lại thung dung. Con đờng phò đời giúp nớc
thật sự thái bình.
Thứ ba, Thanh Hoá là đất hội tụ, chung sống của văn hoá ngoại nhập : Nho giáo,
Phật giáo, Đạo giáo, Thiên chúa giáo với các tin ngỡng có nguồn gốc bản địa. Tạo
nên sắc màu tinh thần phong phú.
Nho giáo thiên về phần thân, là học thuyết quy định ứng xử, trở thành học thuyết
chính trị - xã hội của giai cấp thống trị, do phong kiến phơng Bắc đa vào, phong kiến
Việt Nam vận dụng, đợc gieo trồng trên đất đế vơng này nên đã nảy nở thành thứ
cây, kết thành thứ quả nhiều khi bảo hoàng hơn cả vua. Phật giáo thiên về phần tâm,
gồm hai phái Đại thừa và Tiểu thừa đều đợc ngời Thanh Hóa thỉnh kinh, hành đạo
nên cũng có chút khẩu vị riêng. Đạo Phật thịnh hành từ thế kỉ thứ VI, song mãi đến
thế kỉ X - XI mới phát triển và rực rỡ. Về sau không đợc nh trớc. Lão giáo và đạo
nhánh, đạo thừa (lợi dụng) của nó là Đạo Tu tiên, Đạo giáo, nói chung thiên về phần
tởng, tớng. Trong 3 thứ này, chỉ có đạo Tu Tiên in dấu vết đậm nhất. Đạo Thiên
chúa gắn với phơng Tây, thiên về phần hồn, cấy cơ thể sống đầu tiên vào miền Bắc
nớc ta (hay xứ Đàng Ngoài, gọi theo tên thời Trịnh - Nguyễn phân tranh) chính ở
Thanh Hoá. Đấy là vùng cửa Bạng, nay còn nhà thờ Ba Làng, xã Hải Thanh - Tĩnh
Gia. Cố đạo A-lếch-xăng-đờ rốt, năm 1627, theo thuyền Bồ-đào-nha đặt chân đến
đây đã đặt tên cho cửa Bạng là cửa Thánh Giu-se, dựng cây Thánh giá bằng gỗ trên
đỉnh Bạng Sơn, gọi xóm lần đầu giảng kinh Phúc Âm là Giu-se. Nhng Thiên chúa -
Ki-tô - Cơ đốc giáo và tín ngỡng gốc có sự kì thị, lại thêm gắn chặt với xâm lợc Tây
dơng, do vậy phải đi theo chính quyền đô hộ Pháp mới tạo dựng đợc một ít cơ sở ở
ven biển, TP Thanh Hoá và Nga Sơn. Sống biệt lập, đạo này không có sức lan toả
chung nh các tôn giáo, tín ngỡng khác.
Xứ Thanh có một điểm đặc biết về văn hoá t tởng tâm linh là sự xuất hiện của hai
đạo địa phơng. Quen gọi là Đạo Mẫu và Đạo Đông. Đạo Mẫu thờ Liễu Hạnh công
chúa hay còn gọi là Vân Cát thần nữ, là Thánh Mẫu. Tơng truyền là ngời con gái ngỗ
ngợc nhng có thiện căn, đợc Phật Tổ thu phục. Đạo Mẫu ảnh hởng khắp vùng Thanh
Hóa nội, ngoại (Ninh Bình), Nam Định, nhất là hồi đầu thế kỉ XX. Đền thờ nổi tiếng
là đền Sòng - Phố Cát (TX Bỉm Sơn, Thạch Thành). Vẫn có câu Đền Sòng thiêng

nhất Xứ Thanh. Đạo Đông, là tên gọi tắt Đạo của làng An Đông (nay thuộc Quảng
Hải, Quảng Xơng), tự tuyên xng Việt Nam nội đạo ( hay Thanh Hóa nội đạo ?).
Gốc tích là Nội đạo tràng đã đợc Phạm Đình Hổ (1768 - 1839) kể trong Tang thơng
16
ngẫu lục (Ghi chép chuyện của thời nhiều biến động). Đại thể, Trần Lộc, ngời làng
An Đông, thời tà yêu loạn thế, sau trung hng nhà Lê, đợc Thợng đế ban phép để giúp
đời. Ông đợc tôn là Phật Tổ Nh Lai...Đạo đợc Lê Thần Tông ban cho hai chữ Nội
đạo. Trung tâm hành đạo ở chùa làng Mậu Xơng, xã Quảng Lu. Hai đạo này đều là
loại đạo tổ hợp giữa Phật, Lão, Đạo, Nho cùng tín ngỡng dân gian. Nhng chính yếu
thể hiện lòng mong mỏi có phép thuật tối cao để sống yên lành, hạnh phúc.
Tất cả những đạo nói trên, vẫn còn ghi trong th tịch, thần phả, hoặc hiện hữu
dấu vết trên đất Thanh Hoá.
