Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Đánh giá tính hợp lý của pháp luật về thẩm quyền và thủ tục xử phạt vi phạm hành chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.91 KB, 14 trang )

A.

LỞI MỞ ĐẦU
Trong thực tế hiện nay thì thẩm quyền và thủ tục xử lý vi phạm hành
chính ở nước ta hiện nay được quy định chi tiêt trong Pháp lệnh xử lý vi phạm
hành chính năm 2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2007 và 2008).Cụ thể về thẩm
quyền xử lý vi phạm hành chính được quy định tại chương IV của pháp lệnh
xử lý vi phạm hành chính, và thủ tục xử phạt vi phạm hành chính cũng được
quy định trong pháp lệnh tại chương VI. Trải qua các thời kỳ lịch sử, cùng với
sự phát triển của đất nước thì thẩm quyền và thủ tục xử lý vi phạm hành chính
của nhà nước ta cũng có những thay đổi nhất định để theo kịp sự phát triển của
thời đại.Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế nhất định. Trong
vấn đề về thẩm quyền và thủ tục xử phạt vi phạm hành chính cũng chứa đựng
những bất cập, làm ảnh hưởng đến hiệu quả của công tác quản lý hành chính
nhà nước.
Chính vì điều này, trong bài tập lớn học kỳ em đã quyết định lựa chọn
đề bài: “Đánh giá tính hợp lý của pháp luật về thẩm quyền và thủ tục xử
phạt vi phạm hành chính”:

B. NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN:
1.Khái niệm vi phạm hành chính:
Vi phạm hành chính là hành vi do tổ chức, cá nhân thực hiện với lỗi cố ý hoặc
vô ý, vi phạm các quy định của pháp luật về quản lý hành chính nhà nước mà
không phải là tội phạm hình sự thì sẽ bị xử phạt hành chính theo quy định của
pháp luật hiện hành.
2.Khái niệm xử phạt hành chính:
Xử phạt hành chính chính là hoạt động của các chủ thể có thẩm quyền, căn cứ
vào các quy định pháp luật hiện hành, quyết định áp dụng các biện pháp xử
phạt hành chính và các biện pháp cưỡng chế hành chính khác (trong trường


1


hợp cần thiết theo quy định của pháp luật đối với các tổ chức, cá nhân vi phạm
hành chính.
3.Khái niệm về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính:
Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính là khả năng của các cá nhân, cơ
quan, nhà nước có thẩm quyền theo quy định cuả pháp luật trong phạm vi
nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền ra quyết định xử phạt vi phạm hành
chính và các biện pháp cưỡng chế hành chính đối với các cá nhân, tổ chức vi
phạm hành chính.
4.Khái niệm về thủ tục xử phạt vi phạm hành chính:
Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính là hoạt động của các cá nhân, cơ quan nhà
nước có nhất định, thì tiến hành các bước, các công đoạn theo một trình tự
nhất định để đi tới quyết định xử phạt hành chính và thi hành quyết định xử
phạt hành chính đối với các cá nhân, tổ chức vi phạm.
II. ĐÁNH GIÁ TÍNH HỢP LÝ CỦA PHÁP LUẬT VỀ THẨM QUYỀN XỬ
PHẠT HÀNH CHÍNH VÀ THỦ TỤC XỬ PHẠT HÀNH CHÍNH:
1.Đánh giá tính hợp lý của pháp luật về thẩm quyền xử phạt vi phạm
hành chínn:
1.1.Các cá nhân và cơ quan có thẩm quyên xử phạt vi phạm hành chính
theo quy địnhcủa pháp luật hiện hành:
Trong tội phạm hình sự ta thấy việc xét xử các hành vi phạm tội và quyết định
hình phạt đối với chủ thể phạm tội đều được giao cho một cơ quan duy nhất là
tòa án thực hiện, việc xử phạt vi phạm hành chính được giao cho nhiều cơ
quan, cán bộ có thẩm quyền khác nhau thực hiện. Theo quy định của pháp luật
thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính thuộc về các cơ quan sau đây: UBND
các cấp; cơ quan công an nhân dân; bộ đội biên phòng; cơ quan cảnh sát biển;
cơ quan hải quan; cơ quan kiểm lâm; cơ quan thuế, cơ quan quản lý thị trường;
cơ quan thanh tra chuyên nghành; giám đốc cảng vụ hàng hải, giám đốc cảng

