Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Khái niệm những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự và thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (260.05 KB, 23 trang )

Khái niệm những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự

Công bằng, nhân đạo, dân chủ, pháp chế là giá trị chung của nền văn minh nhân
loại, là mục tiêu mà Đảng, Nhà nước hướng tới. Điều này đồng nghĩa rằng, mọi
hành vi xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của con người, của công dân đều
phải được xử lý kịp thời, công minh nhằm tạo lập trật tự pháp luật, duy trì sự ổn
định của đời sống xã hội, tạo điều kiện thuận lợi để cá nhân hoàn thiện và phát
triểnbản thân, sáng tạo và cống hiến không hạn chế. Việc nghiên cứu làm sáng tỏ
bản chất của một số chế định trong Luật Hình sự góp phần nâng cao khả năng nhận
thức pháp luật, tư duy pháp lý và kỹ năng thực hành, đặc biệt những việc làm mà
pháp luật không cấm (công dân được phép và có quyền làm trong tình huống nhất
định) là việc làm hết sức cần thiết. Bài viết này, tác giả tập trung nghiên cứu làm
sáng tỏ sự cần thiết của các quy định về những trường hợp loại trừ trách
nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự (BLHS) năm 2015.
Khái niệm những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự
Xét dưới góc độ lịch sử lập pháp hình sự, chế định các trường hợp loại trừ trách
nhiệm hình sự (TNHS) đã được ghi nhận khá sớm trong pháp luật hình sự, được
đánh dấu bằng sự ra đời của Chỉ thị số 07 ngày 22/12/1983 của TANDTC về việc
chỉ đạo Tòa án các cấp thống nhất xét xử hành vi xâm phạm sức khỏe, tính mạng
của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc trong khi thi hành
công vụ (1). Trong lần pháp điển hóa BLHS năm 1985 đã quy định 04 trường hợp
được coi là trường hợp loại trừ TNHS bao gồm: Phòng vệ chính đáng (Điều
13), tình thế cấp thiết (Điều 14), sự kiện bất ngờ (Điều 11), tình trạng không có
năng lực TNHS (Điều 12) nằm trong chương Tội phạm(chương III). BLHS năm
1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) tiếp tục quy định 04 trường hợp nói trên trong
chương Tội phạm (chương III). Đến BLHS năm 2015, quy định về các trường hợp
loại trừ TNHS đã được hoàn thiện với việc chính thức quy định thống nhất một
chương – Chương các trường hợp loại trừ TNHS (chương IV) bao gồm 04 trường
hợp như trong BLHS năm 1999, bổ sung thêm 03 trường hợp mới.



Xét dưới góc độ pháp luật quốc tế, chế định các trường hợp loại trừ TNHS được
quy định trong pháp luật hình sự của nhiều quốc gia. Tuy nhiên, mỗi quốc gia có
sự quy định khác nhau: BLHS của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa xác định các
trường hợp loại trừ TNHS bao gồm: sự kiện bất ngờ, hành vi nguy hiểm do người
mắc bệnh tâm thần thực hiện, phòng vệ chính đáng, tình thế cấp thiết thuộc chương
tội phạm và TNHS (2). BLHS cộng hòa Pháp xác định các trường hợp như: phòng
vệ chính đáng, tình thế cấp thiết, người mắc bệnh rối loạn tâm thần hoặc rối loạn
thần kinh khiến không nhận thức hoặc không kiểm soát được hành vi của mình,
hành động dưới sự chi phối của một sức mạnh hoặc một sự cưỡng bức, do lầm
tưởng mình có quyền thực hiện một cách hợp pháp, thực hiện hành vi do lệnh của
nhà chức trách hợp pháp là các trường hợp loại trừ TNHS (miễn TNHS) (3)….
BLHS của Liên bang Nga bên cạnh các tình tiết loại trừ có tính chất phổ biến như
phòng vệ cấp thiết, tình thế cấp thiết, sự kiện bất ngờ còn quy định hành vi gây
thiệt hại khi bắt giữ người phạm tội, cưỡng bức thân thể hoặc tinh thần, sự rủi ro
chính đáng, thi hành mệnh lệnh hoặc chỉ thị là các tình tiết loại trừ TNHS và tách
riêng thành 01 chương các tình tiết loại trừ tính chất tội phạm.
Xét dưới góc độ pháp luật thực định, Bộ luật hình sự năm 2015 quy định 07 trường
hợp loại trừ TNHS bao gồm: Sự kiện bất ngờ; tình trạng không có năng lực TNHS;
Phòng vệ chính đáng; Tình thế cấp thiết; Gây thiệt hại trong khi bắt giữ tội phạm;
rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộkhoa học kỹ thuật và công


nghệ và Thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên. Điều này đáp
ứng được yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm trong tình hình mới; tăng cường
tính minh bạch của BLHS; thể hiện rõ chính sách của Đảng và nhà nước trong
khuyến khích, động viên người dân tự bảo vệ mình hoặc tham gia ngăn chặn tội
phạm, động viên mọi người tích cực sáng tạo, thử nghiệm các tiến bộ khoa học kỹ
thuật phục vụ sản xuất và đời sống con người; góp phần vào sự nhận thức thống
nhất về các trường hợp loại trừ TNHS trong BLHS (4).
Theo quy định BLHS năm 2015, các trường hợp loại trừ TNHS sẽ bao gồm 02

nhóm: Nhóm các trường hợp loại trừ TNHS do chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm,
do vậy vấn đề TNHS không được đặt ra, bao gồm: Sự kiện bất ngờ; tình trạng
không có năng lực TNHS và Nhóm các trường hợp loại trừ TNHS đủ hoặc có thể
đủ yếu tố cấu thành tội phạm, nhưng có những “căn cứ” làm cho hành vi gây thiệt
hại có tính hợp pháp, không còn tính trái pháp luật hình sự nên không coi là tội
phạm bao gồm: Phòng vệ chính đáng; Tình thế cấp thiết; Gây thiệt hại trong khi
bắt giữ tội phạm; rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ
thuật và công nghệ và Thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên.
Sự cần thiết của việc quy định những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự
trong Bộ luật hình sự năm 2015
Tội phạm là một hiện tượng xã hội, có tính lịch sử và tính giai cấp. Việc quy định
một hành vi nào đó là tội phạm hay không phải là tội phạm phụ thuộc vào ý chí
của giai cấp thống trị xã hội, phụ thuộc vào hoàn cảnh, điều kiện kinh tế trong từng
giai đoạn nhất định. Ở Việt Nam, Điều 8 BLHS quy định: tội phạm được hiểu là
hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do người có năng lực
trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô
ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm
chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn
xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền,
lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp
luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự. Nhận
thức và quy định về tội phạm như đã nêu trên thể hiện rõ chính sách hình sự của
Đảng và Nhà nước ta trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm; cụ thể hóa
các nguyên tắc xử lý đối với người phạm tội và hành vi phạm tội; tạo tiền đề cho
việc xây dựng và hoàn thiện các chế định khác trong Luật hình sự. Đồng thời, là cơ
sở thực tiễn cho việc áp dụng thống nhất các quy định của pháp luật hình sự
trong khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự; phân biệt tội phạm với
các hành vi vi phạm pháp luật khác.



Việc xác định một người phạm tội không chỉ ảnh hưởng tới một cá nhân mà còn
thể hiện chính sách, quan điểm của Nhà nước về bảo vệ trật tự xã hội nói chung.
Do đó, trong BLHS bên cạnh những quy định về tội phạm là những quy định về
loại trừ trách nhiệm hình sự đối với những hành vi có tính nguy hiểm cho xã
hội nhưng được thực hiện vì lợi ích của Nhà nước, tập thể hoặc của cá nhân. Sau
hơn 10 năm thi hành BLHS 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), thực tế đã phát sinh
nhiều trường hợp mặc dù có tính nguy hiểm cho xã hội nhưng lại được thực hiện
với mục đích vì lợi ích xã hội như: rủi ro trong nghiên cứu khoa học; gây thiệt hại
cho người bị bắt trong trường hợp bắt, giữ người phạm tội quả tang hoặc đang
bị truy nã; gây thiệt hại khi thi hành mệnh lệnh của cấp trên… Các trường hợp này,
theo quy định của BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) thì vẫn bị truy
cứu trách nhiệm hình sự. Điều này đã tạo ra một số hạn chế như:
Thứ nhất, chưa thực sự khuyến khích được những hành vi thực hiện vì mục đích
cộng đồng nhưng có rủi ro hoặc gây ra thiệt hại, do vậy, đã gián tiếp ảnh hưởng tới
sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước;
Thứ hai, việc bảo vệ lợi ích của cá nhân thực hiện hành vi gây thiệt hại nhưng động
cơ vì lợi ích chung hoặc chấp hành mệnh lệnh của cấp trên vẫn phải chịu TNHS là
chưa thỏa đáng về cả tình và lý;
Thứ ba, xét về thực tiễn phòng, chống tội phạm, thì tính nguy hiểm cho xã hội của
các hành vi này và hậu quả xảy ra là rủi ro và ngoài khả năng kiểm soát của người
thực hiện hành vi. Do đó, việc truy cứu TNHS đối với người thực hiện hành vi gây
thiệt hại trên thực tế là tương đối nặng, chưa phù hợp với bản chất của hành vi.
Việc xử lý hình sự đối với các hành vi này chưa thật phù hợp với quan điểm nhân
đạo
của
Đảng

Nhà
nước
ta.

