Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

SKKN Một số kinh nghiệm tổ chức các tình huống vào bài gây hứng thú học tập cho học sinh trong môn Sinh học 8

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (773.86 KB, 29 trang )

Một số kinh nghiệm tổ chức các tình huống vào bài gây hứng thú học tập cho
học sinh trong môn Sinh học 8

I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã đề ra phương hướng: Đầu tư phát
triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào
tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang
phát triển nhân lực và phẩm chất người học, phát triển giáo dục đào tạo phải gắn với nhu cầu
phát triển kinh tế xã hội, xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Trong đó, phát triển giáo dục và đào tạo
phải tuân theo nguyên lý: Học đi đôi với hành, giáo dục phải kết hợp với lao động sản xuất, lí
luận phải gắn liền với thực tiễn, giáo dục nhà trường phải kết hợp với giáo dục xã hội.
Sinh học là một bộ môn khoa học tự nhiên có nhiệm vụ nghiên cứu các đặc điểm cấu tạo,
hoạt động sống và các điều kiện sống của sinh vật cũng như các mối quan hệ giữa các sinh vật
với nhau và với môi trường. Ở Sinh học 8 các em được tìm hiểu sâu về đặc điểm cấu tạo và
sinh lí của con người, về những điều bí ẩn trong chính bản thân các em.
Trong thực tế giảng dạy bộ môn Sinh học cấp trung học cơ sở, tôi nhận thấy phần lớn học
sinh đều không thích học bộ môn Sinh học vì cho rằng môn học này thường khô khan, khó
hiểu. Nên dẫn đến nhiều em còn có thái độ chưa quan tâm, chưa chú ý vào bài học. Điều này đã
gây ra ảnh hưởng không nhỏ đến việc nâng cao chất lượng dạy và học bộ môn. Mặt khác, ở lứa
tuổi học sinh lớp 8 các em đang bước vào giai đoạn dậy thì nên cơ thể phát triển mạnh. Tuy
nhiên, mức độ phát triển của hệ thần kinh chưa đạt đến độ hoàn thiện, do đó các em chóng mệt
mỏi, dễ hưng phấn song cũng dễ chuyển sang trạng thái ức chế khi phải tiếp thu bài một cách
thụ động, kém hào hứng. Vấn đề đặt ra là bản thân mỗi giáo viên cần phải không ngừng học
hỏi, tìm tòi các phương pháp cũng như cách thức giảng dạy để có thể khơi dậy sự hứng thú
cũng như sự chủ động trong học tập của học sinh, nếu không sẽ dẫn đến tiết học trở nên nhàm
chán, khó thành công.
Các tình huống có trong thực tiễn rất gần gũi và thân quen đối với chúng ta cũng như đối
với các em học sinh. Việc vận dụng các tình huống thực tiễn vào trong giảng dạy bộ môn tạo
cho các em cảm thấy môn Sinh học trở nên gần gũi và thiết thực. Đặc biệt trong phần vào bài
trước khi học bài mới giáo viên sử dụng những tình huống thực tiễn, những câu chuyện ngắn


có ý nghĩa giáo dục, các câu ca dao, tục ngữ ... sẽ tạo cho các em một tâm thế học tập tốt, sự
thích thú, muốn khám phá ra những kiến thức để lí giải những vấn đề đó. Từ đó các em yêu
thích môn học hơn, đồng thời chất lượng bộ môn được nâng cao hơn.
Từ những lí do trên cùng với kinh nghiệm mà tôi đã đúc kết được qua nhiều năm giảng
dạy tại trường trung học cơ sở Nguyễn Trãi, Tôi xin mạnh dạn đưa ra một số kinh nghiệm mà
mình đã tích lũy được trong quá trình giảng dạy và tôi chọn đề tài “ Một số kinh nghiệm tổ
chức các tình huống vào bài gây hứng thú học tập cho học sinh trong môn Sinh học 8”. Rất
mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô và bạn bè đồng nghiệp.
2. Mục đích nghiên cứu

Giáo viên: Trịnh Thị Hiền

1

Trường THCS Nguyễn Trãi


Một số kinh nghiệm tổ chức các tình huống vào bài gây hứng thú học tập cho
học sinh trong môn Sinh học 8

Tìm ra những giải pháp hợp lí nhằm tạo hứng thú học tập đối với bộ môn, giúp học sinh
chủ động, tích cực, tự giác trong học tập, biết vận dụng kiến thức vào thực tiễn, góp phần nâng
cao chất lượng học tập của học sinh.
Tìm hiểu các thông tin từ các nguồn tư liệu về những vấn đề thực tiễn liên quan đến bộ
môn, để lựa chọn và đưa ra các tình huống vào bài phù hợp với nội dung bài học nhằm gây
hứng thú học tập cho học sinh, từ đó vận dụng vào giảng dạy đạt hiệu quả cao nhất.
Đưa ra được các giải pháp, biện pháp cần thiết và hiệu quả cho việc áp dụng nhằm nâng
cao chất lượng học tập đối với bộ môn Sinh học 8.
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Cơ sở lí luận

Tại Đại hội Đảng lần thứ XII Đảng ta đã xác định đổi mới giáo dục và đào tạo theo hướng
phải phù hợp, thiết thực với từng cấp học, từng đối tượng, đảm bảo tính khoa học, cơ bản, hiện
đại; lựa chọn những kiến thức có tính ứng dụng cao. Chuyển từ nặng về trang bị kiến thức lí
thuyết trừu tượng sang nội dung gắn với thực tiễn đời sống, chú trọng vận dụng kiến thức vào
giải quyết các tình huống trong học tập và cuộc sống….nội dung các môn học cần lựa chọn
những gì cần thiết cho việc phát triển phẩm chất năng lực người học, những tri thức thiết thực,
gần gũi, gắn với đời sống có thể vận dụng tốt trong thực tế.
Trong công văn hướng dẫn nhiệm vụ và các biện pháp thực hiện trong năm học 20182019 của Phòng giáo dục và đào tạo huyện Krông Ana đã chỉ rỏ: “Tiếp tục đổi mới phương
pháp dạy và học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo, rèn luyện phương pháp tự
học và vận dụng kiến thức, kỹ năng của học sinh. Đẩy mạnh việc vận dụng dạy học giải quyết
vấn đề, các phương pháp thực hành, dạy học theo dự án trong các môn học; tích cực ứng dụng
công nghệ thông tin phù hợp với nội dung bài học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều,
ghi nhớ máy móc; tập trung dạy cách học, cách nghĩ, phương pháp tự học; đảm bảo cân đối
giữa trang bị kiến thức, rèn luyện kỹ năng và định hướng thái độ, hành vi cho học sinh…”.
Theo các chuyên gia tâm lí học thì cùng với sự tự giác thì hứng thú học tập tạo nên tính
tích cực nhận thức, giúp học sinh học tập đạt kết quả cao, có khả năng khơi dậy được sự sáng
tạo, là động lực để người học có thể say mê, tự giác nghiên cứu và đạt được hiệu quả cao trong
chương trình giáo dục.
Ở lứa tuổi trung học cơ sở, các em có sự phát triển mạnh mẽ về tâm sinh lí, các em rất tò
mò, muốn tìm hiểu cũng như giải đáp được những vấn đề nảy sinh trong cuộc sống hằng ngày.
Tuy nhiên, trong thực tế giảng dạy nhiều giáo viên còn quá coi trọng các kiến thức lí thuyết nên
tổ chức các hoạt động học còn thiên về cung cấp kiến thức trong sách giáo khoa, ít chú trọng
đến việc đưa các vấn đề thực tế vào giảng dạy. Điều này làm cho các em cảm thấy kiến thức
của các môn học trở nên xa lạ và khô khan, từ đó các em ít hứng thú đối với môn học hơn.
Qua thực tế giảng dạy tại trường trung học cơ sở Nguyễn Trãi, tôi nhận thấy rằng trong
mỗi tiết học mà giáo viên chỉ đưa ra những câu hỏi, những kiến thức đơn thuần có trong sách
giáo khoa thì tiết học sẽ trở nên khô khan, nhàm chán, không tạo được tâm thế học tập tốt cho
các em, các em không hứng thú với học tập, tiếp thu bài một cách bị động, nên dẫn các em học
Giáo viên: Trịnh Thị Hiền


2

Trường THCS Nguyễn Trãi


Một số kinh nghiệm tổ chức các tình huống vào bài gây hứng thú học tập cho
học sinh trong môn Sinh học 8

mang tính chất học vẹt, không nắm được kiến thức trọng tâm, khả năng tổng hợp cũng như vận
dụng kiến thức vào thực tiễn còn hạn chế đã dẫn đến kết quả học tập bộ môn còn thấp. Điều
này đã làm tôi suy nghĩ rất nhiều, làm thế nào để có tạo được hứng thú học tập cho các em?
Làm thế nào để các em có thể chủ động trong học tập? Làm thế nào để có thể các em yêu thích
môn Sinh học hơn? Làm thế nào để các em có thể vận dụng những kiến thức môn học vào xử lí
các tình huống có trong thực tiễn?.... Từ những suy nghĩ này, tôi đã tìm tòi, sưu tầm những tình
huống thực tế, các câu chuyện ngắn, các câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ.… liên quan đến kiến
thức bộ môn để áp dụng tổ chức các tình huống vào bài ở một số tiết dạy và tôi tự nhận thấy
rằng nếu giáo viên biết cách tổ chức các tình huống vào bài đặc biệt là các tình huống có trong
thực tế vào giảng dạy sẽ tạo cho học sinh một tâm thế tốt, kích thích được hứng thú học tập của
các em, làm nảy sinh trong các em suy nghĩ muốn khám phá ra những kiến thức và có thể áp
dụng những kiến thức đã học vào giải quyết những vấn đề trong thực tiễn, từ đó các em yêu
thích môn học hơn, chất lượng bộ môn cũng được nâng cao.
2. Thực trạng
Hiện nay, để đáp ứng với sự phát triển của nền kinh tế xã hội, ngành giáo dục đã và đang
thực hiện đổi mới giáo dục căn bản, toàn diện với mục tiêu đào tạo nên những con người Việt
Nam Xã hội chủ nghĩa phát triển một cách toàn diện về “ đạo đức- trí tuệ - thẩm mỹ”. Để làm
được điều này cần phải đổi mới một cách mạnh mẽ các phương pháp dạy và học nhằm phát
huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh; tăng cường rèn luyện các kỹ năng thực
hành, vận dụng kiến thức kỹ năng vào giải quyết các vấn đề thực tiễn. Vậy vấn đề đặt ra là giáo
viên phải có biện pháp gì để góp phần giáo dục nên những thế hệ trẻ vừa chủ động, vừa sáng
tạo,vừa có kỹ năng thực hành tốt, biết vận dụng những kiến thức môn học vào giải quyết các