vụ thủy nội địa, giám đốc cảng vụ hàng không; tòa án nhân dân và cơ quan thi
hành án dân sự. Đồng thời pháp luật cũng quy định thẩm quyền xử phạt vi
2


phạm hành chính cụ thể của mỗi cán bộ có thẩm quyền xử phạt trong các cơ
quan này. Như vậy ta thấy có sự phân cấp về quyền lực nhà nước trong lĩnh
vực quản lý hành chính nhà nước
1.2. Cách quy định của pháp luật về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính
trong pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính hiện hành:
Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002, sửa đổi, bổ sung 2007,
2008 đã quy định thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính theo phương pháp
liệt kê thẩm quyền của các cá nhân,cơ quan, tổ chức cụ thể. Và với mỗi chức
danh cụ thể, Pháp lệnh quy định rõ hình thức, mức xử phạt và những biện
pháp cưỡng chế khác mà chủ thể đó được áp dụng trong khi xử phạt vi phạm
hành chính. Cách quy định này có ưu điểm là nó rất rõ ràng và dễ áp dụng
cũng phần nào thể hiện được sự phân cấp quản lý trong bộ máy nhà nước ta
nói chung, và trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước nói riêng. Cấu trúc
nhà nước ta là nhà nước đơn nhất, có sự thống nhất và phân cấp quản lý nhà
nước từ trung ương tới địa phương.Tuy nhiên nó còn chưa linh hoạt để có thể
theo kịp với những thay đổi về tổ chức trong các cơ quan quản lý cũng như
thực tiễn của công tác đấu tranh phòng chống vi phạm hành chính.
Ví dụ: Điều 28, quy định thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của
chủ tịch ủy ban nhân dân cấp xã, điều 29 quy định về thẩm quyền xử phạt vi
phạm hành chính của chủ tịch ủy ban nhân dân cấp huyện và liệt kê các ra các
quy định thuộc thẩm quyền của chủ tịch ủy ban nhân dân huyện, và chủ tịch
ủy ban nhân dân tỉnh. Chỉ khá c là thẩm quyền của chủ tịch UBND huyện bao
hàm cả thẩm quyền của chủ tịch UBND xã, và thẩm quyền của chủ tịch
UBND huyện có phần mở rộng hơn so với ông chủ tịch ủy ban nhân dân xã
mà thôi. Ví dụ như trong hình thức phạt tiền thì chủ tịch UBND cấp xã có

quyền phạt tiền đến 2.000.000 đồng, còn chủ tịch UBND huyện có quyền phạt
tiền đến 3.000.000 đồng.
Trong thực tiễn về quản lý hành chính nhà nước cho thấy một số cá
nhân, cơ quan nhà nước có thể họ phát hiện ra vi phạm hành chính nhưng họ
3


