Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Chiêm ngắm Đóa Hoa Vô Thường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.24 KB, 10 trang )

Chiêm ngắm Ðoá Hoa Vô Thường
Chìm dưới cơn mưa một người chết đêm qua
Chìm dưới đất kia một người sống thiên thu
Chìm khuất trong ta một lời nói vu vơ
Chìm dưới sương thu là một đoá thơm tho...
("Chìm dưới cơn mưa")
Chỉ có trong tình yêu ta mới bắt gặp được cái chết của chính mình. Tình yêu cũng mở ngõ
cho những lần hoá kiếp. Hãy thử bước vào thế giới đó để khởi đầu bằng một cái chết thật
vô cùng yêu dấu.
Trịnh Công Sơn (Tình Khúc, 1967)
Bởi chàng nhập vai Orpheus, nhà thơ... nhà kiến trúc nên huyền thoại, nhà phù thuỷ trước
sự man rợ, và là người hành hương về cõi chết...
George Steiner (Silence and the Poet
Khúc dạo
Chúng ta yêu nhạc Trịnh Công Sơn vì trong nhạc của anh có thơ. Vậy, chúng ta có được cả
hai. Tự thơ đã là một loại nhạc biểu hiện cái đẹp và sự hài hoà của chữ nghĩa. Nhạc thơ ở
anh song sinh từ niềm thôi thúc muốn tỏ tình với cuộc đời. Nhạc thơ đó cũng lung linh ảo
diệu như bóng trăng in trên mặt nước mà chúng ta thường không phân biệt nổi đâu là nhạc
là thơ. Nếu nhạc là con sông thì thơ là con trăng nhập vào mặt nước thành con thuyền chở
tình yêu của anh. Nói cách khác, thơ và nhạc là đôi cánh để bay chở tình yêu trong những
ca khúc của Trịnh Công Sơn, không thể tách lìa được. Từ đó thơ nhạc sẽ la đà bay vào
lòng người, khiến tai ta có thể nghe được những âm thanh vọng xuống từ trời cao, tiếng
của đất trời rộn ràng... Dù em khẽ bước không thành tiếng, cõi đời bao la vẫn ngân dài.
Mỗi khúc hát của TCS là mỗi giấc mơ hoá thân thu mình bé lại làm mưa tan giữa trời, là
mỗi lần tâm hồn bụi bậm thường nhật của chúng ta được tuôn tưới, gột rửa.
Thơ ca đích thực nảy sinh từ vũ điệu của tâm hồn (Inayat Khan). Từ thơ mà nhịp điệu của
tâm hồn được thể hiện. Có người sẽ cho rằng nét nhạc của Trịnh Công Sơn giản dị, đơn
điệu. Hẳn là anh chuộng sự đơn sơ, giản dị, nhưng đây là cái giản dị của sự đạm bạc, khổ
hạnh, nghèo mà vẫn giàu những cảm thức mĩ học tao nhã. Nét nhạc “đơn điệu” (monotone
hay thể monophonic ballade) đó lại là dòng cảm thức cô tịch, của cá nhân trực cảm được
nỗi cô đơn với vũ trụ, thiên nhiên. Người ôm lấy muôn loài nằm trong tiếng bi ai. Tiếng bi


ai đó thấm cả vào lòng cảnh vật, sỏi đá tưởng là vô tri. Làm sao em biết bia đá không
đau... Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau... Cảm được cái u ẩn của vết lăn trầm hằn trên
phiến đá nâu thêm ưu phiền... hoặc có một dòng sông đã qua đời từ cơn mộng du nương
chảy theo dòng sông là chứng nhân già nua của địa cầu để đọc xem nó đã ghi lại những gì
về tình yêu sau những cơn địa chấn kinh hoàng. Lời thơ nhạc ở đây “diệu” ở chỗ như
những ngón tay búng vào đúng những phím tơ trên mỗi người và để thả trí tưởng tượng
thâm nhập vào tính vô tận của đời sống. Trên mỗi thân người có nghìn phím tơ, búng ngón
tay đàn thức dậy ước mơ... Ðôi khi thấy trên lá khô một dòng suối...
