Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

ÔN TẬP Tây tiến

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (492.06 KB, 14 trang )

Khóa học Luyện thi Đại học KIT -1: môn Ngữ văn (Thầy Nguyễn Quang Ninh)

Tây Tiến – Quang Dũng

TÂY TIẾN (PHẦN 2)
- QUANG DŨNG TÀI LIỆU BÀI GIẢNG
Đây là tài liệu tóm lược các kiến thức đi kèm với bài giảng Tây Tiến (Phần 2) thuộc khóa học Luyện thi Đại học
KIT-1: Môn Ngữ văn (thầy Nguyễn Quang Ninh) tại website Hocmai.vn. Để có thể nắm vững kiến thức về bài thơ
Tây Tiến, Bạn cần kết hợp xem tài liệu cùng với bài giảng này.

Đề 1: PHÂN TÍCH ĐOẠN THƠ THỨ HAI (8 CÂU THƠ) TRONG BÀI TÂY TIẾN

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
MỞ BÀI
Bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng sáng tác năm 1948 ở Phù Lưu Chanh. Thông qua nỗi nhớ da diết chơi
vơi, bài thơ tái hiện lại chặng đường hành quân đầy gian khổ với những hi sinh oanh liệt của người lính. Với
cảm hứng lãng mạn hướng về cái cao cả, phi thường và nhạy cảm với những vẻ đẹp mang màu sắc xứ lạ
phương xa, Quang Dũng đã khắc họa được những bức tranh về cảnh sinh hoạt văn nghệ mang đậm tình quân
dân và cảnh sông nước mờ ảo hoang dại mà chứa chan thi vị.
THÂN BÀI
I) Giới thiệu bài thơ và đoạn trích.
- Nếu như phần thứ nhất của bài thơ là bức tranh vừa dữ dội hoang sơ vừa hùng vĩ nên thơ của núi rừng
miền Tây và con đường hành quân đầy gian khổ được vẽ bằng nét bút gân guốc khỏe khoắn, thì đến phần thứ
hai này bài thơ Tây Tiến lại mở ra một thế giới khác của Tây Bắc, một Tây Bắc mĩ lệ tài hoa, duyên dáng với


những nét vẽ tinh tế mềm mại.

Hocmai.vn– Ngôi trường chung của học trò Việt

Tổng đài tư vấn: 1900 58-58-12

- Trang | 1-


Khóa học Luyện thi Đại học KIT -1: môn Ngữ văn (Thầy Nguyễn Quang Ninh)

Tây Tiến – Quang Dũng

II) Đoạn 1.
Hình ảnh “một đêm liên hoan văn nghệ” với đồng bào dân tộc để thắt chặt tình quân dân được gợi lên
với những chi tiết rất thực, rất mộng, rất ảo như thể khung cảnh một ngày lễ cưới, một đêm hội hoa đăng, như
trong huyền thoại cổ tích:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
…….
Nhạc về Viêng Chăn xây hồn thơ”
Nhà đại văn hào nước Pháp-Huygo có nói: “Chữ nào đặt đúng chỗ là chữ đó hay nhất”. Hiểu như vậy,
chúng ta thấy chữ “bừng” là chữ rất hay, rất có hồn. Nó vừa gợi hình, vừa gợi cảm, lại được đặt giữa câu thơ,
âm hưởng mạnh mẽ, nó làm rực sáng cả câu thơ, rực sáng cả tâm hồn người đọc. “Bừng” là bừng sáng lên bởi
ánh lửa từ ngọn đuốc trong đêm của bộ đội liên hoan văn nghệ cùng nhân dân; hay là tưng bừng rộn rã của
niềm vui của tiếng khèn bản nhạc man điệu, cùng giọng hát vừa ngọt ngào vừa mê say, tình tứ của các cô gái
Mèo, Mường, Thái… “Đuốc hoa” là một từ cổ để chỉ ngọn nến đốt lên trong phòng cưới đêm tân hôn. Hình
ảnh này xuất hiện trong đêm vui liên hoan của người lính đã tạo nên một màu sắc vừa cổ kính, vừa hiện đại,
vừa thiêng liêng, vừa ấm áp keo sơn tình quân dân gắn bó. Đoạn thơ này cũng đã bộc lộ được nét tài hoa lãng
mạn của ngòi bút Quang Dũng. Hồn thơ lãng mạn của ông bị hấp dẫn trước vẻ đẹp mang màu sắc lãng mạn, bí
ẩn của con người và cảnh vật nơi xứ lạ. Vì thế cảnh là cảnh trong hoài niệm vậy mà trong lời thơ lại cho ta

cảm giác cảnh đang diễn ra ngay trước mắt. Và nhà thơ như đang nói với người vũ nữ “Kìa em xiêm áo tự bao
giờ”-một giọng thơ đầy trìu mến, thích thú vui sướng đến ngỡ ngàng trước vẻ đẹp vừa e ấp, vừa tình tứ “nàng
e ấp” với bộ xiêm y lộng lẫy đủ mọi sắc màu trong một vũ điệu mang màu sắc xứ lạ (man điệu). Câu thơ
“Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ” có sáu thanh bằng gợi cảm giác lâng lâng chơi vơi như có thể đưa tâm hồn
người lính phiêu diêu về chốn Viên Chăn, thủ đô nước bạn xa xôi để xây hồn thơ.
Như vậy chỉ bằng bốn câu thơ mà Quang Dũng đã khắc họa được một bức tranh vừa phong phú về màu
sắc, đường nét (ở chỗ “đuốc hoa xiêm áo”); vừa đa dạng về âm thanh (Tiếng khèn man điệu). Với tâm hồn
lãng mạn tài hoa, bằng cảm hứng nhạy cảm với cái lạ thường, cái thi vị, tác giả không chỉ cho ta thấy được vẻ
đẹp đầy bản sắc văn hóa phong tục của đồng bào miền biên cương Tổ quốc, mà còn cho ta thấy được tình
quân dân đằm thắm keo sơn và tâm hồn lạc quan yêu đời, yêu cuộc sống kháng chiến gian khổ mà vui tươi
của người lính Tấy Tiến.