không có thẩm quyền ra quyết định xử phạt. Các chủ thể này đương nhiên
không có thẩm quyền xử phạt, mặc dù do hoạt động đặc thù họ có thể là người
trực tiếp phát hiện các vi phạm hành chính. Cũng có những lĩnh vực quản lý
vào thời điểm Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính được ban hành thì các vi
phạm hành chính mới xuất hiện lẻ tẻ nên việc giới hạn thẩm quyền cho một
hoặc một số cơ quan quản lý là hợp lý, nhưng sau đó các vi phạm này gia tăng
với tốc độ rất nhanh, đòi hỏi phải mở rộng phạm vi thẩm quyền thì mới có thể
xử lý kịp thời, song việc sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính
lại là một quá trình phức tạp và kéo dài.
Ví dụ: Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 không quy định
thẩm quyền xử phạt của cá nhân đứng đầu các cơ quan thuộc Bộ như cục
trưởng Cục bảo vệ thực vật, Cục thú y, Cục vệ sinh và an toàn thực phẩm, Cục
phòng chống tệ nạn xã hội, và một số cơ quan khác.Việc xử phạt các vi phạm
hành chính có liên quan một cách nhanh chóng, kịp thời sẽ không chỉ có tác
dụng trấn áp, giáo dục, phòng ngừa mạnh mẽ, mà còn tạo ra sự ổn định về trật
tự xã hội.
1.3.Vấn đề về thẩm quyền xử phạt của những người trực tiếp thi hành công
vụ, nhiệm vụ:
Trong Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 2002 còn tồn tại rất nhiều
hạn chế. Thứ nhất là những hạn chế thể hiện ở thẩm quyền áp dụng mức phạt
tiền của người trực tiếp thi hành công vụ, nhiệm vụ còn quá thấp. Và việc quy
định về mức phạt tiền trong pháp lệnh cũng cần chú ý về hình thức phạt tiền,
mức phạt tiền mà pháp luật quy định cho những người có thẩm quyền xử phạt

là mức phạt cho một hành vi vi phạm hành chính và mỗi chủ thể nhất định
không được phạt quá mức tiền mà pháp luật quy định đó. Việc quy định như
vậy cũng là một điểm mới và tiến bộ hơn của pháp lệnh xử lý vi phạm hành
chính 2002, sửa đổi, bổ sung 2007, 2008 so với các phạm lệnh xử lý vi phạm
hành chính trước đó. Vì các pháp lệnh xử lý vi phạm hành trước đó không quy
định rõ ràng mức phạt tiền quy định trong pháp lệnh cho những người có thẩm
4


quyền xử phạt là mức phạt cho một hành vi vi phạm hành chính. Trong thực tế
đã xảy ra những tranh luận xung quanh trường hợp, tổ chức, cá nhân thực hiện
đồng thời nhiều vi phạm hành chính một lúc và mức phạt tiền tổng hợp đối với
các tổ chức, cá nhân này vượt quá mức mà pháp luật quy định cho thẩm quyền
của người xử phạt. Về nguyên tắc nếu các tất cả các vi phạm đó đều thuộc
thẩm quyền xử phạt của người có thẩm quyền thì dù mức phạt tổng hợp có lớn
hơn mức quy định cho thẩm quyền của người xử phạt, vụ việc đó vẫn thuộc
thẩm quyền xử phạt của người đó. Tuy nhiên trong thực tế vẫn có rất nhiều cán
bộ, quan chức lợi dụng điều đó để phạt tiền đối với người vi phạm, thậm chí
vượt quá thẩm quyền của mình để nhằm mục đích chuộc lợi.
Hay việc quy định về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của các
chiến sĩ bộ đội biên phòng còn nhiều hạn chế. Có lẽ vì vậy mà trong khi tuần
tra, nếu có phát hiện vi phạm thì họ chỉ lập biên bản vụ việc rồi chuyển đến
đồn trưởng đồn biên phòng để ra quyết định xử phạt. Cùng với những trở ngại
do địa hình đi lại khó khăn, các quy định này của pha pháp luật là nguyên
nhân cản trở hoạt động xử phạt của lực lượng bộ đội biên phòng.
Thứ hai là nếu xem xét thẩm quyền trong mối quan hệ với thủ tục xử
phạt thì các quy định của pháp luật hiện hành cũng không thống nhất. Điều 54
Pháp lệnh năm 2002 đã được sửa đổi theo Pháp lệnh 04/2008/UBTVQH12
năm 2008 quy định: “Trong trường hợp xử phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ
10.000 đồng đến 200.000 đồng thì người có thẩm quyền ra quyết định xử phạt

