SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
"MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TẠO HỨNG THÚ HỌC MÔN NGỮ
VĂN CHO HỌC SINH THCS"
1
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. CƠ SỞ KHOA HỌC.
1. Cơ sở lí luận.
Người giáo viên được vinh danh là những “kĩ sư tâm hồn”, nghĩa là những người xây
dựng, làm giàu, làm mới và làm đẹp cho tâm hồn người học. Để đảm nhận được vai trò kĩ
sư ấy, thiết nghĩ người giáo viên phải biết vận dụng một cách sáng tạo, linh hoạt và phù
hợp các phương pháp dạy học, đem lại hiệu quả giáo dục cao nhất. Thời đại càng phát
triển, đòi hỏi càng phải đổi mới phương pháp dạy học, mà mục tiêu luôn luôn là hướng
vào người học, phát huy vai trò là “trung tâm” của các em, phát huy tính chủ động, tích
cực, sáng tạo và đem lại hứng thú thực sự cho các em trong mỗi giờ học. Luật Giáo dục,
Điều 28.2 đã ghi: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tích tích cực, tự giác,
chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm từng lớp học, môn học; bồi dưỡng
phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm, rèn kỹ năng vận dụng kiến thức vào
thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”. Như
vậy, hứng thú học tập của học sinh chính là đích đến đầu tiên của việc đổi mới phương
pháp dạy học. Có khơi được hứng thú học tập ở học sinh thì người giáo viên mới có thể
mở được cánh cửa tâm hồn để làm nhiệm vụ là một “kĩ sư” của mình.
Vậy thế nào là hứng thú?
Theo Từ điển Tiếng Việt – Nhà xuất bản Đà Nẵng, năm 2000, “ hứng thú là sự ham
thích”. Nói một cách rõ hơn thì hứng thú chính là sự “nổi lên, dấy lên, bộc lộ ra” cảm xúc
thích thú, phấn khích, say mê trước một đối tượng cụ thể nào đó. Hứng thú là một trạng
thái tinh thần khiến cho con người có thể giải toả được sự căng thẳng, mệt mỏi, giúp tập
trung vào công việc và trở thành động lực để làm việc.
Trong hoạt động dạy học, người giáo viên chỉ đóng vai trò tổ chức, hướng dẫn, điều
khiển, còn học sinh mới là người hoạt động thực sự. Để học sinh có thể cộng tác cùng
giáo viên và tích cực, tự giác hoạt động thì việc đem lại hứng thú cho học sinh trong các
giờ học đóng vai trò quan trọng hàng đầu.
Với học sinh THCS, ở cái lứa tuổi “dại chưa qua, khôn chưa tới”, lứa tuổi với sự phát
triển phức tạp của tâm lí thì việc đem lại hứng thú học tập cho các em có ý nghĩa rất lớn.
Ở lứa tuổi này, các em rất chóng chán, dễ mất hứng thú, không chịu bất kì sự gò ép, lệ
thuộc nào. Các em lại chưa có ý thức rõ ràng về tầm quan trọng của việc học để có thể
kiên trì, chịu khó. Với các em học trước hết phải “thích” đã. Một khi đã mất hứng thú và
cảm thấy một sự gò ép, khiên cưỡng, các em sẽ tìm đến một giải pháp là “giải phóng”
cho tinh thần. Nghĩa là để đầu óc trống rỗng, không tập trung, không suy nghĩ và không
2
cộng tác trong giờ học. Nếu điều đó diễn ra lâu dài, tạo thành một thói quen thì hậu quả
sẽ vô cùng nguy hại. Vì lúc đó “sức ì” ở các em rất lớn nên việc muốn phát huy tính chủ
động, tích cực, sáng tạo ở các em là một việc làm khó thực hiện.
