Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

Tiểu luận Thời kỳ quá độ lên CNXH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.45 KB, 9 trang )

Lý luận về hình thái kinh tế- xã hội của C.Mác cho thấy sự biến đổi của các xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên.
Vận dụng lý luận đó vào phân tích xã hội tư bản, tìm ra các quy luật vận động của nó, C.Mác và Ph. Ăngghen đều
cho rằng, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa có tính chất lịch sử và xã hội tư bản tất yếu bị thay thế bằng xã
hội mới- xã hội cộng sản chủ nghĩa.Đồng thời C.Mác và Ph. Ănghghen cũng dự báo trên những nét lớn về những
đặc trưng cơ bản của xã hội mới, đó là: có lực lượng sản xuất xã hội cao; chế độ sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất
được xác lập, chế độ người bóc lột người bị thủ tiêu; sản xuất nhằm thỏa mãn nhu cầu của mọi thành viên trong xã
hội, nền sản xuất được tiến hành theo một kế hoạch thống nhất trên phạm vi toàn xã hội, sự phân phối sản phẩm
bình đẳng; sự đối lập giữa thành thị và nông thôn, giữa lao động trí óc và chân tay bị xóa bỏ...Để xây dựng xã hội
mới có những đặc trưng như trên cần phải qua hai giai đoạn: giai đoạn thấp hay giai đoạn đầu và giai đoạn sau hay
giai đoạn cao. Sau này V.I.Lênin gọi giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội và giai đoạn sau là chủ nghĩa cộng sản.
C.Mác gọi giai đoạn đầu xã hội chủ nghĩa là thời kỳ quá độ chính trị lên giai đoạn cao của xã hội cộng sản.Vận
dụng học thuyết C.Mác vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô trước đây, V.I.Lênin đã phát triển lý
luận về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
I tích tính tất yếu và đặc điểm của thời kỳ quá độ
Thời kỳ quá độ lên CNXH là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc toàn bộ các lãnh vực đời sống của XH, tạo ra
những tiền đề vật chất và tinh thần cần thiết để hình thành một XH mà trong đó những nguyên tắc căn bản của XH
XHCN sẽ được thực hiện. Thời kỳ này bắt đầu từ khi giai cấp công nhân giành được chính quyền nhà nước cho
đến khi CNXH đã tạo ra được những cơ sở của mình trong các lãnh vực của đời sống XH. Xét về bản chất, mục
tiêu nhất quán của các chế độ XH từ khi có Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo thì thời kỳ quá độ lên CNXH
nằm trong giai đoạn thấp của hình thái KT-XH CSCN
1. Tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ lên CNXH
Quá độ lên CNXH là một tất yếu lịch sử. Tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ được quy định bởi 2 lý do
cơ bản sau đây :
Một là CNXH - giai đoạn đầu của hình thái KT-XH CSCN - không thể tự phát ra đời trong lòng XH cũ. CNTB
dù phát triển ở trình độ cao cũng chỉ tạo ra những tiền đề vật chất cho sự ra đời của CNXH. Còn bản thân công
cuộc xây dựng CNXH chỉ có thể thực hiện được chỉ khi giai cấp công nhân và nhân dân lao động giành lấy chính
quyền nhà nước và sử dụng bộ máy nhà nước của mình để cải tạo XH cũ, xây dựng XH mới từ cơ sở hạ tầng đến
kiến trúc thượng tầng.
Hai là với điểm xuất phát về KT - XH của XH tiền tư bản và tư bản, sau khi giai cấp công nhân và nhân dân lao
động trở thành chủ thể cầm quyền, trong XH đó còn chưa có đủ những tiền đề vật chất, văn hóa và tinh thần cần
thiết để thực hiện những chuẩn mực của XH XHCN. Muốn đạt được những đặc trưng đó, phải trãi qua quá trình tổ


chức, xây dựng để từng bước cải tạo các quan hệ KT-XH tư bản và tiền tư bản, phát triển lực lượng sản xuất và
thay đổi tương ứng trên lĩnh vực QHSX, phát triển một cơ cấu XH tiến bộ, đời sống văn hóa tinh thần lành mạnh,
phù hợp với nhu cầu giải phóng con người. Nói riêng trên lĩnh vực KT, toàn bộ sự phát triển của sản xuất và các
quan hệ vật chất, tinh thần khác cho phép áp dụng một cách phổ biến nguyên tắc phân phối theo lao động.
2. Đặc điểm thời kỳ quá độ lên CNXH :
Đặc điểm nổi bật của thời kỳ quá độ lên CNXH là những nhân tố của XH mới và tàn tích của XH cũ tồn tại, đan
xen lẫn nhau, đấu tranh trên mọi lãnh vực của đời sống KT, chính trị, văn hóa, XH, tư tưởng, tập quán trong XH...
biểu hiện dưới dạng cái cũ còn tồn tại, những bộ phận, những mảnh, những tàn dư (của XH cũ bị đánh bại nhưng
chưa bị tiêu diệt hoàn toàn) xen kẻ với cái mới nảy sinh đã ra đời nhưng chưa hoàn chỉnh, còn non yếu.
Thời kỳ quá độ cũng là thời kỳ đấu tranh giai cấp quyết liệt, gay go, phức tạp diễn ra trên tất cả mọi lĩnh vực, rất
khó khăn đòi hỏi giai cấp công nhân phải biết phân biệt, bình tĩnh và chủ động khắc phục. Thể hiện cụ thể:
- Về lĩnh vực chính trị : bản chất nhất thời của thời kỳ quá độ là sự quá độ về chính trị, ở đó nhà nước chuyên
chính vô sản được thiết lập, củng cố và ngày càng hoàn thiện
- Về lĩnh vực KT : sự phát triển chưa đồng đều của LLSX trong thời kỳ này quy định tính tất yếu khách quan
trong sự tồn tại nhiều thành phần KT khác ngoài thành phần KT XHCN, trong đó có cả những thành phần KT tư
bản.đối lập.