Và nếu để đi tới chỗ rốt ráo vượt trên cả cái tiếng nhạc: đó là tiếng người trong tiếng thơ
Trịnh Công Sơn. Tiếng của thân phận cát bụi úp mặt bùi ngùi trên đường: tiếng thiết tha ân
cần của một tình yêu vô ngã, hỉ xả để gió cuốn đi, để tim lăn trên đường mòn, để tình yêu
xay mòn thành đá cuội, để treo tình trên chiếc đinh không [trên cây thập giá đời], để ru tình
nên chịu quì gối vong nô, để làm đá cuội mà lăn theo gót hài,... Chúng ta có thể kết tinh tất
cả những hình ảnh đó vào trong sự tự nguyện chọn “qui y” hay ở trọ trong chính đôi chân
của một người đẹp: đi đứng ở trọ đôi chân Thuý Kiều. Ðôi chân ấy chính là đôi chân của
đoạn trường. Yêu cái giọng người nhu mì của Trịnh Công Sơn rõ ràng đã đồng điệu với thi
sĩ Lorca: “Thi ca đích thực chính là tình yêu, hết mình, quên mình... Tôi có thể nói với bạn
rằng tôi ghét tiếng phong cầm, đàn, sáo. Tôi yêu cái tiếng người. Cái tiếng người đã chịu
hạ mình vì tình yêu.” Tình yêu hết mình đó chính là viên ngọc để Dã Tràng nghe và cảm
thông được tiếng của muôn loài... Hoặc dẫu biết gập gềnh nhiều kiếp lưu vong nhưng vẫn
gánh kiếp của một tên tuyệt vọng Sisyphus để lăn tảng đá đời: Ta lăn đời đã quá đôi tay
vẫn còn ôm mịt mùng...
Cảm thức mĩ học [như trong Thiền tông, đã nói ở trên] và hồn thơ của Trịnh Công Sơn
cũng rất gần với những đoản khúc hoà ca (waka): “đem quả tim làm hạt giống gieo, để từ
đó nở ra vạn lá biếc của lời” (Vạn Diệp Tập). TCS đã hoà điệu được cả hai mặt cảm xúc và
biểu hiện phương Ðông bằng con đường khổ hạnh và tối thiểu (Minimalism) cần phải có
trong tâm linh và nghệ thuật. Hơn nữa, cảm thức thẩm mĩ của anh trong nỗi ám ảnh về cái
đẹp, vô thường, cái chết... cũng như khúc thức ballade của anh (mang âm hưởng chung của
Ðông [Nam] Á) màu sắc gần với những bài hát ru và dân dao (minyo) của Nhật -- giải
thích một phần cho tầm ảnh hưởng không nhỏ các ca khúc của anh đối với người Nhật vốn

nổi tiếng về khiếu thẩm mĩ. Về mặt lịch sử, có sự đồng cảm của Nhật đối với một đất nước
trong và sau cuộc chiến cũng tang thương, đầy hiểm nguy và thường trực giáp mặt với cái
chết. Sự gặp gỡ của Trịnh Công Sơn trong Thiền học cũng là để tìm ra một đạo sống, một
lối thoát bằng ý niệm đồng hoá sống với chết, sinh không tách li khỏi tử. Ðời sống được
cái chết hầu cận, cái chết tháp tùng đời sống, cả hai cùng nối liền một vòng tử sinh. Người
chết nối linh thiêng vào đời. Trong khi ta về lại thấy ta đi. Hoặc phủ nhận cả hai để đi tới
chỗ vô thuỷ vô chung: Không có cái chết đầu tiên... Không có cái chết sau cùng. Từ đó anh
đã thăng hoa cho cát bụi tuyệt vời... Chìm dưới đất kia hạt cát bao la. Bởi không chỉ riêng
cái chết mới là một khủng hoảng toàn diện, mà sống cũng là một khủng hoảng (1). Một lần
nằm mơ tôi thấy tôi qua đời... Sống trong cái chết cũng có thể hình dung một cách ngịch lí
bằng đời sống được ngắm nhìn từ cõi chết, qua cách nhìn của nhà một nhà văn Tây ban
nha: “...Tôi muốn nhìn thế giới này bằng nhãn quan từ bờ bên kia... Tất cả phụ thuộc vào
cái nhìn của tôi lên bạn như kẻ chết nhìn vào kẻ chết; Tôi đang sống trong một hoàng hôn
vĩnh cửu của cõi chết, tôi ngửi thấy những đoá hoa tựa như mùi tử thi...” (Valle Inclán).
