Tải bản đầy đủ (.docx) (155 trang)

Giáo trình môn giáo dục chính trị hệ cao đẳng mới, soạn theo thông tư 242018

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (767.49 KB, 155 trang )

GIÁO TRÌNH MÔN GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
(Hệ cao đẳng)
(Soạn theo Thông tư số 24/2018/TT-BLĐTBXH)
MỤC LỤC
BÀI MỞ ĐẦU
1. Vị trí, tính chất môn học
2. Mục tiêu của môn học
3. Nội dung chính
4. Phương pháp dạy học và đánh giá môn học
Bài 1: KHÁI QUÁT VỀ CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN
1. Khái niệm chủ nghĩa Mác – Lênin
2. Các bộ phận cấu thành của chủ nghĩa Mác - Lênin
2.1. Triết học Mác – Lênin
2.2. Kinh tế chính trị Mác – Lênin
2.3. Chủ nghĩa xã hội khoa học
3. Vai trò nền tảng tư tưởng, lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin
Bài 2: KHÁI QUÁT VỀ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
1. Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh
2. Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh
3. Vai trò của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam
4. Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
trong giai đoạn hiện nay
4.1. Sự cần thiết phải học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh
4.2. Nội dung chủ yếu của học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh
Bài 3: NHỮNG THÀNH LỰU CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM
DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG
1. Sự ra đời và lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với cách
mạng Việt Nam
1.1. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam


1.2. Vai trò lãnh đạo của Đảng trong các giai đoạn cách mạng
2. Những thành tựu của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của
Đảng
2.1. Thắng lợi của đấu tranh giành và bảo vệ nền độc lập dân tộc
2.2. Thắng lợi của công cuộc đổi mới
Bài 4: ĐẶC TRƯNG VÀ PHƯƠNG HƯỚNG XÂY DỰNG XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
1. Đặc trưng của xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

5
10
13
21
25
27
28
30
32
35
38
40
43
46
48

50
51
54
57
62

67


1.1. Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh
1.2. Do nhân dân làm chủ
1.3. Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại
và quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp
1.4. Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
1.5. Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện
phát triển toàn diện
1.6. Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn
trọng và giúp nhau cùng phát triển
1.7. Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo
1.8. Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới
2. Phương hướng xây dựng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
2.1. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát
triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường
2.2. Phát triển nên kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
2.2.3. Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây
dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội
2.4. Đảm bảo vững chắc quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an
toàn xã hội
2.5. Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu
nghị, hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế
2.6. Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết
dân lộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất
2.7. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân

2.8. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh
Bài 5: PHÁT TRIỂN KINH TẾ, XÃ HỘI, VĂN HÓA, CON
NGƯỜI Ở VIỆT NAM
1. Nội dung của chủ trương phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa, con
người ở Việt Nam hiện nay
2. Giải pháp phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa, con người ở Việt Nam
hiện nay
2.1. Nội dung phát triển kinh tế, xã hội
2.2. Nội dung phát triển văn hóa, con người
Bài 6: TĂNG CƯỜNG QUỐC PHÒNG AN NINH, MỞ RỘNG
QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ Ở NƯỚC TA
HIỆN NAY
1. Bối cảnh Việt Nam và quốc tế

69
73
79
81
83
86
87
90
92
93
95
98
99
100
101
102


108
110

116


2. Quan điểm và những nhiệm vụ chủ yếu của đường lối quốc phòng,
an ninh
2.1. Quan điểm của Đảng về đường lối quốc phòng, an ninh
2.2. Những nhiệm vụ chủ yếu của đường lối quốc phòng, an ninh
3. Quan điểm và những nhiệm vụ chủ yếu của đường lối đối ngoại
3.1. Quan điểm của Đảng về đường lối đối ngoại
3.2. Những nhiệm vụ chủ yếu của đường lối đối ngoại
Bài 7: XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN NHÀ NƯỚC PHÁP
QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
1. Bản chất và đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam
1.1. Bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
1.2. Đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
2. Phương hướng, nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ViệtNam
2.1. Phương hướng xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam
2.2. Nhiệm vụ và giải pháp xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Bài 8: PHÁT HUY SỨC MẠNH CỦA KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT
TOÀN DÂN TỘC TRONG XÂY DỰNG, BẢO VỆ TỔ QUỐC
1. Tầm quan trọng của đại đoàn kết toàn dân tộc trong xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc

1.1. Cơ sở lý luận của đường lối, chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc
trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
1.2. Cơ sở thực tiễn của đường lối, chính sách đại đoàn kết toàn dân
tộc trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
2. Quan điểm và phương hướng của Đảng về phát huy sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân tộc trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
2.1. Quan điểm của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc trong xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc
2.2. Phương hướng và giải pháp phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân tộc trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Bài 9: TU DƯỠNG, RÈN LUYỆN ĐỂ TRỞ THÀNH NGƯỜI
CÔNG DÂN TỐT, NGƯỜI LAO ĐỘNG TỐT
1. Quan niệm về người công dân tốt, người lao động tốt
1.1. Người công dân tốt
1.2. Người lao động tốt
2. Nội dung tu dưỡng và rèn luyện để trở thành người công dân tốt,
người lao động tốt

119
123
125
128
131
133
137
136

139

142

124
146

148
150


2.1. Phát huy truyền thống yêu nước, trung thành với sự nghiệp cách
mạng của nhân dân Việt Nam
2.2. Phấn đấu học tập nâng cao năng lực và rèn luyện phẩm chất cá
nhân


BÀI MỞ ĐẦU
1. Vị trí, tính chất môn học
V.I.Lênin đã chỉ rõ: người ta có thể trở thành người cộng sản khi biết làm
giàu trí tuệ của mình bằng cách không ngừng học tập để thâu thái vào đầu óc của
mình toàn bộ kho tàng tri thức của nhân loại và hiểu biết đó phải dẫn tới cuộc sống
và hành động. Hồ chí Minh từng xác định học để hiểu biết, để làm việc, học để
phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân, học để làm người. Muốn vậy phải có thói
quen đem lý luận liên hệ với thực tiễn, đem những lý luận đã tiếp thu được cùng
với những kinh nghiệm đã tích lũy được trong đời sống hàng ngày mà áp dụng vào
các công việc thực tế.
Với tinh thần đó, Hồ Chí Minh luôn chú trọng đến tính thực tế, bất cứ việc gì
cũng phải xuất phát từ yêu cầu thực tế, phải thiết thực. Muốn đạt được kết quả đó
thì việc học phải xuất phát từ yêu cầu của công việc và phải học cặn kẽ, thấu đáo.
Người mong muốn việc học - hành, tức là nhận thức - hành động phải đạt tới chỗ
thấy cho hết, nhìn cho thấu. Vì vậy, theo Người học tập ở trong nhà trường, trong
sách vở chưa đủ, phải học cả trong cuộc sống, học ở người khác… Nội dung học
tập cũng phải toàn diện: chương trình học vấn phổ thông, đại học, chuyên môn

nghiệp vụ, học tập lý luận Mác-Lênin, đường lối chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của nhà nước…, trong đó, việc học tập lý luận Mác-Lênin, đường lối chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước là một nội dung rất quan
trọng.
Ở nước ta, lý luận Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh được xếp chung vào
hệ thống các môn khoa học xã hội – nhân văn, giữ vị trí chủ đạo về tư tưởng, lý
luận và phương pháp luận cho khoa học xã hội – nhân văn đồng thời là cơ sở thế
giới quan và phương pháp luận chung cho mọi hoạt động nghiên cứu khoa học, là
hệ tư tưởng của xã hội thì việc học tập hệ thống lý luận này lại càng cần thiết và
càng có ý nghĩa hơn.
Đề cập đến các môn khoa học Mác – Lênin, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: Chủ
nghĩa Mác - Lênin không phải là những giáo điều, không phải là kinh thánh mà là
kim chỉ nam cho hành động. Học tập Chủ nghĩa Mác - Lênin không phải là thuộc
câu, thuộc chữ mà nắm lấy tinh thần và toàn bộ phương pháp để ứng xử với con
người và thực hành trong công tác thực tế.
Để thấy được rõ vị trí, vai trò, tầm quan trọng của việc học tập lý luận chính
trị, trước hết cần hiểu thế nào là giáo dục lý luận chính trị? Có thể nói, công tác
giáo dục lý luận chính trị là hoạt động có chủ đích của Đảng Cộng sản nhằm xác
lập thế giới quan khoa học trên cơ sở hệ tư tưởng, lập trường của giai cấp công
nhân – đó là Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Giáo dục lý luận
chính trị thực sự tạo thành nền tảng tư tưởng trong đời sống xã hội. Do đó, việc


học và nghiên cứu lý luận chính trị đối với cán bộ, đảng viên hiện nay thực sự có
vai trò, ý nghĩa rất quan trọng:
Thứ nhất, giúp cho người học có sự hiểu biết sâu sắc hơn, đầy đủ hơn, toàn
diện hơn những tri thức lý luận chính trị - hành chính; từ đó trang bị cho mình vốn
tri thức khoa học lý luận.
Thứ hai, việc học tập, nghiên cứu lý luận chính trị nhằm củng cố niềm tin và
bản lĩnh chính trị, ý thức giai cấp và tinh thần yêu nước cho cán bộ, đảng viên; từ