- Về lĩnh vực XH: do kết cấu KT trên đây quy định, trong XH còn nhiều giai cấp và tầng lớp khác nhau, trong
đó có sự đối lập - đối kháng nhất định về những lợi ích căn bản. Trong thời kỳ này còn có sự khác biệt cơ bản giữa
thành thị và nông thôn, đồng bằng và miền núi, lao động trí óc và lao động chân tay, vấn đề bình đẳng và công
bằng XH cần phải được xác lập dần dần.
- Về lĩnh vực tư tưởng và VH : còn tồn tại nhiều loại tư tưởng, văn hóa tinh thần khác nhau, có cả sự đối lập.
Bên cạnh nền văn hóa mới, lối sống vừa xây dựng còn tồn tại những tàn tích của nền văn hóa cũ, lối sống cũ, tư
tưởng lạc hậu, thậm chí phản động gây cản trở không nhỏ cho con đường đi lên CNXH của các dân tộc sau khi mới
được giải phóng.
Tương ứng với tính phức tạp trong kết cấu KT-XH, tư tưởng tinh thần đó, thời kỳ quá độ là thời kỳ đấu tranh
giai cấp chưa kết thúc. Trong thời kỳ này vẫn diễn ra cuộc đấu tranh giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư sản, giữa
con đường phát triển đất nước lên CNXH hay đi lên CNTB. Song, đây là cuộc đấu tranh diễn ra trong điều kiện
mới (giai cấp công nhân đã trở thành giai cấp cầm quyền), với nội dung mới (mà trung tâm là xây dựng toàn diện

XH mới, trong đó xây dựng nền KT XHCN là nhiệm vụ cơ bản nhất) và hình thức mới (cơ bản là hòa bình với tổ
chức xây dựng).
Cùng với những bước tiến trong quá trình xây dựng CNXH, các thành phần nhân tố mang tính XHCN sẽ ngày
càng phát triển và vươn lên vị trí chi phối trên mọi lĩnh vực; con đường XHCN sẽ giữ vững vai trò chủ đạo.
Từ đó có thể nói, thời kỳ quá độ là thời kỳ, xét trên mọi phương diện , còn tồn tại nhiều yếu tố khác nhau, đối
lập nhau, thâm nhập vào nhau, ảnh hưởng lẫn nhau. Tuy nhiên, xét về xu hướng tất yếu, các yếu tố mang tính chất
XHCN sẽ ngày càng phát triển, nhưng không loại trừ khả năng ở những lúc, những nơi nhất định, cái cũ tạm thời
lấn áp cái mới; trong đó tính tự phát TBCN còn có cơ sở rộng lớn. Trình độ thấp trong sự phát triển KT-XH của
thời kỳ quá độ lên CNXH quy định tính khó khăn, lâu dài của thời kỳ này. Trong quá trình đó, sự phát triển tiến bộ
có thể đan xen với những sự thoái lui tạm thời, những tìm tòi, thử nghiệm nhiều khi phải làm đi, làm lại mới xác
định được giá trị chân thật của nó trong quá trình xây dựng XH mới.
3. Các quan niệm về TKQĐ:
+Qúa độ trực tiếp: là hình thức quá độ giành cho các nước đã trải qua phát triển TBCN
+Qúa độ gián tiếp: là hình thức quá độ giành cho các nước chưa trải qua phát triển TBCN
Các nhà sáng lập CN XHKH đã nêu ra hai kiểu quá độ lên CNXH: Quá độ trực tiếp từ CNTB lên CNXH và quá
độ gián tiếp từ XH tiền TBCN lên CNXH. Dù là trực tiếp hay gián tiếp thời kỳ quá độ đều phải trãi qua một quá
trình gay go, phức tạp, lâu dài.
Ở mỗi nước do những điều kiện lịch sử, KT, XH khác nhau mà độ dài, ngắn của thời kỳ quá độ có khác nhau
nhưng nhìn chung đều phải trãi qua một thời kỳ quá độ để đổi mới nền sản xuất XH, thay đổi căn bản trong mọi
lãnh vực của đời sống XH và phải trãi qua một cuộc đấu tranh quyết liệt mới có thể thắng được sức mạnh to lớn
của thói quen quản lý theo kiểu tiểu tư sản và tư sản
4. Ba điều kiện Lê-nin đưa ra để một nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa :
Phân tích tính chất và đặc điểm của chủ nghĩa tư bản trong thới kỳ tự do cạnh tranh, C.Mác và Ph. Ăngghen đã
nêu ra khả năng quá độ lên chủ nghĩa cộng sản ở các nước lạc hậu khi cách mạng vô sản ở các nước Tây Âu giành
được thắng lợi.Khi phân tích đặc điểm của chủ nghĩa tư bản trong thời kỳ độc quyền, phát triển ra quy luật phát
triển không đều về kinh tế và chính trị của chủ nghĩa tư bản, V.I.Lênin rút ra kết luận quan trọng về khả năng thắng
lợi của chủ nghĩa xã hội ở một số nước riêng lẻ chứ không thể thắng lợi cùng một lúc ở tất cả cả nước. Khi chủ
nghĩa xã hội thắng lợi ở một nước, thì nhân loại bắt đầu bước vào thời đại mới- thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã
hội trên phạm vi toàn thế giới. Trong điều kiện đó, các nước lạc hậu có thể quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế
độ tư bản chủ nghĩa. Theo V.I.Lênin, điều kiện để một nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ

nghĩa là:
Thứ nhất:điều kiện bên trong, có Đảng cộng sản lãnh đạo giành được chính quyền và sử dụng chính quyền nhà
nước công, nông, trí thức liên minh làm điều kiện tiên quyết để xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai: phương thưc sản xuất cũ tỏ ra là đã lỗi thời lạc hậu