Trịnh Công Sơn đã từng nói về “cái chết yêu dấu” được hoá kiếp trong tình yêu hay trong
mỗi tình khúc của anh: Bởi cái chết đã dựng hình tượng trong cõi sống... Con người chỉ là
một loài thiêu thân vô tội bay mãi vào ảo-tưởng-tình-yêu. Chỉ có trong tình yêu ta mới bắt
gặp được cái chết của chính mình. Tình yêu cũng mở ngõ cho những lần hoá kiếp. Hãy thử
bước vào thế giới đó để khởi đầu bằng một cái chết thật vô cùng yêu dấu (Tình Khúc,
1967).
Trịnh Công Sơn đã từng và ngay lúc này đây đang vọng nhìn cuộc đời từ bờ bên kia: mệt
quá thân ta này, nằm xuống với đất muôn đời. Kìa còn biết bao người, dìu dặt tới quanh
đây. Ðã từng ta thấy em trong tiền kiếp tới cách nhìn sau này với nhãn quan lưỡng nguyên
pha thêm tính u mặc (humour) kiểu Bùi Giáng trong bài hát Con mắt còn lại. (Cõi bờ con
mắt Hoa Nghiêm, con mắt còn lại một con khóc người/Bây giờ riêng đối diện tôi, còn hai
con mắt khóc người một con. – B.G.). Con mắt còn lại là con mắt Hoa Nghiêm: con mắt
thứ ba: con mắt huệ nằm giữa trán.
Văn Cao đã gọi chính danh Trịnh Công Sơn là người ca thơ – để nói về các thi ca sĩ
troubadour/minstrel -- những sứ giả sống để phụng thờ và ca tụng tình yêu như là nguồn
sáng cứu rỗi trong đêm trường Trung cổ. Một khoảnh khắc sống với quả tim yêu nồng

nhiệt đáng giá hơn một trăm năm sống bằng quả tim khô héo, dù ngay cả khi ca tụng tình
yêu bằng những bài tình ca không có hạnh phúc. Ðời thi ca sĩ là một kiếp rong chơi:
Ðời vẽ tôi tên mục đồng
Rồi vẽ thêm con ngựa hồng
Từ đó lên đường phiêu linh.
Ðời vẽ trong tôi một ngày
Rồi vẽ thêm đêm thật dài
Từ đó tôi thề sẽ rong chơi...