Xuất phát từ đặc trưng môn học, việc tạo hứng thú cho học sinh trong các giờ dạy học
Văn có những thuận lợi, khó khăn riêng. Thuận lợi vì văn học trực tiếp bộc lộ cảm xúc
tâm hồn và tư tưởng của nhà văn trước cuộc sống. “Là nghệ thuật ngôn từ nên nó có tính
vạn năng trong việc phản ánh mọi chiều sâu và bề rộng của hiện thực khách quan, cả
những điều kì diệu và bí ẩn trong thế giới tâm hồn con người” (Lí luận văn học – Nhà
xuất bản Giáo Dục, 2001). Con đường văn chương đến với người đọc chính là từ trái tim
đến với trái tim. Vì vậy mà văn học dễ gây hứng thú. Nhưng khó khăn cũng là vì văn học
là nghệ thuật ngôn từ. Là nghệ thuật ngôn từ, văn học không mang tính trực quan mà
“mang tính hình tượng gián tiếp”. Việc tiếp nhận văn học không phải chỉ đơn thuần là thu
nhận trực tiếp kiến thức như các môn học khác, cũng không thể cảm nhận trực tiếp bằng
tai, mắt như các loại hình nghệ thuật nghe nhìn. Việc tiếp thu các hình tượng văn học còn
là quá trình diễn biến phức tạp của tư duy người đọc, chỉ dựa trên những kí hiệu ngôn từ.
Phải thông qua hoạt động khai thác hệ thống hình tượng nghệ thuật, người đọc mới khám
phá được chiều sâu tư tưởng, tình cảm mà nhà văn muốn gửi gắm. Thực sự đó là một vấn
đề khó đối với học sinh, nhất là ở lứa tuổi THCS, khi mà vấn đề khai thác tác phẩm văn
chương đòi hỏi khai thác trong tính chỉnh thể, tính hệ thống trong khi các em còn nặng về
tư duy trực quan, cảm tính. Và vì khó nên học sinh không dễ thấy hứng thú.
Đó thực sự là thử thách với người dạy Văn.
2. Cơ sở thực tiễn.
Xã hội ngày càng phát triển thì thị hiếu thẩm mĩ của con người cũng như việc lựa chọn
môn học yêu thích của học sinh ngày càng thay đổi. Sự phát triển của nền kinh tế thị
trường tạo ra lối sống thực dụng cho con người. Lối sống đó ảnh hưởng chi phối đến cả
việc học tập và lựa chọn môn học để chọn nghề của học sinh. Thực tế cho thấy, hứng thú
học Ngữ Văn nói chung và học Văn bản nói riêng của học sinh ngày một ít đi, môn Ngữ
Văn đang mất dần vị trí của mình. Mặc dù nó vẫn là môn học chính, nhưng học sinh có
thực sự yêu thích và lựa chọn nó cho hướng đi của mình hay không? Một thực tế ai cũng
phải công nhận là hiện nay, trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi, giáo viên rất bối rối,
khó khăn trong việc tạo đội tuyển học sinh thi Ngữ Văn. Vì đó là lựa chọn cuối cùng của
các em, khi các môn Toán, Tiếng Anh...đã đủ số lượng. Số lượng hồ sơ khối C thi tuyển
sinh vào các trường Đại học, Cao đẳng, Trung cấp trong cả nước cũng ngày một giảm.
Với học sinh THCS, việc chọn nghề, chọn khối đã bắt đầu định hình nên đó là lí do các
em “xa dần” với môn Văn. Bên cạnh đó, mặc dù là môn học chính nhưng với các em,
3
việc học Văn chưa xuất phát từ sự say mê, hứng thú thực sự. Các em chỉ học mang tính
thụ động, đối phó. Vì vậy mà những kiến thức nhận được từ bài học Văn ở các em chỉ hời
hợt, ít đọng, chóng quên. Như lời của Tiến sĩ Văn học Trịnh Thu Tuyết – giáo viên dạy
Văn ở Hà Nội đã nói: “Những năm gần đây, một trong những vấn đề khiến nhiều giáo
viên văn trăn trở, bối rối, thậm chí bất lực buông xuôi, đó là tình trạng học trò chán học
văn, chán văn chương, rút gọn việc học văn bằng các hoạt động nhàm chán, miễn cưỡng
với: nghe, ghi chép, trả bài - trong đó hoạt động nghe không còn hứng thú, hoạt động ghi
không có sáng tạo và việc trả bài phần nào đúng với ý nghĩa là trả lại bài thầy cô đã giảng
cho thầy cô, trả càng đủ, càng chính xác càng tốt!”.