Thứ ba: phương thức sản xuất mới xuất hiện , đồng thời cùng với sự giúp đỡ của giai cấp vô sản của các nước
tiên tiến đã giành thắng lợi trong cách mạng vô sản.Các nước lạc hậu có khả năng quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa nhưng không phải là quá độ trực tiếp, mà phải qua con đường gián tiếp với một loạt
những bước quá độ thích hợp, thông qua “chính sách kinh tế mới”. Chính sách kinh tế mới là con đường quá độ
gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội, được áp dụng ở Liên Xô từ mùa xụân 1921 thay cho “ chính sách cộng sản thời
chiến” được áp dụng trong nhửng năm nội chiến và can thiệp vũ trang của chủ nghĩa đế quốc
II Qúa độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN ở nước ta
1 Vấn đề của nước ta khi đi lên chủ nghĩa xã hội:
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là tất yếu đối với mọi quốc gia đi lên chủ nghĩa xã hội, nhưng nó lại có đặc
điểm riêng đối với mỗi quốc gia ; do điều kiện xuất phát riêng của mỗi quốc gia quy định. Vì vậy, cuộc cách mạng
xã hội chủ nghĩa là sự tiếp tục hợp lôgíc cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ, làm cho cách mạng dân tộc, dân chủ
được thực hiện triệt để. đặc điểm đặc trưng bao trùm nhất của thời kỳ quá độ ở nước ta là bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa. Nhưng, thế nào là bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa? Gỉai quyết vấn đề này có ý nghĩa lớn cả về nhận thức và
hoạt động thực tiễn. Sẽ là sai lầm và phải trả giá nếu quan niệm “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa” theo kiểu phủ
định sạch trơn, đem đối lập chủ nghĩa xã hội với chủ nghĩa tư bản, bỏ qua cả những cái “không thể bỏ qua” như đã
từng xảy ra ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây.bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là “bỏ qua việc xác lập vị trí
thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu
mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học công nghệ để phát triển nhanh lực
lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”.
Bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa thực chất là phát triển theo con đường “rút ngắn” quá trình lên chủ nghĩa xã hội.
Nhưng “rút ngắn” không phải là đốt cháy giai đoạn, duy ý chí, coi thường quy luật, như muốn xóa bỏ nhanh sở hữu
tư nhân và các thành phần kinh tế “phi chủ nghĩa xã hội” hoặc coi nhẹ sản xuất hàng hóa........Trái lại, phải tôn
trọng quy luật khách quan và biết vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của đất nước, tận dụng thời cơ và khả
năng thuận lợi để tìm ra con đường, hình thúc, bước đi thích hợp. Phát triển theo con đường “rút ngắn” là phải biết

kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được ở chủ nghĩa tư bản không chỉ về lực lượng sản xuất mà cả về
quan hệ sản xuất, cơ sở kinh tế và kiến trúc thượng tầng,
Bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa nhưng không thể thực hiện quá độ trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội mà phải qua con
đường gián tiếp, qua việc thực hiện hàng loạt các hình thức quá độ
Tóm lại, xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội
trên tất cả các lĩnh vực là quá trình rất khó khăn, phức tạp, tất yếu “phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với
nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ”. Cuộc cách mạng khoa học - công
nghệ hiện đại đang phát triển như vũ bão và toàn cầu hoá kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ, mở rộng quan hệ kinh tế
quốc tế trở thành tất yếu; nó mở ra khả năng thuận lợi để khắc phục những hạn chế của nước kém phát triển như
thiếu vốn, công nghệ lạc hậu, khả năng và kinh nghiệm quản lí yếu kém ..., nhờ đó ta có thể thực hiện “ con đường
rút ngắn”.
Thời đại ngày nay, quá độ lên chủ nghĩa xã hội là xu hướng khách quan của loài người. Đi trong dòng chảy đó của
lịch sử, chúng ta đã, đang và sẽ nhận được sự đồng tình, ủng hộ ngày càng mạnh mẽ của bạn bè quốc tế, của các
quốc gia độc lập đang đấu tranh để lựa chọn con đường phát triển tiến bộ của mình. Nước ta có nguồn lao động dồi
dào với truyền thống lao động cần cù và thông minh, trong đó đội ngũ làm khoa học, công nghệ, công nhân lành
nghề có hàng chục ngàn người ... là tiền đề rất quan trọng để tiếp thu, sử dụng các thành tựu khoa học và công nghệ
tiên tiến của thế giới. Nước ta có nguồn tài nguyên đa dạng, vị trí địa lí thuận lợi và những cơ sở vật chất - kĩ thuật
đã được xây dựng là những yếu tố hết sức quan trọng để tăng trưởng kinh tế. Những tiền đề vật chất trên tạo điều
kiện thuận lợi để mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế, thu hút vốn đầu tư, chuyển giao công nghệ, tiếp thu kinh nghiệm
quản lí tiên tiến của các nước phát triển. Qúa độ lên chủ nghĩa xã hội không những phù hợp với quy luật phát triển
lịch sử mà còn phù hợp với nguyện vọng của tuyệt đại đa số nhân dân Việt Nam đã chiến đấu, hi sinh không chỉ vì
độc lập dân tộc mà còn vì cuộc sống ấm no, hạnh phúc, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Những yêu
cầu ấy chỉ có chủ nghĩa xã hội mới đáp ứng được. Quyết tâm của nhân dân sẽ trở thành lực lượng vật chất để vượt
qua khó khăn, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Nhà nước xã hội Chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân ngày
càng được củng cố vững mạnh và khối đại đoàn kết toàn dân, đó là những nhân tố chủ quan vô cùng quan trọng
bảo đảm thắng lợi côngcuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.