Hocmai.vn– Ngôi trường chung của học trò Việt

Tổng đài tư vấn: 1900 58-58-12

- Trang | 2-


Khóa học Luyện thi Đại học KIT -1: môn Ngữ văn (Thầy Nguyễn Quang Ninh)

Tây Tiến – Quang Dũng

III) Đoạn 2.
1) Cảnh sông nước Tây Bắc vừa thực vừa mộng: mênh mang hoang dại, tĩnh lặng, mờ ảo và chứa
chan thi vị.
Nếu khung cảnh một đêm liên hoan đem đến cho người đọc không khí mê say ngây ngất thì cảnh sông
nước Tây Bắc lại gợi lên được cảm giác mênh mang hoang dại mờ ảo tĩnh lặng và chứa chan thi vị. Ở đây một
lần nữa càng khẳng định rõ hơn nét tài hoa lãng mạn giàu mộng ảo của người lính Tây Tiến. Thiên nhiên ở
nơi chốn chỉ có “bảnsương giăng, đèo mây phủ”, khi chiều về vốn mờ ảo lại càng mờ ảo hơn khi có lớp sương

mờ bảng lảng choàng lên như thực như mơ. Qua hoài niệm, khung cảnh Tây Bắc như đang sống dậy trong kí
ức của tác giả làm cho giọng thơ của ông cất lên như tiếng thì thầm, như lời tự hỏi “có thấy- có nhớ”, day dứt
càng gợi lên cảm giác bâng khuâng xa vắng đầy lưu luyến. Con người có tâm hồn tài hoa và lãng mạn ấy thấy
bạt ngàn hồn lau trong gió trong cây như xôn xao một nỗi niềm:
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ”
Từ “người” được tác giả sử dụng thật tài tình. Ở đây nó mang tính chất vừa cụ thể, vừa phiếm chỉ, vừa
là tác giả vừa là đồng đội, những người tri âm, tri kỷ đã từng đồng cam cộng khổ sống chết có nhau. “Tôi với
anh biết từng cơn ớn lạnh; Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi…thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Khi viết
câu này hẳn tác giả lại nhớ đến lời ca quan họ: “Người ơi người ở đừng về”- một lời ca nặng tình, nặng nghĩa
nhờ có từ “người”- một đại từ thần diệu của Tiếng Việt. Từ “ấy” không xác định được thời gian, nhưng lại gợi
về thời khắc khó quên, một đi không trở lại, đã in đậm trong trái tim, trong nỗi nhớ đầy vơi của Quang Dũng
và những người lính Tây Tiến. Chữ “ấy” đó lại bắt vần với chữ “thấy” ở câu dưới tạo nên một vần lưng đầy
quyến luyến, vấn vương.
Có lẽ, trong những hình ảnh làm cho người lính Tây Tiến “Nghìn năm chưa dễ mấy ai quên” ấy thì hình
ảnh “hồn lau nẻo bến bờ” là hình ảnh gợi cảm nên thơ nhất. Theo thi sĩ Chế Lan Viên thì “Lau”là biểu tượng
cho mùa thu. Còn thi sĩ Hoàng Hữu thì hồn lau trong gió qua hoài niệm lại gợi cảm giác buồn vắng, lặng tờ
nhạt nhòa như khói pha, như thời tiền sử huyền thoại:
“Trường vắng mưa mờ buông dốc xa
Dây leo nửa mái,sắc rêu nhòa
Người xa phơ phất hồn lau gió
Thổi trắng chân đồi như khói pha”
(Hoa lau trường cũ)

Hocmai.vn– Ngôi trường chung của học trò Việt

Tổng đài tư vấn: 1900 58-58-12

- Trang | 3-



Khóa học Luyện thi Đại học KIT -1: môn Ngữ văn (Thầy Nguyễn Quang Ninh)