tình huống thực tiễn.
Trong thực tế, tôi thấy rằng đa số giáo viên thường hay sử dụng Phương pháp dạy học
truyền thống trong giảng dạy. Ở phương pháp này chủ yếu là hoạt động của giáo viên nhằm
truyền đạt các kiến thức có trong sách giáo khoa cho học sinh. Phương pháp này có ưu điểm là
học sinh nắm được nội dung kiến thức của bài ngay trong tiết học, các em có thể trả lời được
những câu hỏi liên quan có trong sách giáo khoa. Tuy nhiên, khi dạy học theo phương pháp này
vẫn còn nhiều hạn chế như: Học sinh học bài còn mang tính chất học vẹt, tiếp thu bài một cách
thụ động, không nắm được kiến thức trọng tâm nên dẫn đến rất nhanh quên, khả năng tư duy
còn hạn chế, khả năng vận dụng kiến thức bộ môn vào giải quyết các vấn đề thực tiễn còn
kém…điều này thể hiện qua kết quả ở các bài kiểm tra của các em còn thấp, khi gặp các vấn đề
thực tiễn có liên quan đến kiến thức bộ môn các em còn lúng túng hoặc không giải đáp được.
Ở lứa tuổi trung học cơ sở đặc biệt là học sinh lớp 8, các em đang bước vào giai đoạn dậy
thì nên cơ thể có sự phát triển mạnh về kích thước và thể lực. Đồng thời các em có sự phát triển
mạnh mẽ về tâm sinh lí, các em rất tò mò, ham hiểu biết, muốn tìm hiểu cũng như giải đáp
được những vấn đề nảy sinh trong cuộc sống hàng ngày. Những câu hỏi: “Tại sao?” Hay “Do
đâu?” thường xuất hiện trong đầu các em. Các em tự cho mình là người lớn và cũng muốn
được coi là người lớn, muốn được tham gia học tập một cách độc lập, muốn thử sức mình…
Tuy nhiên, trong thực tế giảng dạy nhiều giáo viên chưa lựa chọn được các phương pháp dạy
học phù hợp nên chưa tích cực hóa được hoạt động học tập của học sinh, ít chú trọng đến việc
Giáo viên: Trịnh Thị Hiền

3

Trường THCS Nguyễn Trãi


Một số kinh nghiệm tổ chức các tình huống vào bài gây hứng thú học tập cho
học sinh trong môn Sinh học 8

đưa các vấn đề thực tế vào trong giảng dạy. Điều này đã làm cho các em cảm thấy các kiến

thức của môn học trở nên khô khan, xa lạ …từ đó các em ít hứng thú hơn đối với môn học. Mặt
khác, cùng với sự bùng nổ của công nghệ thông tin các em có rất nhiều sân chơi khác như:
Facebook, Zing me, Game online, Zalo…điều này đã làm phân tán sự tập trung của các em,
hứng thú học tập của các em ngày càng giảm sút, các em tiếp thu bài một cách thụ động nên
không nắm được kiến thức trọng tâm. Do đó, chất lượng học tập bộ môn chưa cao.
Bên cạnh đó, nhiều phụ huynh còn có tư tưởng phó mặc việc giáo dục con em họ cho nhà
trường, nên bỏ bê việc quan tâm đến học tập của con cái. Ngoài ra, kinh tế của một số gia đình
học sinh còn nhiều khó khăn, bố mẹ mãi lo làm ăn kinh tế nên ít quan tâm đến việc học tập,
không giám sát việc học ở nhà của con em mình, đến lớp các em lại không chú ý nghe giảng,
không nắm được kiến thức trọng tâm của bài nên dần dần sinh ra tâm lí chán nản, không thích
học, không tập trung trong học tập…dẫn đến chất lượng học tập không cao.
Kết quả bài kiểm tra định kì lần 1 học kì I môn Sinh học lớp 8 trường THCS Nguyễn Trãi
khi chưa thực hiện đề tài trong 2 năm học 2017 – 2018 và năm học 2018- 2019 như sau:
Năm học

2017 – 2018

Lớp

Tổng số

Giỏi

Khá

Trung
bình

8A3


28

0

6

14

7

1

8a4

30

2

6

15

6

1

8a5

28


3

5

12

7

1

8a6

32

4

7

13

8

0

Tổng cộng

118

9


24

54

28

3

7,6%

20,3%

45,8%

23,7%

2,6%

Tỉ lệ

2018 – 2019

Yếu

Kém

8A1

30


0

7

15

8

0

8a2

34

3

8

14

8

1

8a3

27

2


5

12

7

1

8a5

28

3

6

11

7

1

Tổng cộng

119

8

26


52

30

3

6,7%

21,8%

43,8%

25,2%

2,5%

Tỉ lệ

Qua kết quả kiểm tra trên, tôi thấy rằng kết quả học tập môn Sinh học 8 của các em còn
thấp, tỉ lệ bài kiểm tra bị điểm yếu và kém vẫn còn cao, tỉ lệ các bài đạt loại khá và giỏi còn ít.
Giáo viên: Trịnh Thị Hiền

4

Trường THCS Nguyễn Trãi


Một số kinh nghiệm tổ chức các tình huống vào bài gây hứng thú học tập cho
học sinh trong môn Sinh học 8


Trong thực tế giảng dạy tôi nhận thấy rằng nếu trong quá trình dạy hocjgiaos viên tổ chức
các tình huống vào bài trước khi học bài mới, đặc biệt là sử dụng các tình huống có liên quan
đến các vấn đề có trong thực tế hoặc một tình huống giả định, các câu chuyện ngắn hay các câu
ca dao, tục ngữ mang tính chất giáo dục… và yêu cầu học sinh cùng tìm hiểu và giải thích qua
bài học, sẽ tạo cho các em một tâm thế học tập tốt, các em sẽ chủ động trong việc lĩnh hội kiến
thức. Từ đó, kích thích được hứng thú học tập của học sinh, chất lượng bộ môn cũng được nâng
cao. Ngoài ra, thông qua các tình huống vào bài giáo viên còn có thể lồng ghép các nội dung
khác nhau chẳng hạn như: giáo dục ý thức bảo vệ cơ thể, biết chăm sóc, giữ gìn sức khỏe và
giáo dục đạo đức lối sống cho các em.
3. Nội dung và hình thức của giải pháp
Trước những thực trạng trên, bản thân tôi mạnh dạn đưa ra một số giải pháp, biện pháp
mà tôi đã đúc rút được qua nhiều năm giảng dạy tại trường trung học cơ sở Nguyễn Trãi. Nhằm
mục đích trao đổi với các đồng nghiệp trong và ngoài nhà trường để cùng nhau tháo gỡ những
khó khăn, hạn chế của công tác giảng dạy bộ môn Sinh học nói chung và môn Sinh học 8 nói
riêng trong nhà trường. Từng bước nâng cao chất lượng bộ môn.
Trong quá trình giảng dạy môn Sinh học 8 ở trường trung học cơ sở Nguyễn Trãi tôi đã
tìm tòi, sưu tầm và đúc kết được một số kinh nghiệm tổ chức các tình huống vào bài và đã sử
dụng, trải nghiệm trong quá trình giảng dạy môn Sinh học 8 và bước đầu đã mang lại hiệu quả.
Tôi xin mạnh dạn đưa ra đây để cùng trao đổi với thầy cô và bạn bè đồng nghiệp.
- Giải pháp 1: Sử dụng các câu chuyện ngắn có trong thực tế vào giảng dạy
Các câu chuyện ngắn có nội dung liên quan đến thực tế là những câu chuyện kể về những
sự việc diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, mang tính chất thời sự, làm cho các em cảm thấy
môn Sinh học trở nên gần gũi và thiết thực.
Cách thức thực hiện: Đối với giải pháp sử dụng các câu chuyện ngắn vào giảng dạy giáo
viên có thể sử dụng ở các bài như: Bài 8: Cấu tạo và tính chất của xương; bài 13: Máu và môi
trường trong cơ thể; bài 18: Vận chuyển máu qua hệ mạch. Vệ sinh hệ tuần hoàn; bài 22: Vệ
sinh hô hấp; bài 27: Tiêu hóa ở dạ dày; bài 34: Vitamin và muối khoáng; bài 52: Phản xạ không
điều kiện và phản xạ có điều kiện….
Một số ví dụ cụ thể:
Khi dạy bài 8: Cấu tạo và tính chất của xương

Trước khi vào học bài mới giáo viên kể cho lớp nghe một câu truyện ngắn về tập tục chữa
bệnh lạc hậu ở một số vùng nông thôn.
“Thầy mo” chữa bệnh….
Ở một bản làng nọ, có một thầy lang nổi tiếng là chữa bệnh giỏi, bất cứ ai bị bệnh gì
đến gặp, thầy đều chữa khỏi. Một hôm bà Na có người con trai 10 tuổi chẳng may bị ngã
nên gãy chân. Bà liền mang con trai đến gặp thầy, ông liền lấy hai thanh gỗ nẹp chân cậu
con trai lại rồi đưa cho bà mẹ ba mươi tờ tiền vàng mà thầy đã làm phép. Thầy căn dặn mỗi
ngày bà hãy đốt một tờ tiền vàng và hòa với nước cho con trai uống, ắt sẽ khỏi bệnh. Quả
Giáo viên: Trịnh Thị Hiền

5

Trường THCS Nguyễn Trãi


Một số kinh nghiệm tổ chức các tình huống vào bài gây hứng thú học tập cho
học sinh trong môn Sinh học 8

thật sau ba mươi ngày, chân cậu con trai này đã lành. Em nghĩ sao về cách chữa bệnh của
‘thầy mo” này? Có phải thuốc của thầy quá hay nên chân cậu con trai đã lành? Sau khi học
xong phần II- Sự to ra và dài ra của xương, giáo viên nhắc lại câu chuyện ở đầu bài và yêu cầu
học sinh nói ra quan điểm của mình. Sau khi học sinh phát biểu giáo viên chốt kiến thức: Ở
xương có lớp màng xương gồm những tế bào có khả năng phân chia tạo ra những tế bào mới,
đẩy vào trong và hóa xương. Do đó khi bị gãy xương chỉ cần cố định xương sau một thời gian
lớp màng xương sẽ sinh ra lớp xương mới hàn gắn lại chỗ xương bị gãy nên xương sẽ lành lại.
Qua đây giáo viên chỉ ra cho học sinh thấy việc “thầy mo” sử dụng tiền vàng làm thuốc chữa
bệnh là sai khoa học, qua đó giáo dục ý thức bảo vệ cơ thể cho các em tránh các tập tục chữa
bệnh lạc hậu.
Khi dạy bài 18: Vận chuyển máu qua hệ mạch. Vệ sinh hệ tuần hoàn.