2. Liên hệ với thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta :
Quá độ lên CNXH ở mỗi nước có những nét đặc thù đo điều kiện lịch sử cụ thể đất nước đó. Dưới sự lãnh đạo của

Đảng cộng sản, giai cấp công nhân và nhân dân lao động nước ta đã vận dụng nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa
Mác-Lênin về thời kỳ quá độ lên CNXH vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam, phù hợp với đặc điểm và
truyền thống quý báu của nước ta đồng thời tận dụng các ưu thế của thời đại để định ra mục tiêu tổng quát, phương
hướng và bước đi thích hợp nhằm thực hiện thành công bước quá độ đi lên CNXH Xuất phát từ một nước nông
nghiệp có nền KT lạc hậu, Đảng đã xác định con đường phát triển đất nước quá độ lên CNXH không qua chế độ
TBCN. Mặc dù CNXH trên thế giới đang ở giai đoạn thoái trào, chúng ta không còn có sự giúp đở của các nước
XHCN tiên tiến nhưng chúng ta vẫn có thể đứng vững và tin tưởng rằng con đường quá độ đi lên CNXH bỏ qua
chế độ TBCN ở nước ta vẫn là con đường tất yếu và có khả năng thực hiện là vì những điều kiện khách quan và
chủ quan sau đây:
-Về khách quan: Thời đại ngày nay cũng là thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới, do đó
Việt Nam lựa chọn con đường đi lên CNXH là phù hợp với xu thế tiến bộ của thời đại. Mặt khác thế kỷ XXI là thế
kỷ khoa học và công nghệ có những bước nhảy vọt, KT trí thức ngày càng có vai trò nổi bậc trong sự ảnh hưởng
đến quá trình lực lượng sản xuất của các quốc gia. Bên cạnh đó toàn cầu hóa KT là một xu hướng khách quan lôi
cuốn ngày càng nhiều các nước tham gia. trong đó có nước ta. Chính những yếu tố khách quan này đã tạo điều kiện
thuận lợi cho tiến trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa ở nước ta.
- Về chủ quan: chúng ta quá độ lên CNXH với sự lãnh đạo của Đảng cầm quyền là Đảng Cộng sản Việt Nam, một
Đảng giàu tinh thần cách mạng gắn bó với quần chúng và là nhân tố vô cùng quan trọng. Trong những thời điểm
phong trào XHCN, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế có sự khủng hoảng, chế độ XHCN ở Liên Xô và
Đông âu sụp đổ, Đảng ta vẫn vững vàng lãnh đạo nhân dân ta thực hiện đường lối đổi mới vượt qua những hiểm
nghèo đưa công cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ đất nước của nhân dân ta tiến lên một cách vững chắc. Kế thừa
truyền thống và những kinh nghiệm cách mạng đã tích lũy, trãi qua thể nghiệm tìm tòi, qua việc phát huy trí tuệ của
toàn Đảng toàn dân, Đảng ta đã xây dựng được đường lối đổi mới đúng đắn hình thành những nét chủ yếu quan
niệm về XH XHCN mà nhân dân ta xây dựng và con đường xây dựng CNXH ở nước ta. Công cuộc đổi mới do
Đảng chủ trương và tổ chức thực hiện mấy năm qua đã thu được thành tựu to lớn có ý nghĩa rất quan trọng. Nhờ có
đường lối đổi mới đúng đắn đất nước đã thoát khỏi cuộc khủng hoảng KT-XH để từng bước vượt qua nước nghèo
tiến lên giàu mạnh nhân dân có cuộc sống ấm no hạnh phúc. Đội ngũ cán bộ Đảng viên của Đảng đại đa số đều là
những người trung thành với sự nghiệp cách mạng, nhất trí với đường lối của Đảng, có ý chí biến đường lối đó
thành hiện thực. Nhân dân ta cần cù, thông minh, sáng tạo rất cách mạng, có lòng yêu nước gắn bó với chế độ, với
Đảng. Bên cạnh đó, Việt Nam là một nước có nhân lực dồi dào, tài nguyên đa dạng, chúng ta cũng đã xây dựng
CNXH được mấy chục năm và bước đầu đã xây dựng được một số cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH. Như vậy,

nước ta bỏ qua chế độ TBCN quá độ lên CNXH là sự lựa chọn có tính chất lịch sử phù hợp với lợi ích dân tộc và
nhân dân, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Nhưng làm cho CNXH trở thành hiện thực ở một nước như
nước ta thật không đơn giản. Hiện nay cuộc khủng hoảng toàn diện và sâu sắc của CNXH hiện thực đang đặt
CNXH trước sự công kích gay gắt chưa từng có và từ chiều hướng này đã làm nảy sinh những khuynh hướng dao
động hoài nghi tậm chí phụ định khả năng đi lên CNXH ở những nước còn lạc hậu về KT, trong khi đánh giá đầy
đủ những khó khăn hiện nay, nước ta vẫn kiên trì đi theo con đường XHCN mà ND ta đã chọn lựa và thực hiện
công cuộc đổi mới toàn diện sự nghiệp xây sựng đất nước. Để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh; XH công
bằng dân chủ, văn minh theo con đường XHCN, điều quan trọng nhất phải là cải tiến căn bản tình trạng KT- XH
kém phát triển; đẩy mạnh CNH; HĐH đất nước; chiến thắng những cản trở trong việc thực hiện mục tiêu đó trước
hết là các thế lực thù địch chống độc lập dân tộc và CNXH. Bài học kinh nghiệm đầu tiên của thắng lợi là: " Nắm
vững ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH."
Về mặt lịch sử, thời kỳ quá độ ở nước ta trãi qua 2 giai đoạn : giai đoạn trước khi thống nhất đất nước năm 1975
và giai đoạn cả nước thống nhất quá độ đi lên CNXH sau năm 1975
- Trước năm 1975, miền Bắc đã có trên 20 năm cải tạo XH cũ và từng bước xây dựng các mặt XH mới. Trong
những năm này, nhân dân miền Bắc đã làm nhiều việc trong sự nghiệp xây dựng KT, phát triển văn hóa. CN Mác
Lênin đã thâm nhập vào quần chúng cách mạng như một hệ tư tưởng chính thống; những tổ chức chính trị - XH
rộng lớn dưới sự lãnh đạo của chính đảng Mác Xít đã hoạt động và đạt những thành tựu nhất định. Mặc dù có
những mặt chưa hòan thiện trong tổ chức và hoạt động của mình, chính quyền nhà nước do nhân dân lao động làm
chủ, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là một bước ngoặt đáng kể làm thay đổi bộ mặt dân chủ về
chính trị - XH nước ta. Các nhân tố đó bước đầu đã mang tính chất tiến bộ, tính chất XHCN và ngày càng tăng lên
quy mô tồn tại ngày càng mở rộng. Thêm vào đó, sự giúp đỡ có hiệu quả cả về vật chất lẫn tinh thần của những
nước XHCN anh em cũng như sự cổ vũ của phong trào đấu tranh của nhân dân tiến bộ trên thế giới … mang lại