tại chỗ”. Quy định này được hiểu như sau: từ 10.000 đồng đến 200.000 đồng
là mức phạt với chủ thể vi phạm cụ thể, chứ không căn cứ vào mức phạt tiền
tối đa quy định cho hành vi vi phạm. Trong khi đó, với những vi phạm mà
mức tiền phạt tối đa quy định cho hành vi đó cao hơn thẩm quyền của những
người trực tiếp thi hành công vụ, nhiệm vụ, thì họ lại buộc phải lập biên bản
để chuyển vụ việc vi phạm đó cho cấp trên xử lý, mặc dù có thể trên thực tế
chủ thể vi phạm chỉ bị xử phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền đến 100.000 đồng. Như

5


vậy, mục đích đảm bảo nhanh gọn của việc quy định thủ tục đơn giản đã
không đạt được.
1.4.Vấn đề quy định về thẩm quyền tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm
hành chính và thẩm quyền áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả:
Trên thực tế, quy định về thẩm quyền tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm
hành chính và thẩm quyền áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả vẫn còn rất
nhiều bất hợp lí. Theo quy định của Pháp lệnh thì các chức danh có thẩm
quyền xử phạt ở cấp cơ sở hầu như không có thẩm quyền tịch thu tang vật,
phương tiện vi phạm hành chính và áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả.
Điều này dẫn đến nhiều trường hợp xử lý không triệt để hoặc không xử lý
được vi phạm.
Cũng theo quy định hiện hành thì thẩm quyền áp dụng biện pháp khắc phục
hậu quả cũng được quy định rất hạn chế. Chủ tịch uỷ ban nhân dân cấp xã,
Trưởng Công an cấp xã chỉ được áp dụng ba biện pháp khắc phục hậu quả là
“Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do vi phạm hành chính
gây ra”; “Buộc thực hiện biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường,
lây lan dịch bệnh do vi phạm hành chính gây ra”; “Buộc tiêu huỷ vật phẩm
gây hại cho sức khoẻ con người, vật nuôi và cây trồng, văn hoá phẩm độc
hại”. Bên cạnh đó, xuất phát từ quan điểm cho rằng “mọi hậu quả do vi phạm

hành chính gây ra phải được khắc phục kịp thời”, Pháp lệnh đã trao cho Chính
phủ thẩm quyền quy định các biện pháp khắc phục hậu quả khác mà trong
Pháp lệnh chưa quy định. Việc trao cho Chính phủ thẩm quyền này là rất đúng
đắn, tuy nhiên vẫn tồn tại bất cập ở chỗ Pháp lệnh chỉ trao cho Uỷ ban nhân
dân cấp tỉnh mới có thẩm quyền áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả
được quy định mới trong các Nghị định của Chính phủ, Điều này đã dẫn đến
việc “vô hiệu hoá” thẩm quyền xử phạt của hầu hết các chức danh khi hành vi
vi phạm trong Nghị định của Chính phủ được quy định thêm các biện pháp
khắc phục hậu quả khác với pháp lệnh, và đương nhiên, tình trạng “vượt rào”
quy định các chức danh khác ngoài Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh cũng
6


có thẩm quyền áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả loại này diễn ra trong
một số Nghị định về xử phạt vi phạm hành chính của Chính phủ cũng là điều
dễ hiểu, do những đòi hỏi bức xúc từ thực tiễn quản lý.
2.Đánh giá tính hợp lý của pháp luật về thủ tục xử phạt vi phạm hành
chính:
2.1. Vấn đề trong thủ tục đơn giản:
Cho đến nay, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính vẫn duy trì hai loại
thủ tục xử phạt: thủ tục đơn giản và thủ tục có lập biên bản; tuy nhiên mức tiền
xử phạt theo thủ tục đơn giản đã được nâng từ 20.000 đồng (Pháp lệnh xử lý vi
phạm hành chính năm 1995) lên 200.000 đồng (Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung
năm 2008). Việc nâng mức tiền phạt theo thủ tục đơn giản là cần thiết để khắc
phục tình trạng vụ việc vi phạm phải dồn lên cấp trên giải quyết. Tuy nhiên,
mức tiền được xử phạt là 200.000 đồng vẫn còn thấp, nhiều vụ vi phạm chưa
thể xử phạt theo thủ tục này. Theo quy định tại Điều 54 Pháp lệnh xử lý vi
phạm hành chính năm 2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2007, 2008), thủ tục đơn
giản là trường hợp xử phạt mà người có thẩm quyền xử phạt không lập biên
bản mà ra quyết định xử phạt tại chỗ. Những trường hợp được tiến hành xử

