Tải bản đầy đủ (.pdf) (123 trang)

Giải pháp giảm nghèo ở Huyện Minh Hóa, Tỉnh Quảng Bình.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (868.84 KB, 123 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

HOÀNG THỊ THANH HUYỀN

GIẢI PHÁP GIẢM NGHÈO
Ở HUYỆN MINH HÓA, TỈNH QUẢNG BÌNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Đà Nẵng - Năm 2014


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

HOÀNG THỊ THANH HUYỀN

GIẢI PHÁP GIẢM NGHÈO
Ở HUYỆN MINH HÓA, TỈNH QUẢNG BÌNH

Chuyên ngành : Kinh tế phát triển
Mã số
: 60.31.05

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN THẾ TRÀM

Đà Nẵng - Năm 2014



LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được
ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận văn

Hoàng Thị Thanh Huyền


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ........................................................................ 1
2. Mục tiêu nghiên cứu.............................................................................. 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu......................................................... 2
4. Phương pháp nghiên cứu....................................................................... 2
5. Bố cục đề tài .......................................................................................... 4
6. Tổng quan tài liệu.................................................................................. 4
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢM NGHÈO ............. 7
1.1. MỘT SỐ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGHÈO VÀ GIẢM NGHÈO ............ 7
1.1.1. Khái niệm nghèo ............................................................................. 7
1.1.2. Một số đặc điểm về nghèo .............................................................. 9
1.1.3. Một số phương pháp xác định chuẩn nghèo ................................. 14
1.1.4. Giảm nghèo và sự cần thiết phải giảm nghèo............................... 18
1.1.5. Một số tiêu chí phản ánh giảm nghèo .......................................... 20
1.2. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CÔNG TÁC GIẢM NGHÈO .................... 22
1.2.1. Tạo điều kiện cho người nghèo phát triển sản xuất, tăng thu nhập .... 22
1.2.2. Hỗ trợ cải thiện điều kiện sống cho người nghèo, giúp họ tiếp cận
các dịch vụ xã hội cơ bản ................................................................................ 24
1.2.3. Tuyên truyền nâng cao nhận thức cho người nghèo..................... 27

1.2.4. Tăng cường hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng thiết yếu ........................ 28
1.3. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CÔNG TÁC GIẢM NGHÈO.... 29
1.3.1. Nhân tố khách quan....................................................................... 29
1.3.2. Nhân tố chủ quan .......................................................................... 30
1.4. KINH NGHIỆM GIẢM NGHÈO CỦA MỘT SỐ ĐỊA PHƯƠNG
TRONG NƯỚC............................................................................................... 30


1.4.1. Kinh nghiệm giảm nghèo ở huyện miền núi Nghĩa Đàn, tỉnh Nghệ
An .................................................................................................................... 30
1.4.2. Kinh nghiệm giảm nghèo của Hà Tĩnh......................................... 33
1.4.3. Kinh nghiệm rút ra cho công tác giảm nghèo ở huyện Minh Hóa,
tỉnh Quảng Bình .............................................................................................. 35
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG GIẢM NGHÈO Ở HUYỆN MINH HÓA,
TỈNH QUẢNG BÌNH ................................................................................... 38
2.1. KHÁI QUÁT MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM VỀ ĐỊA BÀN HUYỆN MINH
HÓA ẢNH HƯỞNG ĐẾN CÔNG TÁC GIẢM NGHÈO ............................. 38
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên ......................................................................... 38
2.1.2. Tình hình phát triển kinh tế - xã hội của huyện Minh Hóa .......... 42
2.2. THỰC TRẠNG NGHÈO Ở HUYỆN MINH HÓA ................................ 46
2.2.1. Tình hình chung về nghèo............................................................. 46
2.2.2. Đặc điểm của hộ nghèo ở huyện Minh Hóa ................................. 51
2.2.3. Phân tích các nguyên nhân dẫn đến nghèo ở huyện Minh Hóa.... 61
2.3. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC GIẢM NGHÈO Ở HUYỆN MINH HÓA. 63
2.3.1. Tình hình thực hiện chính sách giảm nghèo ................................. 63
2.3.2. Những thành quả đạt được có tính nổi bật trong công tác giảm
nghèo ở huyện Minh Hóa thời gian qua.......................................................... 75
2.3.3. Những tồn tại, hạn chế nổi cộm có tính bức xúc trong công tác
giảm nghèo ...................................................................................................... 77
CHƯƠNG 3. PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP GIẢM NGHÈO Ở

HUYỆN MINH HÓA, TỈNH QUẢNG BÌNH ............................................ 81
3.1. CƠ SỞ TIỀN ĐỀ CHO VIỆC ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP ................. 81
3.1.1. Định hướng của chính sách giảm nghèo....................................... 81
3.1.2. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và chiến lược giảm nghèo..... 81
3.1.3. Quan điểm khi xây dựng giải pháp ............................................... 82


3.1.4. Phương hướng xây dựng giải pháp ............................................... 82
3.1.5. Dựa vào số liệu điều tra thực tế ở huyện Minh Hóa..................... 83
3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIẢM NGHÈO Ở HUYỆN MINH HÓA.......... 84
3.2.1. Nhóm giải pháp đối với bản thân người nghèo ............................ 84
3.2.2. Nhóm giải pháp hỗ trợ của nhà nước và các tổ chức xã hội đối với
hộ nghèo .......................................................................................................... 90
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ .................................................................... 106
TÀI LIỆU THAM KHẢO
QUYẾT ĐỊNH GIAO ĐỀ TÀI (Bản sao)
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ADB