Là một giáo viên dạy Văn, trước thực tế đó, bản thân tôi cũng cảm thấy chua xót và đầy
trăn trở. Liệu có lúc nào, người giáo viên dạy Văn lại trở thành những “ông đồ” của “một
thời vang bóng”?
II. MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU.
Xuất phát từ những cơ sở lí luận, thực tiễn đó, bản thân tôi thực sự nhiều năm trăn trở và
đã quyết định thực hiện đề tài nghiên cứu “Một số giải pháp nhằm tạo hứng thú học
Văn (ở đây tôi muốn đề cập đến giờ học Văn bản) cho học sinh THCS”. Với việc thực
hiện đề tài này, tôi muốn tự nâng cao nhận thức, năng lực về chuyên môn cho bản thân
mình. Đồng thời, mong muốn được bày tỏ, trao đổi với đồng nghiệp để góp phần cùng
tìm cách “giải mã”, tìm đáp án cho bài toán “tạo hứng thú học Văn” cho học sinh. Mục
đích cuối cùng vẫn là mong học sinh ngày càng yêu thích văn chương, hứng thú học Văn
để không những có được kết quả cao trong học tập mà ngày càng đến gần với cái Chân –
Thiện – Mĩ; để người giáo viên thực sự hoàn thành được nhiệm vụ của một “kĩ sư tâm
hồn”.
III. ĐỐI TƯỢNG, THỜI GIAN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
1. Đối tượng nghiên cứu chính là hứng thú học Văn của học sinh THCS, nội dung các
văn bản trong chương trình sgk Ngữ Văn THCS và các phương pháp để dạy học Văn bản.
Có rất nhiều phương pháp, giải pháp nhằm tạo hứng thú học Văn cho học sinh, cũng đã
có rất nhiều ý kiến, sáng kiến nghiên cứu vấn đề này. Tuy nhiên, ở phạm vi đề tài này,
bản thân tôi xin được trình bày một số giải pháp nhằm tạo hứng thú cho học sinh dựa trên
đặc trưng thể loại văn học, đặc biệt là giải quyết khó khăn trong vấn đề tích hợp môi
trường trong thơ trữ tình và giảng dạy văn bản thuyết minh trong cụm văn bản nhật dụng.
2. Thời gian nghiên cứu đề tài là những năm dạy học của bản thân, trong đó tôi bắt đầu
nghiên cứu đề tài từ năm 2009 và tiến hành thực nghiệm đối chứng trong các năm học
2010 – 2011 và 2011 – 2012.
4
3. Phương pháp nghiên cứu: bao gồm thu thập thông tin, xử lí số liệu, điều tra kiểm
chứng, đối chứng thực nghiệm, đúc rút kinh nghiệm và trao đổi thảo luận cùng bạn bè,
đồng nghiệp...
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. THỰC TRẠNG.
Thực tế cho thấy học xong một giờ Đọc – Hiểu văn bản, học sinh thu nhận được cái mà
các em cần quá ít ỏi, thậm chí cá biệt có em không thu hoạch được gì. Chính điều đó dẫn
đến kiến thức thực tế về văn học của các em còn nghèo nàn, dùng từ ngữ trong giao tiếp
một cách thiếu chính xác, đặc biệt trong các bài Tập làm văn thường mắc lỗi chính tả, câu
văn viết chưa đúng ngữ pháp, cách diễn đạt vụng về, sáo mòn, lệ thuộc vào sách tham
khảo, nhất là các em chưa biết cách vận dụng kiến thức đã học vào bài văn. Nguyên nhân
dẫn đến tình trạng đó là do việc giảm hứng thú hoặc không cảm thấy hứng thú trong giờ
học Văn của các em. Qua thực tiễn điều tra một lần nữa khẳng định điều đó.