Cuộc thi chạy Maratông
Để tạo hứng thú trước khi vào bài giáo viên kể cho các em một câu chuyện:
“Nguồn gốc cuộc thi chạy Maratông”
Năm 490 trước công nguyên, tại làng Maratông trong vùng Attic, quân đội Hi Lạp đã
đánh tan quân xâm lược Ba Tư, một người lính nhận lệnh chạy từ làng Maratông về thủ đô
Aten để báo tin chiến thắng. Anh đã chạy một mạch 42,195 km và chết ngay sau khi báo tin
chiến thắng. Để kỉ niệm sự kiện đáng nhớ đó, từ 1896 người ta đã tổ chức cuộc thi chạy
hằng năm từ Maratông đến Aten và vô số vận động viên đã vượt qua quảng đường này an
toàn với thời gian ngày càng rút ngắn. Tại sao các vận động viên có thể chạy một quảng
đường dài như vậy nhưng vẫn an toàn?
Qua câu chuyện này sẽ tạo cho các em sự tò mò, muốn tìm hiểu kiến thức để có thể giải
thích được sự phi thường mà các vận động viên đã làm được khi phải chạy qua một quảng
đường rất dài như vậy. Qua đó giáo dục cho các em ý thức tự giác rèn luyện để có một cơ thể
khỏe mạnh.
Khi dạy bài 22: Vệ sinh hô hấp
Giáo viên: Trịnh Thị Hiền

6

Trường THCS Nguyễn Trãi


Một số kinh nghiệm tổ chức các tình huống vào bài gây hứng thú học tập cho
học sinh trong môn Sinh học 8

Trước khi học bài mới, giáo viên có thể mở bài bằng một câu chuyện
“Đốt than để sưởi ấm…”
Ngày 27 tháng 11 năm 2018 do thời tiết quá lạnh nên một gia đình ở thành phố Vinh
thuộc tỉnh Nghệ An đã đốt than trong nhà để sưởi ấm. Cả gia đình đã phải nhập viên cấp
cứu trong tình trạng khó thở, tức ngực và 1 người đã bị tử vong. Vậy tại sao lại có hiện

tượng này? Để giải đáp câu hỏi này chúng ta cùng tìm hiểu qua bài 22: Vệ sinh hô hấp. Khi
học phần I- Cần bảo vệ hệ hô hấp khỏi các tác nhân có hại, giáo viên nhắc lại câu chuyện và
yêu cầu học sinh lí giải hiện tượng đó. Qua việc chủ động tìm hiểu kiến thức học sinh chỉ ra
được: Đốt than sưởi ấm trong nhà đã thải ra khí cacbon ôxit, khí cacbon ôxit này sẽ chiếm chỗ
của ôxi trong máu, làm giảm hiệu quả hô hấp, có thể dẫn đến tử vong.
Khi dạy bài 27: Tiêu hóa ở dạ dày
Để tạo hứng thú học tập cho học sinh, trước khi học bài mới giáo viên kể cho các em một
câu chuyện
“Dạ dày biết nói…”
Một vụ án mạng xảy ra tại một khu trung cư, nạn nhân là một cô gái khoảng 25 tuổi.
Sau khi tiếp nhận vụ án, bác sĩ pháp y tiến hành lấy dịch của dạ dày rồi phân tích chúng và
đã xác định được giờ chết của nạn nhân. Từ đặc điểm này các chiến sĩ công an đã lần ra
các đầu mối và tìm ra được thủ phạm. Vậy tại sao khi kiểm tra dịch ở dạ dày bác sĩ pháp y
có thể xác định được giờ chết của nạn nhân? Liệu có phải chính dạ dày đã nói lên điều gì
với bác sĩ pháp y? Để giải đáp được câu hỏi này chúng ta cùng tìm hiểu qua bài 27: Tiêu hóa ở
dạ dày. Khi học phần II- Tiêu hóa ở dạ dày, giáo viên yêu cầu học sinh giải thích câu hỏi trong
tình huống ở đầu bài. Sau khi các em trình bày suy nghĩ của mình, giáo viên chốt kiến thức và
cung cấp thêm một số thông tin cho học sinh: Dạ dày giữ thức ăn một thời gian, dài hay ngắn
tùy thuộc vào bản chất và trạng thái thức ăn. Đối với thức ăn lỏng như cháo hoặc sữa qua dạ
dày và được đẩy xuống ruột ngay. Thức ăn gluxit như cơm tẻ lưu lại khoảng 2 giờ, cơm nếp
khoảng 4 giờ. Thức ăn chứa nhiều mỡ như thịt chiên, cá chiên…lưu lại trong dạ dày rất lâu
khoảng 9 giờ hoặc hơn một chút… Bác sĩ pháp y dựa vào đặc điểm này để xác địnhgiờ chết
của nạn nhân. Chẳng hạn, tử thi được phát hiện lúc 5 giờ sáng. Bác sĩ mổ khám nghiệm và phát
hiện cơm đang rời dạ dày qua ruột thì ngừng lại. Như vậy nạn nhân chết khoảng 2 giờ sau khi
ăn. Lúc này chỉ cần điều tra xem nạn nhân ăn tối lúc mấy giờ thì sẽ xác định được giờ chết của
nạn nhân.
* Khi dạy bài 34: Vitamin và muối khoáng

Giáo viên: Trịnh Thị Hiền


7

Trường THCS Nguyễn Trãi


Một số kinh nghiệm tổ chức các tình huống vào bài gây hứng thú học tập cho
học sinh trong môn Sinh học 8

Giáo viên có thể mở bài bằng một câu chuyện ngắn:
“Chuyến thám hiểm của tàu Cartier”
Năm 1536, các thủy thủ và đoàn viên tàu Cartier tiến hành chuyến thám hiểm đi
Canađa, chuyến đi kéo dài mấy tháng trời, lượng thức ăn rau, củ, quả tươi mang từ đất liền
đã hết, mọi người trong đoàn chủ yếu ăn thịt cá suốt một thời gian dài. Nhiều thủy thủ và
đoàn viên trên tàu đã mắc một căn bệnh nghiêm trọng, đó là bệnh Xcorbut, người bệnh bị
chảy máu lợi, chảy máu dưới da, viêm khớp, đau cơ….và nhiều người đã bị chết. Vậy tại
sao họ lại bị mắc căn bệnh này? Để giải đáp câu hỏi này chúng ta cùng tìm hiểu trong bài 34:
Vitamin và muối khoáng. Điều này sẽ tạo cho học sinh sự tò mò, muốn tìm hiểu kiến thức để lí
giải được nguyên nhân gây bệnh trên. Sau khi tìm hiểu phần I- Vitamin, giáo viên nhắc lại tình
huống vào bài và yêu cầu học sinh trình bày quan điểm của mình. Học sinh sẽ chỉ ra được
nguyên nhân chính của căn bệnh này là do trong khẩu phần ăn thiếu rau, củ, quả tươi nên cơ
thể bị thiếu vitamin C làm cho mạch máu giòn, dễ vỡ, gây chảy máu. Đồng thời qua đây giáo
dục các em kỹ năng thiết lập khẩu phần ăn chứa đầy đủ các chất, đặc biệt phải đủ các loại
vitamin và muối khoáng.
Khi dạy bài 52: Phản xạ không điều kiện và phản xạ có điều kiện
Để tạo hứng thú học tập cho học sinh giáo viên mở bài bằng câu chuyện
“ Tào tháo với rừng mơ”
Trong một lần hành quân qua một chặng đường dài, trời vừa nắng và nóng, quân sĩ
của Tào Tháo vừa đói lại vừa khát, mọi người đều mệt lã tưởng chừng không thể đi nổi
nữa. Tình hình khá là nguy cấp vì còn phải hành quân qua một đoạn đường rất dài nữa
mới đến nơi đóng quân. Thấy vậy, Tào Tháo liền thông báo cho quân sĩ rằng: Các quân sĩ

hãy cố gắng lên một chút nữa, ở phía trước có một khu rừng mơ chín mọng, mọi người tha
hồ mà ăn. Cuối cùng quân sĩ của Tào Tháo cũng đến được nơi đóng quân. Vậy tại sao quân
sĩ lại hết khát ? Để giải đáp câu hỏi này chúng ta cùng tìm hiểu trong bài 52: Phản xạ không
điều kiện và phản xạ có điều kiện. Khi học phần II- Sự hình thành phản xạ có điều kiện, giáo
viên nhắc lại câu hỏi ở đầu bài và yêu cầu học sinh đưa ra quan điểm của mình, sau khi học
Giáo viên: Trịnh Thị Hiền

8

Trường THCS Nguyễn Trãi


Một số kinh nghiệm tổ chức các tình huống vào bài gây hứng thú học tập cho
học sinh trong môn Sinh học 8

sinh đưa ra các ý kiến, giáo viên chốt kiến thức, từ đó giúp các em khắc sâu kiến thức về sự
hình thành phản xạ có điều kiện.
Cũng trong bài này giáo viên có thể sử dụng một câu chuyện khác vào phần mở bài như
câu chuyện
“ Mèo của Trạng Quỳnh ”
Một vị chúa nọ có một con mèo rất đẹp, chúa rất yêu quý con mèo. Suốt ngày chúa
chăm bẵm, chơi đùa với mèo mà không quan tâm gì đến việc triều chính. Thấy vậy, Trạng
Quỳnh liền bắt trộm mèo của chúa và mang về nhà nuôi. Chúa cho quân lính tìm kiếm
khắp nơi, mãi một thời gian sau chúa thấy nhà Trạng Quỳnh có một con mèo giống của
mình liền đến đòi mèo lại. Trạng quỳnh liền nói: Đây là mèo của thần và để chứng minh là
mèo của mình, Trạng Quỳnh liền mang ra hai bát cơm, một bát bỏ đầy thịt, cá còn một bát
chỉ có cơm chan nước canh. Con mèo liền tiến lại gần bát cơm chan nước canh và ăn một
cách ngon lành. Lúc này, Trạng Quỳnh liền nói: Chúa thấy đấy, nhà thần nghèo, không có
tiền mua cá, thịt nên chỉ toàn ăn cơm chan với canh nên mèo nhà thần chỉ quen ăn món
này mà thôi. Mèo nhà chúa sống sung sướng , chỉ quen ăn cơm với cá và thịt, nên đây

chính là mèo của thần. Lúc này chúa đành mất mèo và ấm ức đi về. Vậy tại sao chúa chịu
mất mèo? Để giải đáp câu hỏi này chúng ta cùng tìm hiểu trong bài 52: Phản xạ không điều
kiện và phản xạ có điều kiện. Qua tìm hiểu kiến thức để giải đáp câu hỏi này học sinh chỉ ra
được: Chính Trạng Quỳnh đã tập cho mèo một thói quen mới, đó là chỉ được ăn cơm chan với
nước canh mà thôi. Từ đó, học sinh sẽ khắc sâu được kiến thức về sự hình thành phản xạ có
điều kiện. Đồng thời qua đây giáo viên lồng ghép giáo dục học sinh rèn luyện các thói quen
học tập tốt, các nếp sống văn minh….
- Giải pháp 2: Sử dụng các tình huống có trong thực tế vào giảng dạy.
Trong cuộc sống hằng ngày, có rất nhiều những tình huống nảy sinh làm xuất hiện trong
đầu các em rất nhiều thắc mắc, các em rất muốn tìm ra lời giải đáp cho những thắc mắc đó.
Trong giảng dạy, giáo viên sử dụng những tình huống có thể là những tình huống có sẵn trong
thực tế hoặc là những tình huống giả định mà giáo viên tạo ra có nội dung liên quan đến bài
học, nhằm mục đích yêu cầu học sinh hãy suy nghĩ và tìm ra cách xử lí tình huống đó, điều này
đã đặt ra cho các em một câu hỏi lớn buộc các em phải huy động trí não, sự tập trung trí tuệ để
giải quyết vấn đề, từ đó tạo cho các em tâm thế học tập tốt, chủ động trong việc tìm tòi và lĩnh
hội kiến thức, nâng cao chất lượng bộ môn.
+ Biện pháp 1: Sử dụng các tình huống có sẵn
Các tình huống có sẵn là những tình huống nảy sinh trong cuộc sống hằng ngày, rất quen
thuộc với học sinh. Việc sử dụng các tình huống này trong giảng dạy, tạo cho học sinh sự hứng
thú, muốn tìm hiểu kiến thức để có thể giải quyết các tình huống đó.
Cách thức thực hiện: Đối với giải pháp sử dụng các tình huống có trong thực tế vào giảng
dạy giáo viên có thể sử dụng ở các bài như: Bài 6: Phản xạ; bài 13: Máu và môi trường trong
cơ thể; bài 14: Bạch cầu- miễn dịch; bài 15: Đông máu và nguyên tắc truyền máu; bài 16: Tuần