: Ngân hàng phát triển Châu Á

BHYT

: Bảo hiểm y tế

CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CNXH


: Chủ nghĩa xã hội

CSSKSS

: Chăm sóc sức khỏe sinh sản

DS&KHHGĐ : Dân số và kế hoạch hóa gia đunh
ESCAP

: Ủy ban kinh tế và xã hội của Châu Á- Thái Bình Dương

HĐND

: Hội đồng nhân dân

ILO

: Tổ chức Lao động Quốc tế

KHHGĐ

: Kế hoạch hóa gia đình

KT - XH

: Kinh tế - xã hội

LĐ-TB&XH : Lao động - thương binh và xã hội
NHCSXH


: Ngân hàng chính sách xã hội

NN&PTNT : Nông nghiệp và phát triển nông thôn
TTCN

: Tiểu thủ công nghiệp

UBND

: Ủy ban nhân dân

XĐGN

: Xóa đói giảm nghèo

XHHGD

: Xã hội hóa giáo dục

WB

: Ngân hàng thế giới


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
bảng

Tên bảng


Trang

1.1

Chuẩn nghèo và cận nghèo ở Việt Nam

17

2.1

Tỷ trọng giá trị các ngành kinh tế trong tổng giá trị sản xuất

42

2.2

Tình hình nghèo ở huyện Minh Hóa qua các năm 2011-2012 48

2.3

Tổng hợp hộ nghèo, cận nghèo các xã, thị trấn năm 2012

50

2.4

Tình hình nhà ở và phương tiện sinh hoạt chủ yếu

56


2.5

Thống kê phương tiện sản xuất

57


DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ
Số hiệu
đồ thị

Tên đồ thị

Trang

2.1

So sánh tỷ lệ hộ nghèo huyện Minh Hóa và tỷ lệ hộ nghèo
toàn tỉnh qua các năm 2010-2012

46

2.2

Tỷ lệ hộ nghèo các huyện, thành phố trên địa bàn tỉnh
Quảng Bình năm 2012

46


2.3

Trình độ văn hóa của chủ hộ

52

2.4

Tỷ lệ được phỏng vấn trong từng nhóm thu nhập

53

2.5

Phân chia các hộ trong từng nhóm thu nhập theo dân tộc

53

2.6

Phân chia các hộ trong từng nhóm thu nhập theo nguồn thu
nhập

54

2.7

Phân bố chi tiêu trong năm

55


2.8

Cơ cấu việc làm của hộ nghèo, cận nghèo

58

2.9

Trình độ văn hóa của lao động chính

58

2.10

Tổng hợp các lý do bỏ học của trẻ

60

2.11

Tổng hợp các nguyên nhân gây nghèo ở huyện Minh Hóa

61


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Giảm nghèo là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta nhằm cải thiện
đời sống vật chất và tinh thần cho người nghèo, thu hẹp khoảng cách và trình
độ phát triển giữa các vùng, địa bàn và giữa các dân tộc, nhóm dân cư. Thành
tựu giảm nghèo trong những năm qua đã góp phần tăng trưởng kinh tế và thực
hiện công bằng xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống con người. Tuy nhiên
kết quả về công cuộc giảm nghèo ở nhiều địa phương vẫn chưa vững chắc,
chênh lệch giàu nghèo giữa các vùng vẫn còn những khoảng cách đáng kể, đặc
biệt là những địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng miền núi, biên giới khó khăn.
Minh Hóa là một huyện miền núi ở phía Tây Bắc của tỉnh Quảng Bình.
Đây là huyện nghèo nhất Quảng Bình và là một trong 62 huyện nghèo nhất
nước ta. Trong những năm qua, việc giảm nghèo ở huyện Minh Hóa đã đạt
được một số kết quả nhất định. Các cấp ủy Đảng,chính quyền huyện nhà đã
có nhiều chủ trương, chính sách và phương pháp để giảm nghèo nhưng trên
thực tế vẫn còn nhiều hạn chế, tỷ lệ hộ nghèo vẫn còn ở mức cao 44%. Quá
trình giảm nghèo chưa thực sự bền vững, số hộ đã thoát nghèo nhưng vẫn
nằm sát mức chuẩn nghèo với tỷ lệ còn lớn 18%, tỷ lệ hộ tái nghèo hàng năm
chiếm 14%; đời sống người dân trên địa bàn nhìn chung vẫn còn nhiều khó
khăn, nhất là những xã đại bộ phận là người đồng bào dân tộc thiểu số. Thực
trạng nghèo ở huyện Minh Hóa đang là vấn đề bức xúc, luôn đặt ra thách thức
lớn đối với Đảng bộ và chính quyền huyện Minh Hóa cũng như tỉnh Quảng
Bình trong mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội hiện nay và những năm tới.
Vì vậy, việc nghiên cứu, phân tích, luận giải một cách có hệ thống, đánh
giá đúng thực trạng nghèo, từ đó đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm thực
hiện có hiệu quả công tác giảm nghèo ở huyện Minh Hóa là vấn đề có ý nghĩa


2

cả về lý luận và thực tiễn đang đặt ra hiện nay. Xuất phát từ lý do đó, tôi đã
chọn nghiên cứu đề tài “Giải pháp giảm nghèo ở huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng

Bình” làm luận văn tốt nghiệp với mong muốn góp một phần nào đó trong công
cuộc giảm nghèo của huyện Minh Hóa tỉnh Quảng Bình trong thời gian đến.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Hệ thống hóa những lý luận về giảm nghèo.
- Phân tích, đánh giá thực trạng nghèo và công tác giảm nghèo hiện nay
ở huyện Minh Hóa,
- Đề xuất một số giải pháp nhằm giảm nghèo bền vững đối với hộ nghèo
trên địa bàn huyện Minh Hóa.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các hộ nghèo ở huyện Minh Hóa
- Mô hình giảm nghèo đối với hộ nghèo trên địa bàn huyện Minh Hóa
- Các nguồn lực hữu hình, vô hình có thể sử dụng nhằm giảm nghèo cho
người dân ở huyện Minh Hóa
- Hệ thống chính sách có liên quan đến giảm nghèo ở huyên MinhHóa
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Các hoạt động nghiên cứu được triển khai trong phạm
vi huyện Minh Hóa.
- Về thời gian: Các dữ liệu thứ cấp sẽ được thu thập từ các nguồn tài liệu
khác nhau trong 3 năm (2010 - 2012) trước thời điểm nghiên cứu, các dữ liệu
điều tra sơ cấp trong năm 2013. Giải pháp đề xuất đến năm 2020.
Luận văn tập trung nghiên cứu số liệu về các hộ nghèo từ năm 2010 2013 trên địa bàn huyện Minh Hóa.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, tác giả sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu:


3

Duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, phân tích so sánh, thống kê, lý luận gắn
với thực tiễn, điều tra xã hội học, phương pháp phỏng vấn, chọn mẫu điều tra.

(1) Phương pháp chọn điểm nghiên cứu, chọn mẫu điều tra
* Chọn điểm nghiên cứu: Tác giả lựa chọn 03 xã: Hồng Hóa, Trung Hóa,
Xuân Hóa để tiến hành điều tra, nghiên cứu. Tiêu chí để chọn các xã nghiên
cứu là:
- Vị trí: Đại diện của các xã ở vùng gần, vùng giữa và vùng xa so với Thị
trấn Quỳ Đạt, huyện Minh Hóa
- Nhóm hộ: Đại diện cho nhóm xã có tỷ lệ hộ nghèo cao, trung bình, thấp
- Nhóm dân tộc: Các xã có người dân tộc thiểu số (DTTS)
* Chọn mẫu điều tra: Chọn điều tra với 60 hộ nghèo, 30 hộ cận nghèo.
(2) Phương pháp thu thập số liệu
* Số liệu thứ cấp được thu thập từ 2 nguồn:
- Nguồn số liệu điều tra, khảo sát của các phòng, ban chức năng, cơ
quan, tổ chức có liên quan đến công tác giảm nghèo trên địa bàn huyện và
tỉnh Quảng Bình, mà chủ yếu là của Phòng Lao động, thương binh và xã hội
huyện, Chi cục Thống kê huyện;
- Các báo cáo, nghị quyết, quyết định của HĐND, UBND tỉnh và huyện
Minh Hóa;
* Số liệu mới: Thực hiện điều tra trực tiếp các hộ nghèo, các hộ mới tái
nghèo, cận nghèo... bằng Phiếu khảo sát. Ngoài ra, còn tiến hành lấy ý kiến
của một số cá nhân, tổ chức khác để có đánh giá khách quan và chính xác.
Việc điều tra được thực hiện đầu năm 2013.
(3) Phương pháp phân tích kinh tế
Để phân tích thực trạng đói nghèo của huyện, tôi sử dụng các phương
pháp: Thống kê mô tả để mô tả thực trạng, thống kê so sánh để so sánh mức
sống trung bình của các hộ nghèo và các loại hộ khác...


4

Căn cứ vào thực trạng nghèo đói, các định hướng, chiến lược của huyện

Minh Hóa nói riêng và tỉnh Quảng Bình nói chung; trên cơ sở phân tích
những thuận lợi, khó khăn, những tồn tại, hạn chế trong công tác giảm nghèo
ở huyện Minh Hóa để đưa ra các giải pháp có tính hiệu quả.
5. Bố cục đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về giảm nghèo
Chương 2: Thực trạng giảm nghèo ở huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình
Chương 3: Phương hướng, giải pháp giảm nghèo ở huyện Minh Hóa,
tỉnh Quảng Bình trong thời gian đến .
6. Tổng quan tài liệu
Giảm nghèo là vấn đề các quốc gia đều quan tâm trong quá trình phát
triển kinh tế - xã hội. Đối với Việt Nam, mục tiêu giảm nghèo đã được đặt ra
từ lâu, đến nay công tác giảm nghèo đã mang lại hiệu quả đáng kể. Tuy nhiên,
khả năng giảm nghèo tỷ lệ còn thấp và tình trạng tái nghèo đang diễn ra ở
nhiều nơi. Điều này, đòi hỏi phải được nghiên cứu một cách cụ thể về thực
trạng giảm nghèo ở Việt Nam trên cơ sở đó đề ra các biện pháp khắc phục.
Trong thời gian qua, có khá nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này như:
“Giảm nghèo ở Việt Nam, thành tựu và thách thức” của nhóm nghiên cứu
Viện Khoa học xã hội và nhân văn (2011); “Theo dõi nghèo theo phương
pháp cùng tham gia tại một số cộng đồng dân cư nông thôn Việt Nam” của
ActionAid Quốc tế tại Việt Nam và Oxfam (2012); “Nghiên cứu nghèo đô
thị” do Tổ chức đoàn kết quốc tế Triangle Génération Humanitaire phối hợp
với PADDI thực hiện (2012); “Đánh giá giữa kỳ CTMTQG-GN và Chương
trình 135-II giai đoạn 2006-2008”, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, cơ
quan Liên Hợp Quốc tại Việt Nam (2009); “Đánh giá giữa kỳ CTMTQG-GN
và Chương trình 135-II giai đoạn 2006-2008”, Công ty nghiên cứu và tư vấn