Sử còn nhắc đến Lê Lơng, hào phú đất Cửu Chân ở giáp Bối Lí (Thiệu Trung)
nhà thờng chứa hơn trăm lẫm thóc, môn khách thờng có tới ba nghìn, rất có công
với nớc dới thời Đinh Tiên Hoàng Đế, dốc lòng vì việc thiện, tôn sùng Phật giáo, đã
xuất của nhà ra xây ba ngôi chùa lớn. Hơng Nghiêm ở kẻ Rị, Trinh Nghiêm ở kẻ Go,
Minh Nghiêm ở kẻ Bôn thuộc Thiệu Trung, Thiệu Châu - Thiệu Hoá, Đông Thanh -
Đông Sơn ngày nay. Nhắc đến Lí Thờng Kiệt, ngời anh hùng nổi tiếng, Tổng trấn
Thanh Hóa hơn 20 năm (1081 - 1101). Ông cho xây các chùa Báo Ân (núi Nhồi,
Đông Sơn), chùa Linh Xứng (Ngỡng Sơn hay còn gọi là Ngọ Xá) ở Hà Trung. Chu
Văn Thờng trùng tu chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh ở gần trấn lị Duy Tinh (Hậu
Lộc). Nhắc đến các ngôi chùa Thanh Tớc, Phúc Diên T Thành, các bậc đại s nổi
tiếng Ngô Chân Lu - Khuông Việt Đại s (Đại s khuông phò nớc Việt), Thiền s Pháp
Dung, Trí Bảo, Thích Pháp Bảo từ thời Đinh, Tiên Lê, Lí.
Toàn quốc hiện có khoảng 2000 nơi hành đạo theo các tôn giáo, tín ngỡng khác
nhau. Trong đó chùa chiếm khoảng 602 ngôi ; đình, đền, nghè, miếu khoảng 800
ngôi và khoảng 400 cơ sở thờ phụng khác. Riêng tỉnh ta còn độ trên dới 100 chùa,
đền, đình, miếu, nghè và nhà thờ. Gần nh chia đều cho các tôn giáo, tín ngỡng.
Nh vậy, phải chăng trong tiếp thu, du nhập t tởng, văn hóa tâm linh, qua bao cơn
biến thiên lịch sử, tinh thần Thanh Hóa vẫn giữ đợc cân bằng. Không xáo động quá,

cũng không thiên lệch quá. Cốt sự hoà nhã, thanh đạm.
Tóm lại, từ lịch sử - xã hội có thể nói Thanh Hoá là Đất Gốc, Đất Thiêng, Đất Cân
bằng thế sự - Điểm tựa Quốc gia.
IV. Một số nét nổi bật
1. Thanh Hoá là một trong những quê hơng của trống đồng
Trống Đồng là biểu tuợng của Văn hoá Đông Sơn, Văn minh Văn Lang - Âu Lạc,
quốc gia Việt cổ. Không phải vì tên là Trống đồng Đông Sơn, một địa danh địa ph-
ơng (làng Đông Sơn, nay thuộc phờng Hàm Rồng - TP Thanh Hóa), nơi đầu tiên phát
hiện (năm 1924) mà kết luận nh trên. Chủ yếu, bởi Thanh Hóa có bộ su tập trống
đồng nhiều nhất nớc với đủ loại, từ loại I đến minh khí, đờng kính mặt 5 - 6cm, dùng
làm đồ chôn theo ngời chết (có vai vế), chỉ thấy ở các khu mộ táng thời Đông Sơn,
cách nay 2000 - 3000 năm. Lại tập trung cao nhất tỉ lệ loại trống xa nhất, xuất hiện
cùng thời với văn hóa Đông Sơn. Loại trống này trên toàn quốc hiện thu đợc 178
chiếc, tính đến năm 1990, ở tỉnh ta là 56 chiếc, chiếm 1/3 tổng số. Gắn chặt với Di
tích Đông Sơn (hơn 100), cũng chiếm tỉ lệ khá cao. Thanh Hóa còn là địa phơng duy
17
nhất thờ Thần Trống Đồng. Đền thờ ấy có tên là Đồng Cổ Sơn Thần ở núi Tam
Thai, bên bờ sông Mã, nay thuộc địa phận làng Đan Nê Thợng, xã Yên Thọ, huyện
Yên Định đợc lập từ thời Lí Thái Tông. Tơng truyền, khi ở ngôi Thái tử, lúc Thái Tổ
vừa băng, vua nằm mộng thấy một ngời xng là Đồng Cổ Sơn nhân trên núi Tam
Thai, thuộc về ái Châu mách bảo loạn tam vơng. Dẹp xong loạn, cho xây đền thờ.
Rồi ngay trong năm đầu kế vị (1028), đã rớc vong Thần về thờ ở Thăng Long (đền
Vọng ở gần chùa Thánh Thọ, thuộc phờng Bởi bây giờ), sắc phong làm Thiên Hạ
Minh Chủ tôn thần. Hàng năm, vua cùng bá quan văn võ đến tế lễ. Lệ này đến hết
đời Lê. Phải chăng, vì là bản quán nên Trống Đồng mới tụ hội linh khí mà thành ?
Tiếp sau đó, triều Lê, năm nào cũng mở Hội Trống Đồng ở Lam Kinh.
2. Ngời Thanh Hoá đã đặt nền móng vững chắc cho một nghìn năm đất nớc độc
lập tự chủ
+ Năm 931, Dơng Đình Nghệ, quê Làng Ràng - Giàng (Thiệu Dơng - Thiệu
Hoá) nổi lên nh một thế lực lớn với tinh thần tự chủ cao đã cử binh từ Thanh Hoá

đánh đuổi quân xâm lợc Nam Hán, chiếm Đại La Thành (Hà Nội), đầu não của bộ
máy đô hộ phơng Bắc, tiêu diệt viện binh của Trình Bảo, lập lại chế độ tự chủ mà họ
Khúc để mất. Vì vậy, có thể nói, chỉ sau trận quyết chiến, chặn đánh đợc quân xâm
lợc này, nớc ta mới đủ thế và lực giữ vững nền độc lập lâu dài. Điều này đã đợc minh
chứng liền kề bởi Ngô Vơng Quyền.