đó thúc đẩy cán bộ, đảng viên tự giác, tự nguyện, hăng hái hành động, thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ cách mạng do Đảng đề ra.
Thứ ba, việc học tập và nghiên cứu lý luận chính trị nhằm cung cấp cho người
học thế giới quan và phương pháp luận cách mạng và khoa học, từ đó vận dụng
vào thực tiễn cuộc sống và công việc, để hoàn thành và hoàn thành xuất sắc công
việc được giao. Hơn hết là xây dựng mỗi quan hệ giữa người với người trên tinh
thần tôn trọng, tương trợ và thương yêu lẫn nhau.
Thứ tư, đối với quần chúng cách mạng, công tác học tập lý luận chính trị cũng
đặc biệt quan trọng. V.I.Lênin đã từng nhắc nhở, “Cách mạng xảy ra hay không,
xảy ra khi nào và trong những hoàn cảnh nào, điều đó tùy thuộc vào ý chí của giai
cấp này hay giai cấp khác; nhưng công tác cách mạng trong quần chúng thì chẳng
khi nào lại vô ích cả. Chỉ có công tác ấy mới là hoạt động chuẩn bị cho quần chúng
tiến tới thắng lợi của CNXH”1. Lênin cũng đã dạy rằng: Không tiến hành công tác
giáo dục lý luận chính trị thì hoạt động chính trị tất nhiên biến thành trò chơi.
Muốn tạo ra sự thay đổi thực tế ấy thì phải làm sao cho quần chúng quan tâm và
tích cực tham gia vào các sự kiện. Nhưng quần chúng rất khó có thể đạt được trình
độ tự giác như thế nếu không có sự tác động nào từ phía công tác giáo dục lý luận
chính trị…
Học tập và nghiên cứu lý luận Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
thực sự là một công việc khó khăn song rất quan trọng và có ý nghĩa. Nó không chỉ
cung cấp cho chúng ta tri thức khoa học lý luận về xã hội, tự nhiên và con người
mà còn giúp chúng ta nhận thức đúng đắn thế giới quan, phương pháp luật khoa
học về mọi mặt đời sống, về con đường cách mạng mà Đảng và nhân dân ta đang
phấn đấu thực hiện
2.2. Mục tiêu của môn học
a/ Kiến thức:
Trình bày được nội dung cơ bản nhất về thế giới quan và phương pháp luận
của chủ nghĩa Mác - Lênin; nguồn gốc, nội dung cơ bản và ý nghĩa tư tưởng Hồ
Chí Minh;



Hiểu biết và trình bày được nội dung cơ bản về đường lối cách mạng của
Đảng Cộng sản Việt Nam qua các thời kỳ, nhất là đường lối đổi mới của Đảng trên
các lĩnh vực từ năm 1986 đến nay.
b/ Kỹ năng:
Bước đầu hình thành nhân sinh quan, thế giới quan và phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng vào học tập, rèn luyện và
công tác sau này;
Hình thành bản lĩnh chính trị và phẩm chất đạo đức, phấn đấu trở thành người
học sinh tốt, người công dân tốt.
c/ Thái độ:
Củng cố niềm tự hào, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
và con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chọn;
Bồi dưỡng tinh thần yêu nước, yêu lao động, rèn luyện, đóng góp tích cực vào
thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước;
Rèn luyện được tác phong công nghiệp, lề lối làm việc của người lao động tốt,
người kỹ thuật viên tốt.
2.3. Nội dung chính
Giáo dục chính trị tại là giáo dục cho các tầng lớp thanh thiếu niên và các tầng
lớp khác trong xã hội về chủ nghĩa Marx-Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Giáo dục chính trị được áp dụng ở tất cả các cấp học tại Việt Nam, dưới các
hình thức: môn học Giáo dục Công dân (từ các cấp tiểu học lên đến cấp trung học
phổ thông), môn chủ nghĩa Marx-Lenin, môn Tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ nghĩa
Xã hội khoa học, Lịch sử Đảng, Triết học,... tại tất cả các trường Đại học.
Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Ban Bí thư Trung ương Đảng: sinh viên tất cả
các trường đại học phải học 4 môn học lý luận chính trị bắt buộc gồm:
+ Những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác - Lênin.
+ Tư tưởng Hồ Chí Minh.
+ Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
+ Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Thời lượng dạy - học các môn Lý luận chính trị là 10 tín chỉ (15 đơn vị học
trình).
""Giảng dạy, học tập tốt bộ môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, đường lối cách mạng của Đảng trong hệ thống các trường Đại học, Cao


đẳng là hết sức cần thiết, quan trọng, để cung cấp cho học sinh sinh viên những
kiến thức cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối
cách mạng của Đảng, xây dựng cho sinh viên thế giới quan, nhân sinh quan khoa
học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, niềm tin vào lý
tưởng cộng sản chủ nghĩa.""[1]
Giáo dục chính trị là một trong các công cụ, biện pháp của Đảng Cộng sản
Việt Nam để thay đổi tư duy các tầng lớp nhân dân [cần dẫn nguồn], định hướng và
thuyết phục họ đi theo con đường chủ nghĩa xã hội [cần dẫn nguồn], và bồi dưỡng những
kiến thức về chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa Marx Lenin, và Tư tưởng Hồ Chí Minh.
2.4. Phương pháp dạy học và đánh giá môn học
+ Đối với giảng viên: Giảng viên là nhân tố quyết định thành công của đổi
mới, nhưng giảng viên phải có tâm huyết, luôn luôn tìm tòi, khám phá cách dạy
cho hiệu quả. Giảng viên phải không ngừng học tập, tự nghiên cứu để nâng cao
trình độ chuyên môn.
+ Đối với sinh viên: Sinh viên phải xác định được động cơ, mục đích học tập
thật đúng đắn, tự giác trong học tập, có ý thức trách nhiệm với kết quả học tập của
mình và kết quả chung của lớp, biết tự học và tranh thủ học ở mọi lúc, mọi nơi.
+ Các phương tiện, thiết bị dạy và học: hiện đại, sỉ số lớp học vừa phải (từ 80
– 120 SV), không quá đông như hiện nay.
+ Việc kiểm tra, đánh giá: phải đảm bảo tích cực, trung thực, phải chuyển biến
mạnh mẽ theo hướng phát triển trí thức thông minh, sáng tạo cho sinh viên.
Tại Hội thảo này, các tác giả cũng nhắc đến vai trò quản lý, đào tạo nhằm đào
tạo ra một con người có nhân cách, có tri thức, sức khỏe, đào tạo ra con người “vừa
hồng”, “vừa chuyên”. Muốn vậy, việc đổi mới, nâng cao chất lượng giảng dạy, học

tập các môn lý luận chính trị được xem là một trong những hoạt động cần thiết,
giúp hệ thống giáo dục đào tạo đại học, cao đẳng tăng cường trách nhiệm xã hội,
gắn nội dung đào tạo của mình với nhu cầu hỗ trợ phát triển của đất nước trong
từng giai đoạn.
Hiện nay, trường Đại học Tôn Đức Thắng đã và đang triển khai thực hiện
chương trình rèn luyện đạo đức trong sinh viên với 3 nội dung:
1. Giáo dục thái độ chủ động học tập, coi học tập là nhiệm vụ hàng đầu.
2. Rèn luyện ý thức, tính kỷ luật, tự giác chấp hành mọi qui định, nội quy của
nhà trường.
3. Giáo dục cho sinh viên tính tập thể, tính cộng đồng, đặt lợi ích tập thể trên
lợi ích cá nhân.