Tây Tiến – Quang Dũng

Nhà văn Nguyễn Minh Châu trong truyện ngắn “Cỏ lau” lại có hình ảnh bông lau; lơ thơ như thực, như
mơ, ở miền rừng núi hoang vu được diễn tả bằng những áng văn tuyệt hay “ở đây, bầu trời, mặt đất thanh
vắng hoang dại, hoa lau phơ phất trên nền xanh uyển chuyển của rừng lau. Những triền cỏ lau mới nhú mang
một vẻ hiu hắt, vài đọt hoa hiếm hoi, điểm xuyết giữa hoàng hôn vùng rừng một sắc tím bâng quơ”. Những
hồn lau như thế xuất hiện trong làn sương chiều mờ ảo nơi bến bờ sông suối hoang sơ hẻo lánh của miền Châu
Mộc, Châu Mai đã nói với ta rất nhiều về vẻ đẹp tâm hồn của một thi sĩ tài hoa lãng mạn đã có cách nhìn, cách
cảm thiên nhiên rất lạc quan yêu đời và có phần mộng mơ.
2) Tâm hồn lãng mạn mộng mơ đó còn phát hiện ra trong cảnh sông nước chiều sương mang đậm màu
sắc cổ tích huyền thoại ấy, hình ảnh con thuyền độc mộc với dáng mềm mại của cô gái và bông hoa trôi theo
nước lũ:
“Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Đúng là thi trung hữu họa. Ngòi bút tinh tế của Quang Dũng chấm phá vài nét không chỉ gợi được cái
hồn của những bông lau, mà còn cả cái dáng rất tạo hình của cô gái lái đò người Mường,người Thái,…cái
dáng ngả nghiêng rất tình tứ “đong đưa”chứ không phải “đung đưa” của những bông hoa rừng như muốn
“làm duyên bên dòng nước lũ”. “Đung đưa” chỉ thuần túy tả chuyển động đưa đi đưa lại mang tính chất Vật
lý, còn đong đưa vừa tả chuyển động, tả cảnh, vừa tả tình làm cho bông hoa trở thành một sinh thể duyên dáng
và rất đa tình: “Cặp môi hồng con mắt ướt đong đưa” (Thị Mầu-Anh Ngọc) và chữ “trôi” mà tác giả dùng ở
đây cũng rất tinh tế, gợi lên sự nhẹ nhàng thanh thoát “Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”. Phải có “tay lái ra
hoa” thì chiếc thuyền độc mộc vượt qua suối lũ ghềnh thác mới êm nhẹ đến thế. Với một chữ “trôi” tinh tế và
một chữ “đong đưa” hơi phong tình, dòng nước lũ dữ dằn bỗng trở thành suối mơ êm đềm yên ả, để con
thuyền lướt nhẹ êm trôi.
Tiểu kết:
Tìm hiểu kĩ đoạn thơ của Quang Dũng, chúng ta thấy hai từ “thấy” và “nhớ” được tác giả dùng trong
hai câu thơ giữa cũng thật tài tình. Dường như cái hồn thiêng của bông hoa lau đã in hình rõ nét trong mắt tác

giả, còn cái dáng mềm mại, thon thả của cô gái lái đò đẹp như hoa cùng bông hoa rừng “đong đưa” trên dòng
nước lũ lại khắc sâu vào tâm trí nhà thơ vốn giàu tình yêu non sông đất nước, vẻ đẹp thiên nhiên miền Tây
này. Không có một tâm hồn nhạy cảm, tài hoa thì không thể nắm bắt được những hình ảnh giàu hình sắc của
hoa như thế. Đoạn thơ không chỉ được khắc, chạm hình sắc, đường nét vào người và cảnh, mà còn được tác
giả phổ vào câu thơ những nốt nhạc tinh tế. (Nhạc điệu thể hiện ở vần chân: “Bờ-đưa”,vần lưng: „ấy-thấy”;ở
điệp âm,điệp thanh: “Châu Mộc,độc,dòng,đong” ). Nhưng đây là nhạc điệu được cất lên từ một tâm hồn say
Hocmai.vn– Ngôi trường chung của học trò Việt

Tổng đài tư vấn: 1900 58-58-12

- Trang | 4-


Khóa học Luyện thi Đại học KIT -1: môn Ngữ văn (Thầy Nguyễn Quang Ninh)

Tây Tiến – Quang Dũng

đắm với cảnh và người miền Tây Tổ quốc của người lính “Giữa chiến trường nhiều khi thay cho nhạc; là
những tâm hồn có nhạc ở bên trong” (Phạm Tiến Duật). Cho nên rất có lý khi Xuân Diệu nhận xét: Đọc bài
thơ Tây Tiến, ta có cảm giác như ngậm âm nhạc trong miệng.
KẾT LUẬN 1
Như vậy hùng vĩ gắn với thơ mộng, những nét vẽ bạo khỏe, gân guốc; gắn với nét vẽ uyển chuyển, tinh
tế, mềm mại là cái nhìn riêng của tâm hồn lãng mạn và hào hoa Quang Dũng trước khung cảnh núi rừng Tây
Bắc hoang sơ mà nên thơ đẹp đẽ. Xuyên qua cảnh vật và con người, là một niềm hoài niệm “chơi vơi” mà sâu
nặng, bâng khuâng da diết một tình yêu nói khôn cùng của tác giả với một miền thiên nhiên Tổ Quốc đã gắn
bó tha thiết với người lính về một thời oanh liệt:
“Ơi kháng chiến! Mười năm qua như ngọn lửa
Nghìn năm sau; còn đủ sức soi đường”
(Chế Lan Viên)
KẾT LUẬN 2

Bốn câu thơ như một bức tranh thủy mặc với những nét vẽ chấm phá tinh tế, mềm mại, tài hoa đã truyền
được cái hồn của cảnh vật Tây Bắc. Với bút pháp thiên về cảnh vật và con người ấy của Quang Dũng, bức
tranh của cảnh và nguời miền Tây Tổ quốc hiện lên thật duyên dáng, thơ mộng dễ làm đắm say lòng người
đọc. Đằng sau bức tranh đó, ta thấy nổi rõ tâm hồn lạc quan, yêu đời, lãng mạn, giàu mộng mơ của tác giả nói
riêng và của người lính Tây Tiến nói chung trong “Những năm tháng không thể nào quên” của cuộc kháng
chiến chống Pháp gian khổ mà vô cùng oanh liệt.