Giáo viên: Trịnh Thị Hiền

9

Trường THCS Nguyễn Trãi



Một số kinh nghiệm tổ chức các tình huống vào bài gây hứng thú học tập cho
học sinh trong môn Sinh học 8

hoàn máu và lưu thông bạch huyết; bài 20: Hô hấp và các cơ quan hô hấp; bài 21: Hoạt động
hô hấp….
Một số ví dụ cụ thể:
Khi dạy bài 6: Phản xạ
Giáo viên có thể mở bài bằng một tình huống: Khi tay ta chạm phải vật nóng, liền rụt
tay lại. Tại sao lại có hiện tượng này? Để giải đáp câu hỏi nàychúng ta cùng tìm hiểu trong bài
6: Phản xạ. Từ tình huống này, sẽ tạo cho các em sự tò mò, muốn tìm ra kiến thức để lí giải
hiện tượng trên. Qua tìm hiểu kiến thức các em sẽ chỉ ra được đây chính là một phản xạ của cơ
thể để trả lời kích thích từ môi trường. Đồng thời các em cũng giải thích được cơ chế của phản
xạ trên. Từ đó các em có thể giải thích được các hiện tương tự mà các em gặp trong cuộc sống
hằng ngày.
Khi dạy bài 13: Máu và môi trường trong cơ thể
Khi vào phần mở bài giáo viên đưa ra một tình huống có trong thực tế : Gia đình bác
Nam ở thôn Tân Lập có cô con gái đang bị bệnh tiêu chảy, sau khi lấy thuốc về cho con
uống, bác còn bắt con gái phải uống nhiều nước, bác bảo: phải uống nhiều nước để bổ
sung lượng nước bị thiếu. Theo em việc bắt con gái uống nhiều nước khi bị bệnh tiêu chảy
của bác Nam như vậy có đúng không? Tại sao? Từ câu chuyện này sẽ tạo cho các em hứng
thú muốn tìm hiểu những kiến thức để lí giải cho các dự đoán của mình …sau khi học phần IMáu. Giáo viên yêu cầu học sinh nói ra quan điểm của mình. Sau đó giáo viên chốt kiến thức:
90% huyết tương là nước nên khi bị tiêu chảy hay bị sốt cơ thể mất nước nhiều, máu trở nên
đặc và khó lưu thông trong hệ mạch. Vì vậy người bệnh cần phải uống nhiều nước để bổ sung
lượng nước bị hao hụt. Từ đó giáo viên giáo dục kỹ năng sống cho các em, để các em có thể xử
lí được khi gặp các tình huống tương tự trong cuộc sống.
Khi dạy bài 14: Bạch cầu- miễn dịch
Giáo viên mở bài bằng cách đưa ra một tình huống: Khi em dẫm phải gai, tại vết trầy
xước mới đầu bị tấy đỏ, sưng đau thậm chí có thể bị cống mủ, sau vài hôm thì khỏi. Vậy
chân khỏi là do đâu? Cơ thể đã tự bảo vệ mình như thế nào? Để giải đáp những câu hỏi này

các em cùng tìm hiểu qua bài 14: Bạch cầu – miễn dịch. Sau khi học xong phần I- Các hoạt
động chủ yếu của bạch cầu. Giáo viên nhắc lại câu hỏi trong tình huống ở đầu bài và yêu cầu
học sinh nói lên suy nghĩ của mình. Sau đó giáo viên chốt lại kiến thức: Tại vết trầy xước bị tấy
đỏ, sưng đau là do các vi khuẩn tập trung tấn công tạo thành ổ sưng viêm. Sau vài hôm chân
khỏi là do hoạt động của các bạch cầu đã tiêu diệt được vi khuẩn, bảo vệ cơ thể.
Cũng trong bài này giáo viên có thể sử dụng một tình huống vào bài khác như: Có người
nói rằng: “Tiêm vacxin là tiêm vi khuẩn đã được làm yếu vào cơ thể, giúp cơ thể không bị
mắc bệnh” Theo em điều này có đúng hay không? Tại sao? Sau khi học xong phần II. Miễn
dịch. Giáo viên nhắc lại câu hỏi trong tình huống ở đầu bài và yêu cầu học sinh trả lời, sau đó
chốt kiến thức: Thực tế tiêm vacxin chính là tiêm các vi khuẩn đã được làm yếu, không còn khả
năng gây bệnh vào cơ thể, để cơ thể tiết ra kháng thể chống lại căn bệnh. Do đó sau khi tiêm
vacxin một bệnh nào đó, cơ thể sẽ cơ thể sẽ không mắc bệnh đó nữa.

Giáo viên: Trịnh Thị Hiền

10

Trường THCS Nguyễn Trãi


Một số kinh nghiệm tổ chức các tình huống vào bài gây hứng thú học tập cho
học sinh trong môn Sinh học 8

Khi dạy bài 15: Đông máu và nguyên tắc truyền máu

Trước khi vào bài mới giáo viên có đưa ra tình huống: Ở người bình thường, khi làm
việc chẳng may bị đứt tay, mới đầu tại vết đứt máu chảy nhiều, sau đó ít lại và không chảy
nữa. Nhưng ở một số người khác chỉ cần một vết thương nhỏ, máu cứ chảy miết, chảy
miết…nếu không cấp cứu kịp thời có thể gây nguy hiểm đến tính mạng. Tại sao lại có
những hiện tượng trên? Để giải đáp những câu hỏi này chúng ta cùng tìm hiểu bài 15: Đông

máu và nguyên tắc truyền máu. Từ tình huống này sẽ tạo động lực cho các em tìm hiểu kiến
thức để giải đáp thắc mắc của mình. Sau khi học xong phần I- Đông máu, giáo viên nhắc lại
tình huống vào bài và yêu cầu học sinh giải thích các hiện tượng trên. Sau khi học sinh trình
bày suy nghĩ của mình giáo viên chốt kiến thức và mở rộng thêm kiến thức liên quan cho các
em. Ở người bình thường, khi bị đứt tay các tế bào tiểu cầu va chạm với vết rách của thành
mạch máu ở vết thương nên bị vỡ và giải phóng enzim. Enzim này kết hợp với chất sinh tơ
máu có trong huyết tương tạo thành các tơ máu, các tơ máu này ôm giữ các tế bào máu làm
thành khối máu đông bịt kín vết thương nên máu không chảy nữa. Đối với những người bị
bệnh máu khó đông do số lượng tế bào tiểu cầu trong máu quá ít nên chỉ cần một vết thương
nhỏ, máu cứ thế chảy miết, chảy miết… thậm chí người bị bệnh nặng, mặc dù không bị trầy
xước cũng có thể bị chảy máu trong các khớp chân, tay. Nếu không cấp cứu kịp thời có thể dẫn
đến phải tháo các khớp ở chân hoặc tay, gây nguy hiểm đến tính mạng.
Khi dạy bài 16: Tuần hoàn máu và lưu thông bạch huyết

Giáo viên: Trịnh Thị Hiền

11

Trường THCS Nguyễn Trãi


Một số kinh nghiệm tổ chức các tình huống vào bài gây hứng thú học tập cho
học sinh trong môn Sinh học 8

Để tạo hứng thú cho học sinh trước khi vào học bài mới giáo viên đưa ra tình huống: Có
người nói rằng “Trong khẩu phần ăn mà thức ăn chứa nhiều chất côlesterôn (có trong thịt,
cá, trứng, sữa…) có nguy cơ bị mắc bệnh sơ vữa động mạch” Em có suy nghĩ gì về câu nói
này? Bệnh sơ vữa động mạch gây ra tác hại gì? Sau khi học phần I- Tuần hoàn máu, giáo
viên yêu cầu học sinh nói lên quan điểm của mình về tình huống ở đầu bài. Qua tìm hiểu kiến
thức bài học kết hợp với hiểu biết về thực tế học sinh có thể đưa ra câu suy nghĩ của mình, giáo

viên nhận xét và chốt kiến thức: Trong khẩu phần ăn mà chứa nhiều chất côlesterôn sẽ có nguy
cơ bị bệnh xơ vữa động mạch. Ở bệnh này, côlesterôn ngấm vào thành mạch kèm theo sự ngấm
các ion canxi làm cho mạch bị hẹp lại, không còn nhẵn như trước, gây xơ vữa. Động mạch xơ
vữa làm cho sự vận chuyển máu trong mạch gặp khó khăn, tiểu cầu dễ bị vỡ và hình thành cục
máu đông gây tắc mạch. Đặc biệt nguy hiểm ở động mạch vành nuôi tim gây các cơn đau tim,
ở động mạch não gây đột quỵ. Bên cạnh đó động mạch xơ vữa gây ra các tai biến trầm trọng
như xuất huyết dạ dày, xuất huyết não, thậm chí gây tử vong. Qua tình huống này, giáo viên
định hướng cho các em biết cách xây dựng một khẩu phần ăn hợp lí, tốt cho sức khỏe.
Khi dạy bài 20: Hô hấp và các cơ quan hô hấp
Giáo viên có thể mở bài bằng một tin tức có trên thời sự: Một em bé ở Gia Lai đã tử
vong do bị nghẹt thở sau khi ăn thạch rau câu. Vậy tại sao lại có hiện tượng này? Để giải
đáp câu hỏi này, chúng ta cùng tìm hiểu trong bài 20: Hô hấp và các cơ quan hô hấp. Khi học
phần II- Các cơ quan trong hệ hô hấp của người và chức năng của chúng, giáo viên nhắc lại
tình huống ở đầu bài và yêu cầu học sinh giải thích. Sau đó giáo viên chốt kiến thức: Ở thanh
quản có nắp thanh quản có thể cử động để đậy kín đường hô hấp khi chúng ta nuốt thức ăn.
Trong trường hợp trên khi em bé khi ăn thạch rau câu đã mút mạnh để lấy thạch vào miệng.
Khi mút mạnh thì nắp thanh quản sẽ mở to, cùng với độ trơn của miếng thạch đã chạy tọt vào