phạt theo thủ tục đơn giản bao gồm:
a) Hành vi vi phạm hành chính mà mức phạt quy định là cảnh cáo hoặc phạt
tiền đến 200.000 đồng;
b) Nhiều hành vi vi phạm hành chính do một người thực hiện mà hình thức và
mức phạt quy định đối với mỗi hành vi đều là phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền
đến 200.000 đồng.
Thông thường thủ tục đơn giản được áp dụng đối với vi phạm nhỏ, rõ
ràng, không có tình tiết phức tạp, cần phải xác minh thêm như vượt đèn đỏ, đi
vào đường ngược chiều. Đối với những trường hợp này, người có thẩm quyền
xử phạt có thể ra quyết định xử phạt ngay, cá nhân, tổ chức bị xử phạt có thể
nộp phạt tại chỗ, vụ việc được giải quyết nhanh chóng, trật tự quản lý cũng
được nhanh chóng khôi phục. Do vậy, vẫn cần duy trì thủ tục đơn giản khi xây
7


dựng Luật xử lý vi phạm hành chính vì tính hiệu quả của nó trong việc xử phạt
đối với những vi phạm nhỏ, đơn giản trong một số lĩnh vực như trật tự, an toàn
giao thông đô thị, vệ sinh đường phố.
2.2. Vấn đề trong thủ tục có lập biên bản:
Áp dụng đối với những vi phạm tương đối nghiêm trọng mà hành vi vi
phạm được quy định mức phạt tiền từ 200.000 đồng trở lên.
2.2.1. Về người có thẩm quyền lập biên bản:
Quy định tại Điều 55 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002.
Theo quy định mới, người có thẩm quyền lập biên bản là người có thẩm quyền
đang thi hành công vụ thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ, ngành, địa
phương mình. Quy định trước đây phù hợp với một số chức vụ, một số ngành
(thanh tra chuyên ngành) nhưng lại tỏ ra chưa hợp lý với yêu cầu “khi phát
hiện vi phạm phải kịp thời lập biên bản” trong trường hợp người đang thi hành
công vụ là những người không có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính
(như kiểm hoá viên, nhân viên hải quan…). Để khắc phục vướng mắc này,

khoản 1 Điều 55 Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung năm 2008 được sửa đổi, bổ sung
như sau: “người có thẩm quyền đang thi hành công vụ có trách nhiệm lập biên
bản đối với vi phạm mà mình phát hiện. Trong trường hợp vi phạm hành chính
không thuộc thẩm quyền xử phạt của người lập biên bản thì phải chuyển tới
ngay người có thẩm quyền xử phạt để tiến hành xử phạt”. Pháp lệnh sửa đổi,
bổ sung năm 2008 cũng bổ sung trường hợp người vi phạm cố tình trốn tránh
hoặc vì lý do khách quan mà không có mặt tại địa điểm xảy ra vi phạm thì
biên bản được lập xong phải có chữ ký của đại diện chính quyền cơ sở nơi xảy
ra vi phạm hoặc của hai người làm chứng.
2.2.2. Về nội dung của biên bản:
Điều 55 Pháp lệnh năm 2002 quy định nội dung của biên bản đã thể
hiện rõ tính khoa học, chặt chẽ và phù hợp với thực tế. Tuy nhiên, một số quy
định của Nghị định số 134/2003/NĐ-CP (hướng dẫn thi hành Pháp lệnh xử lý
8