Xuất phát từ những bất cập trên, việc nghiên cứu bổ sung thêm các trường hợp loại
trừ trách nhiệm hình sự trong
BLHS là cần thiết đảm bảo các mục tiêu: Phù hợp với thực tiễn đấu tranh phòng,
chống tội phạm, góp phần bảo đảm trật tự, an toàn xã hội; đảo đảm tốt hơn quyền
con người, quyền cơ bản của công dân; thể hiện chính sách nhân đạo của Đảng và
Nhà nước trong điều kiện mới; góp phần thúc đẩy sự phát triển lành mạnh của xã
hội, nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước và đề cao trách nhiệm của cán
bộ, công chức trong việc thi hành công vụ.
Các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật hình
sự năm 2015
– Sự kiện bất ngờ


Điều 20 BLHS năm 2015 khẳng định: Người thực hiện hành vi gây hậu quả nguy
hại cho xã hội trong trường hợp không thể thấy trước hoặc không buộc phải thấy
trước hậu quả của hành vi đó, thì không phải chịu TNHS. So với BLHS năm 1999,
quy định về sự kiện bất ngờ trong BLHS năm 2015 không có sự thay đổi về bản
chất pháp lý, mà chỉ là sự sửa đổi, bổ sung về mặt kỹ thuật lập pháptheo hướng quy
định trực tiếp một người thực hiện hành vi được coi là sự kiện bất ngờ và hậu quả
pháp lý của nó.
Bản chất pháp lý của trường hợp sự kiện bất ngờ là người thực hiện hành vi không
có lỗi do họ không tự lựa chọn thực hiện hành vi gây thiệt hại. Họ đã không thấy
trước được tính chất nguy hiểm cho xã hội do hành vi của mình gây ra. Hoàn cảnh
khách quan không cho phép họ có thể thấy trước hậu quả của hành vi. Họ cũng
không có nghĩa vụ phải thấy trước việc gây ra hậu quả đó. Do vậy, tính có lỗi – cơ
sở để xem xét một hành vi có là tội phạm không, có cần phải xử lý hình sự không
đã không được thỏa mãn. Như vậy, trong trường hợp sự kiện bất ngờ, việc chủ
thể đã không thấy trước được hậu quả nguy hiểm cho xã hội mà hành vi của mình
đã gây ra là do khách quan. Đây chính là điểm khác biệt so với các trường hợp như
sự kiện bất khả kháng, tình trạng không thể khắc phục được hoặc đối với trường

hợp lỗi vô ý vì cẩu thả.
– Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự
Điều 21 BLHS năm 2015 khẳng định: Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã
hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức
hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu TNHS. So với
BLHS năm 1999, quy định về tình trạng không có năng lực TNHS trong BLHS
năm 2015 có sự thay đổi về mặt kỹ thuật theo hướng bỏ quy định về việc áp
dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh tại điều luật mà quy định thống nhất về việc
áp dụng biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh tại Điều 49 BLHS năm 2015.
Do đó, người thực hiện nguy hiểm cho xã hội trong khi mắc bệnh quy định tại
Điều 21 của BLHS năm 2015, Viện kiểm sát hoặc Tòa án căn cứ vào kết luận giám
định pháp y, giám định pháp y tâm thần có thể quyết định đưa họ vào một cơ sở
điều trị chuyên khoa để bắt buộc chữa bệnh. Theo quy định của điều luật, tình
trạng không có năng lực TNHS được hiểu là người thực hiện hành vi nguy hiểm
cho xã hội trong trường hợp mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển
hành vi do đang trong tình trạng mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác. Như vậy, có
02 dấu hiệu để xác định tình trạng không có năng lực TNHS, đó là dấu hiệu y học –
điều kiện cần, dấu hiệu tâm lý – điều kiện đủ. Cả hai dấu hiệu này có mối liên quan
chặt chẽ với nhau, dấu hiệu này là tiền đề của dấu hiệu kia và ngược lại. Có nghĩa


rằng họ phải thỏa mãn đồng thời hai dấu hiệu trên, thì mới được coi là người không
có năng lực TNHS (5).
– Phòng vệ chính đáng
Khoản 1 điều 22 BLHS 2015 quy định: Phòng vệ chính đáng là hành vi của người
vì bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính đáng của mình, của người khác hoặc lợi ích của
Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có
hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên. Phòng vệ chính đáng không phải là tội
phạm. Một hành vi được coi là phòng vệ chính đáng khi thoả mãn các dấu hiệu
sau: Thứ nhất: Có hành vi tấn công đang hiện hữu, xâm phạm đến lợi ích của Nhà

nước, của tập thể, tổ chức, quyền và lợi ích chính đánh của người phòng vệ hoặc
của người khác (cơ sở phát sinh quyền phòng vệ chính đáng). Thứ hai: Hành vi
phòng vệ gây thiệt hại cho người xâm phạm là cần thiết (nội dung và phạm vi của
phòng vệ chính đáng);
Vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần
thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi
xâm hại. Người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải chịu TNHS
theo quy định của Bộ luật này. Đây là trường hợp người phòng vệ do đánh giá sai
tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi xâm phạm, do đó người phòng vệ đã
dùng những phương tiện và phương pháp gây ra thiệt hại quá đáng cho người xâm
hại mà tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi xâm hại cũng như hoàn cảnh cụ
thể chưa đòi hỏi phải dùng các phương tiện và phương pháp đó. Người phòng vệ
vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải chịu TNHS do lỗi vượt quá của mình.
Tuy nhiên, TNHS của họ được giảm nhẹ hơn so với các trường hợp bình thường.
Mức độ TNHS được giảm nhẹ nhiều hay ít phụ thuộc vào mức độ vượt quá giới
hạn phòng vệ và các trường hợp giảm nhẹ khác.
– Tình thế cấp thiết
Khoản 1 điều 23 BLHS 2015 quy định: Tình thế cấp thiết là một trong những
trường hợp loại trừ TNHS, đó là tình thế của người đứng trước sự đe dọa đến một
lợi ích được pháp luật bảo vệ, và để bảo vệ lợi ích này, người đó không còn cách
nào khác là phải gây một thiệt hại cho một lợi ích khác được pháp luật bảo vệ. Để
được coi là gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết và không phải chịu TNHS thì phải
có đầy đủ các điều kiện sau đây: Thứ nhất: Phải có sự đe dọa hiện hữu và thực tế
xâm phạm đối với lợi ích được pháp luật bảo vệ (tức là lợi ích của Nhà nước, của
tổ chức, lợi ích chính đáng của bản thân người thực hiện hành vi hay của người
khác); Thứ hai: Hành vi gây thiệt hại là biện pháp duy nhất để khắc phục sự nguy


hiểm; Thứ ba: Thiệt hại trong tình thế cấp thiết gây ra phải nhỏ hơn thiệt hại cần
ngăn ngừa.

Vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết là tình trạng một người vì muốn tránh một
nguy cơ đang thực tế đe doạ lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, quyền, lợi ích
chính đáng của mình hoặc của người khác mà không còn cách nào khác là gây thiệt
hại bằng hoặc lớn hơn thiệt hại cần ngăn ngừa. Đây là trường hợp chủ thể có cơ sở
để hành động trong tình thế cấp thiết nhưng đã vượt quá phạm vi cho phép. Cũng
giống như vượt quá yêu cầu của phòng vệ chính đáng, người có hành vi gây thiệt
hại do vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết thì cũng phải chịu TNHS. Khoản 2
Điều 24 khẳng định: trong trường hợp thiệt hại gây ra rõ ràng vượt quá yêu cầu của
tình thế cấp thiết, thì người gây thiệt hại đó phải chịu TNHS. Mặc dù, vượt quá
tình thế cấp thiết phải chịu TNHS nhưng được giảm nhẹ vì tính chất của động cơ
và vì hoàn cảnh phạm tội. Khoản 1 Điều 51 BLHS có quy định một cách cụ thể, rõ
ràng: vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết là một trong những tình tiết để giảm
nhẹ TNHS. Đây được coi là tình tiết giảm nhẹ TNHS – cơ sở để giảm nhẹ hình
phạt trong phạm vi của khung luật tương ứng.
– Gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội
Khoản 1 điều 24 BLHS 2015 quy đinh: hành vi của người để bắt giữ người thực
hiện hành vi phạm tội mà không còn cách nào khác là buộc phải sử dụng vũ lực
cần thiết gây thiệt hại cho người bị bắt giữ thì không phải là tội phạm.
Việc ghi nhận, bổ sung trường hợp này là trường hợp loại trừ TNHS có ý nghĩa
quan trọng trong thực tiễn đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Quy định này
phù hợp với quan điểm của Đảng và Nhà nước ta trong đấu tranh phòng, chống tội
phạm là phải dựa vào sức mạnh của cả hệ thống chính trị, huy động toàn thể xã hội
chung sức, chung lòng phát huy tính tích cực của công dân trong cuộc đấu tranh
này(6). Mặt khác, khuyến khích, phát huy tinh thần chủ động đấu tranh ngăn chặn
hành vi phạm tội và bắt giữ kịp thời những người đang lẩn trốn sự trừng trị của
pháp luật, cũng như là “minh chứng về ý thức pháp luật và tính tích cực đối với
trách nhiệm công dân của người bắt giữ…” (7).
Để được coi là gây thiệt hại trong bắt giữ người phạm tội là một trường hợp loại
trừ TNHS, hành vi bắt giữ phải thỏa măn các điều kiện sau: Thứ nhất: Hành vi bắt
giữ phải thuộc về các chủ thể có thẩm quyền bắt giữ người phạm tội; Thứ hai:

Hành vi dùng vũ lực gây thiệt hại cho người bị bắt giữ phải là biện pháp cuối cùng,
không còn cách nào khác để bắt giữ người phạm tội; Thứ ba: Hành vi dùng vũ lực
gây thiệt hại cho người bị bắt giữ phải là cần thiết.


Bên cạnh đó, để tránh tình trạng lạm dụng quy định này mà những người bắt giữ
người phạm tội đã sử dụng vũ lực quá mức cần thiết gây tổn hại sức khỏe, thể chất
của người bị bắt giữ cũng như các quyền, lợi ích hợp pháp khác của họ, Khoản 2
Điều 24 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định: “Trường hợp gây
thiệt hại do sử dụng vũ lực rõ ràng vượt quá mức cần thiết, thì người gây thiệt hại
phải chịu trách nhiệm hình sự”. Quy định này được xây dựng dựa trên tinh thần
của Hiến pháp năm 2013 về quyền được bảo vệ về sức khỏe, về thân thể kể cả khi
người đó là người bị bắt giữ: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể,
được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo
lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể,
sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm”. Đồng thời, quy định này cũng thể hiện
tính ưu việt của hoạt động nội luật hóa Công ước Liên hợp quốc về chống tra tấn
và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo vô nhân đạo hoặc hạ nhục con
người
Tuy nhiên, đối với trường hợp gây thiệt hại do sử dụng vũ lực rõ ràng vượt quá
mức cần thiết cho người bị bắt giữ, thì người gây thiệt hại tuy phải chịu trách
nhiệm hình sự nhưng pháp luật hình sự Việt Nam vẫn xác định đó là một trong
những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm đ Khoản 1 Điều 51
và trong một số tội phạm liên quan đến việc bắt giữ người phạm tội, thì mức độ
trách nhiệm hình sự cũng được quy định theo hướng giảm nhẹ, cụ thể: Tội giết
người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết
khi bắt giữ người phạm tộiquy định tại Điều 126 và Tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính
đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội quy định tại Điều
136 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Quy định này thể hiện

chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước đối với các trường hợp phạm tội cụ thể,
đảm bảo cơ chế pháp lý để mọi người dân có ý thức tôn trọng và bảo vệ pháp luật.
– Rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và
công nghệ
Điều 25 BLHS 2015 quy định: Rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến
bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ là một trường hợp loại trừ TNHS lần đầu tiên
được quy định trong BLHS năm 2015, đó là hành vi của một người đã gây thiệt hại
khi tiến hành, thực hiện việc nghiên cứu, thủ nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ
thuật và công nghệ mới mặc dù đã tuân thủ đúng quy trình, quy phạm, áp dụng đầy
đủ biện pháp phòng ngừa. Hành vi gây thiệt trong trường hợp nói trên không phải
là tội phạm. Việc quy định, bổ sung trường hợp này là trường hợp loại trừ TNHS
có ý nghĩa khuyến khích sự sáng tạo, đổi mới công nghệ, tạo động lực, động viên


sự sáng tạo của các nhà khoa học, nhà sản xuất. Mặt khác, tạo hành lang pháp lý an
toàn để người dân an tâm tham gia vào các hoạt động sản xuất, nghiên cứu khoa
học có tính chất “đột phá” vì lợi ích chung (8).
Để coi rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và
công nghệ là một trường hợp loại trừ TNHS, hành vi gây thiệt hại trong nghiên
cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ phải thỏa mãn
các điều kiện sau: Thứ nhất: Hành vi gây thiệt hại trong nghiên cứu, thử nghiệm,
áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ phải nhằm mục đích đem lại lợi
ích cho xã hội; Thứ hai: Lĩnh vực của hành vi gây thiệt hại chỉ giới hạn trong
nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ; Thứ ba:
Người gây ra thiệt hại đã tuân thủ đúng quy trình, quy phạm, áp dụng đầy đủ biện
pháp phòng ngừa.
Thực tế cho thấy, được coi là rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ
khoa học, kỹ thuật và công nghệ nếu những rủi ro này xảy ra khi tiến hành các hoạt
động nhằm mục đích phục vụ lợi ích xã hội và mục đích đó không thể đạt được nếu
không có sự mạo hiểm cần thiết và người thực hiện sự mạo hiểm cần thiết đó đã

tuân thủ đúng quy trình, quy phạm, áp dụng đầy đủ biện pháp phòng ngừa để ngăn
chặn thiệt hại có thể xảy ra cho các lợi ích hợp pháp được pháp luật hình sự bảo vệ.
Việc quy định trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự này có ý nghĩa hết sức quan
trọng, tạo ra động lực mới cho sự phát triển, tiến bộ không ngừng của nền khoa
học, kỹ thuật nước nhà, khơi dậy tinh thần và ngọn lửa đam mê nghiên cứu, thử
nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới của các nhà khoa
học, các chuyên gia và của mọi người dân trong xã hội.
Bên cạnh đó, không được thừa nhận là rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp
dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ nếu người nào đó trước khi tiến hành
hoạt động nghề nghiệp, sản xuất hoặc nghiên cứu khoa học đã nhìn thấy trước
nguy cơ đe dọa tính mạng con người, đe dọa gây ra thảm họa môi trường hoặc tai
họa cho xã hội và không áp dụng đúng quy trình, quy phạm, không áp dụng đầy đủ
biện pháp phòng ngừa mà gây thiệt hại thì vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự. Quy
định này góp phần khắc phục tình trạng thiếu trách nhiệm trong các hoạt động
nghiên cứu, ứng dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ, góp phần
giảm thiểu đến mức thấp nhất những nguy cơ xảy ra thiệt hại của các hoạt động
nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ.
– Thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc cấp trên


Thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc cấp trên là một trường hợp loại trừ
TNHS chính thức được quy định trong BLHS năm 2015, đó là hành vi gây thiệt hại
trong khi thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên trong
lực lượng vũ trang nhân dân để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh nếu đã
thực hiện đầy đủ quy trình báo cáo người ra mệnh lệnh nhưng người ra mệnh lệnh
vẫn yêu cầu chấp hành mệnh lệnh đó. Hành vi gây thiệt hại trong trường hợp này
không phải chịu TNHS. Việc quy định, bổ sung trường hợp thi hành mệnh lệnh của
người chủ huy hoặc cấp trên là một trường hợp loại trừ TNHS sẽ góp phần đảm
bảo tuân thủ tuyệt đối, triệt để nguyên tắc “cấp dưới phải phục tùng cấp trên” đối
với mệnh lệnh, chỉ thị hay quyết định trong lực lượng vũ trang nhân dân (9), đảm

bảo tính kỷ luật, sức mạnh của lực lượng vũ trang nhân dân.
Để coi thi hành mệnh lệnh của người chủ huy hoặc cấp trên là một trường hợp loại
trừ TNHS, khi hành vi gây thiệt hại khi thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc
cấp trên phải thỏa mãn các điều kiện sau: Thứ nhất: mệnh lệnh mà người có hành
vi gây thiệt hại thi hành phải là mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc cấp trên (người
có thẩm quyền) thuộc lực lượng vũ trang nhân dân; Thứ hai: mục đích của việc thi
hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc cấp trên thuộc lực lượng vũ trang phải
nhằm mục đích thực hiện các nhiệm vụ quốc phòng, an ninh; Thứ ba: người có
hành vi gây thiệt hại đã thực hiện đầy đủ quy trình báo cáo người ra mệnh lệnh
nhưng người ra mệnh lệnh vẫn yêu cầu chấp hành mệnh lệnh đó; Thứ tư: việc thi
hành mệnh lệnh này không thuộc trường hợp phạm tội phá hoại hòa bình, gây
chiến tranh xâm lược do thi hành mệnh lệnh của cấp trên (khoản 2 Điều 421), tội
chống loài người do thi hành mệnh lệnh của cấp trên (khoản 2 Điều 422), tội phạm
chiến tranh do thi hành mệnh lệnh của cấp trên (khoản 2 Điều 423). Như vậy, hành
vi gây thiệt hại thi hành mệnh lệnh của người chủ huy hoặc cấp trên thỏa mãn các
điều kiện nói trên sẽ được coi là trường hợp loại trừ TNHS và người thực hiện
hành vi gây thiệt hại này sẽ không phải chịu TNHS. Tuy nhiên, đối với người ra
mệnh lệnh nói trên sẽ phải chịu TNHS theo quy định của pháp luật.
Thực tiễn cho thấy, trong hoạt động quản lý nhà nước, quản lý hành chính nhà
nước nói chung, trong tổ chức và hoạt động của các lực lượng vũ trang nhân dân
nói riêng, quan hệ phục tùng – mệnh lệnh có tính đặc thù, xuất phát từ tính chất và
yêu cầu kỷ luật tuyệt đối, thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên
là yêu cầu bắt buộc đối với cấp dưới để thực hiện những nhiệm vụ liên quan đến
quốc phòng, an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội. Mặc dù vậy, những người
cấp dưới thuộc biên chế của lực lượng vũ trang nhân dân đều là những người am
hiểu về lĩnh vực công tác của mình, có khả năng nhận thức được đầy đủ tính chất
của mệnh lệnh mà cấp trên ban hành là đúng hay không đúng. Vì vậy, việc thi hành
mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên không phải bao giờ cũng loại trừ



trách nhiệm hình sự của người thi hành mệnh lệnh. Nói cách khác, nếu người thi
hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên không biết hoặc không có
nghĩa vụ phải biết rõ mệnh lệnh là bất hợp pháp thì họ không phải chịu trách nhiệm
hình sự. Ngược lại, trách nhiệm hình sự có thể được đặt ra đối với người thi hành
mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên có tính chất trái pháp luật và nguy
hiểm đáng kể gây thiệt hại cho xã hội, nếu người thi hành mệnh lệnh nhận thức
được và buộc phải nhận thức được tính trái pháp luật của mệnh lệnh mà không
thực hiện đầy đủ quy trình báo cáo người chỉ huy hoặc cấp trên đã ra mệnh lệnh.
Đặc biệt, quy định về loại trừ trách nhiệm hình sự trong khi thi hành mệnh lệnh của
người chỉ huy hoặc của cấp trên không được áp dụng đối với các trường hợp quy
định tại Khoản 2 Điều 421 (Tội phá hoại hòa bình, gây chiến tranh xâm lược),
Khoản 2 Điều 422 (Tội chống loài người) và Khoản 2 Điều 423 (Tội phạm chiến
tranh) chương XXVI (Các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm
chiến tranh) của BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
BLHS năm 2015 đã chính thức quy định các trường hợp loại trừ TNHS thành một
chương thống nhất với 07 trường hợp cụ thể thay vì, quy định mang tính chất tản
mạn như trong BLHS năm 1999. Điều này đã góp phần vào việc nhận thức thống
nhất về phạm vi các trường hợp được coi là trường hợp loại trừ TNHS. Tuy nhiên,
nên sử dụng thống nhất thuật ngữ quy định về hậu quả pháp lý của các trường hợp
loại trừ TNHS là không phải chịu TNHS thay vì có trường hợp quy định không
phải chịu TNHS (Sự kiện bất ngờ, tình trạng không có năng lực TNHS, Thi hành
mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc cấp trên), có trường hợp quy định không phải là
tội phạm (04 trường hợp còn lại). Bởi lẽ, suy cho cùng dù có thuộc trường hợp
không phải là tội phạm hay trường hợp đã hoặc có thể là tội phạm, nhưng được coi
không phải là tội phạm thì đều không đặt ra vấn đề TNHS đối với người có hành vi
gây thiệt hại, vì hành vi gây thiệt hại của họ thuộc các trường hợp được loại trừ
TNHS.
Có thể nói, BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã thể chế hóa chính
sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta trong bối cảnh cải cách tư pháp, đáp ứng
yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới, tiếp thu những giá

trị của nền văn minh nhân loại và truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tham khảo kinh
nghiệm lập pháp của một số nước trên thế giới. Đồng thời, tiếp tục nội luật hóa
những cam kết quốc tế mà Việt Nam đã phê chuẩn vào hệ thống pháp luật quốc
gia, góp phần từng bước xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự trong
điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.
Th.s Nguyễn Văn Điền – Viện KSND thị xã Xơn Tây


Tài
liệu
tham
khảo
1. Chỉ thị 07/ 22.12.1983 của TANDTC đã hướng dẫn cụ thể các hành vi được xác
định

phòng
vệ
chính
đáng(1)
2. Đinh Bích Hà, (2007), Bộ luật hình sự của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa,
Nxb

pháp,
trang
43,
44,
45 (2)
3, Hoàng Quốc Việt (2015), Những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự trong
Dự thảo Bộ luật hình sự (sửa đổi), Số Chuyên đề sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự,
Tạp

chí
Dân
chủ

pháp
luật,
trang
87(6),
94(3)
4. Bộ Tư pháp, (2016), Tài liệu hội nghị Quán triệt, phổ biên BLHS năm 2015
và Nghị quyết số 109/2015/QH13 về việc thi hành Bộ luật hình sự, Tháng 4/2016,
trang
16(4)
5. GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa (2010), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (tập 1 – chủ
biên),
Nxb Công
annhân
dân,
trang
124(5).
6. GS.TSKH. Lê Văn Cảm, Sách chuyên khảo Sau đại học: Những vấn đề cơ bản
trong khoa học luật hình sự (Phần chung), Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005,
trang
579(6).
7. Bộ Tư pháp (2016), Tài liệu hội nghị Quán triệt, phổ biên BLHS năm 2015 và
Nghị quyết số 109/2015/QH13 về việc thi hành Bộ luật hình sự, Tháng 4/2016,
trang
11(7)
8. Luật Công an nhân dân năm 2005(8).


Thẩm quyền lập Biên bản vi phạm hành chính
Luật xử lý vi phạm hành chính (Luật XLVPHC) được Quốc hội nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 20/6/2012, các
quy định về xử phạt vi phạm hành chính của Luật có hiệu lực kể từ ngày
01/7/2013. Theo quy định của Luật, việc xử phạt vi phạm hành chính phải tuân
theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ, bao gồm nhiều khâu (bước) khác nhau: Phát
hiện hành vi vi phạm hành chính và buộc chấm dứt hành vi vi phạm, lập biên
bản vi phạm hành chính; áp dụng các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử phạt vi
phạm hành chính; xem xét, ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính; thi hành
quyết định xử phạt vi phạm hành chính… (trừ trường hợp xử phạt vi phạm hành
chính theo thủ tục không lập biên bản hay còn gọi là thủ tục đơn giản, áp dụng đối
với trường hợp xử phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền đến 250.000 đồng đối với cá nhân,
500.000 đồng đối với tổ chức[1]). Lập biên bản vi phạm hành chính là một trong
những khâu trong quá trình xử phạt có lập biên bản, hồ sơ xử phạt vi phạm hành
chính. Có thể nói, đây là một trong những khâu quan trọng nhất của quá trình xem