+ Sau khi Dơng Đình Nghệ bị bộ tớng là Kiều Công Tiễn phản bội giết hại,
Ngô Quyền con rể họ Dơng, thống lĩnh quân đội ra Bắc tiêu diệt Công Tiễn, rồi đại
thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng năm 938.
+ Từ đó đến Đinh Bộ Lĩnh (Đinh Tiên Hoàng) dẹp loạn 12 sứ quân, lập nên
nhà Đinh, tiếp, Lê Hoàn lên ngôi hoàng đế Tiền Lê năm 980, nớc Việt ta bắt đầu thời
kì độc lập tự chủ ổn định bền vững. Tổng lại gồm 9 vơng triều : Ngô, Đinh, Lê, Lí,
Trần, Hồ, Lê, Tây Sơn, Nguyễn. Nhng, phải nói, chính Dơng Đình Nghệ là ngời đặt
nền móng cho 10 thế kỉ phong kiến độc lập này.
3. Thanh Hoá luôn luôn là hậu phơng lớn, căn cứ địa trong sự nghiệp chồng
ngoại xâm của dân tộc
Năm 1111, đời Vua Lí Nhân Tông đổi Châu ái thành phủ Thanh Hoá. Tên gọi
Thanh Hoá bắt đầu từ đây. Trong 10 thế kỉ phong kiến độc lập tự chủ, Thanh Hoá là
phên dậu - lá chắn ; là hậu phơng lớn, căn cứ địa, của sự nghiệp chống ngoại xâm.
+ Năm 1285, quân xâm lợc Nguyên Mông, do Toa Đô chỉ huy đã tiến đánh
Thanh Hoá nhằm chia cắt nớc Đại Việt, tách nhà Trần ra khỏi vùng hậu phơng rộng
lớn, vững chắc. Dới sự chỉ huy của Lê Mạnh, Trần Nhật Duật, Trần Quang Khải đã
tổ chức nhiều trận đánh suốt một vùng từ Quảng Xơng đến Thành phố Thanh Hoá,
Hà Trung, Hậu Lộc, Nga Sơn ngày nay. Làm cho giặc Nguyên Mông bị chia cắt trở
lại. Đạo quân Toa Đô không thể hợp với đại quân của Thoát Hoan. Vua nhà Trần bỏ
Thăng Long cũng vợt biển vào Thanh Hoá xây dựng lực lợng. Đến tháng 5 - 1285, từ
căn cứ địa Thanh Hoá, Hng Đạo Vơng Trần Quốc Tuấn đã tiến quân ra Bắc tiêu diệt
18
giặc. Tiếp đến là các cuộc chiến chống quân Chiêm Thành thắng lợi vào cuối đời
Trần do Hồ Quí Li, Nguyễn Đa Phơng, Trần Khát Chân chỉ huy.
+ Năm 1407, quân xâm lợc Minh tiến đánh Thanh Hoá nơi có kinh đô vơng

chiều Hồ (Tây Đô- Vĩnh Lộc). Sau khi bắt đợc cha con Hồ Quí Li, nớc ta đã bị đô hộ
lần thứ hai trong 10 năm. Thanh Hoá trở thành căn cứ địa của các cuộc khởi nghĩa
chống Minh mà tập trung nhất, tiêu biểu nhất là khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh
đạo. Từ 1418 đến tháng 10- 1424 là cuộc chiến vô cùng gian khổ, oanh liệt của
nghĩa quân Lam Sơn, quân dân Thanh Hoá với giặc. Có những lúc Khi Linh Sơn l-
ơng hết mấy tuần, lúc Khôi Huyện quân không một đội. Vợ con Lê Lợi bị giặc bắt.
Bản thân ông cũng nguy khốn may nhờ Lê Lai liều mình cứu mà thoát hiểm. Nghĩa
quân ban đầu chỉ có 51 tớng văn võ, 200 thiết kị, 200 dũng sĩ, 14 con voi, binh lính
chừng 2000 ngời, đã phát triển vào Nghệ An. Đánh tan giặc ở Nghệ An, quay lại vây
đánh thắng giặc ở Tây Đô, tiến đánh Đông Đô (Hà Nội), đầu não của chính quyền
đô hộ, đánh tan viện binh quân Minh ở ải Chi Lăng chém chết tớng giặc Liễu Thăng.
Nhà Minh sau 10 năm chiếm đóng, đặt nớc ta thành quận huyện của chúng (1407 -
1427) nớng dân đen trên ngọn lửa hung tàn, vùi con đỏ dới hầm tai vạ khiến cho
tội ác của chúng trúc núi Nam không ghi hết tội, nớc biển Đông không rửa sạch
mùi đã phải kí tuyên bố đầu hàng.
+ Năm 1788, nhân yêu cầu của vua bán nớc Lê Chiêu Thống, Tôn Sĩ Nghị
thống lĩnh 26 vạn quân Thanh xâm lợc nớc ta. Quân Tây Sơn đồn trú ở Bắc Hà (các
tỉnh phía Bắc) cha đầy 1 vạn. Thế giặc mạnh, Tây Sơn đã rút về Thanh Hoá để xây
dựng phòng tuyến ở hai cứ điểm là Tam Điệp và Biện Sơn.