vi phạm hành chính năm 2002) và mẫu biên bản để xử phạt (ban hành kèm
theo Nghị định) lại quá dài, mất nhiều thời gian ảnh hưởng đến kết quả xử lý
vi phạm. Trong nhiều trường hợp, người có trách nhiệm xử lý đã chuyển vụ
việc về giải quyết theo thủ tục đơn giản với mức phạt thấp hơn nhiều để tránh
thủ tục lập biên bản, dẫn đến lọt nhiều hành vi vi phạm không được xử lý thoả
đáng. Qua thực tiễn thi hành pháp luật xử phạt vi phạm hành chính, nhiều Bộ,
ngành, địa phương cho rằng, các mẫu quyết định tạm giữ tang vật, phương tiện
vi phạm, mẫu quyết định xử phạt, mẫu biên bản đều rườm rà, chưa phù hợp
với thực tế; biên bản tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, theo
quy định phải có hai người làm chứng, trên thực tế áp dụng rất khó, đề nghị
chỉ nên quy định một người làm chứng. Mẫu biên bản vi phạm hành chính
chưa hợp lý, vừa thừa, vừa thiếu, cụ thể: phần nội dung về điều, khoản quy
định hành vi vi phạm của tổ chức, cá nhân chỉ in một dòng nên khi có hai hành
vi vi phạm thì phải lập hai biên bản.

2.2.3. Quyết định xử phạt, nội dung của quyết định xử phạt:
Quy định tại Điều 56 của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm
2002. Đây là một trong những điều của Pháp lệnh được sửa đổi, bổ sung cơ
bản theo quan điểm tạo điều kiện cho cơ quan, người có thẩm quyền xử phạt
trong việc quyết định xử phạt nhưng cũng phải bảo đảm quyền, lợi ích của cá
nhân, tổ chức (vụ việc vi phạm, dù phức tạp, cũng không thể quá kéo dài, gây
ảnh hưởng không tốt đến sinh hoạt, đời sống, đến hoạt động sản xuất, kinh
doanh của cá nhân, tổ chức). Điều 56 Pháp lệnh năm 2002 quy định ba loại
thời hạn: 10 ngày đối với vụ việc đơn giản; 30 ngày đối với vụ việc phức tạp;
đối với vụ việc phức tạp, cần có thời gian xác minh thêm, thì người có thẩm
quyền xử phạt được xin gia hạn thêm 30 ngày nữa. Quá các thời hạn này,
người có thẩm quyền xử phạt không được ra quyết định xử phạt, trừ trường
hợp xử phạt trục xuất. Điều 21 Nghị định số 134/2003/NĐ-CP còn quy định cụ
thể các trường hợp mà quá thời hạn, người có thẩm quyền xử phạt không được
ra quyết định xử phạt: trường hợp đã quá các thời hạn ra quyết định xử phạt,
9


đã hết thời hạn mà người có thẩm quyền xử phạt không xin gia hạn hoặc đã
xin gia hạn nhưng không được cấp có thẩm quyền cho phép gia hạn. Quá trình
thực hiện Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính đã cho thấy, quy định này là
phù hợp với thực tế. Tuy nhiên, cũng còn ý kiến cho rằng, thời hạn 30 ngày là
quá ít vì nhiều vụ việc cần phải có thời gian để xác minh, thu thập tài liệu liên
quan đến nhiều đối tượng, nhiều địa bàn hoặc một số đối tượng vi phạm hành
chính sau khi lập biên bản vi phạm hành chính đã bỏ đi khỏi địa phương trong
thời gian dài, gây khó khăn cho việc xử lý.
2.2.4. Về xử lý tang vật, phương tiện bị tịch thu:
Điều 61 Pháp lệnh năm 2002 đã quy định theo hướng: đối với tang vật,
phương tiện vi phạm có giá trị dưới 10 triệu đồng thì người quyết định tịch thu
phải chuyển cho cơ quan tài chính cấp huyện tổ chức bán đấu giá; tang vật,