5


Đông Dương (2012); Luận án tiến sĩ “Hoàn thiện các chính sách xóa đói
giảm nghèo chủ yếu của Việt Nam đến năm 2015” của tác giả Nguyễn Thị
Hoa… Bên cạnh đó, còn có một số công trình nghiên cứu theo từng vùng,
miền cụ thể như: Luận văn thạc sĩ “Giải pháp xóa đói giảm nghèo tại huyện
Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị” của Hoàng Thị Hoài An (2011); “Giải pháp giảm
nghèo trên địa bàn quận Sơn Trà - thành phố Đà Nẵng” của Nguyễn Nữ
Đoàn Vi (2012)…
Các công trình trên đề cập các góc độ khác nhau về chuẩn nghèo nguyên
nhân gây ra nghèo, ngưỡng nghèo và các kinh nghiệm tổng kết về công tác
giảm nghèo ở các địa phương trong cả nước. Nhiều công trình phân tích làm
rõ thực trạng công tác giảm nghèo ở nước ta trong thời gian qua, đánh giá tốc
độ giảm nghèo ở vùng nông thôn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số khá cụ thể
và sâu sắc như: Công trình“Theo dõi nghèo theo phương pháp cùng tham gia
tại một số cộng đồng dân cư nông thôn Việt Nam” của ActionAid Quốc tế tại
Việt Nam và Oxfam (2012), bằng phương pháp tiếp cận thực tế theo từng
vùng, từng địa bàn, đã đưa ra được đánh giá chính xác thực trạng nghèo của
người dân, đặc biệt là vùng nông thôn và đề xuất những giải pháp hết sức
thiết thực, nhất là phần chống đỡ với biến động giá cả; lập kế hoạch theo
phương pháp tham gia và đầu tư phân cấp tại cấp xã.
Luận án tiến sĩ “Hoàn thiện các chính sách xóa đói giảm nghèo chủ yếu
của Việt Nam đến năm 2015” của tác giả Nguyễn Thị Hoa, đã phân tích, làm
rõ được các chính sách có tính nổi bật và tác động mạnh mẽ, trực tiếp đến
công cuộc giảm nghèo.
Mặt khác, các tác giả đã làm rõ nguyên nhân gây ra tình trạng nghèo và
việc giảm nghèo ở nước ta tốc độ chậm. Trong đó, nguyên nhân chủ yếu là do
khả năng, trình độ của người nghèo còn thấp, có tính ỷ lại, trông chờ vào các
khoản trợ cấp mà chưa có ý thức tự mình vươn lên. Điều đáng chú ý, các tác


6


giả cũng đã đề xuất một số giải pháp nhằm giảm nghèo ở nước ta. Nhiều giải
pháp có tính khả thi, có giá trị cao trong thực tiễn.
Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có công trình nghiên cứu một cách cụ
thể và sâu sắc về giảm nghèo ở huyện miền núi Minh Hóa tỉnh Quảng Bình.
Đây là huyện miền núi, có điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội thể hiện tính
đặc thù, tỷ lệ hộ nghèo cao nhất của tỉnh Quảng Bình. Điều này, đòi hỏi cần
phải tiếp tục nghiên cứu vấn đề này một cách có hệ thống để có cách nhìn mới
và giải pháp mới về vấn đề giảm nghèo ở huyện Minh Hóa trong thời gian đến.


7

CHƯƠNG 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢM NGHÈO
1.1. MỘT SỐ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGHÈO VÀ GIẢM NGHÈO
1.1.1. Khái niệm nghèo
Nghèo là một khái niệm diễn tả sự thiếu cơ hội để có thể sống một cuộc
sống tương ứng với các tiêu chuẩn tối thiểu nhất định. Thước đo các tiêu
chuẩn này và các nguyên nhân dẫn đến nghèo thay đổi tùy theo địa phương và
thời gian. Tổ chức y tế thế giới khái niệm nghèo theo thu nhập, theo đó một
người là nghèo khi thu nhập hằng năm ít hơn một nữa mức thu nhập bình
quân trên đầu người hằng năm (Per Capita Incomme, PCI) của quốc gia.
Hội nghị thượng đỉnh thế giới về phát triển xã hội tổ chức năm 1995 đưa
khái niệm về nghèo: Người nghèo là tất cả những ai mà thu nhập thấp hơn
dưới một đô la mỗi ngày cho mỗi người, số tiền được coi như đủ để mua
những sản phẩm cần thiết để tồn tại.
Còn nhóm nghiên cứu của UNDP, UNFPA, UNICEF trong công trình
"Xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam - 1995" đã đưa ra khái niệm: Nghèo là tình

trạng thiếu khả năng trong việc tham gia vào đời sống quốc gia, nhất là tham
gia vào lĩnh vực kinh tế.
Nhìn chung, cho đến nay có rất nhiều khái niệm khác nhau về nghèo của
các học giả, các nhà khoa học dưới những góc độ khác nhau. Tuy nhiên,khái
niệm được sử dụng nhiều nhất do Hội nghị chống nghèo đói khu vực châu Á Thái Bình Dương do ESCAP tổ chức tại Băng Cốc, Thái Lan (tháng 9/1993)
đưa ra như sau: Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và
thỏa mãn các nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu này đã được
xã hội thừa nhận tùy theo trình độ phát triển kinh tế xã hội và phong tục tập
quán của địa phương.