Để thực hiện được chương trình này đòi hỏi sự phấn đấu, nỗ lực, cố gắng
đóng góp của tập thể cán bộCNV và sinh viên của Nhà trường, đặc biệt là đóng
góp cho hoạt động giảng dạy và học tập các môn Lý luận chính trị trong nhà
trường. Điều này nói lên rằng sự quan tâm rất lớn của lãnh đạo nhà trường đối với
việc dạy và học các môn Lý luận chính trị hiện nay.
Tổng kết hội thảo, TS. Thái Hữu Tuấn - Phó Hiệu Trưởng Trường ĐH Tôn
Đức Thắng, Trưởng Khoa KHXH&NV với tư cách là Chủ tịch Hội đồng Hội thảo
đã đúc kết và đi đến kết luận: Hội thảo thật sự mang lại nhiều giá trị đích thực, đạt
được tính thực tiễn và có thể ứng dụng vào ngay trong thực tế giáo dục, đào tạo
của trường nhằm nâng cao được chất lượng dạy và học. Hội thảo đã góp phần
khẳng định xu hướng phát triển của xã hội, cũng như nâng cao chất lượng giảng
dạy và học tập. Không những vậy, hội thảo còn là dịp để đội ngũ cán bộ giảng dạy
và cán bộ quản lý có cơ hội gặp gỡ, trao đổi học thuật, đối thoại giải đáp các tâm
tư, đề xuất các giải pháp,... nhằm rút ra tiếng nói chung, phương pháp chung trong
quá trình hoạt động giảng dạy. Đây là một tập hợp các ý kiến tham khảo hữu ích
cho những nhà nghiên cứu, những nhà quản lý giáo dục và quý thầy cô đang giảng
Bài 1: KHÁI QUÁT VỀ CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN

1. Khái niệm chủ nghĩa Mác - Lênin
Chủ nghĩa Marx-Lenin là thuật ngữ chính trị để chỉ học thuyết do Karl
Marx và Friedrich Engels sáng lập và được Vladimir Ilyich Lenin phát triển, được
coi là ý thức hệ chính thức của Liên Xô từ giữa thập niên 1920. Thuật ngữ chính
trị này được Iosif Vissarionovich Stalin định nghĩa là "học thuyết do Karl Marx và
Friedrich Engels sáng lập và được Vladimir Ilyich Lenin phát triển trong mối
quan hệ đấu tranh giai cấp giữa thời đại Chủ nghĩa đế quốc và các cuộc cách
mạng của giai cấp vô sản".[1]
Theo quan điểm của các đảng cộng sản, Chủ nghĩa Marx-Lenin là thế giới
quan, hệ tư tưởng chính trị của giai cấp công nhân. Đảng Xã hội chủ nghĩa Thống
nhất Đức định nghĩa chủ nghĩa Marx-Lenin: "Được gây dựng nên bởi Marx và
Engels và tiếp tục được phát triển bởi Lenin, đó không chỉ là thế giới quan khoa
học của giai cấp công nhân, mà nó còn liên tục được làm phong phú bởi phong
trào cộng sản quốc tế, trên cơ sở kinh nghiệm xây dựng và thực tiễn của các cuộc
đấu tranh giải phóng cách mạng xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa."[2]
Chủ nghĩa Marx-Lenin là cụm từ thường để chỉ cho lý thuyết chính trị kết hợp
có tính chọn lọc ghép các lý thuyết của Marx và lý thuyết của Lenin, chứ không
phải nghiên cứu riêng rẽ hay sự tổng hợp kết hợp tất cả các lý thuyết của hai ông,
và thường hay được một số nhà nghiên cứu cho là do Stalin đặt ra. Thuật ngữ chủ
nghĩa Marx - Lenin đã được sử dụng bởi các đảng cộng sản chịu ảnh hưởng của
Đảng Cộng sản Liên Xô.


Chủ nghĩa Marx - Lenin là nhánh chính của chủ nghĩa cộng sản, ngoài ra còn
có các nhánh khác như Dân chủ xã hội, chủ nghĩa Mao, Chủ nghĩa cộng sản vô
chính phủ, chủ nghĩa Trotsky,... Tuy có khác nhau về biện pháp để đi lên chủ nghĩa
cộng sản (trừ những người dân chủ xã hội), nhưng mục tiêu chung thì không có gì
khác nhau.
2. Các bộ phận cấu thành của chủ nghĩa Mác - Lênin
2.1. Triết học Mác – Lênin

Triết học Marx-Lenin (phiên âm tiếng Việt: Triết học Mác - Lenin) hay học
thuyết Marx-Lenin là một trong ba bộ phận cấu thành của chủ nghĩa Marx-Lenin,
được Marx, Engels sáng lập vào giữa thế kỷ thứ XIX, sau đó được Lenin và các
nhà macxit khác phát triển thêm. Triết học Marx-Lenin ra đời vào những năm 40
thế kỉ XIX và được phát triển gắn chặt với những thành tựu khoa học và thực tiễn
trong phong trào cách mạng công nhân. Sự ra đời của triết học Marx-Lenin là một
cuộc cách mạng thực sự trong lịch sử tư tưởng loài người, trong lịch sử triết học.
Triết học Marx-Lenin hình thành dựa trên hệ thống quan điểm của Marx,
Engels và được Lenin bổ sung sau này. Trong đó Engels đã phát triển triết học
Marx, thông qua việc khái quát các thành tựu khoa học và phê phán các lý thuyết
triết học duy tâm, siêu hình và cả những quan niệm duy vật tầm thường ở những
người muốn trở thành những người Mác-xít. Với những tác phẩm chủ yếu của
mình như: Chống Duyring, Biện chứng của tự nhiên, Nguồn gốc của gia đình, của
chế độ tư hữu và nhà nước, Lut vich Phoi bách và sự cáo chung của triết học cổ
điển Đức, Engels đã trình bày học thuyết Mác nói chung và triết học Mác nói riêng
dưới dạng một hệ thống lý luận. Ngoài ra những ý kiến bổ sung, giải thích của
Engels sau khi Mác qua đời đối với một số luận điểm của ông trước đây cũng có ý
nghĩa rất quan trọng trong việc phát triển học thuyết Mác.[1]
Triết học Marx-Lenin là một trong ba bộ phận cấu thành của Chủ
nghĩa Mác – Lenin; đầu tiên là Triết học Mác, do Mác và Enghen sáng lập ra, được
Lenin và các nhà mácxít khác phát triển thêm. Triết học Mác ra đời vào những năm
40 thế kỉ 19 và được phát triển gắn chặt với những thành tựu khoa học và thực tiễn
trong phong trào cách mạng công nhân. Sự ra đời của Triết học Mác là một cuộc
cách mạng thực sự trong lịch sử tư tưởng loài người, trong lịch sử triết học. Nhưng
cuộc cách mạng ấy bao hàm tính kế thừa, tiếp thu tất cả những nhân tố tiên tiến và
tiến bộ mà lịch sử tư tưởng loài người đã để lại.
Triết học Mác là triết học duy vật. Nhưng các nhà sáng lập của triết học đó
không dừng lại ở chủ nghĩa duy vật của thế kỉ 18 mà những thiếu sót chủ yếu nhất
của nó là máy móc, siêu hình và duy tâm khi xem xét các hiện tượng xã hội. Các
ông đã khắc phục những thiếu sót ấy, đưa triết học tiến lên một bước phát triển mới

bằng cách tiếp thu một cách có phê phán những thành quả của triết học cổ điển


Đức, nhất là phép biện chứng trong hệ thống triết học của Hegel. Tuy nhiên, phép
biện chứng của Hegel là phép biện chứng duy tâm, vì vậy, các nhà sáng lập Triết
học Mác đã cải tạo nó, đặt nó trên lập trường duy vật. Chính trong quá trình cải tạo
phép biện chứng duy tâm của Hegel và phát triển tiếp tục chủ nghĩa duy vật cũ,
trên cơ sở khái quát hoá những thành tựu của khoa học tự nhiên và thực tiễn cho
đến giữa thế kỉ 19, Mác và Enghen đã tạo ra triết học của mình.
Triết học ấy sau này đã được Lenin phát triển thêm và trở thành Triết học Mác
- Lenin. Triết học Mác - Lenin là triết học duy vật biện chứng triệt để. Lenin hy
vọng khắc phục được những thiếu sót của chủ nghĩa duy vật trước Mác. Trong
Triết học Mác - Lenin, các quan điểm duy vật về tự nhiên và về xã hội, các nguyên
lý của chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng gắn bó hết sức chặt chẽ với nhau
thành một hệ thống lý luận thống nhất.
Nội dung cơ bản của lý luận đó gồm:
- Thứ nhất, đó là các nguyên lý của chủ nghĩa duy vật đã được giải thích một
cách biện chứng. Theo các nguyên lý này, "Trong thế giới không có gì khác ngoài
vật chất đang vận động, và vật chất đang vận động không thể vận động như thế
nào khác ngoài vận động trong không gian và thời gian". Còn ý thức chỉ là sản
phẩm của bộ óc con người và là sự phản ánh tự giác, tích cực các sự vật, hiện
tượng và quá trình hiện thực của thế giới vật chất, là hình ảnh chủ quan của thế
giới khách quan.
Như vậy trong quan hệ giữa vật chất và ý thức, vật chất là cái thứ nhất, cái
quyết định và tồn tại độc lập với ý thức, còn ý thức là cái thứ hai, cái có sau. Tuy
nhiên khác với chủ nghĩa duy vật trước Mác, Triết học Mác - Lenin, một mặt
khẳng định sự phụ thuộc vào vật chất, coi ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất,
mặt khác lại thừa nhận tác dụng tích cực trở lại của ý thức đối với vật chất. Thông
qua hoạt động của con người, ý thức có thể đẩy nhanh hoặc kìm hãm sự phát triển
của thế giới vật chất ấy.