xét, ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính, bởi vì, nếu không lập biên bản để
ghi nhận, xác định hành vi vi phạm hành chính thì sẽ không có căn cứ để ban hành
quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 68
Luật XLVPHC thì trong quyết định xử phạt vi phạm hành chính phải có nội dung
liên quan đến biên bản vi phạm hành chính:
1. Quyết định xử phạt vi phạm hành chính phải bao gồm các nội dung chính sau
đây:
… c) Biên bản vi phạm hành chính…
Theo mẫu quyết định số 02 – Quyết định xử phạt vi phạm hành chính (MQĐ 02)
ban hành kèm theo Nghị định số 97/2017/NĐ-CP ngày 18/8/2017 của Chính phủ
sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 81/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013
quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật xử lý vi phạm hành
chính thì tại phần căn cứ ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính phải có

biên bản vi phạm hành chính.
Việc lập biên bản vi phạm hành chính nếu không được thực hiện hoặc thực hiện
không đúng thẩm quyền pháp luật quy định sẽ dẫn đến hậu quả là quyết định xử
phạt vi phạm hành chính được ban hành trái quy định pháp luật vì vi phạm trình tự,
thủ tục. Đây cũng là một trong những sai sót thường gặp trong quá trình áp dụng
pháp luật về xử lý vi phạm hành chính[2].
Trong phạm vi bài viết này, tác giả tập trung phân tích, làm rõ các nội dung pháp lý
liên quan đến thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính nhằm bảo đảm tính hợp
pháp của việc ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính, bảo đảm quyền và
lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức liên quan. Trên cơ sở nghiên cứu, tác giả
cũng chỉ ra một số bất cập trong các quy định pháp luật hiện hành, đồng thời, kiến
nghị, đề xuất hướng xử lý nhằm hoàn thiện hơn nữa các quy định pháp luật về vấn
đề này.
1. Những người có thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính
1.1. Việc quy định các chức danh có thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành
chính
Điều 4 Luật XLVPHC quy định: “Căn cứ quy định của Luật này, Chính phủ quy
định hành vi vi phạm hành chính; hình thức xử phạt, mức xử phạt, biện pháp khắc
phục hậu quả đối với từng hành vi vi phạm hành chính; thẩm quyền xử phạt, mức
phạt tiền cụ thể theo từng chức danh và thẩm quyền lập biên bản đối với vi phạm
hành chính trong từng lĩnh vực quản lý nhà nước…”.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 6 Nghị định số 81/2013/NĐ-CP (đã được sửa đổi,
bổ sung theo Nghị định số 97/2017/NĐ-CP) thì người có thẩm quyền lập biên bản
vi phạm hành chính gồm: “người có thẩm quyền xử phạt, công chức, viên chức và


người thuộc lực lượng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân đang thi hành công
vụ, nhiệm vụ theo văn bản quy phạm pháp luật hoặc văn bản hành chính do cơ
quan, người có thẩm quyền ban hành; người chỉ huy tàu bay, thuyền trưởng,
trưởng tàu và những người được chỉ huy tàu bay, thuyền trưởng, trưởng tàu giao

nhiệm vụ lập biên bản”.
Theo quy định nêu trên thì người có thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính
gồm 02 loại chủ thể sau đây:
Thứ nhất, là những người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính (các chức
danh có thẩm quyền xử phạt được quy định tại các điều từ Điều 38 đến Điều 51
Luật XLVPHC).
Thứ hai, là những người không có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính nhưng
được pháp luật trao quyền lập biên bản vi phạm hành chính, gồm: (i) Công chức,
viên chức và người thuộc lực lượng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân đang thi
hành công vụ, nhiệm vụ; (ii) người chỉ huy tàu bay, thuyền trưởng, trưởng tàu và
những người được chỉ huy tàu bay, thuyền trưởng, trưởng tàu giao nhiệm vụ lập
biên bản.
Đoạn 2 khoản 1 Điều 6 Nghị định số 81/2013/NĐ-CP (đã được sửa đổi, bổ sung
theo Nghị định số 97/2017/NĐ-CP) cũng quy định: “Các chức danh có thẩm
quyền lập biên bản được quy định cụ thể tại các nghị định xử phạt vi phạm hành
chính trong từng lĩnh vực quản lý nhà nước”. Quy định này được hiểu là, Chính
phủ quy định cụ thể từng chức danh có thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành
chính trong các nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong từng lĩnh vực quản lý
nhà nước, tuy nhiên, các chức danh này phải đáp ứng yêu cầu tại khoản 1 Điều 6
Nghị định số 81/2013/NĐ-CP (đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số
97/2017/NĐ-CP): Phải là công chức, viên chức hoặc người thuộc lực lượng Quân
đội nhân dân, Công an nhân dân đang thi hành công vụ, nhiệm vụ. Việc quy định
rõ chức danh có thẩm quyền lập biên bản có ý nghĩa rất quan trọng để tránh sự lạm
dụng, tùy tiện của các lực lượng chức năng khi tham gia xử phạt vi phạm hành
chính, góp phần bảo đảm trật tự, kỷ cương của quản lý nhà nước. Tuy nhiên, không
giống như các chức danh có thẩm quyền xử phạt (tại các điều từ Điều 38 đến Điều
51), Luật XLVPHC không quy định liệt kê cụ thể các chức danh có thẩm quyền lập
biên bản vì trong thực tiễn, lực lượng này rất đông đảo do xử phạt vi phạm hành
chính diễn ra trong nhiều lĩnh vực quản lý nhà nước khác nhau. Để bảo đảm tính
linh hoạt, phù hợp với thực tiễn quản lý nhà nước, tại Điều 4 của Luật XLVPHC,

Quốc hội giao Chính phủ quy định cụ thể thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành
chính trong từng lĩnh vực quản lý nhà nước. Theo đó, nghị định quy định về xử
phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực quản lý nhà nước quy định cụ thể các
chức danh có thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính. Tuy nhiên, hiện nay,
một số nghị định của Chính phủ[3] chưa có quy định liệt kê cụ thể các chức danh
có thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính trong từng lĩnh vực quản lý nhà


nước dẫn đến khó khăn, vướng mắc trong việc xác định người có thẩm quyền lập
biên bản vi phạm hành chính[4], ví dụ như:
– Điều 101 Nghị định số 174/2013/NĐ-CP ngày 13/11/2013 của Chính phủ quy
định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, công nghệ
thông tin và tần số vô tuyến điện quy định: “Các chức danh nêu tại các điều 95,
96, 97, 98, 99 và 100 Nghị định này, công chức, viên chức đang thi hành công vụ
trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, công nghệ thông tin và tần số vô tuyến điện
có quyền lập biên bản vi phạm hành chính theo quy định”.
– Điều 94 Nghị định số 176/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 của Chính phủ quy
định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế quy định:
Người có thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế bao
gồm:
1. Người có thẩm quyền xử phạt.
2. Công chức, viên chức thuộc ngành y tế, bảo hiểm xã hội đang thi hành công vụ,
nhiệm vụ được giao…
Trong thời gian tới đây, khi tiến hành sửa đổi, bổ sung, thay thế các nghị định quy
định xử phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực quản lý nhà nước, Chính phủ
cần quan tâm, chỉ đạo các bộ, ngành về vấn đề này:
Thứ nhất, yêu cầu các bộ, ngành được giao chủ trì xây dựng, trình Chính phủ ban
hành các nghị định sửa đổi, bổ sung, thay thế nêu trên nghiên cứu, chỉnh sửa, bổ
sung quy định cụ thể các chức danh có thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành
chính trong từng lĩnh vực quản lý nhà nước để kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng

mắc trong thực tế xác định người có thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính.
Thứ hai, yêu cầu Bộ Tư pháp trong quá trình thẩm định, Văn phòng Chính phủ
trong quá trình thẩm tra trước khi trình Chính phủ thông qua các nghị định này cần
lưu ý vấn đề quy định cụ thể các chức danh có thẩm quyền lập biên bản vi phạm
hành chính trong từng lĩnh vực quản lý nhà nước.
1.2. Việc lập biên bản vi phạm hành chính của một số chức danh cụ thể
a) Đối với chức danh Trưởng đoàn thanh tra chuyên ngành
Trong số các chức danh có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính được quy định
tại các điều từ Điều 38 đến Điều 51 Luật XLVPHC, Trưởng đoàn thanh tra chuyên
ngành là chức danh duy nhất chỉ tồn tại trong một khoảng thời gian nhất định
(trong thời hạn thanh tra). Hết thời hạn thanh tra theo quy định pháp luật thì chức
danh này không còn tồn tại. Do vậy, thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính,
xử phạt vi phạm hành chính cũng như các vấn đề liên quan đến thẩm quyền lập
biên bản và xử phạt vi phạm hành chính của chức danh Trưởng đoàn thanh tra