8

Đây có thể xem là một khái niệm chung nhất về nghèo, một khái niệm
mở, có tính chất hướng dẫn về phương pháp đánh giá, nhận diện chính xác,
khách quan về nghèo. Các tiêu chí và chuẩn mực về mặt lượng hóa (định
lượng) được để mở bởi đánh giá nghèo còn phải tính đến sự khác biệt giữa
điều kiện tự nhiên, điều kiện xã hội và trình độ phát triển của mỗi vùng miền
khác nhau. Vấn đề quan trọng nhất mà khái niệm này đã đưa ra là đã phản ánh
được những nhu cầu cơ bản của con người, nếu không được thỏa măn thì họ
chính là những người nghèo đói. Một khái niệm mở như vậy dễ dàng được
các tổ chức và các quốc gia chấp nhận.
Trong Chương trình mục tiêu Quốc gia về xóa đói, giảm nghèo, Việt
Nam đã cho rằng: “Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư chỉ có khả năng
thỏa mãn một phần các nhu cầu cơ bản của con người và có mức sống ngang
bằng với mức sống tối thiểu của cộng đồng xét trên mọi phương diện”.
Nghèo được nhận diện trên 2 khía cạnh:
Nghèo tuyệt đối (Absolute Poverty): Nghèo mức tuyệt đối là sống ở ranh
giới ngoài cùng của tồn tại. Những người nghèo tuyệt đối là những người phải
đấu tranh để sinh tồn trong các thiếu thốn tồi tệ. Ngân hàng của thế giới xem

thu nhập 1 đôla Mỹ/ngày theo sức mua tương đương của địa phương so với
đôla của thế giới để thỏa mãn nhu cầu sống như là một chuẩn tổng quát cho
nạn nghèo tuyệt đối. Ranh giới nghèo tuyệt đối cho từng địa phương được xác
định từ 2 đôla cho Mỹ Latin và 4 đôla cho những nước Đông Âu.
Nghèo tương đối (Relative Poverty): Trong những xã hội được gọi là
thịnh vượng, nghèo được định nghĩa dựa vào hoàn cảnh xã hội của cá nhân.
Nghèo tương đối có thể được xem như là việc cung cấp không đầy đủ các
tiềm lực vật chất và phi vật chất cho những người thuộc về một số tầng lớp xã
hội nhất định so với sự sung túc của xã hội đó. Nghèo tương đối là sự hiện
hữu không phụ thuộc vào cảm nhận của những người trong cuộc. Người ta


9

gọi là nghèo tương đối chủ quan khi những người trong cuộc cảm thấy nghèo
không phụ thuộc vào sự xác định khách quan. Bên cạnh việc thiếu sự cung
cấp vật chất (tương đối), việc thiếu thốn tài nguyên phi vật chất ngày càng có
tầm quan trọng hơn. Việc nghèo đi về văn hóa - xã hội, thiếu tham gia vào
cuộc sống xã hội do thiếu hụt tài chính một phần được các nhà xã hội học
xem như là một thách thức xã hội nghiêm trọng.
Tóm lại, tuy có nhiều quan niệm khác nhau về nghèo đói hay nhận
dạng về nghèo đói của từng quốc gia hay từng vùng, từng nhóm dân cư,
nhưng nhìn chung không có sự khác biệt đáng kể. Tiêu chí chung nhất để xác
định nghèo đói vẫn là mức thu nhập hay mức độ, tiêu chí để thỏa măn những
nhu cầu cơ bản của con người về: Ăn, ở, mặc, y tế, giáo dục, văn hóa, đi lại và
giao tiếp xã hội. Sự khác nhau chung nhất là thỏa mãn ở mức cao hay thấp mà
thôi, điều này phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội cũng như
phong tục, tập quán của từng vùng, từng quốc gia.
1.1.2. Một số đặc điểm về nghèo
Một người nghèo ở Kênia đã nói về sự nghèo “Hãy quan sát ngôi nhà và

đếm xem có bao nhiêu lỗ thủng trên đó. Hãy nhìn những đồ đạc trong nhà và
quần áo tôi đang mặc trên người. Hãy quan sát tất cả và ghi lại những gì ông
thấy. Cái mà ông thấy chính là nghèo”. Tiếng nói của người nghèo cho ta
những cảm nhận cụ thể, rõ ràng nhất về các khía cạnh của nghèo.
a. Về thu nhập
Đa số những người nghèo có cuộc sống rất khó khăn, cực khổ. Họ có mức
thu nhập thấp. Điều này do tính chất công việc của họ đem lại. Người nghèo
thường làm những công việc đơn giản, lao động chân tay ,công việc cực nhọc,
nhưng thu nhập chẳng được là bao. Hơn thế nữa, những công việc này lại
thường rất bấp bênh, không ổn định, nhiều công việc phụ thuộc vào thời vụ và
có tính rủi ro cao do liên quan nhiều đến thời tiết (chẳng hạn như mưa, nắng,


10

lũ lụt, hạn hán, động đất...). Các nghề thuộc về nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư
nghiệp là những ví dụ cho vấn đề này. Do thu nhập thấp, nên việc chi tiêu cho
cuộc sống của những người nghèo là rất hạn chế. Hầu hết các nhu cầu cơ bản,
tối thiểu của con người như cái ăn, cái mặc, chỗ ở chỉ được đáp ứng với mức
độ rất thấp, thậm chí còn không đủ. Nhiều người rơi vào cảnh thiếu ăn liên
miên, chưa nói đến vấn đề đủ dinh dưỡng, riêng việc đáp ứng lượng Kcalo
cần thiết, tối thiểu cho con người để có thể duy trì hoạt động sống bình
thường họ cũng chưa thể đáp ứng được. Điều này đã kéo theo hàng loạt các
vấn đề khác như làm giảm sức khoẻ của người nghèo, do đó giảm năng suất
lao động, từ đó giảm thu nhập. Cứ như thế, nó đã tạo nên vòng luẩn quẩn mà
người nghèo rất khó thoát ra được.
Thu nhập thấp đã tạo nên tình trạng thiếu tài sản ở những người nghèo.
Tài sản ở đây có thể là tài sản vật chất, tài sản con người, tài sản tự nhiên, tài
sản tài chính, tài sản xã hội. Tài sản con người thể hiện ở khả năng có được
sức lao động cơ bản, kỹ năng và sức khoẻ tốt. Như đã trình bày ở trên, do thu