- Thứ hai, các nguyên lý của phép biện chứng trong hệ thống triết học Hegel
đã được cải tạo và xây dựng lại trên lập trường duy vật. Theo các nguyên lý đó:
+ Theo định nghĩa của Lenin, vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ
thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác
của con người chép lại, chụp lại, phản ánh và nó tồn tại không lệ thuộc vào cảm
giác. Mỗi kết cấu vật chất có muôn vàn mối liên hệ qua lại với các sự vật, hiện
tượng, quá trình khác của hiện thực.[2][3]
+ Tất cả các sự vật cũng như sự phản ánh của chúng trong óc con người đều ở
trong trạng thái biến đổi phát triển không ngừng. Nguồn gốc của sự phát triển đó là
sự đấu tranh giữa các mặt đối lập ở ngay trong lòng sự vật. Phương thức của sự


phát triển đó là sự chuyển hoá những biến đổi về lượng thành những biến đổi về
chất và ngược lại. Còn chiều hướng của sự phát triển này là sự vận động tiến lên
theo đường xoáy trôn ốc chứ không phải theo đường thẳng.
Nội dung của hai nguyên lý trên đây được thể hiện trong 3 quy luật cơ bản
của phép biện chứng duy vật (quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối
lập; quy luật về sự chuyển hoá những biến đổi về lượng thành những biến đổi về
chất và ngược lại; quy luật phủ định cái phủ định) và trong hàng loạt quy luật về
mối quan hệ qua lại biện chứng giữa cái chung và cái riêng, nguyên nhân và kết
quả, tất nhiên và ngẫu nhiên, nội dung và hình thức, bản chất và hiện tượng, khả
năng và hiện thực, v.v...
+ Triết học Mác - Lenin còn bao gồm lý luận nhận thức và chủ nghĩa duy vật
lịch sử. Nhận thức là sự phản ánh giới tự nhiên bởi con người, nhưng đó không
phải là sự phản ánh đơn giản, trực tiếp, hoàn toàn, mà là một quá trình nhờ đó tư
duy mãi mãi và không ngừng tiến đến gần khách thể. Sự tiến đến gần đó diễn ra
theo con đường mà Lenin đã tổng kết: "Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu
tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn - đó là con đường biện chứng của sự
nhận thức chân lý, của sự nhận thức thực tại khách quan". Cơ sở, động lực và mục
đích của toàn bộ quá trình này là thực tiễn. Thực tiễn cũng đồng thời là tiêu chuẩn

của chân lý.
Triết học Mác - Lenin không chỉ dừng lại ở những quan điểm duy vật biện
chứng về tự nhiên mà còn mở rộng những quan điểm đó vào việc nhận thức xã hội
và nhờ đó thế giới quan duy vật biện chứng trở thành toàn diện và triệt để. Áp dụng
và mở rộng quan điểm duy vật biện chứng vào nghiên cứu xã hội, Mác đã đưa ra
được quan niệm duy vật về lịch sử, chỉ ra con đường nghiên cứu những quy luật
của sự phát triển xã hội, sự phát triển đó, cũng như sự phát triển của tự nhiên,
không phải do ý muốn chủ quan mà do những quy luật khách quan quyết định. Sự
ra đời của Triết học Mác - Lenin đã đặt cơ sở cho việc nghiên cứu lịch sử và đời
sống xã hội thực sự có tính chất khoa học.
+ Theo Mác: "Phương thức sản xuất đời sống vật chất quyết định quá trình
sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung. Không phải ý thức của con
người quyết định sự tồn tại của họ; trái lại chính sự tồn tại xã hội của họ quyết
định ý thức của họ.".[4] Tồn tại xã hội của con người trước hết là phương thức sản
xuất của cải vật chất xã hội. Đó là nhân tố, xét đến cùng, quyết định toàn bộ đời
sống của xã hội, quyết định sự phát triển của xã hội. Ý thức xã hội không có gì
khác hơn là sự phản ánh tồn tại xã hội. Trong khi khẳng định nguyên lý tồn tại xã
hội quyết định ý thức xã hội, Triết học Mác - Lenin cũng thừa nhận tính độc lập
tương đối trong sự phát triển của ý thức xã hội và vai trò tích cực của tư tưởng, lý
luận tiên tiến trong sự phát triển của xã hội.


Với những quan điểm triết học nêu trên, khi nghiên cứu Kinh tế Chính trị học
Marx nhận thấy trong quá trình sản xuất xã hội, con người có những quan hệ nhất
định, tất yếu, không tuỳ thuộc vào ý muốn của họ - tức là những quan hệ sản xuất,
những quan hệ này phù hợp với một trình độ phát triển nhất định của các lực lượng
sản xuất vật chất của họ. Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy hợp thành cơ cấu kinh
tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực, trên đó xây dựng lên một cấu trúc thượng
tầng pháp lý và chính trị, và tương ứng với cơ sở thực tại đó là những hình thái ý
thức xã hội nhất định.

Tới một giai đoạn phát triển nhất định, các lực lượng sản xuất vật chất của xã
hội sẽ mâu thuẫn với những quan hệ sở hữu, mà trong đó từ trước đến nay các lực
lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là những hình thức phát triển của các lực
lượng sản xuất, những quan hệ ấy đã trở thành những xiềng xích của lực lượng sản
xuất. Mâu thuẫn này được giải quyết khi có một quan hệ sản xuất mới, tiến bộ, phù
hợp với lực lượng sản xuất đã lớn mạnh. Cơ sở kinh tế thay đổi thì tất cả cái cấu
trúc thượng tầng đồ sộ cũng bị đảo lộn ít nhiều nhanh chóng.
Mác - Lenin cũng chỉ rõ vai trò của quần chúng nhân dân trong sự phát triển
của lịch sử. Quan niệm đó đã dẫn đến chỗ khẳng định vai trò lịch sử thế giới của
giai cấp công nhân hiện đại trong cuộc đấu tranh giải phóng loài người, trong việc
xây dựng xã hội mới - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Mác - Lenin cũng đã chứng minh
việc xây dựng xã hội cộng sản là tất yếu. Mác - Lenin nghiên cứu xã hội với tính
cách là một thể thống nhất, hoàn chỉnh và vạch ra những quy luật chung và những
động lực của sự phát triển xã hội. Nó chỉ ra vị trí và vai trò của mỗi mặt đời sống
xã hội trong hệ thống xã hội nói chung, vạch ra những nét cơ bản của các giai đoạn
phát triển xã hội loài người.
Các nguyên lý của chủ nghĩa duy vật đã được giải thích một cách biện chứng.
Theo các nguyên lý này, đã giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức.
Theo Ph.Ăng-ghen thì: Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là triết học
hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại
Theo đó "trong thế giới không có gì khác ngoài vật chất đang vận động, và vật
chất đang vận động không thể vận động như thế nào khác ngoài vận động trong
không gian và thời gian". Còn ý thức chỉ là sản phẩm của bộ óc con người và là sự
phản ánh tự giác, tích cực các sự vật, hiện tượng và quá trình hiện thực của thế giới
vật chất, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Như vậy trong quan hệ
giữa vật chất và ý thức, vật chất là cái thứ nhất, cái quyết định và tồn tại độc lập
với ý thức, còn ý thức là cái thứ hai, cái có sau. Tuy vậy, ý thức có thể đẩy nhanh
hoặc kìm hãm sự phát triển của thế giới vật chất ấy.
Các nguyên lý của phép biện chứng trong hệ thống triết học Hegel đã được
cải tạo và xây dựng lại trên lập trường duy vật. Theo các nguyên lý đó:



Mỗi kết cấu vật chất có muôn vàn mối liên hệ qua lại với các sự vật, hiện
tượng, quá trình khác của hiện thực. Trong hàng loạt quy luật về mối quan hệ qua
lại biện chứng giữa cái chung và cái riêng, nguyên nhân và kết quả, tất nhiên và
ngẫu nhiên, nội dung và hình thức, bản chất và hiện tượng, khả năng và hiện thực.
Tất cả các sự vật cũng như sự phản ánh của chúng trong óc con người đều ở
trong trạng thái biến đổi phát triển không ngừng. nguồn gốc của sự phát triển đó là
sự đấu tranh giữa các mặt đối lập ở ngay trong lòng sự vật. Phương thức của sự
phát triển đó là sự chuyển hoá những biến đổi về lượng thành những biến đổi về
chất và ngược lại. Còn chiều hướng của sự phát triển này là sự vận động tiến lên
theo đường xoáy trôn ốc chứ không phải theo đường thẳng. Nội dung của hai
nguyên lý trên đây được thể hiện trong 3 quy luật cơ bản của phép biện chứng duy
vật (quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, quy luật về sự chuyển
hoá những biến đổi về lượng thành những biến đổi về chất và ngược lại, quy luật
phủ định cái phủ định).
Lý luận nhận thức và chủ nghĩa
duy vật lịch sử. Nhận thức là sự phản ánh giới tự nhiên bởi con người, nhưng
đó không phải là sự phản ánh đơn giản, trực tiếp, hoàn toàn, mà là một quá trình
nhờ đó tư duy mãi mãi và không ngừng tiến đến gần khách thể.
Triết học Mác-Lenin ra đời và hoàn chỉnh đã góp phần quan trọng trong nhận
thức và đấu tranh của giai cấp công nhân, các tầng lớp vô sản. Các Mác đã phát
biểu rằng: Giống như triết học thấy giai cấp vô sản là vũ khí vật chất của mình,
giai cấp vô sản cũng thấy triết học là vũ khí tinh thần của mình[6]
Tinh thần cách mạng của triết học Mác-Lenin được Các Mác phát biểu
rằng: Các nhà triết học đã chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, vấn
đề là cải tạo thế giới[7]
2.2. Kinh tế chính trị Mác – Lênin
Kinh tế chính trị Marx-Lenin hay kinh tế chính trị học Marx-Lenin là
một lý thuyết kinh tế và là môn khoa học về kinh tế chính trị do Marx, Engels và

sau này là Lenin phát triển trong giai đoạn mới, có đối tượng nghiên cứu là phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và những quan hệ sản xuất và trao đổi thích ứng với
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Qua đó vạch rõ bản chất, hiện tượng của
các quá trình kinh tế để có cơ sở giải quyết các mối quan hệ liên quan đến học
thuyết của chủ nghĩa Mác - Lenin. Cốt lõi của kinh tế chính trị Mác - Lenin là học
thuyết giá trị thặng dư của Các Mác.
Đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác - Lenin là quan hệ sản
xuất trong sự tác động qua lại với lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng
tầng nhằm tìm ra bản chất của các hiện tượng và quá trình kinh tế, phát hiện ra các


phạm trù, quy luật kinh tế ở các giai đoạn phát triển nhất định của xã hội loài
người.
Về chức năng của kinh tế chính trị Mác-Lê nin, mục đích của Marx và Ăngghen khi nghiên cứu, sáng tạo ra kinh tế chính trị này nhằm các mục đích sau (đây
cũng là chức năng của kinh tế chính trị học Marx - Lenin)
Chức năng nhận thức: Chức năng này thể hiện ở chỗ kinh tế chính trị Mác Lenin cần phải phát hiện bản chất của các hiện tượng, quá trình kinh tế của đời
sống xã hội, tìm ra các quy luật chi phối sự vận động của chúng, giúp con người
vận dụng các quy luật kinh tế một cách có ý thức vào hoạt động kinh tế nhằm đạt
hiệu quả kinh tế, xã hội cao.
Chức năng thực tiễn: Là chức năng nhận thức để phục vụ cho hoạt động
thực tiễn có hiệu quả. Chức năng thực tiễn có quan hệ với chức năng nhận thức, ở
chỗ từ việc nghiên cứu các hiện tượng và các quá trình kinh tế của đời sống xã hội,
phát hiện ra bản chất, các quy luật chi phối và cơ chế hoạt động của các quy luật từ
đó kinh tế chính trị cung cấp những luận cứ khoa học để hoạch định đường lối,
chính sách và biện pháp kinh tế. Đường lối, chính sách và các biện pháp kinh tế
dựa trên những luận cứ khoa học đúng đắn đã nhận thức được sẽ đi vào cuộc sống
làm cho hoạt động kinh tế có hiệu quả cao hơn nhiều.
Chức năng phương pháp luận: Kinh tế chính trị là nền tảng lý luận cho một
tổ hợp các khoa học kinh tế. Những kết luận của kinh tế chính trị biểu hiện ở các
phạm trù và quy luật kinh tế có tính chất chung là cơ sở lý luận của các môn kinh

tế chuyên ngành và các môn kinh tế chức năng, nó là cơ sở lý luận cho một số
môn khoa họckhác.
Chức năng tư tưởng: Kinh tế chính trị Mác - Lenin là cơ sở khoa học cho sự
hình thành thế giới quan, nhân sinh quan và tuyên truyền cho đấu tranh giai cấp
của tầng lấp công nhân và nhân dân lao động để xây dựng chủ nghĩa cộng sản.
Để xây dựng nên một lý thuyết kinh tế chính trị đặc trưng cho chủ nghĩa Mác,
Các Mác và Ăng ghen đã nghiên cứu, kế thừa nhiều lý thuyết về kinh tế học trước
đó như các trường phái chủ nghĩa trọng nông (đề cao nông nghiệp), chủ nghĩa
trọng thương (đề cao vấn đề thương mại, mua bán, trao đổi...) và chịu ảnh hưởng
của kinh tế học cổ điển Anh với các đại biểu như Adam Smith, David
Ricardo hay William Petty.
Trên cơ sở đó, Mác và Engels đã làm cuộc cách mạng sâu sắc trong kinh tế
chính trị trên tất cả các phương diện về đối tượng và phương pháp nghiên cứu, nội
dung, tính chất giai cấp... của kinh tế chính trị. Kinh tế chính trị Mác Lenin là sự
thống nhất giữa tính khoa học và tính cách mạng, dựa vào phép biện chứng duy vật
và đứng trên lập trường của giai cấp công nhân để xem xét các hiện tượng và quá


trình kinh tế của xã hội tư bản. Họ đã thực hiện cuộc cách mạng vĩ đại trong kinh
tế chính trị học. Kinh tế chính trị Mác - Lenin là lý luận sắc bén của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động toàn thế giới trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư
bản, xây dựng chủ nghĩa cộng sản.
Kinh tế chính trị của Mác và Ăng-ghen xây dựng có khác so với các lý thuyết
trước đó ở chỗ các học thuyết, lý thuyết trước Mác và Ăng-ghen chủ yếu tập trung
nghiên cứu sâu về vấn đề kinh tế, các quan hệ kinh tế đơn thuần và tập trung cho
mục đích kinh tế và hoạt động kinh tế, hay hiệu quả kinh tế, các phương pháp kinh
doanh... trong khi đó lý thuyết của Mác và Ăng-ghen thì gắn chặt kinh tế với chính
trị dùng kinh tế để giải thích chính trị, vạch ra các bản chất của chính trị-xã hội
(theo tư duy của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử).
Tư bản cuốn sách chứa đựng nội dung của kinh tế chính trị Mác - Lê nin

Kinh tế chính trị Mác-Lê nin tập trung nghiên cứu, mổ xẻ các quan hệ kinh tế
trong lòng xã hội tư bản và nghiên cứu sâu về các quy luật của nền sản xuất này, cụ
thể là
Đề cập về hàng hóa, sản xuất hàng hóa và các quy luật kinh tế của sản xuất
hàng hóa (trong chủ nghĩa Tư bản)
Tập trung mổ xẻ quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản mà cốt lõi là
việc sản xuất giá trị thặng dư
Phân tích sự vận động của tư bản cá biệt và tái sản xuất tư bản xã hội
Xem xét các hình thái tư bản và các hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư
Nghiên cứu về chủ nghĩa tư bản độc quyền và chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà
nước (phần này do Lenin có công đóng góp rất lớn)
Từ những nội dung cơ bản mà Mác và Ăng-ghen đã xây dựng nên một hệ
thống những phạm trù có liên quan một cách đồ sộ như: tái sản xuất xã
hội, phương thức sản xuất, quan hệ sản xuất, tư bản lưu động, tư bản cố định, tư
bản bất biến, tư bản khả biến, giá trị, giá trị sử dụng, hàng hóa sức lao động, sức
lao động, đối tượng lao động, tư liệu lao động, tư liệu sản xuất.....
Một số phát hiện quan trọng[sửa | sửa mã nguồn]
Các Marx và Ăng ghen đã đầu tư công sức tập trung nghiên cứu các quy luật
kinh tế của chủ nghĩa Tư bản và có những phát hiện quan trọng làm nền tảng cho
lý luận khoa học của hai ông.
Mâu thuẫn giữa hai thuộc tính của hàng hóa
Mâu thuẫn giữa thuộc tính giá trị và giá trị sử dung của hàng hóa là hàng hóa
không đồng nhất về chất nhưng lại đồng nhất về chất. Giá trị và giá trị sử dụng


cùng tồn tại trong bản thân hàng khóa nhưng lại tách rời về mặt không gian và thời
gian. Cụ thể là
Nếu xét ở góc độ là giá trị sử dụng thì các hàng hóa không đồng nhất về chất.
Nhưng ngược lại, với tư cách là giá trị thì các hàng hóa lại đồng nhất về chất, đều
là sự kết tinh của lao động tức đều là sự kết tinh của lao động, hay là lao động đã