Tam Điệp là một hệ thống núi chạy theo hớng Tây Bắc- Đông Nam từ Hoà Bình đến
giáp biển Ninh Bình - Thanh Hoá. Đoạn ranh giới tự nhiên phân chia Thanh Hoá
ngoại (Ninh Bình ngày nay) và Thanh Hoá nội có độ dài hơn 18 km, ngọn núi cao
nhất 200 m. Sách Đại Nam nhất thống chí, soạn dới thời Nguyễn viết mạch núi từ
huyện Thạch Thành kéo đến, liên tiếp chạy ngang đến biển, giữa có đờng quan thông
qua là cổ họng giữa Nam - Bắc. Núi có ba ngọn , nên gọi là Tam Điệp. Ngọn giữa rất
cao tức là chỗ chia địa giới giữa Thanh Hoá và Ninh Bình, đứng ở đỉnh núi trông ra
ngoài biển, thuyền buồm nh lá tre, hai ngọn phía tả, hữu hơi thấp và bằng. Quân
Tây Sơn đã xây dựng phòng tuyến chính ở nơi bây giờ là địa giới giữa Thị xã Tam
Điệp - Thị xã Bỉm Sơn và huyện Hà Trung. Ngô Thi Sĩ, một nhà văn hoá đơng thời
đã ví phòng tuyến - cửa ải này nh một Cái đó.

Núi non đứt nối ngăn tầm mắt
Đó đơm trời chặn ải Cửu Chân.
Tại đây, 30 ngày sau (15/01/1789, tức 20 tháng chạp Mậu Thân) đại quân Tây Sơn
do Quang Trung Nguyễn Huệ chỉ huy đã tập kết để kéo ra Bắc tiêu diệt quân xâm l-
ợc Mãn Thanh. Trên mảnh đất này, hiện nay vẫn có những cái tên ghi dấu âm vang
trống trận oai hùng : gò Bia, đồi Ông Đùng, Thung Voi, đồng Cắm quân, Cắm cờ,
làng Gạo thuộc các xã Hà Tiến, Hà Long (Hà Trung), phờng Ngọc Trạo, Bắc Sơn (thị
xã Bỉm Sơn).
19
Quân bộ đóng ở Tam Điệp, còn thuỷ quân Tây Sơn lui về chốt giữ Biện Sơn- Đảo
Mê - Cửa Bạng - Cửa Hà Nẫm (Tĩnh Gia), một vị trí quân sự lợi hại kiểm soát con đ-
ờng ven biển Bắc- Nam. Trên núi Diên Phong, ở cửa Bạng, thuộc thôn Du Xuyên, xã
Hải Thanh vẫn còn ngôi miếu tôn thờ Tây Sơn uy vũ anh linh hùng tài vĩ lợc th-
ợng đẳng thần và đôi câu đối ngời đời sau lu truyền :
Anh hùng thanh sất Bàn Sơn cổ
Miếu mạo quang lu Bạng hải kim.
Nghĩa là : Tiếng thét ngời anh hùng vang dậy núi Bàn ngày xa
ánh sáng miếu toả chiếu biển Bạng hôm nay.
Chúng ta có thể hình dung cuộc tổng tiến công vũ bão đầu tiên trong lịch sử chống
ngoại xâm của dân tộc nh thế này :
- Ngày 21/12/1788, nghe tin cấp báo giặc ngoại xâm, -Ngày 22/12 Nguyễn
Huệ chính thức lên ngôi hoàng đế đặt niên hiệu là Quang Trung rồi lập tức hạ lệnh
xuất quân thần tốc ra Bắc.
Nguyễn Huệ vừa tiến quân vừa tuyển mộ hiền tài, binh lính. Những ngày Hội tòng
quân, Hộ quân đã thực sự diễn ra ở Thanh Hóa, mà đến nay, gia phả, sắc phong,
truyền thuyết và lời ca dân gian vẫn còn lu giữ.
Thùng thùng trống đánh quan sang
Chợ Già trớc mặt, quán Nam bên đàng
Qua Chiêng thì rẽ về Giàng
Qua quán Đông Thổ vào làng Đình Hơng

Anh đi theo chúa Tây Sơn
Em về cày cuốc mà thơng mẹ già.
Chỉ trong vòng cha đầy 1 tháng, quân số đã lên tới 10 vạn và vàI trăm voi chiến.
- Ngày 15/01/1789, sau Lễ Thệ s (Hội thề toàn quân quyết tâm một lòng đánh
giặc) ở làng Thọ Hạc (phờng Đông Thọ- TP Thanh Hoá) Vua Quang Trung và đoàn
quân áo vải cờ đào tập kết ở Tam Điệp. Nhà Vua mở tiệc khao quân, ăn tết Kỉ Dậu
trớc, rồi tiến đánh Thăng Long.
Đánh cho để dài tóc
Đánh cho để đen răng
Đánh cho nó chích luân bất phản
Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn
Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ.
Nghĩa là đánh để giữ truyền thống dân tộc, đời sống yên bình quen thuộc của nhân
dân (để tóc dài, để đen răng). Đánh cho quân xâm lợc không có đờng quay trở lại,
không còn mảnh giáp lành lặn. Đánh cho biết nớc Nam anh hùng có chủ. Đúng nh vị
Hoàng đế anh hùng đã tuyên bố Nhà Thanh từ vua Càn Long lên ngôi đến nay luôn
luôn mu toan khuếch trơng bờ cõi, đã chiếm phía Tây lại toan chiếm phía Nam phải
đánh làm cho quân chó Ngô từ nay về sau không dám có ý tởng điên cuồng muốn
chiếm lấy nớc ta làm quận huyện của chúng nữa.
20
Chiều ngày 30/01/1789 tức mùng 5 tháng giêng năm Kỉ Dậu, Quang Trung trên
mình voi chiến cùng đoàn quân dũng mãnh đã tiến vào giải phóng Thăng Long khiến
Tôn Sĩ Nghị và hơn 20 vạn quân Thanh cuống cuồng bỏ chạy, không dám quay đầu
trở lại. Cuộc chiến này, đất và ngời Thanh Hoá và nhân dân cả nớc đã cùng ngời anh
hùng làm nên chiến thắng vang dội nhất trong lịch sử chống giặc ngoại xâm thời
phong kiến.