chuyên ngành có nét đặc thù riêng. Cụ thể, theo quy định tại khoản 3a Điều 5 Nghị
định số 81/2013/NĐ-CP (đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 97/2017/NĐCP) thì: Trưởng đoàn thanh tra chuyên ngành có thẩm quyền xử phạt đối với hành
vi vi phạm hành chính thuộc phạm vi, nội dung cuộc thanh tra trong thời hạn thanh
tra theo quy định của pháp luật về thanh tra. Trường hợp quyết định xử phạt vi
phạm hành chính bị khiếu nại thì người ra quyết định thanh tra có trách nhiệm tiếp
nhận, giải quyết hoặc chỉ đạo người đã ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành
chính giải quyết theo quy định của pháp luật về thanh tra và khiếu nại.
Trong nhiều trường hợp thực tế, thông thường, sau khi tiến hành việc thanh tra,
Đoàn thanh tra chuyên ngành có kết luận thanh tra, trong đó có kết luận chính thức
về việc vi phạm hành chính thì Trưởng đoàn thanh tra chuyên ngành mới lập biên
bản đối với vụ việc vi phạm hành chính[5], lúc này, thời hạn thanh tra đã hết. Một
ví dụ cụ thể: Trưởng đoàn thanh tra chuyên ngành của Sở Tư pháp tỉnh A thực hiện
việc thanh tra hoạt động của tổ chức bán đấu giá tài sản. Thời hạn thanh tra là 10
ngày, kể từ ngày 01/8/2018. Tuy nhiên, đến ngày 22/8/2018, sau khi có kết luận

thanh tra về hành vi vi phạm hành chính, Trưởng đoàn thanh tra chuyên ngành mới
lập biên bản vi phạm hành chính và ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối
với tổ chức bán đấu giá tài sản. Việc lập biên bản vi phạm hành chính và ra quyết
định xử phạt vi phạm hành chính của Trưởng đoàn thanh tra trong trường hợp này
là không đúng thẩm quyền pháp luật quy định, việc này lẽ ra phải được thực hiện
trong vòng 10 ngày của thời hạn thanh tra, nếu ngoài thời hạn thanh tra thì Đoàn
thanh tra chuyên ngành phải chuyển vụ việc cho người có thẩm quyền xử lý. Lúc
này, người có thẩm quyền lập biên bản và xử phạt vi phạm hành chính cần ghi căn
cứ “kết luận thanh tra” vào phần căn cứ lập biên bản vi phạm hành chính.
b) Đối với chức danh Trưởng đoàn kiểm tra liên ngành
Khoản 5 Điều 30 Nghị định số 81/2013/NĐ-CP quy định về thẩm quyền của Chủ
tịch Ủy ban nhân dân các cấp trong việc “thành lập đoàn kiểm tra liên ngành để
thực hiện kiểm tra liên ngành về tình hình thi hành pháp luật xử lý vi phạm hành
chính trong trường hợp quy định tại các điểm b, c và d khoản 2 Điều 21 của Nghị
định này”. Tuy nhiên, Luật XLVPHC và các văn bản quy định chi tiết thi hành
Luật không có quy định về việc Trưởng đoàn kiểm tra liên ngành được lập biên
bản vi phạm hành chính. Do vậy, trên thực tế, trong quá trình kiểm tra, nếu phát
hiện hành vi vi phạm hành chính thì đoàn kiểm tra liên ngành cần tham mưu cho
người đã ra quyết định thành lập đoàn kiểm tra kiến nghị cơ quan, người có thẩm
quyền xử lý theo quy định pháp luật.


c) Việc lập biên bản vi phạm hành chính của cấp phó của các chức danh có
thẩm quyền xử phạt trong trường hợp được cấp trưởng giao quyền xử phạt vi
phạm hành chính
Hiện nay, Luật XLVPHC không có quy định cụ thể về việc cấp phó của các chức
danh có thẩm quyền xử phạt trong trường hợp được cấp trưởng giao quyền xử phạt
vi phạm hành chính thì có được lập biên bản vi phạm hành chính hay không.
Khoản 1 Điều 54 Luật XLVPHC chỉ quy định: Người có thẩm quyền xử phạt vi
phạm hành chính có thể giao cho cấp phó thực hiện thẩm quyền xử phạt vi phạm

hành chính[6]; không quy định cụ thể việc được giao quyền xử phạt thì đương
nhiên được giao quyền lập biên bản vi phạm hành chính. Do vậy, trong thực tế, cấp
phó được cấp trưởng giao quyền xử phạt vi phạm hành chính rất bị động trong giải
quyết công việc, đặc biệt là những trường hợp cấp phó được cấp trưởng giao quyền
xử phạt thường xuyên.
Thiết nghĩ, vấn đề này cũng cần phải được lưu ý để sửa đổi, bổ sung trong quá
trình xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật XLVPHC sắp tới nhằm
kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc nảy sinh trong thực tiễn[7].
2. Thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính trong trường hợp vụ việc có
nhiều hành vi vi phạm thuộc các lĩnh vực quản lý nhà nước khác nhau
Theo quy định tại khoản 1 Điều 58 Luật XLVPHC thì: “Khi phát hiện vi phạm
hành chính thuộc lĩnh vực quản lý của mình, người có thẩm quyền đang thi hành
công vụ phải kịp thời lập biên bản…”.
Khoản 2 Điều 6 Nghị định số 81/2013/NĐ-CP cũng quy định: Những người có
thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính (gồm những người có thẩm quyền xử
phạt và những người không có thẩm quyền xử phạt) chỉ có quyền “lập biên bản về
những vi phạm thuộc phạm vi thi hành công vụ, nhiệm vụ được giao”. Ví dụ, người
có thẩm quyền trong lĩnh vực an toàn thực phẩm đang thi hành công vụ, nhiệm vụ
thì có quyền lập biên bản vi phạm trong lĩnh vực an toàn thực phẩm; người có
thẩm quyền trong lĩnh vực đất đai thì có quyền lập biên bản về vi phạm hành chính
trong lĩnh vực đất đai… Quy định này nhằm khắc phục sự tuỳ tiện, lạm quyền của
người có thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính khi thi hành công vụ, nhiệm
vụ, đồng thời cũng hạn chế đến mức thấp nhất khả năng tranh chấp về thẩm quyền
lập biên bản vi phạm hành chính hoặc đùn đẩy trách nhiệm giữa các lực lượng
chức năng trong việc lập biên bản vi phạm hành chính. Mặt khác, chỉ những người
có trình độ chuyên môn thuộc lĩnh vực công tác, quản lý của mình mới có điều
kiện phát hiện và lập biên bản về vi phạm thuộc lĩnh vực mình phụ trách[8].
Tuy nhiên, đoạn 1 khoản 2 Điều 6 Nghị định số 81/2013/NĐ-CP (đã được sửa đổi,
bổ sung theo Nghị định số 97/2017/NĐ-CP) lại quy định khác: “Người có thẩm



quyền lập biên bản vi phạm hành chính nhưng không có thẩm quyền xử phạt” chỉ
có quyền lập biên bản về những vi phạm thuộc phạm vi thi hành công vụ, nhiệm vụ
được giao. Quy định này dường như chỉ hạn chế quyền lập biên bản của người có
thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính nhưng không có thẩm quyền xử phạt
đối với những hành vi vi phạm hành chính không thuộc phạm vi thi hành công vụ,
nhiệm vụ mà họ được giao và điều này dẫn đến cách hiểu rằng: Người có thẩm
quyền lập biên bản vi phạm hành chính đồng thời là các chức danh có thẩm quyền
xử phạt sẽ đương nhiên được lập biên bản đối với tất cả các hành vi vi phạm hành
chính, kể cả những hành vi vi phạm hành chính không thuộc phạm vi thi hành công
vụ, nhiệm vụ mà họ được giao[9].
Về vấn đề này, theo tác giả, cần đặt quy định tại đoạn 1 khoản 2 Điều 6 Nghị định
số 81/2013/NĐ-CP (đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 97/2017/NĐ-CP)
trong mối liên hệ với với quy định tại đoạn 2 khoản 2 Điều 6 Nghị định số
81/2013/NĐ-CP (đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 97/2017/NĐ-CP).
Toàn bộ khoản 2 Điều 6 Nghị định số 81/2013/NĐ-CP (đã được sửa đổi, bổ sung
theo Nghị định số 97/2017/NĐ-CP) quy định về trường hợp vụ việc vi phạm vừa
có hành vi vi phạm thuộc thẩm quyền xử phạt của người lập biên bản, vừa có hành
vi vi phạm không thuộc thẩm quyền xử phạt hoặc vượt quá thẩm quyền xử phạt
của người lập biên bản (tức là chỉ đề cập đến thẩm quyền lập biên bản vi phạm
hành chính của các chức danh có thẩm quyền xử phạt đối với vụ việc có nhiều
hành vi vi phạm hành chính, trong đó vừa có hành vi vi phạm thuộc thẩm quyền xử
phạt của người lập biên bản, vừa có hành vi vi phạm không thuộc thẩm quyền xử
phạt của người lập biên bản; không đề cập thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành
chính của các chức danh có thẩm quyền xử phạt đối với vụ việc có nhiều hành vi vi
phạm hành chính mà trong đó không có hành vi vi phạm nào thuộc thẩm quyền xử
phạt của họ). Hay nói cách khác, chỉ trong vụ việc vi phạm có nhiều hành vi vi
phạm, trong đó vừa có hành vi vi phạm thuộc thẩm quyền, vừa có hành vi vi phạm
không thuộc thẩm quyền xử phạt của chức danh có thẩm quyền xử phạt thì chức
danh có thẩm quyền xử phạt mới được thực hiện việc lập biên bản đối với tất cả