Giáo viên: Trịnh Thị Hiền

12

Trường THCS Nguyễn Trãi


Một số kinh nghiệm tổ chức các tình huống vào bài gây hứng thú học tập cho
học sinh trong môn Sinh học 8

cổ và lọt vào đường thở, chắn ngang gây nghẹt thở và tử vong. Qua tình huống giáo viên có thể
lồng ghép cách sơ cứu khi trẻ bị hóc dị vật hoặc khi ăn không nên cười đùa có thể dẫn đến bị

sặc…
Khi dạy bài 21: Hoạt động hô hấp
Để kích thích sự tò mò, hứng thú học tập của học sinh, giáo viên có đưa ra một tình
huống: Khi phát hiện một em bé mới sinh bị chết, làm thế nào để biết được chính xác em bé
đó chết trước hay sau khi lọt lòng? Để giải đáp câu hỏi này chúng ta cùng tìm hiểu bài 21:
Hoạt động hô hấp. Khi học phần I- Thông khí ở phổi, giáo viên nhắc lại tình huống vào bài và
yêu cầu học sinh đưa ra suy nghĩ của mình, sau đó giáo viên chốt lại kiến thức: Trẻ mới sinh đã
cắt rốn mà vẫn còn sống sẽ có động tác hít vào thở ra lần đầu làm bật tiếng khóc chào đời.
Trước khi có tiếng khóc chào đời phổi trẻ chưa hề có không khí. Nên nếu trẻ chết từ trong bụng
mẹ thì mô phổi còn đặc do đó nặng hơn nước, còn nếu trẻ lọt lòng mà còn sống dù chỉ cất tiếng
khóc một lần thôi, khi không khí tràn vào phổi có một phần sẽ ở lại mãi trong đó nên mô phổi
trở nên xốp và nhẹ hơn nước. Vì vậy trong pháp y, khi cần xác định một trẻ sơ sinh chết từ khi
còn nằm trong bụng mẹ hay sau khi lọt lòng, chỉ cần cắt một miếng phổi, bỏ vào một cốc nước
rồi theo dõi xem nó chìm hay nổi. Nếu phổi chìm thì em bé đó bị chết trong bụng mẹ, còn nếu
phổi nổi thì em bé đó chết sau khi lọt lòng. Cũng trong bài này giáo có thể đặt ra câu hỏi “ Vì
sao có tiếng khóc chào đời” trước khi vào bài mới.
+ Biện pháp 2: Tạo ra các tình huống giả định
Bên cạnh các tình huống có sẵn trong thực tế, giáo viên có thể sáng tạo ra các tình huống
giả định để kích thích hứng thú học tập cho học sinh. Từ các tình huống đó buộc học sinh phải
tự tìm hiểu kiến thức nền và đưa ra cách giải quyết tình huống đó, giúp các em khắc sâu kiến
thức.
Cách thức thực hiện: Giáo viên có thể áp dụng biện pháp này vào các bài cụ thể như: bài
8: Cấu tạo và tính chất của xương; bài 13: Máu và môi trường trong cơ thể; bài 15: Đông máu
và nguyên tắc truyền máu; bài 38: Bài tiết và cấu tạo hệ bài tiết nước tiểu; bài 40: Vệ sinh hệ
bài tiết nước tiểu
Một số ví dụ cụ thể:
Khi dạy bài 8: Cấu tạo và tính chất của xương
Khi vào phần mở bài giáo viên đưa ra tình huống: Bạn Nam và bạn Hải đang tranh luận
với nhau về một vấn đề như sau:
Bạn Nam: Theo tớ thì xương của người già sẽ cứng và chắc nên sẽ ít bị gãy hơn so với

trẻ em.
Bạn Hải: Tớ lại nghĩ xương của trẻ em sẽ ít bị gãy hơn so với xương của người già vì
xương trẻ em có sự dẻo dai hơn.
Theo em ý kiến của bạn nào đúng? Tại sao? Để giải đáp câu hỏi này chúng ta cùng tìm
hiểu trong bài 8: Cấu tạo và tính chất của xương. Từ tình huống này sẽ tạo cho các em hứng thú
muốn tìm hiểu những kiến thức để lí giải cho các dự đoán của mình …Sau khi học xong phần
Giáo viên: Trịnh Thị Hiền

13

Trường THCS Nguyễn Trãi


Một số kinh nghiệm tổ chức các tình huống vào bài gây hứng thú học tập cho
học sinh trong môn Sinh học 8

III- Thành phần hóa học và tính chất của xương. Giáo viên nhắc lại tình huống ở đầu bài và yêu
cầu học sinh trình bày và giải thích quan điểm của mình. Sau khi học sinh phát biểu giáo viên
chốt kiến thức: Tỉ lệ cốt giao và muối khoáng trong xương thay đổi theo lứa tuổi, ở trẻ em
thành phần cốt giao chiếm tỉ lệ cao hơn, nên xương trẻ em sẽ dẻo dai và ít bị gãy hơn. Còn ở
người già tỉ lệ cốt giao giảm vì vậy xương xốp, giòn và dễ gãy, khi bị gãy lại lâu hồi phục hơn
so với xương trẻ em.
Khi dạy bài 13: Máu và môi trường trong cơ thể
Trước khi vào học bài mới giáo viên có thể đưa ra một tình huống : Bạn Hà và bạn Hải
đang tranh luận với nhau về bệnh thiếu máu.
Bạn Hà: Theo tớ nghĩ người bị bệnh thiếu máu là do thiếu số lượng máu trong cơ thể
nên mới hay bị mệt mỏi, hoa mắt, chóng mặt.
Bạn Hải: Tớ lại nghĩ khác, người bị thiếu máu có thể do thiếu ôxi trong máu.
Em nghĩ như thế nào về quan điểm của hai bạn trên? Vì sao? Từ tình huống này sẽ kích
thích sự tò mò, của các em muốn tìm hiểu những kiến thức để lí giải cho các dự đoán của mình.

Sau khi học phần I- Máu. Giáo viên yêu cầu học sinh nói ra quan điểm của mình. Sau đó giáo
viên chốt kiến thức: Ở người, trung bình có khoảng 7,5ml máu/kg cơ thể. Như vậy ở người
trưởng thành có trung bình khoảng từ 4,5 -5,5 lít máu. Những người bị bệnh thiếu máu thường
không phải do thiếu số lượng máu mà do thiếu số lượng hồng cầu trên đơn vị thể tích máu, làm
cho khả năng trao đổi khí của máu kém đi, cơ thể không nhận đủ máu giàu ôxi nên hay bị mệt
mỏi, hoa mắt và chóng mặt…
Khi dạy bài 15: Đông máu và nguyên tắc truyền máu
Để kích thích hứng thú học tập của học sinh, giáo viên đưa ra một tình huống: Nam và
Tuấn đi chơi, chẳng may bị tai nạn giao thông, cả hai được đưa vào bệnh viện cấp cứu.
Tuấn chỉ bị trầy xước sơ sơ, còn Nam bị mất máu rất nhiều. Qua xét nghiệm Nam thuộc
nhóm máu O. Bác sĩ chỉ định phải truyền máu gấp cho Nam. Nhưng không may lượng máu
dự trữ của bệnh viện về nhóm máu O đã hết. Bác sĩ đang lo lắng tìm người có nhóm máu
phù hợp để truyền cho Nam. Thấy vậy Tuấn liền nói: Bác sĩ ơi! Cháu nhóm máu có B, hãy
lấy máu của cháu để truyền cho Nam. Theo em bác sĩ sẽ trả lời thế nào? Vì sao? Để giải đáp
câu hỏi này chúng ta cùng tìm hiểu bài 15: Đông máu và nguyên tắc truyền máu. Sau khi học
xong phần II- Các nguyên tắc truyền máu, giáo viên yêu cầu học sinh giải đáp tình huống này.
Qua tìm hiểu các em sẽ chỉ ra được: Tuấn nhóm máu B không thể truyền máu cho bạn Nam
được vì: Người có nhóm máu B trong hồng cầu có kháng nguyên B sẽ gây kết dính với kháng
thể β có trong huyết tương của người nhóm máu O, gây hiện tượng đông máu dẫn đến tử vong.
Chỉ máu của người có nhóm máu O mới truyền cho người có nhóm máu O được mà thôi. Qua
tình huống này các em sẽ khắc sâu được kiến thức để có thể vận dụng được trong thực tiễn.
Khi dạy bài 38: Bài tiết và cấu tạo hệ bài tiết nước tiểu

Giáo viên: Trịnh Thị Hiền

14

Trường THCS Nguyễn Trãi



Một số kinh nghiệm tổ chức các tình huống vào bài gây hứng thú học tập cho
học sinh trong môn Sinh học 8

Ghép thận
Giáo viên mở bài bằng một tình huống: Nam và Hà đang tranh luận với nhau về một
vấn đề.
Nam: Theo tớ nghĩ, mỗi người chúng ta đều có hai quả thận nên nếu tặng một quả
thận cho người bị suy thận để cứu sống họ, thì cơ thể chúng ta vẫn bình thường.
Hà: Tớ lại nghĩ khác, hai quả thận trong cơ thể mỗi người đều phải phối hợp với nhau
trong việc lọc và thải các chất thừa, các chất độc hại. Nên nếu cho đi một quả thì cơ thể sẽ
bị yếu đi rất nhiều, thậm chí có thể bị chết.
Em đồng ý với quan điểm của bạn nào? Tại sao? Để giải đáp câu hỏi này chúng ta cùng
tìm hiểu trong bài 38: Bài tiết và cấu tạo hệ bài tiết nước tiểu. Khi học phấn II- Cấu tạo của hệ
bài tiết nước tiểu, giáo viên nhắc lại tình huống ở đầu bài và yêu cầu học sinh trình bày quan
điểm của mình. Sau đó, giáo viên chốt kiến thức: Ở người, mỗi quả thận có khoảng hơn một
triệu đơn vị chức năng. Nên khi cơ thể chỉ còn một quả thận, nó sẽ tự điều chỉnh công suất để
đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ lọc như khi còn hai quả thận. Khi đó, để bù đắp quá trình xử lí
chất thải thừa của quả thận đã mất, các đơn vị thận trong quả thận còn lại sẽ tăng kích thước
lên. Vì thế sức khỏe của người hiến thận vẫn bình thường. Đây là một nghĩa cử cao đẹp của con
người đang được xã hội quan tâm và ủng hộ.
Khi dạy bài 40: Vệ sinh hệ bài tiết nước tiểu
Trước khi học bài mới, giáo viên đưa ra một tình huống: Ban đêm Lan thường hay đi
tiểu nhiều lần mà trời lại rất lạnh. Lan băn khoăn không dám nói với bố mẹ, may có Linh là
bạn thân hay chơi với nhau, Lan liền tâm sự và được Linh mách cho một mẹo nhỏ đó là ít
uống nước và nhịn đi tiểu. Vậy theo em, Linh nói như vậy là đúng hay sai? Để giải đáp câu