4. Là đất Thang Mộc của nhiều vơng triều phong kiến độc lập tự chủ
Thanh Hoá là đất Thang Mộc (đất tắm gội) của nhiều vơng triều trong thời kì
phong kiến độc lập tự chủ.
Thang - Mộc (tắm gội) chỉ nơI sinh ra, quê hơng của vị vua khai sáng một vơng

triều.
Thanh Hoá là đất Thang Mộc, đất phát tích của các vơng triều sau : Tiền Lê (Lê
Hoàn), Hồ (Hồ Quí Li), Hậu Lê (Lê Lợi), Nguyễn (Nguyễn ánh) và hai đời Chúa
(Chúa Trịnh ở phía Bắc và Chúa Nguyễn ở phía Nam).
Thứ nhất, Lê Hoàn (Lê Đại Hành) quê làng Trung Lập (Xuân Lập - Thọ Xuân), sinh
ngày 15/07/941. Đó là mảnh đất địa thế thanh cao, giống thế đất sinh ra Vua
Thuấn và Chu Văn Vơng, hai vị vua hiền của Trung Quốc cổ đại. Theo Đại Việt sử
kí toàn th, bà mẹ khi mới có thai ông, chiêm bao thấy trong bụng nở hoa sen, bỗng
chốc kết thành hạt bèn lấy chia cho mọi ngời, còn mình không ăn. Hiện nay, tại đây
vẫn còn khu di tích Lê Hoàn với đền thờ Vua cùng nhiều kỉ vật. Từ ngời lính bình th-
ờng, Lê Hoàn đã có nhiều công giúp Đinh Bộ Lĩnh (Vua nhà Đinh) dẹp loạn 12 sứ
quân đợc giao làm Thập đạo tớng quân, tổng chỉ huy quân đội của quốc gia Đại Cồ
Việt. Sau loạn Đỗ Thích, Lê Hoàn làm nhiếp chính cho ấu chúa nhà Đinh (chúa nhỏ,
tức Đinh Toàn). Bấy giờ lợi dụng triều đình nhà Đinh đang loạn, vua nhỏ, quân
Chiêm Thành, rồi quân Tống đã tiến hành xâm lợc nớc ta. Trớc tình hình ấy triều
đình đã tôn Lê Hoàn lên làm vua, lập nên nhà Lê (mà sử vẫn quen gọi là Tiền Lê để
phân biệt với nhà Lê do Lê Lợi lập sau này). Lê Hoàn đã chỉ huy quân dân Đại Cồ
Việt làm nên sự nghiệp thắng Tống, bình Chiêm lẫy lừng, giữ vững nền độc lập
dân tộc. Nhà Tiền Lê bắt đầu từ năm 980 đến 1009. Ngoài giữ nớc, Lê Hoàn còn rất
quan tâm phát triển kinh tế - thủ công nghiệp và nhất là nông nghiệp. Lễ cày ruộng
tịch điền là do ông tổ chức lần đầu tiên ở nớc ta, mở đầu cho truyền thống trọng
nông. Lê Hoàn - Lê Đại Hành mất năm 1006.
Thứ hai, Hồ Quí Li, sinh năm 1335 tổ tiên vốn ngời Trung Quốc, sang Việt Nam từ
thời Hậu Hán (947 - 950), sống ở Nghệ An. Ông tổ 4 đời làm con nuôi họ Lê ở
Thanh Hoá và dựng nên dòng họ Hồ nơi đây. (Hà Đông - Hà Trung). Ông có hai ng-
ời cô lấy Vua Trần Minh Tông (1314 - 1329) sinh ra ba vua nhà Trần là Trần Hiến
Tông (1329- 1341), Trần Nghệ Tông (1370- 1372) và Trần Duệ Tông (1373- 1377).
Do có công giúp Trần Nghệ Tông lấy lại ngôi báu từ tay Dơng Nhật Lễ nên rất đợc
trọng dụng. Hồ Quí Li đợc Nghệ Tông gả em gái ; có ngời em gái họ lấy Trần Duệ
Tông và con gái lớn lấy vua Trần Thuận Tông. Thanh thế và quyền uy rất lớn. Nhân

đó ông đã thâu tóm mọi quyền hành vào tay, tiêu diệt các thế lực chống đối, cản trở.
21
Tháng 3/1400 bức vua Trần Thiếu Đế nhờng ngôi cho mình, lập kinh đô mới ở An
Tôn (Vĩnh Lộc) mà ta vẫn quen gọi thành Tây Giai, Tây Đô, thành nhà Hồ. Năm
1406, giặc Minh xâm lợc nớc ta. Nhà Hồ tổ chức kháng chiến nhng thất bại. Năm
1407 ba cha con Hồ Quí Li , Hồ Hán Thơng, Hồ Nguyên Trừng đều bị bắt trên chiến
trận và bị giải về Kim Lăng, Kinh đô nhà Minh.
Hồ Quí Li, nhà cải cách lớn trên mọi lĩnh vực kinh tế, quân sự, văn hoá giáo dục của
chế độ phong kiến. Ông cho thi hành chính sách hạn nô, hạn điền, định lại đơn vị đo
lờng, phát hành tiền giấy, đào tạo nhân tài, viết lại kinh sử, xây dựng quân đội, trang
bị vũ khí, đắp sửa đờng xá, lập phòng tuyến chống ngoại xâm. Có thể nói Hồ Quí
Li là một ngời thất bại vĩ đại, hay nói nh Nguyễn Trãi, ông là bậc anh hùng di hận
kỉ thiên niên (Anh hùng hận để lại ngàn năm) vì không toại đợc chí lớn.