Hocmai.vn– Ngôi trường chung của học trò Việt

Tổng đài tư vấn: 1900 58-58-12

- Trang | 5-


Khóa học Luyện thi Đại học KIT -1: môn Ngữ văn (Thầy Nguyễn Quang Ninh)

Tây Tiến – Quang Dũng

ĐỀ 2: PHÂN TÍCH VẺ ĐẸP CỦA HÌNH TƯỢNG NGƯỜI LÍNH QUA BÀI THƠ TÂY TIẾN

MỞ BÀI
Hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ là một trong những tượng đài đẹp nhất, đáng tự hào nhất của thơ ca kháng
chiến chống Pháp. Họ là những người sống có lý tưởng, sẵn sàng lấy máu của mình để tô thắm cho lá cờ Tổ
quốc; đồng thời đó là những con người có tâm hồn lãng mạn, hào hoa. Qua việc tìm hiểu vẻ đẹp của anh bộ
đội trong bài thơ Tây Tiến, một bài thơ tiêu biểu nhất của Quang Dũng nói riêng và của thơ ca chống Pháp nói
chung, chúng ta cũng có thể thấy rõ điều đó.
THÂN BÀI
I. Người lính Tây Tiến được viết với bút pháp lãng mạn.
Bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng viết về những người lính chiến đấu nơi biên cương miền tây Tổ
quốc. Bài thơ được viết theo bút pháp lãng mạn. Bút pháp này sử dụng rộng rãi thủ pháp đối lập và có khuynh

hướng tô đậm những nét khác thường, phi thường để tác động mạnh mẽ vào cảm xúc người đọc.
II.Người lính Tây Tiến là những người lính rất mực lãng mạn, hào hùng.
Bài thơ ra đời vào năm 1948, hơn một năm sau cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Cái hào khí của
cả một dân tộc vừa giành được độc lập đã phải vùng lên cầm gươm súng để bảo vệ nền độc lập tự do non trẻ
thiêng liêng của mình đã truyền vào người lính, tạo cho họ một vẻ đẹp lãng mạn, hào hùng. Chính tâm hồn
lãng mạn ấy đã dễ có cảm hứng về cái khác thường, cái phi thường.
1. Đời sống, môi trường chiến đấu của người lính là đời sống phi thường.
Người lính Tây Tiến qua cảm hứng lãng mạn của Quang Dũng được xuất hiện trên bối cảnh thiên
nhiên hoang sơ, kỳ vĩ, hiểm trở mà cũng rất khoẻ đẹp, đầy thi vị với đủ núi cao, vực thẳm, dốc đứng, thác
gầm…cùng với “cồn mấy heo hút”, “sương lấp”, “mưa xa khơi”, “cọp trêu người”:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Những chi tiết, hình ảnh thơ của tác giả đầy ấn tượng. Sương dày phủ lấp cả “đoàn quân mỏi” đang đi
, mưa nhiều đến nỗi làm cho những ngôi nhà như đang trôi bồng bềnh giữa biển khơi…Nhiều câu thơ sử dụng
hàng loạt thanh trắc: “dốc”, “khúc khuỷu”, “ thăm thẳm”…làm hiện lên được cái hiểm trở, gian nan của con
đường hành quân. Tiếp đó là những chữ dùng rất bạo, nhất là ba chữ “súng ngửi trời” gợi lên độ cao chất ngất
đến chóng mặt. Hai câu sau có sự phối thanh rất độc đáo. Câu trên nhiều thanh trắc và dòng thơ như bẻ đôi để
Hocmai.vn– Ngôi trường chung của học trò Việt

Tổng đài tư vấn: 1900 58-58-12

- Trang | 6-


Khóa học Luyện thi Đại học KIT -1: môn Ngữ văn (Thầy Nguyễn Quang Ninh)

Tây Tiến – Quang Dũng


vẽ ra hai sườn núi vút lên, đổ xuống gần như thẳng đứng “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”. Còn câu
sau thì toàn thanh bằng “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”, một dòng thơ mở ra một không gian bát ngát, câu
thơ như bay ngang trời. Ta như hình dung được người lính đang leo lên những cồn mây, một hôm nào đó
dừng chân bên dốc núi phóng tầm mắt nhìn ngang ra xa thấy ai đó thấp thoáng ẩn hiện qua một không gian
mịt mù sương rừng, mưa núi. Những địa danh như Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch…rất xa lạ
làm tăng thêm cái ấn tượng về sự hoang sơ, kỳ vĩ, bí mật của rừng thiêng. Chúng không chỉ cho ta biết những
miền đất người lính đã đi qua mà “khi vừa mới đọc lên thôi cũng thấy chồn chân mỏigối” ( Trần Lê Văn)
II. Trên cái nền thiên nhiên hiểm trở, hoang vu, hùng vĩ đó người lính Tây Tiến xuất hiện cũng oai
phong lẫm liệt, tràn đầy khí phách phi thường.
1. Phi thường ở sự gian khổ cùng cực: ăn đói, mặc rách,bệnh tất, sốt rétđến xanh da, trụi tóc
Thực ra, những gì mà Quang Dũng tái hiện về cuộc sống gian khổ của người lính không mới; rất nhiều
nhà thơ cùng thời với Quang Dũng đã ghi lại những chi tiết chân thực về căn bệnh thường xuyên hành hạ
người lính nơi chốn rừng sâu nước độc này.Trong bài thơ “Đồng Chí”, Chính Hữu đã viết:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”
Còn Quang Dũng nói điều đó bằng cảm hứng lãng mạn, bằng bút pháp lãng mạn. Vì vậy, hình ảnh
người lính hiện lên dưới ngòi bút của ông có cái gì đó vừa rất độc đáo, kỳ lạ, vừa ngang tàng kiêu dũng “Tây
Tiến đoànbinh không mọc tóc”. Cách nói chủ động đã bộc lộ thái độ phớt đời, ngang tàng, cứng cỏi, khinh
thường gian khó hiểm nguy. Nhưng đằng sau đó chất chứa biết bao hiện thực nghiệt ngã của đời sống chiến
đấu mà người lính phải chịu đựng.
2. Hình ảnh người lính Tây Tiến là những con người phi thường.
Họ là những con người chẳng những dám đương đầu với mọi thử thách gian truân: đói rét, bệnh tật,
rừng thiêng, thú dữ, hành quân gian lao mà còn có thái độ, khí phách thật hiên ngang trước cái chết. Trên con
đường hành quân gian khổ với núi cao, vực thẳm, sông sâu, nhiều đồng đội đã “không bước nữa” và “bỏ quên
đời” nơi miền đất lạ. Nhưng điều đáng ngưỡng mộ là người lính đã đi vào cái chết rất thanh thản như đi vào
một giấc ngủ. Và quan trọng hơn là họ đã chết trong tư thế lên đường, giữa lúc đang làm nhiệm vụ của một
người chiến sĩ. Thật là một cái chết đầy chất bi thương. Hay:
“ Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
Câu thơ “Rải rác biên cương mồ viễn xứ” còn có cái gì đó hơi bi thảm. Nhưng câu sau “Chiến trường