được vật hoá.
Tuy giá trị sử dụng và giá trị cùng tồn tại trong một hàng hóa, nhưng quá trình
thực hiện chúng lại tách rời nhau về cả mặt không gian và thời gian: giá
trị được thực hiện trước trong lĩnh vực lưu thông, còn giá trị sử dụng được thực
hiện sau trong lĩnh vực tiêu dùng.
Và từ phát hiện này, Các Mác tiếp tục có phát hiện quan trọng thứ hai có liên
quan.
Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa
Lao động của người sản xuất hàng hóa có tính chất hai mặt một mặt nó vừa
mang tính chất cụ thể (lao động cụ thể) mặt khác nó lại vừa mang tính chất trừu
tượng (lao động trừu tượng). Và chính cái mà người công nhân, người lao động bị
bóc lột là cái lao động trừu tượng của họ chứ không phải là lao động cụ thể, những
việc làm cụ thể, thời gian cụ thể và chính vì tính trừu tượng như vậy nên khó nhận
ra sự bóc lột, đặc biệt là sự bóc lột tinh vi.
Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa phản ảnh tính chất tư nhân
và tính chất xã hội của lao động của người sản xuất hàng hóa
Công thức chung của tư bản[sửa | sửa mã nguồn]
Theo Các Mác thì tiền trong lưu thông hàng hóa giản đơn vận động theo công
thức: H - T - H (Hàng - Tiền - Hàng) còn tiền trong nền sản xuất tư bản chủ
nghĩa thì theo công thức: T - H - T’ (Tiền - Hàng - Tiền').
Ông đã so sánh hai công thức này và phá hiện điểm khác cơ bản là lưu thông
hàng hóa giản đơn bắt đầu bằng hành vi bán (H - T tức là Hàng - Tiền) và kết thúc
bằng hành vi mua (T - H tức là Tiền - Hàng), ngoài ra điểm xuất phát và điểm kết
thúc đều là hàng hóa, tiền chỉ đóng vai trò trung gian, mục đích là giá trị sử dụng.
Trong khi đó, lưu thông của tư bản bắt đầu bằng hành vi mua (T - H tức Tiền
- Hàng) và kết thúc bằng hành vi bán (H - T’ tức Hàng - Tiền'), ở sơ đồ này, tiền
vừa là điểm xuất phát, vừa là điểm kết thúc, còn hàng hóa chỉ đóng vai trò trung
gian. Mục đích của lưu thông tư bản là giá trị, và giá trị lớn hơn.
Như vậy thì tư bản phải vận động theo công thức T-H-T’ để có giá trị mới. T'
(tức là Tiền sau một vòng lưu thông sẽ được tính bằng công thức: T’ = T + ΔT,

trong đó: ΔT là số tiền trội hơn (giá trị lớn hơn) được gọi là giá trị thặng dư (Các


Mác ký hiệu nó bằng m). Còn số tiền ứng ra ban đầu (Tiền ban đầu dùng để mua
hàng ở đầu chu trình lưu thông này) với mục đích thu được giá trị thặng dư trở
thành tư bản và tiền chỉ biến thành tư bản khi được dùng để mang lại giá trị thặng
dư cho nhà tư bản.
Tóm lại, công thức chung của chủ nghĩa tư bản là:
T – H – T’ với T’ = T + m
Mâu thuẫn trong công thức chung[sửa | sửa mã nguồn]
Các Mác cũng đã phát hiện được mâu thuẫn trong công thức chung này đó là
giá trị thặng dư vừa không được sinh ra trong quá trình lưu thông nhưng lại được
sinh ra trong quá trình lưu thông.
Cụ thể, trong công thức chung của chủ nghĩa tư bản chỉ có 2 nhân tố là Hàng
(H) và Tiền (T) và quá trình lưu thông thì cũng là sự sắp xếp theo trật tự khác nhau
của 2 nhân tố này và không có một sự tác động nào bên ngoài hay có một tham số
khác trong công thức này nhưng vẫn phát sinh ra nhân tố mới là T' tức là số tiền
trội hơn (ΔT) hay giá trị thặng dư (m).
Nếu xét đơn thuần bề ngoài thì giá trị thặng dư có vẻ được sinh ra trong lưu
thông vì phát sinh không ngoài công thức này (với hai đại lượng cơ bản là Hàng và
Tiền). Tuy nhiên, nếu mua - bán ngang giá thì chỉ có sự thay đổi hình thái của giá
trị từ tiền thành hàng hoặc từ hàng thành tiền. Còn tổng số giá trị trong tay mỗi
người tham gia trao đổi trước sau vẫn không thay đổi.
Trong trường hợp trao đổi không ngang giá, hàng hóa có thể bán cao hơn
hoặc thấp hơn giá trị thực của nói nhưng cũng chưa thể kết luận là có giá trị mới vì
trong nền kinh tế hàng hóa, mỗi người sản xuất đều vừa là người bán, vừa là người
mua (tính chung tổng thể). Cái lợi mà họ thu được khi bán sẽ bù lại cái thiệt khi
mua hoặc ngược lại. Trong trường hợp có những kẻ chuyên mua rẻ, mua may, bán
đắt hay lừa lọc, ép giá, nói thách, nói xạo để được lợi thì chính bản thân người thực
hiện hành vi đó được lợi nhưng tổng giá trị toàn xã hội cũng không hề tăng lên, bởi

vì số giá trị mà những người này thu được chẳng qua chỉ là sự ăn chặn, đánh cắp số
giá trị của người khác. Điều này cũng tương tự như việc lưu thông tiền tệ trong
sòng bài, chiếu bạc có người thắng, người thua nhưng quan trọng là người thắng
thì lấy tiền từ kẻ thua (tiền chuyển từ tay người này qua tay người kia) chứ không
sinh lợi thêm như nhiều người vẫn vọng tưởng.
Như vậy lưu thông và bản thân tiền tệ trong lưu thông không hề tạo ra giá trị
hay giá trị mới. Nhưng mặt khác, nếu người có tiền không tiếp xúc gì với lưu
thông, tức là đứng ngoài lưu thông (ví dụ như đem chôn, cất, dấu, tích trữ, tàng trữ,
không đầu tư gì cả....) thì cũng không thể làm cho tiền của mình tăng thêm lên
được (sẽ không có hiện tượng lãi mẹ đẻ lãi con).


Đó là mâu thuẫn của công thức chung của tư bản. Chính Các Mác là người
đầu tiên phân tích và giải quyết mâu thuẫn đó bằng một phát hiện tiếp theo đó
là hàng hóa sức lao động.
Hàng hóa sức lao động
Để giải quyết mâu thuẫn của công thức chung của tư bản thì hướng giải quyết
là cần tìm trên thị trường một loại hàng hóa mà việc sử dụng nó có thể tạo ra được
giá trị lớn hơn giá trị của bản thân nó, loại hàng hóa đặc biệt này chính là hàng
hóa sức lao động. Trong quá trình lao động, sức lao động tạo ra một lượng giá trị
mới lớn hơn giá trị của bản thân nó, phần giá trị dôi ra so với giá trị sức lao động là
giá trị thặng dư. Đây được coi là đặc điểm riêng có của giá trị sử dụng của hàng
hóa sức lao động và đặc điểm này là chìa khoá để giải quyết mâu thuẫn trong công
thức chung của tư bản.
Sức lao động theo kinh tế chính trị Mác Lê nin là toàn bộ những năng lực (thể
lực và trí lực) tồn tại trong một con người và được người đó sử dụng vào sản xuất,
nó là cái có trước, còn lao động là cái có sau và chính là quá trình sử dụng sức lao
động.
Theo chủ nghĩa Mác Lê nin thì rong mọi xã hội, sức lao động là yếu tố của
sản xuất, nhưng sức lao động chỉ trở thành hàng hóa khi có hai điều kiện:

Người lao động phải được tự do về thân thể, có quyền sở hữu sức lao động
của mình và chỉ bán sức lao động ấy trong một thời gian nhất định.
Người lao động không có tư liệu sản xuất cần thiết để tự mình đứng ra tổ chức
sản xuất nên muốn sống chỉ còn cách bán sức lao động cho người khác sử dụng.
Thông qua hàng hóa sức lao động này mà tạo ra sự chuyển hóa trong lưu
thông, tạo ra giá trị mới, theo đó công thức T - H - T' có thể được hiểu là: T là tư
bản, là số tiền đầu tư ban đầu, trong đó một phần sẽ đầu tư vào để mua máy móc,
nhà xưởng, một phần mua nguyên liệu và một phần thuê nhân công, H chính là
hàng hóa sức lao động, thông qua sức lao động của con người sẽ tác động vào máy
móc, vật liệu để tạo nên những H (hàng hóa) có giá trị cao hơn so với giá trị ban
đầu và nhà tư bản chỉ việc chiếm đoạt H này và bản để thu về T' (giá trị mới cao
hơn và đã bao hàm trong đó là giá trị thặng dư). Và cụ thể việc sử dụng hàng hóa
sức lao động này như thế nào để phát sinh giá trị thặng dư thì Các Mác tiếp tục có
phát hiện tiếp theo là bóc trần quy trình sản xuất giá trị thặng dư.
Sản xuất giá trị thặng dư
Nhà tư bản sẽ ứng trước ra một số tiền mua tư liệu sản xuất và sức lao động là
để tạo ra giá trị thặng dư. Quá trình tạo ra giá trị thặng dư được Các Mác phân tích
rất kỹ lưỡng qua bài toán kéo sợi giả dụ của ông ta.