các hành vi vi phạm hành chính trong vụ việc đó. Do vậy, không thể mặc nhiên
thừa nhận, trong mọi vụ việc vi phạm thì các chức danh có thẩm quyền xử phạt
được lập biên bản đối với tất cả các hành vi vi phạm hành chính, kể cả những hành
vi vi phạm hành chính không thuộc phạm vi thi hành công vụ, nhiệm vụ mà họ
được giao. Nếu trong vụ việc vi phạm không có bất kỳ hành vi vi phạm hành chính
nào thuộc lĩnh vực quản lý của người có thẩm quyền lập biên bản phát hiện ra vụ
việc thì người này không được lập biên bản vi phạm hành chính đối với các hành
vi vi phạm trong vụ việc đó, việc lập biên bản vi phạm hành chính đối với các hành
vi vi phạm phải do người có thẩm quyền lập biên bản được quy định tại nghị định
về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý nhà nước thực hiện.


Trước khi Nghị định số 97/2017/NĐ-CP được ban hành và có hiệu lực, đối với
trường hợp vụ việc vi phạm trên thực tế khi được phát hiện có nhiều hành vi vi
phạm hành chính thuộc các lĩnh vực quản lý khác nhau, người có thẩm quyền phát
hiện ra vụ việc vi phạm thường rất lúng túng, không biết có được lập biên bản đối
với tất cả các hành vi vi phạm không, hay chỉ lập biên bản về hành vi vi phạm
thuộc phạm vi quản lý của mình? Ví dụ trường hợp Chiến sỹ Cảnh sát giao thông
trong quá trình tiến hành tuần tra, kiểm soát giao thông phát hiện 01 xe ô tô chạy
quá tốc độ quy định, khi dừng xe thì phát hiện trên xe chở số lượng lớn gỗ không
có hồ sơ hợp pháp, không có dấu búa kiểm lâm theo quy định của pháp luật. Trong
trường hợp này, Chiến sỹ Cảnh sát giao thông phát hiện ra vụ việc vi phạm có được
lập biên bản đối với tất cả các hành vi vi phạm (hành vi điều khiển phương tiện
chạy quá tốc độ và hành vi vận chuyển lâm sản trái pháp luật) không, hay chỉ lập
biên bản về hành vi vi phạm thuộc phạm vi quản lý của mình (hành vi điều khiển
phương tiện chạy quá tốc độ)?
Quy định tại khoản 2 Điều 6 Nghị định số 81/2013/NĐ-CP (đã được sửa đổi, bổ
sung theo Nghị định số 97/2017/NĐ-CP) nhằm xử lý những vụ việc vi phạm trên
thực tế khi được phát hiện có thể bao gồm nhiều hành vi vi phạm hành chính thuộc
các lĩnh vực quản lý khác nhau (trong đó có hành vi vi phạm thuộc lĩnh vực quản

lý của người lập biên bản). Theo đó, người có thẩm quyền lập biên bản phải tiến
hành lập biên bản vi phạm hành chính đối với tất cả các hành vi vi phạm liên quan
đến vụ việc để bảo đảm nguyên tắc “mọi hành vi vi phạm phải được phát hiện,
ngăn chặn kịp thời” (quy định tại điểm a khoản 1 Điều 3 Luật XLVPHC), sau đó,
biên bản phải được chuyển ngay đến người có thẩm quyền xử phạt để tiến hành xử
phạt theo quy định tại khoản 3 Điều 58 Luật XLVPHC. Tuy nhiên, thẩm quyền lập
biên bản đối với tất cả hành vi vi phạm trong trường hợp này chỉ được pháp luật
trao cho người có thẩm quyền lập biên bản đồng thời là người có thẩm quyền xử
phạt vi phạm hành chính; khoản 2 Điều 6 Nghị định số 81/2013/NĐ-CP (đã được
sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 97/2017/NĐ-CP) không trao thẩm quyền này
cho người có thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính nhưng không có thẩm
quyền xử phạt. Do đó, khó khăn, vướng mắc liên quan đến xử lý những vụ việc vi
phạm có nhiều hành vi vi phạm hành chính thuộc các lĩnh vực quản lý khác nhau
vẫn chưa được giải quyết một cách triệt để.
Từ thực tế nêu trên, tác giả cho rằng, cần thiết phải nghiên cứu, sửa đổi quy định
tại khoản 2 Điều 6 Nghị định số 81/2013/NĐ-CP (đã được sửa đổi, bổ sung theo
Nghị định số 97/2017/NĐ-CP) theo hướng: (i) Quy định rõ, tất cả những người có
thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính đều chỉ có quyền lập biên bản về
những vi phạm thuộc phạm vi thi hành công vụ, nhiệm vụ được giao (chứ
không giới hạn chỉ người có thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính nhưng
không có thẩm quyền xử phạt như quy định hiện hành); (ii) mở rộng phạm vi điều
chỉnh của đoạn 2 khoản 2 Điều 6 Nghị định số 81/2013/NĐ-CP (đã được sửa đổi,


bổ sung theo Nghị định số 97/2017/NĐ-CP) bao gồm những người có thẩm quyền
lập biên bản vi phạm hành chính nói chung, cả người có thẩm quyền xử phạt và
người không có thẩm quyền xử phạt đều được thực hiện việc lập biên bản vi phạm
hành chính đối với tất cả các hành vi vi phạm trong một vụ việc mà họ phát hiện.
Theo đó, khoản 2 Điều 6 Nghị định số 81/2013/NĐ-CP (đã được sửa đổi, bổ sung
theo Nghị định số 97/2017/NĐ-CP) có thể được sửa đổi như sau:

2. Người có thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính quy định tại khoản 1
Điều này chỉ có quyền lập biên bản về những vi phạm thuộc phạm vi thi hành công
vụ, nhiệm vụ được giao và chịu trách nhiệm về việc lập biên bản.
Trường hợp vụ việc vi phạm vừa có hành vi vi phạm thuộc lĩnh vực quản lý của
người lập biên bản, vừa có hành vi vi phạm không thuộc lĩnh vực quản lý hoặc
thuộc lĩnh vực quản lý nhưng vượt quá thẩm quyền xử phạt của người lập biên
bản, thì người đó vẫn phải tiến hành lập biên bản vi phạm hành chính đối với tất
cả các hành vi vi phạm và chuyển ngay biên bản đến người có thẩm quyền xử phạt
để tiến hành xử phạt theo quy định tại khoản 3 Điều 58 Luật xử lý vi phạm hành
chính.
3. Việc xử lý đối với trường hợp biên bản vi phạm hành chính bị lập sai thẩm
quyền
Trong thực tế, có trường hợp biên bản vi phạm hành chính đã được lập bởi người
không có thẩm quyền theo quy định pháp luật. Vậy xử lý trường hợp này như thế
nào? Người có thẩm quyền lập biên bản theo quy định pháp luật có thể lập biên
bản khác không, nếu lập thì có vi phạm nguyên tắc “một hành vi vi phạm hành
chính chỉ bị lập biên bản và ra quyết định xử phạt một lần” quy định khoản 3 Điều
6 Nghị định số 81/2013/NĐ-CP không?
Để giải quyết vấn đề này, tác giả cho rằng, người có thẩm quyền lập biên bản vi
phạm hành chính cần nghiên cứu kỹ quy định của Luật XLVPHC. Theo quy định
tại khoản 1 Điều 58 Luật XLVPHC thì: “Khi phát hiện vi phạm hành chính thuộc
lĩnh vực quản lý của mình, người có thẩm quyền đang thi hành công vụ phải kịp
thời lập biên bản”. Điều này có nghĩa là, một người chỉ có quyền lập biên bản vi
phạm hành chính nếu vi phạm đó “thuộc lĩnh vực quản lý của mình”, trừ trường
hợp người lập biên bản đồng thời là người có thẩm quyền xử phạt thì được lập biên
bản đối với tất cả hành vi vi phạm (trong đó có hành vi vi phạm thuộc lĩnh vực
quản lý của người lập biên bản) trong cùng một vụ việc vi phạm được phát hiện
như đã nêu tại mục 2 của bài viết.
Như vậy, nếu một chức danh có thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính trong
một hoặc một số lĩnh vực quản lý nhất định nhưng lại tiến hành lập biên bản đối