đi chẳng tiếc đời xanh” đã nâng ý thơ lên thành bi tráng bởi tư thế sẵn sàng nhập cuộc, sẵn sàng xả thân vì Tổ
Hocmai.vn– Ngôi trường chung của học trò Việt

Tổng đài tư vấn: 1900 58-58-12

- Trang | 7-


Khóa học Luyện thi Đại học KIT -1: môn Ngữ văn (Thầy Nguyễn Quang Ninh)

Tây Tiến – Quang Dũng

quốc. Câu thơ như một lời tâm niệm làm toả sáng vẻ đẹp lý tưởng và triết lý sống cao cả của tuổi trẻ thời ấy.
Người lính ở đây phảng phất dáng vẻ của người anh hùng thời cổ: Kinh Kha sang Tần, người chinh phụ trong
“Chinh Phụ Ngâm” một đi không trở về, coi cái chết nhẹ như lông hồng:
“Gió hiu hiu hề, sông Dịch lạnh tê
Tráng sĩ một đi không trở về”
Chủ nghĩa lãng mạn cũng thường hay nói về nỗi buồn và cái chết với ý nghĩa biểu hiện cái đẹp với
chất bi hùng. Do phải chiến đấu trong hoàn cảnh vô cùng ác liệt, cực khổ, các chiến sĩ chết vì sốt rét rừng
nhiều hơn là vì chiến trận và khi chôn cất đến ngay manh chiếu che thân cũng không có. Nhưng dù vậy, hình
tượng người lính trong thơ vẫn phải đẹp, phải sang, phải hào hùng. Người lính dù ngã xuống cũng ngã xuống
trong tấm áo bào sang trọng và trong tiếng nhạc hùng tráng của núi sông:
“Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Dòng sông Mã, một chứng nhân gần gũi mà thiêng liêng về cuộc đời bi tráng “Sống hi sinh, chết cũng
hi sinh. Thật tột đỉnh quang vinh” của người lính Tây Tiến đã thay mặt cho quê hương đất nước tấu lên khúc
độc hành dữ dội rung chuyển núi sông như cất lên bài ca anh hùng vang vọng vào mãi cõi thiên thu.
III. Người lính Tây Tiến còn có một vẻ đẹp khác: chất lãng mạn , hào hoa.
Người lính Tây Tiến không chỉ có vẻ đẹp hào hùng mà còn có vẻ đẹp độc đáo, hấp dẫn, đáng yêu
khác. Đó là cái chất hào hoa thanh lịch, chất mơ mộng rất lãng mạn, tràn đầy tinh thần lạc quan tươi trẻ. Đoàn

quân Tây Tiến gồm hầu hết là những chàng trai Hà thành tài hoa, trong đó tác giả Quang Dũng là một trong
những con người tài hoa nhất.
Chất tài hoa tươi trẻ ấy bắt rất nhạy với những hình ảnh đẹp đẽ, nên thơ, cái nét tinh tế của cảnh và
người. Đặc biệt là những cái đẹp mang màu sắc xứ lạ phương xa. Từ một làn sương chiều mờ ảo đến một
dáng hoa lau núi phất phơ, đơn sơ, gợi cảm; từ một đêm hội đuốc hoa như trong truyện cổ tích đến những
bông hoa “đong đưa” rất tình tứ trên dòng nước lũ, tất cả đều in rất đậm trong tâm hồn người lính để tạo nên
những bức tranh vừa thực vừa mộng:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa…
...

Trôi dòng nước lũ hoa đông đưa . . .”

Những con người ấy sống vô cùng gian khổ nơi rừng núi, thường xuyên phải tiếp xúc với thần chết,
nhưng đêm đêm hồn mộng của họ vẫn bay về với những cô gái Hà Nội đẹp một cách thanh lịch, dịu dàng:
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng Kiều thơm”
Hocmai.vn– Ngôi trường chung của học trò Việt

Tổng đài tư vấn: 1900 58-58-12

- Trang | 8-


Khóa học Luyện thi Đại học KIT -1: môn Ngữ văn (Thầy Nguyễn Quang Ninh)

Tây Tiến – Quang Dũng

Nếu như người lính trong thơ Hồng Nguyên mang nỗi nhớ người thân, quê hương chất chứa niềm yêu
thương, cảm thông khi gắn họ với những công việc nặng nhọc, vất vả:
“Ba năm rồi gửi lại quê hương