Để chế tạo ra 01 kg sợi, nhà tư bản phải ứng ra số tiền gồm:
20.000 đơn vị tiền tệ để mua 1 kg bông
3.000 đơn vị tiền tệ cho hao phí máy móc
5.000 đơn vị tiền tệ để mua sức lao động của công nhân điều khiển máy móc
trong 01 ngày (10 giờ).
Tổng cộng: 28.000 đơn vị tiền tệ.
Giả định việc mua này đúng giá trị và mỗi giờ lao động của công nhân tạo ra
giá trị mới kết tinh vào sản phẩm là 1.000 đơn vị.
Trong quá trình sản xuất, bằng lao động cụ thể, công nhân sử dụng máy móc
để chuyển 1 kg bông thành 1 kg sợi, theo đó giá trị của bông và hao mòn máy móc

cũng được chuyển vào sợi. Tỷ dụ chỉ trong 5 giờ công nhân đã kéo xong 1 kg bông
thành 1 kg sợi, thì giá trị 1 kg sợi được tính theo các khoản chi phí như sau:
Giá trị 1 kg bông chuyển vào = 20.000 đơn vị
Hao mòn máy móc = 3.000 đơn vị
Giá trị mới tạo ra: 5 giờ X 1.000 đơn vị = 5.000 đơn vị
Tổng cộng = 28.000 đơn vị tiền tệ.
Nếu quá trình lao động ngừng ở đây thì nhà tư bản chưa có được giá trị thặng
dư vì nếu bán hàng hóa đi thì chi phí này bằng với chi phí ban đầu đã bỏ ra và chỉ
huề vốn.
Thời gian lao động (5 giờ) mà người công nhân tạo ra một lượng giá trị ngang
với giá trị sức lao động của mình gọi là thời gian lao động tất yếu tương tự, lao
động trong khoảng thời gian ấy gọi là lao động tất yếu.
Tuy nhiên, nhà tư bản đã mua sức lao động trong 1 ngày với 10 giờ, chứ
không phải 5 giờ. Như vậy, trong 5 giờ lao động tiếp theo, nhà tư bản chỉ phải chi
thêm 20.000 đơn vị để mua 1 kg bông và 3.000 đơn vị hao mòn máy móc mà
không phải chi thêm tiền công mướn lao động nữa. Và với 5 giờ lao động sau,
người công nhân vẫn tạo ra 5.000 đơn vị giá trị mới (mà không được chi thêm
đồng nào theo đợt thứ 2 này) và nhà tư bản lại có thêm 1 kg sợi bán đi với giá trị
28.000 đơn vị.
Và bảng giá tính tiền vẫn giống như ban đầu gồm chi phí nguyên liệu: 20.000
đơn vị, hao mòn máy móc: 3.000 đơn vị, giá trị mới: 5.000 đơn vị, tổng số: 28.000
đơn vị. Nhưng khác với bảng giá lần 1, chi phí đầu vào lần 2 này không có khoản
5.000 đơn vị để mua sức lao động.
Tổng cộng số tiền nhà tư bản chi ra để có được 2 kg sợi sẽ là:


Tiền mua bông: 20.000 x 2 lần sản xuất = 40.000 đơn vị
Hao mòn máy móc (máy chạy 10 tiếng): 3.000 x 2 lần sản xuất = 6.000 đơn vị
Tiền lương công nhân sản xuất cả ngày (trong 10 giờ, tính theo đúng giá trị
sức lao động) = 5.000 đơn vị

Tổng cộng = 51.000 đơn vị
Tổng giá trị của thu được của 2 kg sợi là: 2 kg x 28.000/kg = 56.000 đơn vị
Như vậy, lượng giá trị thặng dư (dôi ra) thu được là: 56.000 (bán được) 51.000 (chi phí) = 5.000 đơn vị (5.000 dư này là do chiếm đoạt lao động không
công của công nhân mà có).
Thời gian lao động (5 giờ) để tạo ra giá trị thặng dư gọi là thời gian lao động
thặng dư, và lao động trong thời gian ấy gọi là lao động thặng dư và Giá trị thặng
dư là một bộ phận của giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động do công nhân
làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không. Nhà tư bản chi phối được số lao
động không công ấy vì nhà tư bản là người sở hữu tư liệu sản xuất.
Bản chất của tiền công
Từ ví dụ trên và qua phân tích giá trị thặng dư, Các Mác đã phát hiện tiền
công chính là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa sức lao động, là giá cả của
hàng hóa sức lao động và không nên nhầm tiền công là giá cả của lao động. cho dù
nhà tư bản trả tiền công cho công nhân sau khi công nhân đã lao động để sản xuất
ra hàng hóa hay tiền công được trả theo thời gian lao động (giờ, ngày, tuần, tháng),
hoặc theo số lượng hàng hóa đã sản xuất được. Ở đây, cái mà nhà tư bản mua của
công nhân không phải là lao động, mà là sức lao động (bỏ tiền để mướn sức của
công nhân) cho nên tiền công không phải là giá trị hay giá cả của lao động (lao
động đến đâu trả tiền đến đó), mà chỉ là giá trị hay giá cả của hàng hóa sức lao
động (tức nhà tư bản đã mua loại hàng hóa này để tùy nghi sử dụng sao cho có lợi
nhất).
2.3. Chủ nghĩa xã hội khoa học
hủ nghĩa xã hội khoa học là thuật ngữ được Friedrich Engels nêu ra[1] để mô
tả các lý thuyết về kinh tế-chính trị-xã hội do Karl Marx và ông sáng tạo. Thuật
ngữ này đối lập với chủ nghĩa xã hội không tưởng vì nó trình bày một cách có hệ
thống và nêu bật lên được những điều kiện và tiền đề cho việc xây dựng chủ nghĩa
xã hội khoa học đó là nó chỉ rõ con đường hiện thực dựa vào khoa học để thủ tiêu
tình trạng người bóc lột người và đưa ra một tổ chức xã hội mới không biết đến
những mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản mà những người theo chủ nghĩa xã hội
không tưởng đã mơ ước nhưng không thực hiện được.[2]



Theo các nhà nghiên cứu chủ nghĩa Marx-Lenin thì chủ nghĩa xã hội khoa học
về mặt lý luận nằm trong khái niệm "chủ nghĩa xã hội", là một trong ba bộ phận
hợp thành của chủ nghĩa Marx-Lenin, nghiên cứu sự vận động xã hội nhằm thủ
tiêu chủ nghĩa tư bản và xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa, tiến tới xây dựng xã hội
cộng sản chủ nghĩa. Theo nghĩa hẹp thì chủ nghĩa xã hội khoa học là một trong ba
bộ phận của chủ nghĩa Marx-Lenin. Chủ nghĩa xã hội khoa học đã dựa trên phương
pháp luận triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đồng thời cũng dựa trên
những cơ sở lý luận khoa học về các quy luật kinh tế, quan hệ kinh tế... để luận giải
một cách khoa học về quá trình nảy sinh cách mạng xã hội chủ nghĩa, hình thành
và phát triển hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, gắn liền với sứ mệnh
lịch sử có tính toàn thế giới của giai cấpcông nhân hiện đại, nhằm giải phóng con
người, giải phóng xã hội.[3]
Theo nghĩa rộng, chủ nghĩa xã hội khoa học tức là chủ nghĩa Marx-Lenin (bao
gồm cả ba bộ phận). Nghĩa rộng của chủ nghĩa xã hội khoa học, V.I.Lenin khẳng
định: "chủ nghĩa xã hội khoa học tức là chủ nghĩa Mác". [3] Vì triết học Marx lẫn
kinh tế chính trị Marx đều dẫn đến cái tất yếu lịch sử là làm cách mạng xã hội chủ
nghĩa và xây dựng hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Theo họ, những
người lãnh đạo, tổ chức cùng nhân dân thực hiện sự nghiệp cách mạng lâu dài và
triệt để đó chỉ có thể là giai cấp công nhân hiện đại, thông qua đảng của nó. V.I.
Lenin nhận định: "bộ "Tư bản" - tác phẩm chủ yếu và cơ bản ấy trình bày chủ
nghĩa xã hội khoa học... những yếu tố từ đó nảy sinh ra chế độ tương lai".[4]
Nội dung quan trọng của lý thuyết chủ nghĩa xã hội khoa học là sứ mệnh lịch
sử của giai cấp công nhân. Đây là phạm trù cơ bản nhất của chủ nghĩa xã hội khoa
học. Phát hiện ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là một thành tích chủ
nghĩa Marx - Lenin.
Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân theo Marx và Engels là
những người công nhân sẽ xoá bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xoá bỏ chế độ người
bóc lột người, giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể nhân