cho chúng ta không ít những nhân tố thuận lợi cho sự phát triển của đất nước. Những nhân tố bên trong và bên
ngoài đó tạo ra khả năng cho phép chúng ta bỏ qua chế độ TBCN, tiến lên CNXH. Miền Nam trước ngày giải
phóng đã đi vào quỹ đạo TBCN, đã làm nảy sinh phát triển giai cấp tư sản, tư tưởng tư sản, sức mạnh của con
đường TBCN ở Miền Nam còn được nhân lên do bọn đế quốc xâm lược.
- Sau năm 1975, cả nước thống nhất quá độ đi lên CNXH. Tuy nhiên nền KT nước ta còn chưa thoát khỏi tình
trạng kém phát triển. Sức mạnh của giai cấp tư sản vẫn còn được tiếp sức bởi sự ủng hộ của giai cấp tư sản quốc tế

và các thế lực phản động. Nền sản xuất nhỏ có lực lượng XH đai diện là tầng lớp tiều tư sản thành thị và nông thôn,
trong đó đông đảo nhất là nông dân. Những lực lượng này không phải là tự nhiên sẽ đi lên CNXH nếu không có sự
tác động quản lý của Nhà nước và sự lãnh đạo của Đảng. Tư tưởng tiểu tư sản xâm nhập mọi tầng lớp nhân dân…
Khuynh hướng phát triển TBCN tồn tại trong hầu hết tất cả các nhân tố đó; tạo thành khả năng khách quan cho sự
phát triển của CNTB. Từ những đặc điểm trên cho thấy ở nước ta hiện nay có sự đan xen, thâm nhập lẫn nhau của
nhiều yếu tố và khuynh hướng khác nhau, đối lập nhau giữa TBCN với CNXH. Sự liên hệ, tác động qua lại giữa
những khuynh hướng đối lập vừa nêu tạo thành bản chất của toàn bộ thời kỳ quá độ ở nước ta. Nhận thức rõ vấn đề
này, Đảng ta đã có nhiều chủ trương, chính sách phát triển KT, cải biến XH. Song, do nhận thức không đầy đủ về
hình thức, bước đi .. nên chúng ta cũng phạm phải một số sai lầm nghiêm trọng, cộng với những di sản quá khứ
nặng nề do chiến tranh để lại và tác động tiêu cực của bối cảnh quốc tế đã đưa đất nước rơi vào tình trạng khủng
hoảng về KT - XH những năm trước 1986. Trên cơ sở nhìn thẳng vào những sai lầm đã mắc phải để sửa chữa, khắc
phục, Đại hội Đảng lần VI đã khởi xướng công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Việc thực hiện hóa đường lối đổi
mới đã mang nhiều thành tựu to lớn trên nhiều phương diện. Về lý luận : con đường đi lên CNXH ngày càng được
làm sáng tỏ hơn. Về Chính trị : định hướng XHCN được vững vàng, vai trò lãnh đạo của Đảng được tăng cường,
nhà nước XHCN Việt Nam của dân, do dân và vì dân ngày một củng cố. Quan hệ quốc tế được mở rộng. Về KT :
chúng ta đã từng bước chuyển từ nền KT tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền KT thị trường có sự quản lý nhà
nước theo định hướng XHCN; nền KT có sự phát triển nhanh và tương đối liên tục. Về văn hóa – tinh thần : CN
Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh ngày càng tỏ rõ sức sống vững bền, nhiều nét mới trong giá trị văn hóa và chuẩn
mực đạo đức từng bước hình thành.Thể chế chính trị ổn định, đất nước ta đã ra khỏi tình trạng khủng hoảng về KT
- XH để bước vào giai đoạn đẩy mạnh CNH-HĐH, đó là thành tựu vĩ đại của hơn 15 năm đổi mới vừa qua
1 Tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên CNXH ở VN :
Ở nước ta, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được bắt đầu từ năm 1954 ở miền bắc và từ năm 1975 trên phạm

vi cả nước, sau khi cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đã hoàn thành thắng lợi, đất nước đã hòan thành
thắng lợi, đất nước đã hòa bình thống nhất quá độ lên chủ nghĩa xã hội.Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là tất
yếu khách quan đối với mọi quốc gia xây dựng chủ nghĩa xã hội, dù điểm xuất phát ở trình độ phát triển cao hay
thấp.
a, Cơ sở lý luận:
+Quá độ lên CNXH ở mỗi nước có những nét đặc thù đo điều kiện lịch sử cụ thể đất nước đó. Nhiệm vụ của các
ĐCS và nhân dân mỗi nước là vận dụng nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mác-Lênin về thời kỳ quá độ lên CNXH

vào hòan cảnh lịch sử cụ thể phù hợp với đặc điểm và truyền thống quý báu của nước mình đồng thời tận dụng các
ưu thế của thời đại để định ra mục tiêu tổng quá, phương hướng và bước đi thích hợp nhằm thực hiện thành công
bước quá độ đi lên CNXH. Lênin viết: Tất cả các dân tộc đều sẽ đi lên CNXH, đó là điều không tránh khỏi nhưng
các dân tộc tiến tới CNXH không phải hoàn toàn giống nhau, mỗi dân tộc sẽ đưa đặc điểm của mình vào hình thức
này hay loại khác của chuyên chính vô sản, vào nhịp độ này hay nhịp độ khác của việc cải tạo XHCN đối với các
mặt khác nhau của đồi sống XH.
+Chính MÁC, ANGHEN, LÊNIN đều cho rằng các nước lạc hậu về kinh tế vẫn có khả năng tiến thẳng lên CNXH
mà không phải trãi qua chế độ TBCN.
+Lịch sử TG cũng đã có nhiều trường hợp bỏ qua một hoặc một số hình thái kinh tế- xã hội tiến bộ hơn
b, Cơ sở thực tiễn:
 Nước ta có nền kinh tế lạc hậu, nhưng có điều kiện là đảng CS lãnh đạo, có khối liên minh công nông
vững chắc và được sự giúp đỡ của các nước XHCN cho nên quá độ lên CNXH ở VN là một tất yếu lịch
sử.
 Nước ta quá độ lên CNXH không qua chế độ TBCN là sự lụa chọn phù hợp với đặc điểm tình hình
của đất nước và quy luật phát triển của lịch sử.