Thứ ba, Lê Lợi (1385- 1432), anh hùng đân tộc, lãnh tụ phong trào khởi nghĩa Lam
Sơn. Quê mẹ ở Thuỷ Chú (nay là xã Xuân Thắng) quê cha ở Lam Sơn (nay là xã
Xuân Lam) huyện Thọ Xuân. Vùng quê này có tiếng là đắc địa. Nằm bên tả, hữu
ngạn sông Chu, gần đờng thông đạo (đờng miền núi) để ra Bắc vào Nam lại tiếp nối
giữa rừng núi phía Tây với trung du và đồng bằng. Đất hiểm, ngời đông, phát triển
kinh tế thuận lợi mà công thủ trong chiến tranh đều đợc . Họ Lê đến đời Lê Lợi đã
làm chủ cả một vùng rộng lớn nh thế. Theo sách Lam Sơn thực lục, Lê Lợi là con
trai thứ ba. Lúc sinh ra có ánh sáng đầy nhà, mùi hơng lạ khắp xóm, thiên t tuấn tú
khác thờng, thần sắc tinh anh kì vĩ, mắt sáng miệng rộng, mũi cao, trên vai trái có
bảy nốt ruồi. Đến tuổi trởng thành đi nh rồng, bớc nh hổ, tiếng nh chuông lớn,
thông minh, trí dũng vợt hẳn ngời thờng.
Khi giặc Minh đô hộ nớc ta, ông ngẫm thù lớn há đội trời chung, thề nghịch tặc
quyết không cùng sống nên đã cùng mọi ngời cùng chí hớng thề khởi nghĩa giết
giặc. Sau nhiều năm chuẩn bị nhân tài vật lực, ngày 07/02/1418, (tức mùng 2 tết năm
Mậu Tuất), Lê Lợi cùng nghĩa quân đã nhất tề phất cờ khởi nghĩa.
Lấy đại nghĩa để thắng hung tàn
Lấy chí nhân để thay cờng bạo

Trải qua mời năm đau lòng nhức óc, nếm mật nằm gai, với những chiến thắng
vang dội, ngày15 tháng 04 năm Mậu Thân (1428) cuộc kháng chiến chống quân
Minh đã hoàn toàn thắng lợi.
Một gơm đại định lên công oanh liệt ngàn thu
Bốn phơng biển cả thanh bình ban chốn duy tân khắp chốn
(Bình Ngô đại cáo)
Lê Lợi lên ngôi hoàng đế, đặt niên hiệu là Thuận Thiên, lấy quốc hiệu là Đại Việt.
Trở thành Lê Thái Tổ, ông vua khai sáng vơng triều Lê (Hậu Lê), dài nhất trong lịch
sử trung đại Việt Nam (1428 - 1789). Một Vơng triều đã xây dựng đợc thời hoàng
kim của chế độ phong kiến - thời Lê Thánh Tông (1460 - 1497)., với rất nhiều thành
tựu, tạo nên thang giá trị trung đại cơ bản của nớc ta.
Thứ t, Nguyễn Phúc ánh, (1760 - 1819) lập nên vơng triều Nguyễn (1802 -
8/1945), 143 năm, quốc hiệu Việt Nam (từ Minh Mạng- 1820 là Đại Nam), Kinh đô
22
Huế (Thừa Thiên - Huế). Quê gốc ở Gia Miều, Triệu Tờng (Hà Trung). Sau khi chúa
Nguyễn cuối cùng là Nguyễn Phúc Thuần bị Vơng triều Tây Sơn tiêu diệt (177),
Nguyễn Phúc ánh đã tập hợp lực lợng chống Tây Sơn, khôi phục cơ nghiệp. Với chủ
trơng cầu ngoại viện, Nguyễn ánh đã đa quân Xiêm (Thái Lan) về nớc chống Tây
Sơn. Lại nhờ giáo sĩ Bá Đa Lộc, đa Hoàng tử Cảnh sang Pháp xin viện trợ. Nhà Tây
Sơn sau khi Quang Trung mất suy yếu nhanh chóng. Năm 1801, Nguyễn ánh chiếm
lại thành Phú Xuân (Huế), năm sau chiếm Thăng Long, lật đổ Tây Sơn. Lên ngôi
năm 1802, lấy niên hiệu là Gia Long.
Vì chính sách dựa vào nớc ngoài vị vua Thế tổ nhà Nguyễn này thờng bị xem là
cõng rắn cắn gà nhà. Nhng bản chất đó chỉ là kế sách dựng nghiệp. Gia Long cũng
không để cho quân Xiêm mợn cớ xâm lợc, cũng không bán nớc cho Phơng Tây.
Không những thế còn khắc kỉ (chặt chẽ với bản thân, thần dân, quần thần), thi hành
chế độ hà khắc. Gia Long mở đầu cho Vơng triều cuối cùng ở Việt Nam, với chính
sách kìm hãm phát triển để mong ổn định xã hội, không phù hợp với xu hớng, tiến
bộ của thế giới nói chung lúc bấy giờ. Cho nên việc Pháp xâm lợc nớc ta để mở rộng
thuộc địa là điều không thể không sảy ra.

Thứ năm, Xứ Thanh còn là quê hơng của hai nhà chúa.