Giáo viên: Trịnh Thị Hiền

15


Trường THCS Nguyễn Trãi


Một số kinh nghiệm tổ chức các tình huống vào bài gây hứng thú học tập cho
học sinh trong môn Sinh học 8

hỏi này chúng ta cùng tìm hiểu trong bài 39: Bài tiết nước tiểu. Sau khi học phần II- Cần xây
dựng các thói quen sống khoa học để bảo vệ hệ bài tiết nước tiểu tránh các tác nhân có hại, giáo
viên nhắc lại tình huống ở đầu bài và yêu cầu học sinh đưa ra suy nghĩ của mình. Qua việc chủ
động tìm hiểu kiến thức các em sẽ dễ dàng chỉ ra được, cách mà Linh chỉ cho bạn Lan là sai
khoa học vì nếu uống ít nước sẽ dẫn đến gây khó khăn cho cho quá trình bài tiết nước tiểu, bên
cạnh đó nếu nhịn đi tiểu lâu làm tăng nguy cơ bị sỏi thận gây tắc nghẽn đường dẫn nước tiểu.
Từ đó giúp các em hình thành được các thói quen sống khoa học để bảo vệ hệ bài tiết nước
tiểu.
- Giải pháp 3: Sử dụng các câu hỏi liên quan đến thực tế vào trong giảng dạy
Các câu hỏi nảy sinh trong thực tế rất gần gũi với các em học sinh. Việc sử dụng các câu
hỏi liên quan đến thực tế trong giảng dạy sẽ tạo cho các em hứng thú muốn tìm hiểu kiến thức
bộ môn để có thể lí giải những vấn đề mà các em thường gặp, qua đó các em thấy môn học trở
nên gần gũi và thiết thực và yêu thích môn học hơn.
Cách thức thực hiện: Đối với giải pháp sử dụng các câu câu hỏi liên quan đến thực tế vào
giảng dạy, giáo viên có thể sử dụng ở các bài như: Bài 7: Bộ xương; bài 9: Cấu tạo và tính chất
của cơ; bài 10: Hoạt động của cơ; bài 14: Bạch cầu- miễn dịch; bài 17: Tim và mạch máu; bài
20: Hô hấp và các cơ quan hô hấp; bài 24: Tiêu hóa và các cơ quan tiêu hóa; bài 27: Tiêu hóa ở
dạ dày; bài 28: Tiêu hóa ở ruột non….
Một số ví dụ cụ thể:
Khi dạy bài 7: Bộ xương
Trước khi học bài mới, giáo viên đưa ra câu hỏi: Tại sao khi bị chết đuối, xác của người
phụ nữ khi nổi trên mặt nước thường nằm ngửa, còn xác của người đàn ông thường nằm
sấp?


Xác người phụ nữ thường nằm ngửa

Giáo viên: Trịnh Thị Hiền

Xác người đàn ông thường nầm sấp

16

Trường THCS Nguyễn Trãi


Một số kinh nghiệm tổ chức các tình huống vào bài gây hứng thú học tập cho
học sinh trong môn Sinh học 8

Để giải đáp câu hỏi này chúng ta cùng tìm hiểu trong bài 7: Bộ xương, khi học phần ICác thành phần chính của xương, giáo viên nhắc lại câu hỏi ở phần mở bài và yêu cầu học sinh
trình bày quan điểm của mình. Sau khi học sinh đưa ra các ý kiến, giáo viên chốt kiến thức: Ở
phụ nữ, trọng tâm cơ thể thấp hơn so với đàn ông là do cấu tạo của khung xương chậu phát
triển mạnh nên trọng lượng dồn về phía hông, mông và đùi. Vì vậy, phần thân dưới phía sau sẽ
nặng hơn, do đó xác của phụ nữ bị chết đuối khi nổi trên mặt nước thường hay nằm ngửa. Còn
ở đàn ông, có bộ ngực nở hơn, vai rộng hơn nên trọng tâm cơ thể dồn nhiều về phía trước của
phần trên cơ thể. Vì thế, xác của người đàn ông chết đuối khi nổi trên mặt nước thường hay
nằm sấp. Cũng từ đặc điểm này học sinh có thể giải thích được thắc mắc có trong thực tế như:
Tại sao phụ nữ có thể đi giày cao gót được trong khi nam giới thì lại không?...
Cũng trong bài này giáo viên có thể mở bài bằng câu hỏi khác: Tại sao một số người có
thể thực hiện được các động tác uốn dẻo?

Từ câu hỏi này sẽ tạo cho các em hứng thú muốn tìm ra kiến thức để trả lời thắc mắc của
mình. Khi học phần III- Các khớp xương, giáo viên yêu cầu học sinh trình bày quan điểm của
mình. Sau khi học sinh đưa ra các ý kiến, giáo viên chốt kiến thức: Ở người bình thường, các
dây chằng có khả năng nối các khớp xương lại với nhau, những sợi dây chằng co giãn nhẹ giúp

khớp xương vận động. Nhưng ở một số ít người chẳng hạn như các nghệ sĩ uốn dẻo, dây chằng
của họ qua luyện tập có khả năng co giãn tốt, cơ thể họ trở nên mềm dẻo, có thể thực hiện được
các động tác uốn dẻo mà người bình thường không làm được.
Khi dạy bài 9: Cấu tạo và tính chất của cơ
Trước khi học bài mới, giáo viên đưa ra câu hỏi: Tại sao khi cơ co, bắp cơ ngắn lại và
phình to ra? Để giải đáp câu hỏi này chúng ta cùng tìm hiểu trong bài 9: Cấu tạo và tính chất
của cơ. Từ câu hỏi này sẽ khơi dậy hứng thú học tập cho các em, kích thích các em tìm hiểu
kiến thức để tìm ra câu trả lời, các em sẽ chỉ ra được: Khi cơ co, các tơ cơ mảnh xuyên sâu vào
vùng phân bố của tơ cơ dày làm cho bắp cơ ngắn lại và phình to ra.

Giáo viên: Trịnh Thị Hiền

17

Trường THCS Nguyễn Trãi


Một số kinh nghiệm tổ chức các tình huống vào bài gây hứng thú học tập cho
học sinh trong môn Sinh học 8

Khi dạy bài 10: Hoạt động của cơ

Bị “chuột rút” khi vận động nhiều
Trước khi học bài mới, giáo viên đưa ra câu hỏi: Tại sao có hiện tượng “chuột rút” khi
vận động nhiều? Khi học phần II- Sự mỏi cơ, giáo viên nhắc lại câu hỏi và yêu cầu học sinh
giải thích, sau dó giáo viên chốt kiến thức: “Chuột rút” là hiện tượng bắp cơ bị co cứng, không
hoạt động được. Nguyên nhân là do khi vận động quá nhiều, cơ thể ra nhiều mồ hôi, bị mất
nước, thiếu ôxi, các tế bào cơ hoạt động trong điều kiện thiếu ôxi sẽ giải phóng nhiều axit lactic
tích tụ trong cơ gây đầu độc cơ, làm ảnh hưởng đến hiện tượng co duỗi của cơ. Để hạn chế hiện
tượng “chuột rút” chúng ta cần khởi động kỹ trước khi vận động.

Khi dạy bài 14: Bạch cầu- miễn dịch

Giáo viên: Trịnh Thị Hiền

18

Trường THCS Nguyễn Trãi


Một số kinh nghiệm tổ chức các tình huống vào bài gây hứng thú học tập cho
học sinh trong môn Sinh học 8

Trước khi học bài mới, giáo viên đưa ra câu hỏi: Bệnh máu trắng có phải là bệnh máu
có màu trắng không? Để giải đáp câu hỏi này chúng ta cùng tìm hiểu trong bài 14: Bạch cầu –
miễn dịch. Khi học phần I- Các hoạt động chủ yếu của bạch cầu, giáo viên nhắc lại câu hỏi và
yêu cầu học sinh đưa ra phương án trả lời, sau đó giáo viên chốt kiến thức: Bệnh máu trắng
không phải là bệnh máu có màu trắng. Bệnh này liên quan đến bạch cầu là chủ yếu. Vì một lí
do nào đó ( do di truyền, nhiễm độc..) tủy xương chỉ sản xuất ra các bạch cầu non không lớn
lên được nên không thực hiện được chức năng của bạch cầu là chiến đấu bảo vệ cơ thể tránh
khỏi các tác nhân có hại. Mặt khác các bạch cầu non này không chết đi, các bạch cầu non cứ
thế sinh ra mãi, cứ ở tủy xương làm mất hết chổ của các tế bào bình thường nên người bệnh
thường hay xanh xao, thiếu máu và chảy máu khó cầm, dễ nhiễm trùng. Khi các tế bào này đi
vào máu gây ra nhiều tác hại khác, gây ung thư máu.
Khi dạy bài 17: Tim và mạch máu
Để tạo hứng thú học tập cho học sinh, giáo viên mở bài bằng câu hỏi: Vì sao tim đập suốt
đời sao không mỏi? Để giáp câu hỏi này chúng ta cùng tìm hiểu trong bài 17: Tim và mạch
máu. Khi tìm hiểu phần III- Chu kì co dãn của tim, giáo viên nhắc lại câu hỏi và yêu cầu học
sinh giải thích, sau đó giáo viên chốt kiến thức: Tim đập nhịp nhàng suốt đời kể từ tháng thứ 3,
lúc thai trong bụng mẹ cho đến lúc ta nhắm mắt xuôi tay. Một chu kì tim kéo dài 0,8 giây, Pha
tâm nhĩ co kéo dài chừng 0,1 giây, pha tâm thất co kéo dài chừng 0,3 giây. Như vậy cả giai

đoạn co tim kéo dài 0,4 giây, sau đó cả tâm thất và tâm nhĩ đều nghỉ 0,4 giây. Tim đập suốt đời
không mỏi vì thực ra, trong mỗi chu kì co tim, tâm nhĩ chỉ làm việc 0,1 giây nghỉ ngơi 0,7 giây
( làm việc 1 ngày, nghỉ ngơi 7 ngày), còn tâm thất làm việc 0,3 giây, nghỉ ngơi 0,5 giây ( làm
việc 3 ngày, nghỉ ngơi 5 ngày). Do đó, cả tâm thất và tâm nhĩ đã hồi sức dễ dàng, nên có thể
đập suốt đời không mỏi.
Khi dạy bài 20: Hô hấp và các cơ quan hô hấp