 Thời đại ngày nay là thời đăị quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi toàn TG, Vn lựa chọn con
đường đi lên CNXH là phù hợp với xu thế tiến bộ của thời đại.
 Từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta đến năm 1930 các phong trào cứu nước của nhân dân ta từ
phong trào Cần Vương đến các phong trào theo lập trường tiểu TS và TS, qua khảo nghiệm đều lần
lược thất bại. Từ năm 1930 dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng nhân dân ta đã phát huy cao độ truyền
thống anh hùng bất khuất chiến đấu hy sinh ròng rã gần nữa TK để giành độc lập thống nhất cho tổ
quốc hoàn thành cơ bản nhiệm vụ của cuộc CM DTDC nhân dân (CMDC TS kiểu mới) Bài học kinh
nghiệp đầu tiên của thắng lợi là “nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH “. Nhan dân ta chiến đấu
hy sinh không chỉ cốt giành được độc lập dân tộc mà còn vì cuộc sống tự do hạnh phuc theo lý tưởng
XHCN.
2.Những điều kiên trong nước và ngoài nước của nước ta khi đi lên CNXH bỏ qua TBCN
Chúng ta có cơ sở KH tin tưởng rằng con đường quá độ đi lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN ở nước ta –cả trong
điều kiện hiện nay – vẫn là tất yếu và có khả năng thực hiện là vì

-Ngoài nước : Ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH đã động viên được sức mạnh của toàn dân đồng thời tranh thủ
được sự ủng hộ rộng rãi và có hiệu quả của quốc tế tiêu biểu là sự ủng hộ và giúp đở của các nước XHCN. Sự giúp
đở ủng hộ đó đã tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân ta hoàn thành nhiệm vụ của cuộc CM dân tộc DC nhân dân và
đang quá độ lên CNXH Hiện nay không có sự giúp đở của cácnước XHCN tiên tiến thì chúng ta có đứng vững
được không và có đi lên CNXH được không ?
Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại đang phát triển như vũ bão và toàn cầu hoá kinh tế đang diễn ra
mạnh mẽ, mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế trở thành tất yếu; nó mở ra khả năng thuận lợi để khắc phục những hạn
chế của nước kém phát triển như thiếu vốn, công nghệ lạc hậu, khả năng và kinh nghiệm quản lí yếu kém ..., nhờ
đó ta có thể thực hiện “ con đường rút ngắn”.Thời đại ngày nay, quá độ lên chủ nghĩa xã hội là xu hướng khách
quan của loài người. Đi trong dòng chảy đó của lịch sử, chúng ta đã, đang và sẽ nhận được sự đồng tình, ủng hộ
ngày càng mạnh mẽ của loài người, của các quốc gia độc lập đang đấu tranh để lựa chọn con đường phát triển tiến
bộ của mình
-Trong nước:
+ Kế thưà truyền thống và những kinh nghiệm CM đã tích lũy, trãi qua thể nghiệm tìm tòi, qua việc phát huy trí tuệ
của toàn Đảng toàn dân, Đảng ta đã xây dựng được đường lối đổi mới đúng đắn hình thành những nét chủ yếu
quan niệm về XH XHCN mà nhân dân ta xây dựng và con đường xây dựng CNXH ở nước ta. Công cuộc đổi mới
do Đảng chủ trương và tổ chức thực hiện mấy năm qua đã thu được thành tựu to lớn có ý nghĩa rất quan trọng. Nhờ
có đường lối đổi mới đúng đắn đất nước đã thoát khỏi cuộc khủng hoảng KT XH để từng bước vượt qua nước
nghèo tiến lên giàu mạnh nhân dân có cuộc sống ấm no hạnh phúc.
+ Đội ngũ cán bộ Đảng viên của Đảng tuy có bộ phận thoái hoá biến chá6t giảm ý chí chiến đấu nhưng số đông
vẫn là những người trung thành với sự nghiệp CM nhất tr1I với đường lối của Đảng có ý chí biến đường lới đó
thành hiện thực. Nhiều người đã trải qua rèn luyện gian khổ máy chục năm chiến đấu họ gắn bó cuộc đời với Đảng
với dân tộc và chế độ. Điều quan trọng là Đảng ta đoàn kết trung thành với sự nghiệp CM vững vàng về CT có khả
na7ng lãnh đạo đất nước đối phó với những khó khăn thử thách.
+ Nhân dân ta rất CM có lòng yêu nước găn bó với chế độ , với Đảng . Qua các sự kiện diễn ra ở một số nước
nhiều người thấy rõ đi theo con đường của các nước đó thì thành quả CM sẽ bị xoá sạch, đất sẽ rối loạn, quyền làm
chủ của nhân dân sẽ mất, cuộc sống của bản thân, gia đình của họ sẽ bị uy hiếp.
+ VN là một nước có 80 triệu dân, nhân lực dồi dào tài nguyên đa dạng. Nhân dân ta đã xây dựng CNXH được
mấy chục năm đã bước đầu xây dựng được cơ sỡ CT KT XH của CNXH. Điều quan trọng là đã từng bước tìm ra
con đường đúng đắn đi lên CNXH. Những bài học kinh nghiệm thành công cũng như thất bại của CNXH thế giới

và của bản thân giúp ta có thêm kinh nghiệm. Một khó khăn của ta là thiếu vốn, thiếu công nghệ, kiến thức quản lý
để xây dựng CNXH nguồn vốn áy trước hết phải tự ta tạo ra từ các nguồn trong nước, kết hợp với mở rộng quan hệ
quốc tế, với chính sách đối ngoại đúng đắn, đa phương hóa, đa dạng hoá cho phép chúng ta có thể thu hút vốn đầu
tư công nghệ và kinh nghiệm quản lý từ nước ngoài.
+ Sự lãnh đạo của Đảng. một Đảng giàu tinh thần CM gắn bó với quần chúnglà nhân tố vô cùng quan trọng. Trong
những thời điểm phong trào XHCN, phong trào CS và công nhân quốc tế có sự khủng hoảng, chế độ XHCN ở LX
và Đông âu sụp đổ, Đảng ta vẫn vững vàng lãnh đạo nhân dân ta thực hiện đường lối đổi mới vượt qua những hiểm
nghèo đưa công cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ đất nước của nhân dân ta tiến lên một cách vững chắc