nhập thấp nên người nghèo không thể đáp ứng một cách đầy đủ nhu cầu về
lương thực thực phẩm. Ăn uống cực kì thiếu thốn, cộng với lao động nặng nề
đã làm giảm sức khoẻ của người nghèo, do đó cũng không đảm bảo được các
kỹ năng lao động cơ bản. Thiếu tài sản tự nhiên như: Đất đai, hoặc có nhưng
cằn cỗi, không thể canh tác được. Tài sản vật chất ở đây như nhà ở, phương
tiện sản xuất, người nghèo có rất ít hoặc hầu như không có các phương tiện
sản xuất. Điều này đã hạn chế khả năng lao động của họ, làm cho họ khó khăn
hơn, thu nhập thấp so với những người có đủ phương tiện sản xuất. Về nhà ở,
đại đa số người nghèo sống trong những căn nhà tạm bợ, dột nát, chật chội.
Nhiều căn nhà không đảm bảo an toàn, sức khoẻ cho những người nghèo. Do
không có những tài sản giá trị để thế chấp nên người nghèo cũng có rất ít khả
năng tiếp cận với các tổ chức cho vay vốn. Do thu nhập thấp, lúc nào cũng


11

phải lo chạy ăn đủ bữa nên người nghèo không quan tâm hoặc không có khả
năng tham gia nhiều vào các mối quan hệ xã hội. Một điều cản trở nữa là, hầu
hết khi tham gia vào các nhóm, tổ chức nào đó cũng đều phải đóng một khoản
phí nhất định, người nghèo lo ăn còn chưa đủ, nói gì đến việc bỏ tiền tham gia
nhóm, hội nào đó. Điều này đã làm cho người nghèo dần bị cô lập và do đó
khó nhận được sự giúp đỡ từ các nhóm, hội khi gặp khó khăn.
b. Y tế - giáo dục
Những người nghèo có nguy cơ mắc phải các bệnh thông thường như:
Ốm đau, các bệnh về đường giao tiếp, tình trạng sức khoẻ không được tốt do
ăn uống không đảm bảo, lao động cực nhọc. Người nghèo thường sống ở
những vùng có điều kiện vệ sinh, y tế thấp, còn nhiều hạn chế, chẳng hạn, họ
không được sử dụng nguồn nước sạch, không có công trình phụ hợp vệ sinh,
cũng làm giảm đáng kể sức khoẻ của họ. Điều này, dẫn đến tình trạng tỷ lệ
chết của trẻ sơ sinh trong nhóm hộ nghèo, số trẻ bị suy dinh dưỡng và số bà

mẹ mang thai thiếu dinh dưỡng rất cao. Do người nghèo có thu nhập thấp,
không đủ trả khoản tiền viện phí cũng như các chi phí thuốc men khác, thêm
vào đó có thể do đối xử bất bình đẳng trong xã hội, người nghèo không được
quan tâm chữa trị bằng người giàu, nên tỷ lệ tiếp cận các dịch vụ y tế của
người nghèo là rất thấp. Bên cạnh đó, do nhận thức của người nghèo, họ
thường không quan tâm nhiều đến bệnh tật của mình, khi bị bệnh họ thường
cố tự chạy chữa bằng mọi biện pháp rẻ tiền, chỉ đến khi bệnh trở nên trầm
trọng họ mới vào viện, vì vậy việc điều trị đem lại hiệu quả không cao, mà
còn tốn thêm nhiều khoản tiền không đáng có.
Tình trạng giáo dục đối với người nghèo cũng là vấn đề đáng thất vọng.
Hầu hết những người nghèo không đủ điều kiện học đến nơi đến chốn. Tình
trạng thất học, mù chữ ở hộ nghèo, đói luôn chiếm tỷ lệ cao do họ không thể
trang trải được các chi phí về học tập của con cái họ như tiền học phí, tiền


12

sách vở... đi học, họ sẽ mất đi một lao động trong gia dình. Những người
nghèo cũng đã nhận thức rõ được tầm quan trọng của học thức với nghèo đói
nhưng vấn đề học phí của con em họ quả là vấn đề quá khó khăn với tình hình
tài chính của gia đình. Một phụ nữ đã nói: “Các con tôi đã sẵn sàng tới trường
vào tháng 9, nhưng tôi không biết làm thế nào để có thể cho cả ba đứa tới
trường. Ở một số nước, trẻ em phải thôi học bởi lỡ hạn nộp học phí đến đúng
vào lúc mà gia đình không có khả năng thanh toán nhất.
Tóm lại, y tế - giáo dục là vấn đề được nhiều người nghèo quan tâm, họ
cũng đã hiểu rõ tầm quan trọng của các yếu tố này tới bản thân họ cũng như
tương lai của họ và gia đình nhưng do thu nhập thấp, không đủ trang trải, học
phí, viện phí, họ đành phải để con cái thôi học, người bệnh không được khám
và chữa chạy đúng mức, kịp thời, hầu hết các người nghèo không được tiếp
cận với các dịch vụ y tế. Điều này đã làm ảnh hưởng đến sức khoẻ của họ,