Giáo viên: Trịnh Thị Hiền

19

Trường THCS Nguyễn Trãi


Một số kinh nghiệm tổ chức các tình huống vào bài gây hứng thú học tập cho
học sinh trong môn Sinh học 8

Giáo viên có thể mở bài bằng câu hỏi: Chắc hẳn các em đã có lần hắt hơi, vậy hắt hơi là
hoạt động gì của cơ thể? Để giải đáp câu hỏi này chúng ta cùng tìm hiểu trong bài 20: Hô hấp
và các cơ quan hô hấp. Khi tìm hiều phần II- Các cơ quan trong hệ hô hấp của người và chức
năng của chúng, giáo viên nhắc lại câu hỏi ở đầu bài và yêu cầu học sinh giải thích, qua tìm
hiểu kiến thức học sinh sẽ chỉ ra được hắt hơi là một phản xạ hô hấp của cơ thể nhằm loại bỏ
vật lạ hay khí lạ lọt vào đường hô hấp.
Khi dạy bài 24: Tiêu hóa và các cơ quan tiêu hóa
Để tạo hứng thú học tập cho học sinh, giáo viên mở bài bằng câu hỏi: Tại sao khi ăn vừa
nói, vừa cười lại hay bị sặc? Sau khi tìm hiểu kiến thức phần II- Các cơ quan tiêu hóa, học
sinh sẽ chỉ ra được khi nuốt vừa nói, vừa cười làm cho nắp thanh quản không đậy kín được khí
quản, thức ăn có thể lọt vào đường dẫn khí làm ta bị sặc.
Khi dạy bài 27: Tiêu hóa ở dạ dày
Giáo viên có thể mở bài bằng câu hỏi: Tại sao prôtêin trong thức ăn bị dịch vị phân hủy

nhưng prôtêin của lớp niêm mạc dạ dày lại được bảo vệ, không bị phân hủy? Sau khi tìm
hiểu kiến thức học sinh sẽ chỉ ra được: Trong dạ dày có enzim pepsin có khả năng phân hủy
prôtêin rất mạnh, nhưng lớp niêm mạc của dạ dày vẫn được bảo vệ, không bị ăn mòn là vì mặt
trong của dạ dày được lót một lớp niêm mạc. Lớp niêm mạc tiết chất nhầy bảo vệ phủ kín cả bề
mặt niêm mạc ngăn chặn tác dụng tiêu hóa của pepsin.
Khi dạy bài 28: Tiêu hóa ở ruột non
Để tạo hứng thú học tập cho học sinh, giáo viên mở bài bằng câu hỏi: Vì sao người ta
nói, người bị mắc các bệnh về gan thì khả năng tiêu hóa kém? Để giải đáp câu hỏi này chúng
ta cùng tìm hiểu bài 28: Tiêu hóa ở ruột non, sau khi tìm hiểu kiến thức học sinh chỉ ra được:
Dịch mật do gan tiết ra, tạo môi trường kiềm giúp đóng mở cơ vòng môn vị, điều khiển thức ăn
từ dạ dày xuống ruột, góp phần tiêu hóa và hấp thụ mỡ. Nên nếu gan bị mắc bệnh sẽ làm giảm
khả năng tiết mật, từ đó làm giảm khả năng tiêu hóa thức ăn.
- Giải pháp 4: Sử dụng các câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ vào trong giảng dạy
Các câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ…được cha ông ta đúc kết lại qua nhiều thế hệ trên cơ
sở khoa học. Hơn thế nữa đó lại là những vấn đề hết sức gần gũi với cuộc sống hằng ngày của
học sinh. Việc sử dụng các câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ…trong giảng dạy làm cho các em
cảm thấy môn Sinh học rất gần gũi, thân quen, từ đó tạo được hứng thú học tập, nâng cao chất
lượng bộ môn cho học sinh.
Cách thức thực hiện: Đối với giải pháp sử dụng các câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ…vào
giảng dạy, giáo viên có thể sử dụng ở các bài như: Bài 25: Tiêu hóa ở ruột non; bài 30: Vệ sinh
tiêu hóa; bài 33: Thân nhiệt; bài 47: Đại não; bài 52: Phản xạ không điều kiện và phản xạ có
điều kiện; bài 54: Vệ sinh hệ thần kinh…
Một số ví dụ cụ thể:
Khi dạy bài 25: Tiêu hóa ở khoang miệng

Giáo viên: Trịnh Thị Hiền

20

Trường THCS Nguyễn Trãi



Một số kinh nghiệm tổ chức các tình huống vào bài gây hứng thú học tập cho
học sinh trong môn Sinh học 8

Giáo viên có thể mở bài bằng câu tục ngữ: Cha ông ta thường nói “ Nhai kỹ no lâu, cày
sâu tốt lúa” Về mặt sinh học, em nghĩ như thế nào về câu tục ngữ này? Học sinh có thể đưa
suy nghĩ của mình, giáo viên ghi nhanh câu trả lời của các em lên góc bảng. Sau khi học xong
phần I- Tiêu hóa ở khoang miệng, giáo viên nhắc lại câu tục ngữ và yêu cầu các em kiểm
chứng lại lập luận ban đầu của mình, từ đó giúp các em khắc sâu kiến thức: Khi ăn, nhai càng
kỹ, thức ăn được nghiền nhỏ, thấm đẫm dịch tiêu hóa thì hiệu suất tiêu hóa càng cao, cơ thể
hấp thụ được nhiều chất dinh dưỡng hơn nên no lâu hơn.
Khi dạy bài 29: Hấp thụ dinh dưỡng và thải phân
Giáo viên có thể mở bài: Cha ông ta thường nói “ Lỗ miệng khoan thai, lỗ chôn thong
thả” Câu tục ngữ này muốn nói lên điều gì? Điều này tạo cho các em hứng thú muốn tìm hiểu
kiến thức để có thể lí giải được ý nghĩa của câu tục ngữ, đồng thời giúp các em khắc sâu được
kiến thức về những vấn đề tiêu hóa thức ăn, hấp thụ chất dinh dưỡng và thải phân. Sau khi tìm
hiểu kiến thức của bài học sinh có thể giải thích được: Ăn chậm, nhai kỹ khi ăn thì quá trình
tiêu hóa thức ăn sẽ tốt hơn, thức ăn được nghiền nhỏ, trộn đều, thấm đều nước bọt, một phần
thức ăn được biến đổi hóa học, thức ăn được đưa đến các cơ quan tiêu hóa tiếp theo sẽ được
hấp thụ tối đa chất dinh dưỡng, do đó các cơ quan tiêu hóa trong khoang bụng sẽ làm việc nhẹ
nhàng, hiệu quả, lượng phân thải ra ít.
Khi dạy bài 30: Vệ sinh hệ tiêu hóa
Giáo viên có thể mở bài bằng câu tục ngữ, cha ông ta thường nói: “ Ăn có chừng, dùng
có mực” Em nghĩ như thế nào về điều này? Qua tìm hiểu kiến thức các em sẽ chỉ ra được
việc tiêu hóa thức ăn và hấp thụ chất dinh dưỡng của con người là có giới hạn. Nên nếu ăn quá
nhiều sẽ làm cho hệ tiêu hóa bị quá tải gây ảnh hưởng xấu đến hoạt động tiêu hóa, mặt khác
chất dinh dưỡng quá nhiều, cơ thể không hấp thụ hết sẽ thải ra ngoài gây lãng phí. Vì vậy mỗi
người phải có chế độ ăn uống điều độ. Bên cạnh đó câu tục ngữ còn giáo dục đạo đức con
người đó là phải chi tiêu một cách hợp lí, không được lãng phí.

Cũng trong bài này giáo viên có thể mở bài bằng một câu tục ngữ khác: “ Nhà sạch thì
mát, bát sạch ngon cơm” Câu tục ngữ này khuyên chúng ta điều gì? Bằng kiến thức đã học kết
hợp với những kiến thức trong thực tế các em sẽ chỉ ra được: Nhà sạch sẽ tạo cảm giác mát mẻ,
bát đũa sạch sẽ tạo cảm giác làm cho người ăn cảm thấy ngon miệng. Từ đó giáo viên lồng
ghép giáo dục ý thức giữ gìn vệ sinh nơi ăn, chốn ở cho học sinh.
Ngoài ra, giáo viên có thể sử dụng một số câu tục ngữ khác như: “ Trời đánh tránh bữa
ăn” hoặc “ Có thực mới vực được đạo”…
Khi dạy bài 33: Thân nhiệt
Để tạo hứng thú học tập cho học sinh giáo viên có thể mở bài bằng câu ca dao:
“ Cày đồng đang buổi ban trưa
Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày”
Câu ca dao này nói lên điều gì? Để giải đáp câu hỏi này chúng ta cùng tìm hiểu trong bài
33: Thân nhiệt. Khi học phần II- Sự điều hòa thân nhiệt, giáo viên nhắc lại câu ca dao và yêu
Giáo viên: Trịnh Thị Hiền

21

Trường THCS Nguyễn Trãi


Một số kinh nghiệm tổ chức các tình huống vào bài gây hứng thú học tập cho
học sinh trong môn Sinh học 8

cầu học sinh giải thích ý nghĩa về mặt sinh học của câu ca dao này.Từ những kiến thức về sự
điều hòa thân nhiệt các em sẽ chỉ ra được: Thời tiết buổi trưa nắng nóng cơ thể tiết mồ hôi để
điều hòa thân nhiệt, thêm vào đó ruộng cày có nước nên có độ ẩm cao, mồ hôi thoát ra từ cơ
thể không bay hơi được nên chảy thành dòng xuống ruộng giống như là mưa trên ruộng cày.
Mặt khác, câu ca dao còn nói lên nỗi vất vã của người nông dân nhưng vẫn luôn lạc quan, yêu
đời. Qua đó giáo viên lồng ghép giáo dục học sinh phải luôn lạc quan trong cuộc sống, biết yêu
lao động…