- Chúa Trịnh. Tổ chúa Trịnh là Trịnh Kiểm (1503- 1570), quê ở Sóc Sơn,
Vĩnh Lộc. Khi Mạc Đăng Dung cớp ngôi nhà Lê, theo Nguyễn Kim phò Lê diệt Mạc
đợc Nguyễn Kim gả con gái. Nguyễn Kim mất (1545), toàn bộ quyền hành vào tay
Trịnh Kiểm. Ông đánh đông dẹp bắc hơn 30 năm là đại công thần khôi phục, mở ra
thời Lê trung hng. Họ Trịnh trở thành một thanh thế lớn đến con thứ Trịnh Tùng bắt
đầu đợc gọi là chúa, vì đợc phong là Bình An Vơng. Từ đây trở đi vua Lê càng ngày
càng trở thành bù nhìn. Mọi quyền hành đều nằm trong tay chúa Trịnh. Chúa Trịnh
mở phủ, lập bộ máy nhà nớc riêng, trong khi bộ máy nhà nớc của vua Lê chỉ có h
danh.
- Chúa Nguyễn. Tổ chúa Nguyễn chính là Nguyễn Kim. Họ Nguyễn ở Gia
Miêu, Hà Trung là một danh gia vọng tộc lừng lẫy lâu đời thời nhà Lê. Ông nội là bố
vợ vua Lê Thánh Tông. Thân phụ là nhất phẩm triều đình, đều đợc phong tớc công.
Nguyễn Kim lại là ngời phất cờ khôi phục cơ đồ nhà Lê khi bị Mạc Đăng Dung
triếm quyền. Khi quyền binh vào tay Trịnh Kiểm- Trịnh Tùng, con Nguyễn Kim là
Nguyễn Hoàng (theo truyền thuyết sau khi hỏi ý kiến Trạng Trình, Nguyễn Bỉnh
Khiêm, đợc khuyên Hoàng sơn nhất đái, vạn đại dung thân- Đèo Ngang một giải,
dung thân muôn đời) đã xin vào trấn thủ Thuận Quảng (từ ái Tử, Quảng Trị trở vào
đến Quảng Nam) rồi lập nên cơ nghiệp nhà Chúa ở Đàng trong.
Nguyễn Hoàng chính là vị chúa Nguyễn thứ nhất, tạo nên cục diện Nam- Bắc phân
tranh suốt 200 năm với giới tuyến sông Gianh (Quảng Bình) cho đến khi Quang
Trung - Nguyễn Huệ diệt Nguyễn, diệt Trịnh, đánh tan quân xâm lợc Mãn Thanh
thống nhất đất nớc. Nhng sau đó dòng chúa Nguyễn lại dựng lại cơ đồ là một vơng
triều (Nguyễn)
5. Thanh Hoá là đất của nhiều con ngời khai sáng
23
Khai sáng ở đây hiểu là ngời đầu tiên mở ra một phơng diện nào đó về văn hoá, có
giá trị to lớn, đợc ghi công, truyền tụng.
a) Ngời đầu tiên khai thác vùng đảo
Theo truyền thuyết đó là Mai An Tiêm, khai phá vùng đảo này, con nuôi vua Hùng

Vơng, bị vua đày ra đảo hoang, bằng tay trắng đã cùng vợ con dựng nên cả một cơ
nghiệp, có công gây giống da đỏ (da hấu). Ngày nay ở Nga Sơn dòng họ Mai rất
đông.
b) Ngời đầu tiên đỗ tiến sĩ và mở đầu nền văn học viết
Thời Bắc thuộc, trong một ngàn năm đô hộ của phong kiến Trung Hoa, Việt
Nam chỉ bị bòn rút, không hề đợc xây dựng, phát triển. Chính sách ngu dân là chính
sách lớn xuyên suốt. Dẫu có mở mang giáo dục nhng cũng chỉ ở mức độ nhỏ, thấp và
nhằm đào tạo ngời giúp việc cho bộ máy thống trị. Trong tình trạng đó, Khơng Công
Phụ cùng em là Bật, sau đổi tên là Phục, quê xã Định Thành, Yên Định ngày nay đã
lặn lội sang tận kinh đô Trung Quốc dự thi và đỗ Tiến sĩ làm quan đời Đờng Đức
Tông (780- 804). Bài phú Bạch vân chiếu xuân hải (Mây trắng rọi biển xuân) đợc
xem là tác phẩm văn học viết đầu tiên của nớc ta.
c) Nhà tu hành đặt nền móng cho Phật giáo trở thành quốc đạo thời đầu
dựng nền độc lập tự chủ. Cũng là ngời mở đầu truyền thống gắn tình cảm tôn
giáo với tình yêu đất nớc. Là nhà ngoại giao đầu tiên của nớc ta
Ông là Ngô Chân Lu (933- 1011). Theo th tịch cổ, ông là ngời đất Tĩnh Gia xa, bây
giờ có lẽ thuộc Nông Cống (xã Tợng Sơn). Đợc Đinh Tiên Hoàng, rồi Lê Đại Hành,
ban hiệu Khuông Việt đại s (Đại s khuông phò nớc Việt), phong chức Tăng Thống,
ngời đứng đầu Phật giáo. Đã có công lao bảo vệ chủ quyền, xây dựng quốc gia độc
lập buổi đầu. Ngô Chân Lu đã giúp vua Lê trong ngoại giao với sứ thần nhà Tống.