loại khỏi mọi sự áp bức, bóc lột, nghèo nàn lạc hậu, xây dựng xã hội cộng sản chủ
nghĩa văn minh.
Luận thuyết về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân đã được K. Marx và F.
Engels trình bày trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản. Trong tác phẩm này các
ông đã chỉ rõ các điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân.
Do địa vị kinh tế - xã hội khách quan, giai cấp công nhân là giai cấp gắn với
lực lượng sản xuất tiên tiến nhất dưới chủ nghĩa tư bản. Và, với tính cách như vậy,
nó là lực lượng quyết định phá vỡ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Sau khi giành
chính quyền, giai cấp công nhân, đại biểu cho sự tiến bộ của lịch sử, là người duy


nhất có khả năng lãnh đạo xã hội xây dựng một phương thức sản xuất mới cao hơn
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Giai cấp công nhân, con đẻ của nền sản xuất công nghiệp hiện đại, được rèn
luyện trong nền sản xuất công nghiệp tiến bộ, đoàn kết và tổ chức lại thành một lực
lượng xã hội hùng mạnh. Bị giai cấp tư sản áp bức, bóc lột nặng nề, họ là giai cấp
trực tiếp đối kháng với giai cấp tư sản, và xét về bản chất họ là giai cấp cách mạng
triệt để nhất chống lại chế độ áp bức, bóc lột tư bản chủ nghĩa.
Địa vị kinh tế - xã hội khách quan tạo cho họ khả năng làm việc đó, tức là khả
năng đoàn kết thống nhất giai cấp và khả năng đi đầu trong cuộc đấu tranh.
4. Vai trò nền tảng tư tưởng, lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin
Chủ nghĩa Mác - Lênin gồm ba bộ phận: Triết học, Kinh tế chính trị học và
Chủ nghĩa xã hội khoa học. Mỗi bộ phận đóng vai trò khác nhau trong nhận thức
và thực tiễn đời sống xã hội con người.
Triết học Mác - Lênin là cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, là chủ
nghĩa duy vật biện chứng trong việc xem xét giới tự nhiên, đời sống xã hội và tư
duy con người. Chủ nghĩa duy vật biện chứng và phép biện chứng duy vật thống
nhất chặt chẽ với nhau làm cho chủ nghĩa duy vật trở nên triệt để và phép biện
chứng trở thành lý luận khoa học. Nhờ đó, triết học Mác - Lênin có khả năng nhận

thức đúng đắn giới tự nhiên cũng như đời sống xã hội và tư duy con người.
Triết học Mác - Lênin không chỉ là lý luận về phương pháp giải thích thế giới
mà còn là lý luận về phương pháp biến đổi và cải tạo thế giới. Triết học Mác Lênin là thế giới quan và phương pháp luận, là vũ khí lý luận sắc bén giúp giai cấp
công nhân và nhân dân lao động đấu tranh xoá bỏ chế độ áp bức bóc lột, xây dựng
thành công xã hội mới, xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
Kinh tế chính trị Mác - Lênin đóng vai trò là chìa khoá để nhận thức ,lịch sử
phát triển của sản xuất vật chất nói chung, giải thích các hiện tượng, các quá trình
kinh tế đang diễn ra trong thực tiễn, phân tích nguyên nhân dự báo triển vọng,
chiều hướng phát triển kinh tế xã hội, là cơ sở khoa học để nhận thức, đề ra và thực
hiện tốt đường lối, chủ trương, chính sách kinh tế của Đảng.
Chủ nghĩa xã hội khoa học đóng vai trò phát hiện và luận giải về quá trình tất
yếu dẫn đến sự hình thành và phát triển hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ
nghĩa, về vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, về cách mạng xã hội
chủ nghĩa, để thực hiện mục tiêu giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao
động khỏi ách áp bức bóc lột, giải phóng xã hội, tiến tới giải phóng con người.
Theo Lênin, chủ nghĩa xã hội khoa học theo nghĩa rộng là chủ nghĩa Mác - Lênin.


Bài 2: KHÁI QUÁT VỀ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
1. Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm và tư tưởng của Hồ Chí
Minh trong sự nghiệp cách mạng của ông được Đảng Cộng sản Việt Nam tổng kết,
hệ thống hóa. Hệ thống tư tưởng này bao gồm những quan điểm về những vấn đề
cơ bản của cách mạng Việt Nam,[1] từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến


cách mạng xã hội chủ nghĩa; vận dụng và phát triển Chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều
kiện cụ thể của Việt Nam.[2]
Các nội dung trong tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành và phát triển gắn
với các thời kì hoạt động của Hồ Chí Minh trong phong trào cách mạng Việt

Nam và quốc tế[3] vào đầu và giữa thế kỷ 20. Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh
nhận định Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kết tinh của văn hóa dân tộc Việt Nam, tư
tưởng cách mạng Pháp, tư tưởng tự do của Hoa Kỳ, lý tưởng cộng sản Mác-Lênin,
tư tưởng văn hóa phương Đông, văn hóa phương Tây và phẩm chất cá nhân của Hồ
Chí Minh.[4]
Tư tưởng Hồ Chí Minh đã được xác định là một hệ tư tưởng chính thống của
Đảng Cộng sản Việt Nam bên cạnh chủ nghĩa Mác-Lênin, được chính thức đưa ra
từ Đại hội VII của Đảng. Đảng Cộng sản, Nhà nước Việt Nam cùng các quan điểm
chính thống ở Việt Nam hiện nay đều thống nhất đánh giá Tư tưởng Hồ Chí Minh
chính là cách vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin trong điều kiện cụ thể
của Việt Nam và coi tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành một tài sản tinh thần quý
báu của Đảng Cộng sản Việt Nam và của dân tộc Việt Nam.[5] Đảng Cộng sản Việt
Nam xác định lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là kim chỉ nam
cho mọi hành động và thắng lợi của cách mạng Việt Nam.[6][7] Đảng Cộng sản Việt
Nam luôn tăng cường tuyên truyền thúc đẩy việc học tập và làm theo Tư tưởng Hồ
Chí Minh ở tất cả các tầng lớp trong xã hội.
Phần lớn các giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh không phân tích các quan điểm
của ông theo các thời kỳ lịch sử, không phân tích cụ thể các tác phẩm của ông theo
chiều thời gian. Điển hình như năm 1930 khi thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam,
ông cho rằng đấu tranh giải phóng dân tộc đi kèm đấu tranh giải phóng giai cấp.
Khi thành lập Việt Minh thì gác lại chủ trương đấu tranh giai cấp mà thực hiện đấu
tranh đòi các quyền tự do dân chủ và đoàn kết toàn dân chống phát xít theo đường
lối Quốc tế Cộng sản (chủ trương này khá trùng lặp với đường lối của Nguyễn Văn
Cừ khi làm Tổng bí thư). Đến giai đoạn năm 1945, khi cần tranh thủ sự ủng hộ của
Đồng Minh cho nền độc lập của Việt Nam, ông tuyên bố "giải tán Đảng Cộng sản
Đông Dương" và tán dương nền dân chủ.
Tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ chính thức đưa vào Cương lĩnh của Đảng Cộng
sản Việt Nam năm 1991, sau khi công cuộc Đổi mới phát động, chấp thuận phân
hóa giai cấp, nhiều lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin không có tính khả thi trong cơ
chế thị trường phải gác lại như đạo đức xã hội chủ nghĩa, xây dựng con người xã

hội chủ nghĩa, làm theo năng lực hưởng theo lao động trên toàn xã hội.v.v. (chủ
nghĩa cộng sản đặt ra mục tiêu cuối cùng là xóa bỏ giai cấp, bóc lột, xóa bỏ giàu nghèo, làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu, công hữu trên nền tảng dân chủ, xóa
bỏ giáo điều tôn giáo được xem là mị dân, xóa bỏ nhà nước đi đến dân chủ trực


×