(Chỉ có ta trong một thời)
Chính phong thái bohemien/gypsy này mà hình ảnh người du ca Trịnh Công Sơn với cây
đàn guitar cùng “nữ hoàng chân đất” Khánh Ly thời ấy (1967) hiện ra giữa trời và trong
các quán café (sau đó là cặp tình nhân Lê Uyên và Phương), họ là những café cantanta (ca
sĩ hát trong quán café) là một luồng sinh khí mới thu hút được một thế hệ rất lớn những
aficionado (người hâm mộ), và đã trở nên một dấu ấn sâu đậm khó quên đối với họ. Phong
thái này mặc dù thiếu cái passion (2) động của tiết nhịp flamenco nhưng nó lại là cái
Passion (3), tĩnh -- đúng lúc để lặng mình mà chiêm ngắm lại những vết thương lòng của
người VN, của những vết lăn trầm, của thân xác quê hương đang tan nát từng giờ trong
những Ca Khúc Da Vàng (1967). Những bài hát ru như Ngủ đi con, Lời mẹ ru và đặc biệt
bài Ca dao mẹ: hình ảnh người mẹ ngồi trăm năm như thân tượng buồn để lại quê hương
là pho tượng bi cảm Pieta (Thương xót) sống động về người mẹ VN ru con, ru mình, ru
quê hương trong tiếng võng bấp bênh phận người, trong lúc thần chết đang bay chập
chờn... Cũng có thể nói phần lớn ca khúc TCS là những bài hát ru và hát kể và là những tự
tình khúc. Rất nhiều lời tỏ tình mở đầu ca khúc của anh luôn là ngôn ngữ nói đằm thắm
gần gũi đời thường như: Chiều nay em ra phố về... Ngày mai em đi..., Ði về đâu hỡi em...
Em còn nhớ hay em đã quên... Không có đâu em này... TCS đã thăng hoa cho cái hồn đầy
nhạc tính của tiếng Việt.
Những khúc ca thơ chủ đề thân phận như Vết lăn trầm, Dấu chân địa đàng, Từng ngày
qua, Ru ta ngậm ngùi, Xin mặt trời ngủ yên, ... làm ta nhớ tới những Trầm Ca (Cante
Jondo của García Lorca) (4), chúng thổ lộ được hết cái hồn duende -- tiếng kêu bi thương
phát toả được từ đáy lòng u uẩn -- được hát lên trong những quán café, góc phố, hoặc trong

không khí bè bạn. Chúng biểu lộ được cái thân phận du mục của người VN trong thời
chiến, trong khi không thể kiếm được tình tự đó nơi những rạp hát hào nhoáng thường là
nơi mua bán cảm xúc như những sản phẩm; những nơi đó khó có thể là môi trường thích
hợp cho nhạc Trịnh Công Sơn. Ca khúc Da Vàng, Kinh Việt Nam, Ta Phải Thấy Mặt
Trời... cũng làm thức dậy cái tính độc lập ”vô chính phủ” (arnachy) trong tiềm thức của
thanh niên. Từ đó ta hiểu tại sao nhạc TCS từng là mối “taboo” (cấm kị) đối với chính
quyền của cả hai phía, nó bị kết án với cái tên gọi là nhạc Xanh. Xanh, bởi nó không theo
Vàng hoặc Ðỏ. Hay có thể nói nhạc Xanh cũng là Blues5 bởi nó nói lên được cái thân phận
nô lệ da vàng đầy tủi nhục. Nhìn lại Gia tài của mẹ là khát vọng “giải thực”
(decolonization) cho cái tinh thần bị tha hoá của người Việt, đặc biệt là ở giới cầm quyền
và trí thức trong thời nội chiến6. Rất nhiều hình tượng về người Mẹ và người Nữ biểu
tượng cho tình yêu xuyên suốt trọn đời sáng tác của TCS, đó là sự hướng về Nữ tính Vĩnh
cửu (Éternal Féminin -- Goethe) làm biểu tượng cho sự cứu rỗi chung.