phương tiện vi phạm có giá trị từ 10 triệu đồng trở lên thì người quyết định
tịch thu phải giao cho Trung tâm dịch vụ bán đấu giá cấp tỉnh để bán đấu giá
theo quy định của pháp luật. Quy định này đảm bảo tính công khai, khách
quan và chính xác trong khi xử lý tang vật, phương tiện vi phạm bị tịch thu.
Tuy nhiên, quy định này cũng còn có điểm hạn chế: Thứ nhất, làm thế nào xác
định được giá trị tang vật, phương tiện vi phạm để chuyển cho cơ quan tài
chính cấp huyện hoặc Trung tâm bán đấu giá cấp tỉnh. Thứ hai, trong một số
trường hợp tang vật, phương tiện vi phạm bị tịch thu khó vận chuyển lên cấp
tỉnh, nơi có trung tâm bán đấu giá để bán đấu giá (như trường hợp tang vật là
gỗ bị tịch thu). Để giải quyết vướng mắc thứ nhất, Điều 31 Nghị định số
134/2003/NĐ-CP quy định: sau khi tiến hành tạm giữ tang vật, phương tiện vi
phạm hành chính, xét thấy cần tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm mà
không xác định rõ giá trị tang vật, phương tiện đó thì người đã ra quyết định
tạm giữ phải mời đại diện cơ quan tài chính cùng cấp xem xét, đánh giá tang
vật, phương tiện vi phạm. Trường hợp tang vật, phương tiện vi phạm thuộc
loại khó xác định hoặc chưa có ý kiến thống nhất giữa người có thẩm quyền
tịch thu và đại diện cơ quan tài chính thì người có thẩm quyền quyết định tịch
10


thu lập Hội đồng định giá tang vật, phương tiện vi phạm với sự tham gia của
đại diện Trung tâm dịch vụ bán đấu giá cấp tỉnh và đại diện cơ quan có liên
quan để định giá. Nếu trị giá tang vật, phương tiện vi phạm thuộc thẩm quyền
của người đã ra quyết định tạm giữ thì người đó tiến hành tịch thu theo quy
định; nếu trị giá tang vật, phương tiện vi phạm vượt quá thẩm quyền tịch thu
của người đó thì phải chuyển vụ vi phạm đến cấp có thẩm quyền xử phạt. Trị
giá tang vật, phương tiện bị tịch thu đã được xác định là căn cứ để xem xét,
quyết định việc chuyển giao tang vật, phương tiện cho Trung tâm bán đấu giá
tài sản cấp tỉnh hoặc chuyển cho cơ quan tài chính cấp huyện bán đấu giá. Về
cơ bản, quy định này đảm bảo tính chặt chẽ về mặt pháp lý, tuy nhiên tính khả

thi cần được cân nhắc thêm bởi việc mời đại diện cơ quan tài chính cùng cấp
hoặc đại diện Trung tâm bán đấu giá cấp tỉnh đến để định giá là điều khó khăn
và nhiều khi không thể thực hiện được.
Để khắc phục một số khó khăn, vướng mắc vừa nêu, khoản 1, Điều 61
Pháp lệnh năm 2002 được sửa đổi, bổ sung năm 2008 đã sửa đổi theo hướng
phù hợp hơn: đối với tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu,
trường hợp tang vật, phương tiện vi phạm hành chính do người có thẩm quyền
của cơ quan trung ương hoặc của cơ quan cấp tỉnh ra quyết định tịch thu thì
giao cho Trung tâm dịch vụ bán đấu giá cấp tỉnh, nơi cơ quan của người có
thẩm quyền ra quyết định tịch thu đóng trụ sở để bán đấu giá. Trường hợp tang
vật, phương tiện vi phạm hành chính do người có thẩm quyền của cơ quan cấp
huyện trở xuống ra quyết định tịch thu thì thành lập Hội đồng bán đấu giá của
cấp huyện để bán đấu giá. Việc bán đấu giá tang vật, phương tiện bị tịch thu
được thực hiện theo quy định của pháp luật về bán đấu giá. Đối với tang vật,
phương tiện bị tịch thu mà không bán được thì cơ quan của người có thẩm
quyền ra quyết định tịch thu thành lập Hội đồng để thanh lý tài sản theo quy
định của pháp luật. Tiền thu được từ bán đấu giá tang vật, phương tiện vi phạm
hành chính, sau khi trừ các chi phí theo quy định của pháp luật phải được nộp
vào ngân sách nhà nước qua tài sản mở tại kho bạc nhà nước.
11