Ngoài ra trong bài này giáo viên còn có thể sử dụng một số câu tục ngữ khác như:
“ Rét run cầm cập” Đây là một phản xạ của cơ thể, khi trời lạnh để điều hòa thân nhiệt cơ thể
run lên cầm cập sinh ra nhiệt làm nóng cơ thể. Hay câu tục ngữ “ Trời nóng chóng khát, trời
mát chóng đói” Câu tục ngữ này có nghĩa là trời nóng cơ thể tiết mồ hôi để điều hòa thân nhiệt
nên cơ thể mất nhiều nước dẫn đến mau khát; còn trời mát quá trình chuyển hóa trong cơ thể
tăng lên nên chúng ta cảm thấy nhanh đói hơn.
Khi dạy bài 52: Phản xạ không điều kiện và phản xạ có điều kiện
Để tạo hứng thú học tập cho học sinh giáo viên có thể mở bài bằng câu tục ngữ:
“ Dạy con từ thủa còn thơ”
Câu tục ngữ này muốn nói lên điều gì? Để giải đáp câu hỏi này chúng ta cùng tìm hiểu
trong bài 52: Phản xạ không điều kiện và phản xạ có điều kiện. Khi tìm hiểu phần II- Sự hình
thành phản xạ có điều kiện, giáo viên nhắc lại câu tục ngữ và yêu cầu học sinh giải thích ý
nghĩa của câu tục ngữ. Sau đó giáo viên chốt kiến thức: Các thói quen, nếp sống là các phản xạ
có điều kiện được hình thành trong đời sống cá thể. Vì vậy, muốn con cái có được những thói
quen tốt, đức tính tốt cần phải rèn luyện một cách lâu dài, phải uốn nắn từ khi còn nhỏ.
Khi dạy bài 54: Vệ sinh hệ thần kinh
Giáo viên mở bài bằng bằng câu tục ngữ:
“ Ăn được, ngủ được là tiên
Không ăn, không ngủ mất tiền thêm lo”
Theo em câu tục ngữ này muốn nói lên điều gì? Qua những kiến thức về hệ tiêu hóa, hệ
thần kinh các em sẽ chỉ ra được: Ăn được có nghĩa là quá trình tiêu hóa tốt, cơ thể sẽ hấp thụ
được nhiều chất dinh dưỡng; ngủ là nhu cầu sinh lí của cơ thể, có tác dụng bảo vệ, phục hồi
khả năng làm việc của hệ thần kinh. Do đó, ngủ được thì hệ thần kinh sẽ được nghĩ ngơi và
phục hồi khả năng làm việc tốt. Như vậy, ăn được, ngủ được sẽ có sức khỏe tốt, con người sẽ
cảm thấy sung sướng, thoải mái được ví giống như là tiên; còn không ăn, không ngủ thì cơ thể
sẽ bị mệt mỏi, không có sức khỏe để làm việc. Qua đó, giáo viên lồng ghép giáo dục thói quen
“ ngủ đúng giờ, ngủ đủ giấc” cho học sinh.
4. Tính mới của giải pháp
Trong thực tế giảng dạy, việc vận dụng các tình huống liên quan đến thực tiễn vào trong
giảng dạy bộ môn Sinh học nhằm tạo hứng thú học tập cho học sinh đã được nhiều giáo viên


Giáo viên: Trịnh Thị Hiền

22

Trường THCS Nguyễn Trãi


Một số kinh nghiệm tổ chức các tình huống vào bài gây hứng thú học tập cho
học sinh trong môn Sinh học 8

nghiên cứu và áp dụng, Tuy nhiên, mức độ áp dụng vẫn còn chưa nhiều, chưa đạt hiệu quả cao.
Trong đề tài “Một số kinh nghiệm tổ chức các tình huống vào bài gây hứng thứ học tập cho
học sinh trong môn Sinh học 8” tôi muốn đưa ra các giải pháp để có thể áp dụng vào trong
giảng dạy, góp phần nâng cao chất lượng bộ môn.
Trong giảng dạy, để có một giờ học thành công thì trước tiên giờ học phải phát huy được
tính chủ động, tích cực, tự giác, sáng tạo của học sinh. Để làm được điều này trước khi bắt đầu
vào bài mới giáo viên phải tạo được tâm thế học tập tốt cho học sinh, thông qua việc mở bài
bằng cách kể cho học sinh nghe một câu chuyện ngắn hay một tình huống có trong thực tế hoặc
đưa ra một câu ca dao hay tục ngữ……liên quan đến chủ đề bài học sắp giảng dạy và yêu cầu
học sinh nghiên cứu kiến thức để trả lời những vấn đề có trong tình huống vào bài đó, điều này
sẽ tạo ra động lực thôi thúc các em tập trung tìm hiểu kiến thức để giải quyết vấn đề, từ đó khắc
sâu được kiến thức môn học.
Trong cuộc sống hằng ngày, xung quanh cuộc sống của các em luôn phát sinh những tình
huống thực tế, làm xuất hiện trong đầu các em rất nhiều các câu hỏi: “Tại sao?” hay “Do đâu?”
…các em rất tò mò, muốn tìm hiểu, muốn giải đáp những thắc mắc đó. Tuy nhiên trong thực tế
giảng dạy nhiều giáo viên chưa chú trọng đến điều này, làm cho tiết học trở nên nhàm chán, các
môn học trở nên xa lạ, khó hiểu. Từ việc nghiên cứu đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi, các vấn đề
nảy sinh trong thực tiễn kết hợp với những kiến thức bộ môn, tôi mạnh dạn đưa ra một số giải
pháp, biện pháp như: Sử dụng các câu chuyện ngắn, các câu hỏi, tình huống có trong thực tiễn

hay các câu ca dao, tục ngữ vào giảng dạy nhằm tạo hứng thú học tập cho học sinh, giúp các
em chủ động trong việc lĩnh hội kiến thức, biết vận dụng được những kiến thức bộ môn vào
giải quyết các vấn đề thực tiễn liên quan. Từ đó các em yêu thích môn học hơn, đồng thời chất
lượng bộ môn được nâng cao.
5. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Kết quả khảo nghiệm:
Sau khi áp dụng những kinh nghiệm trên vào giảng dạy tại trường trung học cơ sở
Nguyễn Trãi và kết quả thu được qua bài kiểm tra học kì II năm học 2017 – 2018 và bài kiểm
tra học kì I năm học 2018 – 2019 như sau:
Năm học

2017 – 2018

Lớp

Tổng số

Giỏi

Khá

Trung
bình

8A3

28

3


9

14

2

0

8a4

30

6

10

12

2

0

8a5

28

5

9


13

1

0

8a6

32

12

13

6

1

0

Tổng cộng

118

26

41

45


6

0

Giáo viên: Trịnh Thị Hiền

23

Yếu

Kém

Trường THCS Nguyễn Trãi


Một số kinh nghiệm tổ chức các tình huống vào bài gây hứng thú học tập cho
học sinh trong môn Sinh học 8

Tỉ lệ

22%

34,7%

38,2%

5,1%

0%


8A1

30

4

9

14

3

0

8a2

34

7

13

12

2

0

8a3


27

5

11

10

1

0

8a5

28

9

10

8

1

0

Tổng cộng

119


25

43

44

7

0

21%

36,1%

37%

5,9%

0%

2018 – 2019

Tỉ lệ

Qua kết quả trên, tôi nhận thấy rằng chất lượng học tập bộ môn Sinh học 8 được tăng lên
rỏ rệt, tỉ lệ học sinh yếu kém đã giảm đi đáng kể.
Kết quả khoa học:
Qua thực tế giảng dạy ở trường THCS Nguyễn Trãi trong nhiều năm, tôi nhận thấy trong
bài học nếu giáo viên tổ chức các tình huống vào bài nhằm tạo tình huống có vấn đề, tạo tâm
thế tốt cho học sinh trước khi vào bài mới thì tiết học trở nên sinh động hơn rất nhiều, đa số

học sinh hứng thú phát biểu xây dựng bài, vì thấy được sự gần gũi giữa giữa kiến thức của bộ
môn với cuộc sống, tạo hứng thú học tập cho học sinh. Những tình huống vào bài có thể là
những câu chuyện ngắn, những câu hỏi liên quan đến thực tế, những câuca dao, tục ngữ…được
vận dụng trong phần mở đầu sẽ tạo tâm thế học tập tốt, làm kích thích tính tò mò, muốn khám
phá, tạo cho các em động lực để giải quyết các vấn đề đặt ra. Khi học đến nội dung chính liên
quan đến tình huống ở phần mở bài trên thì giáo viên yêu cầu học sinh lí giải cho các nhận định
của mình đối với tình huống đã được đề cập. Từ đó, vừa kích thích hứng thú học tập cho các
em vừa giúp các em khắc sâu được những kiến thức bộ môn và có thể vận dụng những kiến
thức bộ môn vào giải thích những tình huống trong thực tiễn. Ngoài ra, còn rèn cho các em kỹ
năng vận dụng được những kiến thức khoa học bộ môn để lí giải được một số tình huống thực
tế liên quan. Các em sẽ có cái nhìn sâu sắc hơn về cuộc sống, từ đó hứng thú học tập hơn, chất
lượng bộ môn cũng cao hơn.
III. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận:
Sự sinh động, hấp dẫn của bộ môn phụ thuộc rất nhiều đến sự linh động, sáng tạo của
người giáo viên. Nếu thật sự đầu tư và biết cách đầu tư cho từng tiết dạy thì môn Sinh học sẽ
không còn khô khan, nhàm chán như nhiều người vẫn nghĩ nữa. Việc tổ chức các tình huống
vào bài bằng cách sử dụng các câu chuyện ngắn, các câu hỏi, các tình huống trong thực tế, các
câu ca dao, tục ngữ…vào trong giảng dạy môn Sinh học 8 ngoài việc tạo hứng thú học tập cho
học sinh còn góp phần rèn cho các em kỹ năng vận dụng các kiến thức bộ môn để giải quyết
một số vấn đề thực tiễn nảy sinh trong cuộc sống.
Giáo viên: Trịnh Thị Hiền

24

Trường THCS Nguyễn Trãi


Một số kinh nghiệm tổ chức các tình huống vào bài gây hứng thú học tập cho
học sinh trong môn Sinh học 8


Trên đây là những kinh nghiệm mà bản thân tôi đã đúc kết được qua nhiều năm giảng dạy
bộ môn Sinh học 8 tại trường trung học cơ sở Nguyễn Trãi, Tôi đã tiến hành áp dụng đề tài
trong năm học 2017 -2018 và năm học 2018 – 2019 và bước đầu đã đạt được hiệu quả, chất
lượng bộ môn đã được nâng cao.
2. Kiến nghị
Để làm tốt công tác giảng dạy bộ môn Sinh học 8 nói riêng và môn Sinh học nói chung,
tôi xin có một số kiến nghị như sau:
Đối với nhà trường: Tổ chức thường xuyên hơn nữa các buổi sinh hoạt chuyên môn, các
chuyên đề, hội giảng, để các giáo viên có thể học hỏi, nâng cao hơn năng lực chuyên môn của
mình.
Đối với phòng giáo dục: Có thể tổ chức nhiều hơn nữa các chuyên đề về đổi mới phương
pháp dạy học, triển khai những sáng kiến kinh nghiệm hay để mọi người cùng học hỏi nâng cao
năng lực chuyên môn của mình.
Trong quá trình giảng dạy bộ môn Sinh học 8 tại trường trung học cơ sở Nguyễn Trãi, với
kinh nghiệm còn hạn chế tôi rất mong nhận được sự góp ý chân thành từ đồng nghiệp, để giúp
cho quá trình giảng dạy bộ môn đạt hiệu quả cao hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Krông Ana, ngày 25 tháng 4 năm 2019
Người viết

Trịnh Thị Hiền

Giáo viên: Trịnh Thị Hiền

25

Trường THCS Nguyễn Trãi



×