Mái lều tranh
Tiếng mõ đêm trường
Luống cày đất đỏ
Ít nhiều người vợ trẻ
Mòn chân bên cối gạo canh khuya”
( Nhớ)
thì cái bóng lung linh trong giấc mơ của người lính Tây Tiến lại là hình ảnh của những “dáng Kiều
thơm” Hà Thành quyến rũ. Đừng vội phê phán người lính của Quang Dũng chưa rũ bỏ được tính chất tiểu tư
sản yếu đuối và còn “mộng rớt mộng rơi”, mà phải hiểu đó là chất mộng mơ rất lãng mạn của người lính hào
hoa. Chính giấc mơ lãng mạn với “dáng Kiều thơm” thanh thoát đã trở thành đôi cánh nâng đỡ tinh thần người
lính bay qua những khó khăn, thử thách khốc liệt tưởng chừng như không thể vượt qua được và làm cho tâm
hồn anh bộ đội trở nên đẹp hơn, gần gũi, chân thật và phong phú hơn.
KẾT BÀI
Những điều đã phân tích trên cho ta thấy Quang Dũng đã khắc hoạ được một cách khá đầy đủ chân
dung của người lính Tây Tiến từ diện mạo đến tâm hồn, khí phách anh hùng, thái độ trước cái chết cũng như
vẻ hào hoa rất Hà Nội của họ. Với niềm yêu thương trân trọng, bằng nghệ thuật thơ tuyệt vời, Quang Dũng đã
tạo dựng được một tượng đài bằng ngôn ngữ để bất tử hoá phẩm chất anh hùng, vẻ đẹp của anh bộ đội cụ Hồ
trong cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ mà rất đỗi vui tươi, hào hùng:
“Tây Tiến biên cương mờ lửa khói
Quân đi lớp lớp động cây rừng
Và con người ấy, bài thơ ấy
Vẫn sống muôn đời cùng núi sông.”
( Giang Nam)

Hocmai.vn– Ngôi trường chung của học trò Việt

Tổng đài tư vấn: 1900 58-58-12

- Trang | 9-



Khóa học Luyện thi Đại học KIT -1: môn Ngữ văn (Thầy Nguyễn Quang Ninh)

Tây Tiến – Quang Dũng

ĐỀ 3: HÌNH ẢNH NGƯỜI LÍNH QUA ĐOẠN THƠ

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá giữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Sông Mã gầm lên khúc độc hành"
MỞ BÀI
Tây Tiến là bài thơ nổi tiếng của Quang Dũng nói riêng, của thơ ca chống Pháp nói chung, được sáng tác
năm 1948. Thông qua niềm thương, nỗi nhớ, cảm hứng lãng mạn của tác giả, bức tranh miền Tây Tổ Quốc nổi
lên thật đa dạng về đường nét, phong phú về màu sắc, rất gợi cảm và gắn bó, gần gũi với cuộc sống người
lính. Nổi bật lên trên bức tranh núi rừng Tây Bắc vừa hùng vĩ, dữ dội, vừa nên thơ, vẫn là hình ảnh những
người lính thật oai phong lẫm liệt, thật sang trọng hào hoa.
THÂN BÀI
1.Giới thiệu bài thơ và đoạn trích
Bài thơ Tây Tiến ra đời năm 1948 tại Phù Lưu Chanh, sau khi Quang Dũng rời xa đơn vị ít lâu. Bởi thế,
bài thơ là tiếng nói cảm xúc chân thành tha thiết của một người lính nhớ về đồng đội, nhớ về những tháng
ngày gian khổ hóa kỉ niệm, hóa kí ức. Bắt nguồn từ nỗi nhớ sâu đậm, Tây Tiến như tái hiện trướcmắt người
đọc hình ảnh người lính trong sinh hoạt văn hóa của đồng bào miền Tây và người lính nơi chiến địa giữa hi
sinh và thiếu thốn.
Đoạn thơ trên là đoạn thứ ba miêu tả người lính một cách trực tiếp nhất, ấn tượng nhất.
2.Vẻ đẹp lãng mạn của người lính Tây Tiến
Tây Tiến là một bản anh hùng ca về người chiến sĩ, được cất lên từ một hợp âm của một nỗi nhớ cháy
bỏng da diết. Theo mạch phát hiện của nỗi nhớ, hình ảnh người lính Tây Tiến hiện lên trong vẻ đẹp lãng mạn

hào hùng và kiêu dũng“Tây Tiến…….oai hùm”. Đằng sau những hình ảnh thơ ngang tàng chất chứa những
chi tiết nghiệt ngã của hiện thực đời sống. Người lính Tây Tiến thiếu thốn về vật chất, chịu sự hành hạ của
những cơn sốt rừng khiến cho tóc trên đầu không mọc được và nước da thì xanh xao, tiều tụy. Hình ảnh thơ
gợi cho ta biết bao thương cảm. Những gì mà Quang Dũng miêu tả về cuộc sống gian khổ của người lính
không mới. Rất nhiều nhà thơ cùng thời với Quang Dũng đã ghi lại những chi tiết chân thực này. Trong bài
“Đồng chí”, Chính Hữu đã từng viết:
Hocmai.vn– Ngôi trường chung của học trò Việt

Tổng đài tư vấn: 1900 58-58-12

- Trang | 10-


Khóa học Luyện thi Đại học KIT -1: môn Ngữ văn (Thầy Nguyễn Quang Ninh)