Như vậy, nước ta bỏ qua chế độ TBCN quá độ lên CNXH là sự lựa chọn có tính chất lịch sử phù hợp với lợi ích
dân tộc và nhân dân, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Nhưng làm cho CNXH trở thành hiện thực ở một
nước như nước ta thật không đơn giản. Hiện nay cuộc khủng hoảng toàn diện và sâu sắc của CNXH hiện thực đang
đặt CNXH trước sự công kích gay gắt chưa từng có và từ chiều hướng này đã làm nảy sinh những khuynh hướng
dao động hoài nghi tậm chí phụ định khả năng đi lên CNXH ở những nước còn lạc hậu về KT, trong khi đánh giá
đầy đủ những khó khăn hiện nay, nước ta vẫn kiên trì đi theo con đường XHCN mà ND ta đã chọn lựa và thực hiện
công cuộc đổi mới toàn diện sự nghiệp xây sựng đất nước. Để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh; xã hội
công bằng dân chủ, văn minh theo con đường XHCN, điều quan trọng nhất phải là cải tiến căn bản tình trạng kinh
tế- xã hội kém phát triển; đẩy mạnh CNH; HĐH đất nước; chiến thắng những cản trở trong việc thực hiện mục tiêu
đó trước hết là các thế lực thù địch chống độc lập dân tộc và CNXH. Bài học kinh nghiệm đầu tiên của thắng lợi là:
" Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH."
3- Nhiệm vụ kinh tế cơ bản trong thời kì qúa độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam : Thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội là
thời kì cải biến cách mạng sâu sắc, triệt để, toàn diện xã hội cũ thành xã hội mới.
:a- Phát triển lực lượng sản xuất, coi công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kì quá độ
nhằm xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội:Cơ sở vật chất - kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội theo V.I.Lênin, là
nền sản xuất đại cơ khí ở trình độ hiện đại được áp dụng trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân, kể cả trong nông nghiệp.Ngày nay,
cơ sở vật chất - kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội phải thể hiện được những thành tựu tiên tiến nhất của khoa học và công nghệ, đặc
biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học. Chỉ khi lực lượng sản xuất phát triển đến trình độ cao mới tạo ra được năng
suất lao động cao trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân, nhờ đó những mục tiêu và tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội mới được thực
hiện ngày càng tốt hơn trên thực tế.Qúa độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, khi đất nước ta chưa có tiền đề

về cơ sở vật chất - kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội do chủ nghĩa tư bản tạo ra; do đó phát triển lực lượng sản xuất nói chung, công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nói riêng trở thành nhiệm vụ trung tâm của suốt thời kì quá độ. Nó có tính chất quyết định đối với thắng
lợi của chủ nghĩa xã hội ở nước ta.Nhiệm vụ không kém phần quan trọng khác của phát triển lực lượng sản xuất, thực hiện công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là phát triển nguồn lực con người - lực lượng sản xuất cơ bản của đất nước, yếu tố cơ bản của
tăng trưởng kinh tế, tạo đội ngũ lao động có khả năng sáng tạo, tiếp thu, sử dụng, quản lí có hiệu quả các thành tựu khoa học,
công nghệ hiện đại. Vì vậy, phải phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của con người Việt Nam, coi phát triển giáo dục
và đào tạo, khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là “ quốc sách hàng đầu” trong
chiến lược phát triển đất nước.
b- Xây dựng từng bước quan hệ sản xuất mới theo đinh hướng xã hội chủ nghiã:Xây dựng chủ nghĩa xã hội là xây dựng một
chế độ xã hội mới có nền kinh tế phát triển dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ
yếu. Chế độ công hữu tư liệu sản xuất chủ yếu là đặc trưng của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghiã; nó là sản phẩm của nền kinh tế
phát triển với trình độ xã hội hoá cao, các lực lượng sản xuất hiện đại, nó sẽ chiếm ưu thế tuyệt đối khi chủ nghĩa xã hội được xây
dựng xong về cơ bản. Vì vậy, không thể nôn nóng, vội vàng, duy ý chí trong việc xây dựng quan hệ sản xuất mới xã hội chủ
nghĩa. Nó chỉ được hình thành trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội lâu dài, qua nhiều bước, nhiều hình thức từ thấp đến
cao.Như vậy, xây dựng quan hệ sản xuất mới định hướng chủ nghĩa xã hội ở nước ta phải đảm bảo các yêu cầu sau đây :
Một là, quan hệ sản xuất mới được xây dựng phải dựa trên kết quả của sự phát triển lực lượng sản xuất, “ bất cứ một sự cải biến
nào về mặt quan hệ sở hữu cũng đều là kết quả tất yếu của việc tạo nên những lực lượng sản xuất mới”.
Hai là, quan hệ sản xuất biểu hiện trên ba mặt: sở hữu tư liệu sản xuất, tổ chức quản lí và phân phối sản phẩm, do đó, quan hệ sản
xuất mới phải được xây dựng một cách đồng bộ cả ba mặt đó.B
a là, tiêu chuẩn căn bản để đánh giá tính đúng đắn của quan hệ sản xuất mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa là ở hiệu quả của
nó: thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện công bằng xã hội.Trong thời kì quá độ ở nước
ta, tất yếu còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu, hình thành nhiều thành phần kinh tế với những hình thức tổ chức sản xuất, kinh
doanh đa dạng, đan xen, hỗn hợp. Do đó, xây dựng quan hệ sản xuất định hướng xã hội chủ nghĩa đồng thời phải tôn trọng và sử
dụng lâu dài và hợp lí cơ cấu kinh tế nhiều thành phần.
c- Mở rộng và nâng cao hiệu quả của quan hệ kinh tế quốc tế ;Trong điều kiện toàn cầu hoá kinh tế và sự tác động mạnh mẽ
của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, xu hướng mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế trở thành tất yếu đối với các
quốc gia. Nền kinh tế nước ta không thể khép kín mà phải tích cực mở rộng và ngày càng nâng cao hiệu quả của quan hệ kinh tế
quốc tế.Toàn cầu hoá kinh tế và cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại tạo ra những thách thức và nguy cơ cần phải đề phòng,
khắc phục; mặt khác, tạo ra cho nước ta những cơ hội, thuận lợi cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo con
đường “ rút ngắn”. Đó là thu hút các nguồn vốn từ bên ngoài, nhập được các loại công nghệ hiện đại và những kinh nghiệm quản