Khi sứ thần Lí Giác về nớc, ông đa tiễn và có bài Vơng lang qui (Chàng Vơng trở
về) có thể xem là một trong những văn bản ngoại giao đầu tiên còn lại :
... Tình thắm thiết
Chén lên đờng
Vin xe sứ vấn vơng
Xin đem thâm ý vì Nam cơng
Tâu vua tôi tỏ tờng.
d) Sử gia đầu tiên của nớc Đại Việt
Ông là Lê Văn Hu, sinh năm 1230, mất năm 1322, thọ 93 tuổi. Quê xã Thiệu
Trung, Thiệu Hoá ngày nay. Nổi tiếng là thần đồng. Hồi nhỏ, có ngời ra vế đối :

- Than trong lò, lửa trong lò, sắt trong lò, thổi phì phò đúc nên dùi vổ.
Cậu bé Hu đối ngay :
- Giấy trong túi, bút trong túi, mực trong túi, viết lúi húi mà đậu Khôi
nguyên.
Năm 1247, ông đậu bảng nhãn, chỉ sau trạng nguyên, mới 17 tuổi, là vị tiến sĩ đầu
tiên của Xứ Thanh trong chế độ phong kiến Việt Nam. Trải nhiều chức quan dới thời
các vua Trần, và trong cơng vị đứng đầu Viện quốc sử ông đã soạn bộ Đại Việt sử kí,
24
gồm 30 quyển, chép sử nớc ta từ Triệu Đà đến Lí Chiêu Hoàng. Bộ sử đầu tiên của n-
ớc ta đợc Vua Trần Thánh Tông đánh giá: Nghĩa lớn khen chê rành rành nh công
luận
Tại nhà thờ ông ngày nay vẫn còn đôi câu đối từ năm Tự Đức 20 (1867) :
Yêu nớc, phò vua công đức đời đời truyền mãi
Thơng dân, lợi chúng, nghĩa nhân chất ngất lòng ngời.
đ) Nhà cải cách xã hội đầu tiên ở Việt Nam
Đó là Hồ Quí Li, ông vua sáng nghiệp nhà Hồ. Cuối Trần,vai trò của quí tộc- gia
tộc phong kiến đã mất vai trò tiến bộ. Với địa vị quan đầu triều, Hồ Quí Li đã làm
một cuộc cải cách toàn diện : Chính trị, xã hội, kinh tế, văn hoá giáo dục với các
chính sách hạn điền (hạn chế ruộng đất), hạn nô (hạn chế gia nhân, nô bộc), hạn
quyền (hạn chế quyền lực của quí tộc, tập trung quyền lực vào tay chính quyền trung
ơng), cải cách tiền tệ (thu lại tiền đồng làm vật liệu chế vũ khí, phát hành tiền giấy,
bắt s sãi trốn tránh việc nớc hoàn tục, cải cách giáo dục (đề cao chữ Nôm, mở rộng
trờng lớp ở các địa phơng, viết lại sách thánh hiền Trung Hoa, đa môn toán vào
thành môn thi, thay đổi đơn vị hành chính, chế độ quan lại.
Cuộc cải cách của Hồ Quí Li không thành nhng bài học ông để lại là vô giá.
e) Ngời đầu tiên sáng lập tổ chức Hội nhà văn nớc ta
Đó là Hội Tao đàn của Lê Thánh Tông. Gồm 28 ngời, mà Thánh Tông là Tao đàn
nguyên soái. Thánh Tông tên thật là Lê T Thành (1442 - 1497) con thứ vua Thái
Tông. Làm vua từ 1460 đến 1497. Nhà vua còn là ngời đầu tiên đề cao nhà nớc pháp
quyền phong kiến, với bộ luật Hồng Đức nổi tiếng. Ông cũng là ngời đầu tiên cho

làm bản đồ Việt Nam (Hồng Đức bản đồ).
g) Ngời khai phá, mở cõi phơng Nam
Ngời ấy chính là Nguyễn Hoàng, vị tổ thứ nhất dòng chúa Nguyễn. Từ Nguyễn
Hoàng, con cháu đời này qua đời khác. tiến dần về phơng Nam. Do vậy nớc ta mới
lền một giải, tiếp từ Quảng Nam đến mũi Cà Mau nh ngày nay.
h) Có một Khổng Minh Việt Nam là ngời Thanh Hoá
Nhân vật tài trí số một của Trung Hoa theo cả chính sử, truyền thuyết là
Khổng Minh thời Tam Quốc. Khổng Minh của Việt Nam là Đào Duy Từ (1572 -
1634), quê Nguyên Bình Tĩnh Gia. Đây vị công thần khai quốc số một của chúa
Nguyễn, một trong số ít nhà văn hoá lớn nớc ta trên các lĩnh vực chính trị, quân sự,
văn hoá- nghệ thuật. Tổ s của ngành tuồng bội.
i) Ngời đầu tiên chế súng thần cơ
Loại súng có hình dáng nh súng đại bác (cao xạ pháo) là Hồ Nguyên Trừng, con tr-
ởng Hồ Quí Li. Năm sinh và năm mất cha rõ. Chỉ biết ba cha con họ Hồ bị giặc
Minh bắt về Trung Quốc. Quí Li, Hán Thơng bị sát hại. Hồ Nguyên Trừng có tài nên
đợc tha. Là ngời chế thần cơ cho nhà Minh, đợc vua Minh cho làm quan đến Chính
nghị đại phu, công bộ tả thị lang.Nơi đất khách quê ngời, Hồ Nguyên Trừng luôn
nhớ về quê hơng đất nớc. Tâm huyết ấy đợc dồn cả vào sách Nam ông mộng lục
(Ghi chép trong mộng của ông già nớc Nam) ra đời năm 1438. Đây là tập truyện
bằng chữ Hán, viết về những truyện hay của nớc Nam, phần lớn là chuyện thời Trần
25

×