giảm sức khoẻ cũng như hạn chế cơ hội phát triển của các thế hệ sau.
c. Nguy cơ dễ bị tổn thương
Ở những người nghèo, nguy cơ dễ bị tổn thương là nhân tố luôn đi kèm
với sự khốn cùng về vật chất và con người. Vậy nguy cơ dễ bị tổn thương là gì?
Nó chính là nguy cơ mà người nghèo phải đối mặt với nhiều loại rủi ro như bị
ngược đãi, đánh đập, thiên tai, bị thôi việc, phải nghỉ học... Nói cách khác,
những rủi ro mà người nghèo phải đối mặt do tình trạng nghèo hèn của họ
chính là nguyên nhân khiến họ rất dễ bị tổn thương. Những người nghèo do tài
sản ít, thu nhập thấp, họ chỉ có thể trang trải hạn chế, tối thiểu các nhu cầu thiết
yếu nhất của cuộc sống. Vì vậy, khi rủi ro xảy ra họ rất dễ bị tổn thương và rất
khó vượt qua được các cú sốc có hại, những cú sốc mang tính tạm thời mà
những người có nhiều tài sản hơn dễ dàng vượt qua được. Do thu nhập thấp,
người nghèo có rất ít khả năng tiếp cận với các cơ hội tăng trưởng kinh tế, vì
thế họ thường phải bỏ thêm các chi phí không đáng có hoặc giảm thu nhập. Ở


13

các hộ nghèo, khi có rủi ro xảy ra như mất cắp hay có người bị ốm đau thì họ
dễ bị rơi vào tình trạng khủng hoảng, làm đảo lộn cuộc sống của cả gia đình mà
một thời gian lâu sau mới có thể phục hồi được. Cũng có khi việc khắc phục
những rủi ro trong ngắn hạn có thể làm trầm trọng thêm sự khốn cùng của họ
trong dài hạn. Chẳng hạn, do thiếu tài sản nên để chạy chữa cho người bị ốm,
gia đình buộc phải quyết định cho con cái phải nghỉ học hay họ phải đất, bán
trâu, bò, những phương tiện lao động cần thiết của gia đình. Từ đó rơi vào cảnh
khốn cùng, suy sụp đến cùng kiệt là điều khó tránh khỏi đối với người nghèo.
Nguy cơ dễ bị tổn thương đã tạo nên một tâm lý chung của người nghèo
là sợ phải đối mặt với rủi ro. Vì vậy họ luôn né tránh với những vấn đề mang
tính rủi ro cao, kể cả khi điều đó có thể đem lại nhiều lợi ích cho họ nếu thành
công (ví dụ đầu tư vào giống lúa mới, áp dụng phương thức sản xuất mới...)

Chính điều này đã làm họ sống tách biệt với xã hội, bị cô lập dần. Do vậy,
cuộc sống của họ càng trở nên bần cùng hơn.
d. Không có tiếng nói và quyền lực
Những người nghèo thường bị đối xử không công bằng, bị gạt ra ngoài lề
xã hội do vậy họ thường không có tiếng nói quyết định trong các công việc
chung của cộng đồng cũng như các công việc liên quan đến chính bản thân
họ. Trong cuộc sống những người nghèo chịu nhiều bất công do sự phân biệt
đối xử, chịu sự thô bạo, nhục mạ, họ bị tước đi những quyền mà những người
bình thường khác nghiễm nhiên được hưởng. Người nghèo luôn cảm thấy bị
sống phụ thuộc, luôn nơm nớp lo sợ mọi thứ, trở nên tự ti, không kiểm soát
được cuộc sống của mình. Đó chính là kết quả mà nguyên nhân không có tiếng
nói và quyền lực đem lại. Một người nghèo ở Trà Vinh nói họ chẳng được gọi
đi họp vì nhà ở xa, khi nào phải đi lao động thì mới được gọi tới. Kể cả khi họ
tham gia được các cuộc họp của cộng đồng thì họ cũng không thể quyết định
được vấn đề gì dù rằng vấn đề đó liên quan đến lợi ích của chính họ.


14

1.1.3. Một số phương pháp xác định chuẩn nghèo
Chuẩn nghèo là công cụ để phân biệt người nghèo và người không
nghèo. Hầu hết chuẩn nghèo được tính dựa vào thu nhập hoặc chi tiêu. Những
người được coi là nghèo khi mức sống của họ đo qua thu nhập (hoặc chi tiêu)
thấp hơn mức tối thiểu chấp nhận được, tức là thấp hơn chuẩn nghèo. Những
người có mức thu nhập hoặc chi tiêu ở trên chuẩn này là người không nghèo
hoặc đã vượt nghèo, thoát nghèo.
Chuẩn nghèo là một khái niệm động, nó biến động theo không gian và
thời gian. Về không gian, nó biến đổi theo trình độ phát triển kinh tế - xã hội
của từng vùng hay từng quốc gia.
Về thời gian, chuẩn nghèo biến động theo trình độ phát triển kinh tế - xã

hội và nhu cầu của con người theo từng giai đoạn lịch sử. Kinh tế - xã hội
càng phát triển, đời sống con người được cải thiện tốt hơn, nhu cầu tối thiểu
của con người cũng sẽ tăng lên. Tất nhiên, không phải tất cả các nhóm dân cư
đều có tốc độ cải thiện giống nhau, thông thường nhóm không nghèo có tốc
độ tăng mức thu nhập, mức sống cao hơn nhóm nghèo.
Chuẩn nghèo là công cụ để đo lường và giám sát nghèo đói. Một thước
đo nghèo đói tốt sẽ cho phép đánh giá được thực tế nghèo đói của một quốc
gia theo thời gian, đồng thời đánh giá được tác động các chính sách của Chính
phủ tới nghèo đói, tạo điều kiện so sánh với các nước khác và giúp giám sát
được chi tiêu xã hội theo hướng có lợi cho người nghèo.
a. Phương pháp xác định chuẩn nghèo của các tổ chức Quốc tế
(1) Phương pháp xác định ngưỡng nghèo của Ngân hàng Thế giới (WB):
Ngân hàng Thế giới đưa ra 2 mức chuẩn nghèo:
Nghèo lương thực thực phẩm: Tổng chi dùng chỉ tính riêng cho phần
lương thực thực phẩm, làm sao để đảm bảo lượng dinh dưỡng tối thiểu cho
một người là 2100 Kcal/ngày đêm;