lí tiên tiến ... nhờ đó, khai thác có hiệu quả các nguồn lực trong nước, đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế, thu hẹp khoảng cách lạc


hậu so với các nước khác. Đó là sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.Để mở rộng và nâng cao hiệu quả quan hệ
kinh tế quốc tế, phải nâng cao sức cạnh tranh quốc tế, khai thác thị trường thế giới, tối ưu hoá cơ cấu xuất - nhập khẩu, đa dạng
hoá quan hệ kinh tế với các tổ chức và các quốc gia trong khu vực và quốc tế. Tuy nhiên, phải xử lí đúng mối quan hệ giữa mở
rộng kinh tế quốc tế với độc lập tự chủ, bảo vệ an ninh kinh tế quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc với kế thừa, tiếp thu tinh
hoa văn hoá nhân loại

III Những phương hướng cơ bản trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta
1.

CƯƠNG LĨNH XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
NĂM 1991 : đã nêu bảy phương hướng cơ bản của quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Bảy phương hướng này đồng thời cũng là những định hướng xã hội chủ
nghĩa trong sự phát triển của đất nước

Để tiếp tục đưa cách mạng nước ta tiến lên, chúng ta phải tiếp tục thực hiện có hiệu quả những phương hướng
cơ bản sau :
Một là, "xây dựng Nhà nước XH chủ nghĩa, Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, lấy liên minh
giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thực hiện
đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, giữ nguyên kỷ cương XH, chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích
Tổ quốc và của nhân dân".
Hai là, "phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại gắn liền với phát triển một
nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa
XH, không ngừng nâng cao năng suất lao động XH và cải thiện đời sống nhân dân".
Ba là, "phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thiết lập từng bước quan hệ sản xuất XH chủ nghĩa từ
thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu. Phát triển nền KT hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng
XH chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. KT quốc doanh và KT tập thể ngày
càng trở thành nền tảng của nền KT quốc dân. Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao

động và hiệu quả KT là chủ yếu".
Bốn là, "tiến hành cách mạng XH chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa làm cho thế giới quan Mác Lênin và tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần XH. Kế thừa và phát huy
những truyền thống văn hóa tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại,
xây dựng một XH dân chủ, văn minh, vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức,
thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao. Chống tư tưởng, văn hóa phản tiến bộ, trái với những truyền thống tốt đẹp của
dân tộc và những giá trị cao quý của loài người, trái với phương hướng đi lên chủ nghĩa XH".
Năm là, "thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất, tập hợp
mọi lực lượng phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh. Thực hiện chính sách đối ngoại hoà bình, hợp tác và
hữu nghị với tất cả các nước; trung thành với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, đoàn kết với các nước XH
chủ nghĩa, với tất cả các lực lượng đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ XH trên thế giới".
Sáu là, "xây dựng chủ nghĩa XH và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam. Trong
khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước, nhân dân ta luôn luôn nâng cao cảnh giác, củng cố quốc phòng,
bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn XH, bảo vệ Tổ quốc và các thành quả cách mạng".
Bảy là, "xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức ngang tầm nhiệm vụ, bảo đảm
cho Đảng làm tròn trách nhiệm lãnh đạo sự nghiệp cách mạng XH chủ nghĩa ở nước ta".
Đó là những định hướng lớn về chính sách KT, XH, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, những quan điểm về hệ
thống chính trị và vai trò lãnh đạo của Đảng và cũng là định hướng cho quá trình quá độ đi lên chủ nghĩa XH ở
nước ta. Thực hiện có hiệu quả những phương hướng đó luôn luôn là nhiệm vụ cơ bản của Đảng, Nhà nước và
nhân dân ta.


Mục tiêu tổng quát phải đạt tới khi kết thúc thời kỳ quá độ là xây dựng xong về cơ bản những cơ sở kinh tế của
chủ nghĩa xã hội, với kiến trúc thượng tầng về chính trị và tư tưởng, văn hóa phù hợp làm cho nước ta trở thành
một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh.
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là quá trình lâu dài, trải qua nhiều chặng đường. Mục tiêu của chặng
đường đầu là: thông qua đổi mới toàn diện, xã hội đạt tới trạng thái ổn định vững chắc, tạo thế phát triển nhanh ở
chặng sau.
Để thực hiện tốt các mục tiêu nói trên, trong Cương lĩnh đã nêu những định hướng lớn về chính sách kinh tế, xã
hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, phương hướng cơ bản xây dựng hệ thống chính trị, trong đó nêu bật vai trò
lãnh đạo của Đảng11.

DỰ THẢO CƯƠNG LĨNH XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ
HỘI (BỔ SUNG, PHÁT TRIỂN NĂM 2011) :
Một là, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức.
Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghiã.
Ba là, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia.
Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội
nhập quốc tế.
Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, củng cố và mở rộng Mặt trận
dân tộc thống nhất.
Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Trong quá trình thực hiện các phương hướng cơ bản đó, phải đặc biệt chú trọng nắm vững và giải quyết tốt các mối
quan hệ lớn như. Quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới hệ thống chính trị;
giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện
từng bước quan hệ sản xuất; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội;
giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa
Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ;... Không phiến diện, cực đoan, duy ý chí.



×