Tây Tiến – Quang Dũng

“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh”
Còn Quang Dũng đã nói điều đó bằng cảm hứng lãng mạn, bằng bút pháp lãng mạn. Vì vậy hình ảnh
người lính hiện lên dưới ngòi bút của ông có cái gì đó độc đáo kì lạ. Và di chứng của những trận sốt rét rừng,
dấu vết của những khó khăn gian khổ khốc liệt cũng được nói bằng một giọng ngang tàng cứng cỏi. Nghe cứ
như thể thái độ không cần, không thèm mọc tóc vậy. Đó là thái độ của những con người khinh thường gian
khổ, hiểm nguy. Còn “quân xanh mà dữ oai hùm” lại nhấn mạnh sự tương phản giữa bề ngoài xanh xao tiều
tụy với bản lĩnh kiên cường mãnh liệt bên trong. Biết bao khí phách và oai phong, lẫm liệt của người lính Tây
Tiến được thể hiện trong hình ảnh “dữ oai hùm” ấy- oai hùm là oai hổ, chúa sơn lâm, biểu tượng cho sự oai
phong dũng mãnh. Trong bài “Bình ngô đại cáo” một thiên cổ hùng văn Nguyễn Trãi đã viết:
“Sĩ khí chọn tay tùy hổ
Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh”
Hình ảnh ấy vừa làm cho quân thù khiếp sợ, vừa có thể chế ngự được hoàn cảnh khắc nghiệt, dữ dội của
rừng thiêng:

“Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc,
Là khiến cho mọi vật đều im hơi.
Ta biết ta chúa tể cả muôn loài,
Giữa chốn thảo hoa không,không tên tuổi.”
(Thế Lữ)
Chỉ bằng hai hình ảnh thơ, Quang Dũng đã không chỉ nói được sâu sắc đầy đủ cuộc sống chiến đấu gian
khổ của người lính, mà còn khắc họa được vẻ đẹp hào hùng, cái khí phách mạnh mẽ của họ.
Người lính Tây Tiến hầu hết là những chàng trai Hà Thành thanh lịch lãng mạn, mộng mơ. Vì vậy họ
không chỉ mang phẩm chất hào hùng, mà còn mang vẻ đẹp hào hoa. Ban ngày họ phải hành quân gian khổ,
thường xuyên phải tiếp xúc với thần chết, mà đêm về họ đã mơ những giấc mơ dịu êm như thế đó:
“Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Cái bóng hình lung linh trong giấc mơ của họ là hình ảnh những dáng kiều thơm Hà Thành quyến rũ.
Đừng vội phê phán người lính Tây Tiến chưa rũ bỏ được tính cách tiểu tư sản yếu đuối và còn “mộng rớt,
mộng rơi”,, mà phải hiểu đó là chất mộng mơ, chất lãng mạn của người lính hào hoa. Chính giấc mơ lãng mạn
với dáng kiều thơm thanh thoát đã là đôi cánh nâng đỡ tinh thần người lính, vượt lên trên khó khăn thử thách
khốc liệt tưởng chừng như không thể vượt qua được. Nó đem lại cho người lính những khoảng lặng trong đời
sống nội tâm. Đối mặt với cuộc sống chiến đấu hàng ngày đầy gian khổ, hy sinh, họ ít khi có cơ hội đối diện

Hocmai.vn– Ngôi trường chung của học trò Việt

Tổng đài tư vấn: 1900 58-58-12

- Trang | 11-


Khóa học Luyện thi Đại học KIT -1: môn Ngữ văn (Thầy Nguyễn Quang Ninh)

Tây Tiến – Quang Dũng

với thế giới tinh thần của chính mình, sống thật khát khao, ước mơ của bản thân. Chỉ trong giấc mơ hằng đêm

họ mới sống với những gì không có, chưa có trong đời thực:
“Nàng là tuyết hay da nàng tuyết điểm
Nàng là hương hay nhan sắc đã lên hương?”
(Bích Khê)
Những người lính có đôi mắt trừng như lửa cháy hờn căm và phẫn nộ để thiêu đốt kẻ thù, nhưng
lại vừa biết mơ về những cô gái Hà Thành thanh lịch kiều diễm đã nói với ta rất nhiều về vẻ đẹp anh bộ đội cụ
Hồ có tâm hồn gần gũi, chân thực và rất phong phú.
3.Vẻ đẹp bi tráng của hình tượng người lính
Viết về đời sống người lính Tây Tiến, Quang Dũng cũng không hề che dấu sự hy sinh của họ. Chỉ
có điều sự hi sinh lại được nói bằng cảm hứng lãng mạn mang màu sắc bi tráng. Mỗi lần cảm xúc chìm vào
đau thương lập tức nhà thơ lại nâng lên bằng đôi cánh lãng mạn mang màu sắc hùng tráng, bởi vậy lời thơ viết
về sự hi sinh mà không hề có cảm giác bi lụy yếu đuối:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
Hiện thực trực tiếp trong đời sống chiến đấu của người lính là những giây phút đối mặt kẻ thù, là
những đau thương mất mát. Người xưa đã từng nói:
“Xưa nay những chốn chiến chinh
Hỏi ai đem được thân mình về chưa?
Sự sống hàng ngày của người lính được đánh dấu bằng những ranh giới mong manh giữa còn và
mất, giữa sống và chết, rất nhiều đồng đội của Quang Dũng đã ngã xuống trên mảnh đất miền Tây, gửi thân
lại nơi nấm "mồ viễn xứ". Một trong những thiếu sót dễ nhận thấy của thơ ca Cách Mạng là tác giả viết về
chiến thắng, nhưng lại né tránh những hình ảnh chi tiết về sự mất mát, hi sinh. Quang Dũng không thế, ông
nhìn cuộc sống của người lính Tây Tiến theo đúng những gì ông nếm trải. Có khó khăn gian khổ, có ước mơ,
nỗi nhớ riêng tư và có nhiều nấm mồ viễn xứ. Câu thơ buồn đau, nhưng không gây cảm giác quá bi thương.
Những từ Hán Việt xuất hiện trong câu thơ như làm dịu đi, vơi đi sự mất mát nặng nề bằng không khí trang
trọng của nó. Và quan trọng hơn, sự hi sinh mất mát bị xóa nhòa bởi lí tưởng quên mình của người lính Tây
Tiến: “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Câu thơ trước chìm xuống trầm lắng đi trong âm điệu tiếc nhớ
buồn thương, câu thơ sau vuợt lên, vút lên bằng âm điệu dứt khoát, mạnh mẽ. Cảm xúc buồn thương ở câu thơ
đầu được nâng đỡ lên thành bi hùng, nhờ đôi cánh lí tưởng lãng mạn ở câu sau: Người lính Tây Tiến đối mặt
với hy sinh mất mát không phải bằng thái độ sợ hãi, mà bằng tư thế sẵn sàng nhập cuộc, sẵn sàng xả thân vì