15

Nghèo chung: tổng chi dùng cho cả giỏ hàng tiêu dùng tối thiểu, được
xác định bằng cách ước lượng tỷ lệ: 70% chi dùng dành cho lương thực thực
phẩm, 30% cho các khoản còn lại.
(2) Phương pháp xác định ngưỡng nghèo của Tổ chức Lao động quốc tế
(ILO).
Đại diện của tổ chức lao động quốc tế ông Vali Jaman. Ông vẫn dựa trên
cách tính ngưỡng nghèo của ngân hàng Thế giới, nhưng ông đi sâu nghiên
cứu rổ lương thực, thực phẩm của người nghèo trong việc đáp ứng đủ 2100
Kcal người/ngày. Theo ông đối với người nghèo thì rổ lương thực với 40 loại
sản phẩm thì có rất nhiều loại sản phẩm người nghèo không bao giờ có được

chi phí để sử dụng, mà người nghèo chỉ có thể sử dụng những sản phẩm với
chi phí là thấp nhất để cung cấp đủ hàm lượng 2100 Kcal, tập trung chủ yếu là
lương thực. Theo ông nguồn Kcal rẻ nhất là các sản phẩm tinh bột ngũ cốc và
củ rễ, các sản phẩm này cung cấp hơn 60% lượng Kcal mỗi ngày, còn các sản
phẩm khác như là hàng xa xỉ đối với người nghèo. Từ lập luận trên đại diện
ILO đưa ra phương pháp tính toán ngưỡng nghèo đói, mức nghèo đói được
chọn là một rổ lương thực thực phẩm với 75% Kcal từ gạo, còn các hàng hoá
còn lại được gộp lại là gia vị cung cấp 25% Kcal.
Tương ứng với cách tính của ILO chuẩn nghèo đói lương thực thực
phẩm có giá trị là = 868.700 đồng/người/năm.
(3) Theo UNDP: Nghèo được đánh giá dựa trên sơ sở phân phối thu
nhập theo đầu người hay theo nhóm dân cư. Thước đo này tính phân phối thu
nhập cho từng cá nhân hoặc hộ gia đình nhận được trong thời gian nhất định
mà không quan tâm đến nguồn mang lại thu nhập hay môi trường sống của
dân cư. Cụ thể: Đem chia dân số của một nước, một châu lục hoặc toàn cầu ra
làm 5 nhóm, mỗi nhóm có 20% dân số bao gồm: Rất giàu, giàu, trung bình,
nghèo và rất nghèo.


16

b. Phương pháp xác định chuẩn nghèo ở Việt nam
Ở Việt Nam, nghèo đói được phân theo chuẩn nghèo quốc gia, nghĩa là
dựa vào thu nhập bình quân khẩu/tháng.
Năm 2009, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã đưa ra ba phương
án chuẩn nghèo mới trình Thủ tướng Chính phủ ban hành chuẩn nghèo áp
dụng cho giai đoạn 2011 - 2015, trong đó:
Phương án 1: Ước lượng theo cơ cấu tiêu dùng năm 2006 của nhóm dân
cư có mức tiêu dùng đạt nhu cầu tối thiểu về lương thực, thực phẩm và một
phần phi lương thực, thực phẩm, dự kiến chuẩn nghèo là 500.000

đồng/người/tháng đối với khu vực thành thị, 400.000 đồng/người/tháng đối
với khu vực nông thôn.
Phương án 2: Ước lượng theo cơ cấu chi tiêu năm 2006 của nhóm dân cư
có mức tiêu dùng đạt nhu cầu tối thiểu về cả lương thực, thực phẩm và phi
lương thực, thực phẩm. Dự kiến 600.000 đồng/người/tháng với khu vực thành
thị, 450.000 đồng/người/tháng với khu vực nông thôn.
Phương án 3: Ước tính trên cơ sở dự báo cơ cấu chi tiêu của nhóm dân
cư có mức tiêu dùng đạt nhu cầu tối thiểu đến năm 2011. Dự kiến 700.000
đồng/người/tháng đối với thành thị và 480.000 đồng/người/tháng đối với
nông thôn.
Tuy chuẩn nghèo theo phương án 2 và phương án 3 phản ánh được sát
hơn cơ cấu chi tiêu của người nghèo nhưng lại không phù hợp với khả năng
cân đối ngân sách.
Vì thế, Chính phủ đã chọn phương án nâng chuẩn nghèo ở mức thấp
nhất, tức 400.000 đồng/người/tháng cho khu vực nông thôn và 500.000
đồng/người/tháng cho khu vực thành thị để áp dụng từ đầu năm 2011.
Chuẩn nghèo mới đã tăng gấp hai lần chuẩn đang được áp dụng là
200.000 đồng/người/tháng đối với khu vực nông thôn và 260.000 đồng/tháng


×