với một hành vi vi phạm hành chính thuộc lĩnh vực quản lý khác, không thuộc
phạm vi lĩnh vực quản lý được giao thì về mặt nguyên tắc, biên bản đó không được


coi là biên bản vi phạm hành chính, vì biên bản đó không do người có thẩm quyền
lập theo quy định pháp luật. Trong trường hợp này, người có thẩm quyền lập biên
bản vi phạm hành chính theo quy định pháp luật (quy định tại các nghị định xử
phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực quản nhà nước) vẫn được quyền lập
biên bản vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm (nếu vụ việc còn thời hiệu xử
phạt vi phạm hành chính) mà không vi phạm nguyên tắc “một hành vi vi phạm
hành chính chỉ bị lập biên bản và ra quyết định xử phạt một lần” quy định tại
khoản 3 Điều 6 Nghị định số 81/2013/NĐ-CP.
Có thể nói, biên bản vi phạm hành chính là một trong những căn cứ để ban hành
quyết định xử phạt, là cơ sở quan trọng cho việc tiến hành xử phạt vi phạm hành
chính. Việc lập biên bản vi phạm hành chính đòi hỏi phải đáp ứng các yêu cầu,
điều kiện khác nhau do pháp luật quy định (về hình thức, trình tự, thủ tục, nội
dung,…), trong đó có yêu cầu về việc đúng thẩm quyền. Quy định pháp luật hiện
hành về vấn đề này mặc dù đã tương đối đầy đủ nhưng vẫn còn bộc lộ những
khiếm khuyết nhất định, đòi hỏi phải được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Do vậy,
việc tiếp tục nghiên cứu, làm rõ những nội dung liên quan, đánh giá những khó
khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng để từ đó có cơ sở hoàn thiện pháp luật về
vấn đề này là nhiệm vụ cần tiếp tục được đẩy mạnh trong thời gian tới./.
Nguyễn Hoàng Việt, Ths Luật học – CỤC QLXLVPHC&TDTHPL
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012.
2. Nghị định số 81/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 quy định chi tiết một số điều
và biện pháp thi hành Luật xử lý vi phạm hành chính.
3. Nghị định số 97/2017/NĐ-CP ngày 18/8/2017 của Chính phủ sửa đổi, bổ
sung một số điều của Nghị định số 81/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 quy định
chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật xử lý vi phạm hành chính.

4. Nghị định số 176/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 của Chính phủ quy định xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế.
5. Nghị định số 174/2013/NĐ-CP ngày 13/11/2013 của Chính phủ quy định xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, công nghệ
thông tin và tần số vô tuyến điện.
6. Dự thảo Nghị định quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động
tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế tại Việt Nam; hoạt động của tổ chức phi
chính phủ nước ngoài tại Việt Nam và hoạt động chứng nhận lãnh sự, hợp
pháp hóa lãnh sự do Bộ Ngoại giao chủ trì xây dựng gửi Bộ Tư pháp thẩm
định, đăng trên Cổng Thông tin điện tử Bộ Tư pháp, truy cập ngày 09/9/2018,
địa
chỉ
tại />ItemID=2414.


Sách “Tìm hiểu pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính”, Nxb. Tư pháp,
Hà Nội, 2016.
8. Báo cáo số 15/BC-BTP ngày 22/01/2016 về công tác thi hành pháp luật về
xử lý vi phạm hành chính năm 2015 của Bộ Tư pháp gửi Thủ tướng Chính
phủ.
9. Báo cáo số 09/BC-BTP ngày 08/01/2018 về tổng kết thi hành Luật xử lý vi
phạm hành chính của Bộ Tư pháp gửi Thủ tướng Chính phủ.
10. Cổng Thông tin điện tử Sở Xây dựng tỉnh Vĩnh Phúc, Một số vấn đề tồn tại,
hạn chế trong công tác xử lý vi phạm hành chính trong hoạt động xây dựng,
truy
cập
ngày
09/9/2018,
tại
địa

chỉ: />Detail.aspx?ItemID=205, Nguyễn Bá Toàn thực hiện ngày 19/07/2017.
11. Tài liệu “Hội thảo tăng cường cơ chế giám sát thi hành Luật XLVPHC” do
Bộ Tư pháp tổ chức tại Hà Nội ngày 26/7/2018: Tham luận “Tổng quan thực
trạng thực hiện các quy định của Luật XLVPHC và đề xuất, kiến nghị các
giải pháp tăng cường cơ chế giám sát, nâng cao hiệu quả công tác thi hành
Luật” của Cục Quản lý xử lý vi phạm hành chính và theo dõi thi hành pháp
luật, Bộ Tư pháp.
7.

[1] Xem Điều 56 Luật XLVPHC
[2] Cổng Thông tin điện tử Sở Xây dựng tỉnh Vĩnh Phúc, Một số vấn đề tồn tại,
hạn chế trong công tác xử lý vi phạm hành chính trong hoạt động xây dựng, truy
cập
ngày
09/9/2018,
tại
địa
chỉ: />l.aspx?ItemID=205, Nguyễn Bá Toàn thực hiện ngày 19/07/2017
[3] Theo Báo cáo số 09/BC-BTP ngày 08/01/2018 về tổng kết thi hành Luật
XLVPHC của Bộ Tư pháp gửi Thủ tướng Chính phủ, tính đến hết ngày
30/09/2017, Chính phủ đã ban hành tổng số 92 nghị định quy định chi tiết thi hành
Luật XLVPHC (09 nghị định đã hết hiệu lực toàn bộ), trong đó có các nghị định
quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực quản lý nhà nước; theo
báo cáo của Cục Quản lý xử lý vi phạm hành chính và theo dõi thi hành pháp luật
thuộc Bộ Tư pháp tại “Hội thảo tăng cường cơ chế giám sát thi hành Luật
XLVPHC” được tổ chức tại Hà Nội ngày 26/7/2018, tính đến hết ngày 30/6/2018,
đã có khoảng gần 100 nghị định quy định chi tiết thi hành Luật XLVPHC được
Chính phủ ban hành (Tham luận “Tổng quan thực trạng thực hiện các quy định
của Luật XLVPHC và đề xuất, kiến nghị các giải pháp tăng cường cơ chế giám
sát, nâng cao hiệu quả công tác thi hành Luật”)



[4] Phụ lục 10, Báo cáo số 15/BC-BTP ngày 22/01/2016 về công tác thi hành pháp
luật về xử lý vi phạm hành chính năm 2015 của Bộ Tư pháp gửi Thủ tướng Chính
phủ
[5] Tại mục chú thích số (4) của mẫu biên bản vi phạm hành chính số 01 (MBB
01) cũng ghi rõ một trong những căn cứ của việc lập biên bản vi phạm hành chính
là: Kết luận thanh tra
[6] Xem khoản 1 Điều 54 Luật XLVPHC
[7] Ngày 02/02/2018, Văn phòng Chính phủ có Công văn số 1239/VPCP-PL thông
báo ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Trương Hòa Bình,
trong đó giao Bộ Tư pháp “khẩn trương lập đề nghị xây dựng Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật xử lý vi phạm hành chính, trình Chính phủ xem xét, cho
ý kiến và đề nghị bổ sung vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc
hội theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật”
[8] Xem: Cục Quản lý xử lý vi phạm hành chính và theo dõi thi hành pháp
luật, Tìm hiểu pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính, Nxb. Tư pháp, Hà Nội,
2016, tr.200.
[9] Xem khoản 2 Điều 15 dự thảo Nghị định quy định về xử phạt vi phạm hành
chính trong hoạt động tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế tại Việt Nam; hoạt động
của tổ chức phi chính phủ nước ngoài tại Việt Nam và hoạt động chứng nhận lãnh
sự, hợp pháp hóa lãnh sự do Bộ Ngoại giao chủ trì xây dựng gửi Bộ Tư pháp thẩm
định, đăng trên Cổng Thông tin điện tử Bộ Tư pháp, truy cập ngày 09/9/2018, tại
địa chỉ: />


×