Ðịnh mệnh của người thi ca sĩ Trịnh Công Sơn như định mệnh của chàng Orpheus [trong
thần thoại Hi lạp] đã phải hành hương xuống tận cõi âm ti, bằng mãnh lực của lời thơ tiếng
nhạc làm nguôi dịu những linh hồn đang bị đày đoạ và để cứu lại người tình đã bị rắn độc
giết hại. Tiếng hát cung đàn lyra của Orpheus cũng đã cứu bao người khỏi chết vì giọng
mật ngọt của ngư nữ Siren huyễn hoặc giữa trùng khơi... Do màu sắc tâm linh trong những
ca khúc của Trịnh Công Sơn nên tự chúng không thể là loại ca khúc phổ thông để tiêu
khiển, vì khi hát lên được cái hồn trầm uất của mình là giải nguôi được cho tâm bệnh của
mình. Ở trong đó đã tiềm ẩn chức năng chữa trị của các shaman (thầy mo) là dùng những
khúc phù chú để chữa lành xoa dịu nỗi đau tâm hồn và thể xác. Shaman là nhà thơ, nhạc sĩ,
hoạ sĩ, thầy thuốc đồng thời hiệp thông giữa hai cõi sống và chết -- làm vai trò giải tà, giải
oan và chiêu tụ. Ðiều này thấy trong Ca Khúc Da Vàng và như trong lời mở đầu kêu gọi
thống thiết của Trịnh Công Sơn trong Kinh Việt Nam (1968): Ta phải đi tới bằng con tim
sứ giả mang niềm tin và lời hứa hẹn của những người đã nằm xuống... Xin đừng bao giờ
làm kẻ phản bội với một quá khứ hiển linh...
Dõi trông cuộc hành hương của người du ca sĩ Trịnh Công Sơn ta thấy nhạc khởi đầu đã
hoà chung vào với từng giọt nước mắt buồn rơi trong đêm mưa từ độ ấy... và từ đó đêm [và
mưa] bao trùm lên những ca khúc của anh – như những bài Tụng ca Ðêm của thi sĩ

Novalis: “Ðêm đã trở nên, dạ con kết trái, đầy những mạc khải...” – Ðêm ta nằm nghe
tiếng trăm năm... đêm nghe tiếng muôn trùng, đêm nghe tiếng khóc cười của bào thai. Hoá
thân vào dòng thác đêm là cái chết đang cuốn trôi đi tất cả trong Ðêm thấy ta là thác đổ.
Ôm lòng đêm trong Phôi pha. Ðêm mạc khải cho trăng vàng khai hội một đoá hoa quỳnh.
Từ đó ta là đêm nở đoá hoa vô thường...
Từ thánh vịnh ca Cát bụi tới hương thiền ca Ðoá hoa vô thường, ở thời khoảng giữa đã là
một hành trình vượt qua những chặng thương khó của từng Ca Khúc Da Vàng đầy ắp
những hình ảnh thánh giá, khổ nạn, phúc âm, lời kinh đêm, vực sâu, những lời truyền tin
đợi chờ phục sinh... là nỗi tuyệt cùng chỉ còn hi vọng vào sự cứu rỗi của tình yêu. Chúa đã
bỏ loài người, Phật đã bỏ loài người, này em xin cứu một người, này em có nhớ cuộc đời...
Ðợi chờ yêu thương trên cây thánh giá. Ðời có sân si dưới bóng bồ đề... Cho tới thời điểm
tĩnh tịch giữa ngọ (7) cây trưa thu bóng dài và tôi thu bóng tôi là nỗi khát khao đi tìm lại
sự an nhiên (người về soi bóng mình) trong cõi tâm linh với hương thiền đầy tính mĩ học
(mà thiền sư Nhật Suzuki Daisetz đã tung gieo ra ngoài thế giới). Những tác phẩm mang
hương vị Thiền thời kì này (1972 –75) như Ở trọ, Biết đâu nguồn cội, Ngẫu nhiên, Nguyệt
ca, Níu tay nghìn trùng, Giọt lệ thiên thu, Lời thiên thu gọi, Phôi pha, Bên đời hiu quạnh,
Ðêm thấy ta là thác đổ, Cũng sẽ chìm trôi, Tự tình khúc, Một cõi đi về,... và được “viên
thành” bằng tổ khúc Ðoá hoa vô thường. Ðoá hoa vô thường có thể coi là bức “tứ bình”
bằng nhạc, thơ và hoạ mở ra cho ta thấy trọn cuộc hành trình tâm linh đi tìm ý nghĩa trong
cuộc hội ngộ với tình yêu, cái đẹp, cái vô thường.