2.2.5. Cưỡng chế thi hành quyết định xử lý vi phạm hành chính:
Đây cũng là một trong những vướng mắc trong quá trình thực hiện pháp luật
về xử phạt vi phạm hành chính. Mặc dù các biện pháp cưỡng chế cũng như
thẩm quyền ra quyết định cưỡng chế đã được quy định cụ thể tại Điều 66 và
Điều 67 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, nhưng việc cưỡng chế vẫn gặp
những khó khăn nhất định do chưa có sự phối hợp của các cơ quan, tổ chức
trong việc thực hiện các biện pháp cưỡng chế, như biện pháp khấu trừ tiền từ
tài khoản tại ngân hàng.

Khó khăn khác trong việc thực hiện các biện pháp cưỡng chế là cơ quan có
thẩm quyền xử phạt không có lực lượng chuyên trách để thi hành các quyết xử
phạt vi phạm hành chính vì theo quy định tại Điều 67 Pháp lệnh xử lý vi phạm
hành chính năm 2002 và Nghị định số 37/2005/NĐ-CP thì những người có
thẩm quyền ban hành quyết định cưỡng chế và có nhiệm vụ tổ chức việc
cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm của mình và của cấp dưới, các
cơ quan chức năng của UBND có trách nhiệm thi hành quyết định cưỡng chế
của Chủ tịch UBND cùng cấp theo sự phân công của Chủ tịch, lực lượng cảnh
sát nhân dân chỉ có trách nhiệm bảo đảm trật tự, an toàn trong quá trình thi
hành quyết định cưỡng chế của Chủ tịch UBND cùng cấp hoặc quyết định
cưỡng chế của cơ quan khác của Nhà nước khi được các cơ quan đó yêu cầu.
Tuy nhiên, quy định này khó khả thi vì cơ quan xử phạt, cơ quan chuyên môn
thuộc UBND không đủ lực lượng để tổ chức cưỡng chế. Việc ban hành quyết
định cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính về lĩnh vực
thuế khi đã áp dụng hết các biện pháp xử phạt như nộp chậm, tạm đình chỉ sử
dụng hoá đơn lại gặp rất nhiều khó khăn trong thực hiện cưỡng chế như:
không có một cơ quan chuyên trách chịu trách nhiệm cưỡng chế thu hồi tiền
cho ngân sách nhà nước.

12


C. KẾT LUẬN
Như vậy, qua những quy định của pháp luật hiện hành về thẩm quyền và
thủ tục xử phạt vi phạm hành chính cũng có những hợp lý, đúng đắn nhất định.
Tuy nhiên ta thấy rằng việc bổ sung một số nội dung vào Pháp lệnh xử lý vi
phạm hành chính năm 2002 là rất cần thiết để việc xử phạt được tiến hành
chính quy hơn, góp phần giảm bớt sai sót, qua đó quyền, lợi ích hợp pháp của
cá nhân, tổ chức được bảo đảm.


13


D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật hành chính Việt Nam,nxb

Công an nhân dân, hà nội 2007,2008.
2. Khoa luật đại học quốc gia Hà Nội, Giáo trình luật hành chính Việt

Nam,Nxb,Đại học Quốc gia,Hà nội,2005.
3. Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 2002(sửa đổi, bổ sung năm 2007,

2008)
4.

Một số các website:

+ sinhvienluat.vn.
+
+.

14



×