Hocmai.vn– Ngôi trường chung của học trò Việt

Tổng đài tư vấn: 1900 58-58-12

- Trang | 12-


Khóa học Luyện thi Đại học KIT -1: môn Ngữ văn (Thầy Nguyễn Quang Ninh)

Tây Tiến – Quang Dũng

Tổ quốc. Tư thế hiên ngang ấy khiến cho họ nhìn cái chết với đôi mắt thanh thản không hề luyến tiếc cuộc đời
xanh non: “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Câu thơ chắc nịch như một lời tuyên thệ. Hai chữ “chẳng
tiếc” với âm cao của thanh trắc mang sức nặng của lòng quyết tâm, của lí tưởng quên mình. Đối với một con
người, khoảng thời gian đẹp nhất là những ngày tuổi trẻ, là những ngày tóc đang còn xanh và sức sống đang
căng. Nó là một đời xanh đi qua không bao giờ trở lại. Vậy mà người lính Tây Tiến chẳng tiếc đời xanh,
chẳng tiếc tương lai đầy hứa hẹn phía trước. Vẫn biết trên chặng đường hành quân gian khổ, trong những
tháng ngày hành quân chiến đấu, mình rất có thể “Gục lên sung mũ bỏ quên đời”, hay làm một nấm mồ viễn
xứ, nhưng với họ không có gì hạnh phúc hơn khi được chiến đấu cho lí tưởng, được đổ máu mình cho cây Tổ
quốc đơm hoa độc lập, kết trái tự do. Hai câu thơ của Quang Dũng tỏa sáng một triết lý, một lẽ sống rất đẹp
của tuổi trẻ thời ấy: “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Đó là triết lý sống của những con người luôn luôn
vang lên trong tim lời dạy thiêng liêng của Bác.
Với triết lý, lẽ sống cao đẹp ấy, người lính Tây Tiến cho đến giây phút trở về lòng đất mẹ, vẫn sáng lên
vẻ đẹp tâm hồn cao cả - Vẻ đẹp của sự hi sinh đến hai lần: “Áo bào... độc hành”. Quên mình vì Tổ quốc đó là
lần hi sinh thứ nhất của người lính. Trở về đất mẹ bằng tấm áo giản dị thường ngày, đó là lần hi sinh thứ hai.
Câu thơ mang ý nghĩa hiện thực sâu sắc “Tử sĩ nằm xuống không đủ manh chiếu để liệm” (Lời Quang Dũng)
“Họ được chôn cất trong chiếc áo của chính mình”. Cái hay của câu thơ là sự thực bi thương của người lính
được nhà thơ tái hiện bằng đôi mắt lãng mạn, vừa yêu thương, vừa trân trọng thành kính. Nhà thơ phủ lên thi
thể người đồng đội hình ảnh áo bào. Người đọc cảm nhận trong người lính Tây Tiến phảng phất dáng nét
tráng sĩ xưa với tư thế hiên ngang lẫm liệt. Bởi thế giây phút đau đớn đưa tiễn người đồng đội về cõi bất tử

được thiêng liêng hóa, vĩnh viễn hóa bằng hình ảnh áo bào đầy sang trọng cổ kính. Nhóm từ “anh về đất” vừa
làm giảm nhẹ sự mất mát đau thương, vừa là sự ngợi ca tinh thần hi sinh tự nguyện của người lính Tây Tiến.
Với tấm bào ấy, người lính đã thanh thản đi về trong lòng đất mẹ ấm áp vĩnh hằng như thể người nông dân
thanh thản vui vẻ trở về nhà sau một ngày đã hoàn thành công việc đồng áng vậy:
“Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Hình ảnh người lính ngã xuống không đơn độc bi thương, mà họ được bao bọc bởi nghĩa tình đồng đội
và âm vang tiếng nhạc chiêu hồn tử sĩ thật dữ dội của núi sông.
Câu kết là tiếng kèn bi tráng, trầm hùng đưa tiễn người lính đi vào cõi bất tử với biết bao niềm thương
tiếc, bi phẩn, ngậm ngùi, thành kính.

Hocmai.vn– Ngôi trường chung của học trò Việt

Tổng đài tư vấn: 1900 58-58-12

- Trang | 13-


Khóa học Luyện thi Đại học KIT -1: môn Ngữ văn (Thầy Nguyễn Quang Ninh)

Tây Tiến – Quang Dũng

KẾT LUẬN
Dòng sông Mã, một chứng nhân gần gũi mà thiêng liêng về cuộc đời bi tráng “sống hi sinh, chết
cũng hi sinh, thật tột đỉnh quang vinh” của người lính Tây Tiến đã thay mặt cho quê hương đất nước tấu lên
khúc độc hành rung chuyển núi sông, như cất lên bài ca anh hùng vang vọng mãi vào cõi thiên thu.

Giáo viên: Nguyễn Quang Ninh
Nguồn:

Hocmai.vn– Ngôi trường chung của học trò Việt


Tổng đài tư vấn: 1900 58-58-12

Hocmai.vn

- Trang | 14-



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×