Khát khao đi tìm sự bình an của Trịnh Công Sơn trong Thiền tông, không hẳn là để tìm sự
giải thoát hoặc để đạt tới cõi hoàn toàn an nhiên tự tại, mà có phần gần với lí tưởng Bồ tát
[như đối với nhà thơ Cao Bá Quát] là “mang cái bệnh Duy-ma” vì chúng sinh (8) Lí tưởng
này không nhằm đạt tới Niết Bàn, cho dù tình yêu ở đây có mang tính vô ngã đi nữa: Tôi
xin làm quán đợi buồn chân em ghé chơi/ Tôi xin làm đá cuội mà lăn theo gót hài/ Tôi thu
tôi bé lại làm mưa tan giữa trời. Trong ca khúc Biết đâu nguồn cội đó, đầy những hình ảnh
[mang Âm tính, Nữ tính, Mẫu tính và Pháp tính] thường thấy trong Thiền tông: nước,
trăng, thuyền [chứa chở trời đất và người] đều nổi trôi, che chở và uyển chuyển. Ở trong
bài nhạc này để nói về sự tương tác luôn “ở trọ” trong nhau và “thiếu nợ” lẫn nhau giữa cõi
đời và với trời đất (trăng muôn đời thiếu nợ mà sông không nhớ ra) hơn là để nói tới cái

tâm chân như hay cái tánh không: “Kìa xem bóng nguyệt lòng sông. Ai hay không có có
không là gì” (Thiền sư Ðạo Hạnh). Ở Trịnh Công Sơn, cái đẹp bi luỵ còn in dấu khi bước
tới hư vô khoác áo chân như nhưng vẫn còn long lanh giọt lệ thiên thu (Giọt lệ thiên thu).
Ðôi khi trầm tư về cái đẹp với cảm xúc bâng khuâng trước cái mênh mang mà sự giải thoát
thì diệu vợi tận cõi “bỉ ngạn” (bờ kia):
Bên kia sông nước vô bờ
Hồng nhan em có bao giờ bâng khuâng. (Lời ở phố về)
Nhan sắc Ðoá hoa Vô thường
Tim tôi đã nở
Ðoá hoa dưới trời
Chùm cánh khát mong
Bầu nhuỵ mơ mòng.
(García Lorca)
Nếu chiêm ngắm kĩ, bạn sẽ thấy con người là một bông hoa năm cánh. Một thiền giả Nhật
đã có chiêm nghiệm như vậy. “Giao hưởng thơ” Ðoá hoa vô thường là một dụ ngôn/ẩn dụ
bằng ý thơ nẻo nhạc để kể về cuộc hành hương đi tìm ý nghĩa của tình yêu, nghệ thuật và
cái chết. Tương tự như trong truyền thuyết đi tìm Ðoá hoa Xanh biểu trưng cho nghệ thuật
của thi sĩ Lãng mạn Ðức Novalis -- Một cuộc luyện đan (alchemy) trong tình yêu và nghệ
thuật. Hoặc gần với Thiền tông hơn, nó được luân diễn trong 10 bức tranh chăn trâu, là
hình ảnh kẻ mục đồng hay hành giả/lữ khách lạc nẻo giữa đồng hoang nội cỏ, khởi đi tìm
cái tâm (chân như) của chính mình đã đánh mất trên siêu lộ mê ảnh trong cõi sinh tử chập
chùng mộng mị...
Bốn “chương” (movement) nhạc của Ðoá Hoa Vô Thường tương ứng với bốn mùa hay bốn
tâm cảnh về một đời người, như vòng “qui hồi vĩnh cửu” (eternal recurrence) trong Một
cõi đi về. Lối tiến hành âm hình giai điệu của Ðoá Hoa Vô Thường là một cuộc chuyển hoá

×