Năm học 2010 – 2011, tôi được phân công giảng dạy Ngữ Văn các lớp 7B, 7D. Trên cơ
sở đã bắt đầu nghiên cứu về vấn đề hứng thú học Văn của học sinh THCS từ năm 2009,
nên tôi tiến hành thực nghiệm điều tra tại hai lớp 7B, 7D và kết quả thu được như sau:
Lớp
Số
HS Học sinh có hứng thú trong Học sinh có điểm trung
được khảo giờ Đọc – Hiểu văn bản
bình học kì I loại Khá sát
Giỏi
Số lượng
Tỉ lệ
Số lượng
Tỉ lệ
7B
32
15
46,9%
9
28,1%
7D
34
16
47,1%
11
32,4%
Năm học 2011 – 2012, tôi được phân công giảng dạy các lớp 8A, 8B, 8C. Tiếp tục điều
tra, thu thập, tôi lại được kết quả như sau:
Lớp
Số
HS Học sinh có hứng thú trong Học sinh có điểm trung
được khảo giờ Đọc – Hiểu văn bản
bình học kì I loại Khá sát
Giỏi
Số lượng
Tỉ lệ
Số lượng
Tỉ lệ
5
8A
35
27
77,1%
19
70,4 %
8C
34
15
44,1 %
10
29,4%
Từ kết quả cho thấy, số học sinh có hứng thú học Văn chiếm tỉ lệ thấp. Chỉ riêng lớp 8A
là lớp chọn nên tỉ lệ này có cao hơn gần gấp đôi.
Vậy thì, nguyên nhân nào dẫn đến sự giảm hứng thú, giảm yêu thích văn chương ở
học sinh?. Theo tôi, có rất nhiều nguyên nhân, bao gồm cả khách quan lẫn chủ quan, cả
nguyên nhân do thời đại, xã hội lẫn nguyên nhân do nội dung, chương trình môn học và
bản thân người học, người dạy Văn (ở đây tôi muốn đề cập đến vấn đề dạy học Đọc Hiểu văn bản).
Về nội dung, chương trình phân môn Văn học, việc đổi mới chương trình, nội dung
dạy học Văn đòi hỏi môn Văn phải thực hiện được nhiều nhiệm vụ, không chỉ đem lại giá
trị văn chương trong mỗi tác phẩm đến với học sinh mà còn kết hợp giáo dục kĩ năng
sống, tích hợp giáo dục môi trường, cung cấp tri thức thực tế, mang tính thời sự của đời
sống qua hệ thống các văn bản nhật dụng...Phải chăng điều đó làm phần nào giảm đi tính
nghệ thuật, tính văn chương trong mỗi giờ dạy học Văn, khiến học sinh cảm thấy là môn
Văn khô khan, nhàm tẻ? Tuy nhiên vấn đề quan trọng hơn là chúng ta thực hiện đổi mới
nhưng đã có hướng dẫn thật cụ thể, chi tiết cho từng văn bản cụ thể và những giải pháp
thực sự hiệu quả cho việc thực hiện đổi mới đó chưa? Hay tất cả chỉ là sự “mò đường”
của giáo viên trên cơ sở những định hướng chung chung, có sẵn.
Về phía học sinh, bên cạnh lí do ảnh hưởng của việc chọn môn để chọn khối, chọn nghề
như ở phần trên đã nói, còn có lí do môn Ngữ Văn được coi là một môn học khó, mang
tính đặc thù. Từ hiểu đến cảm là cả một quá trình phức tạp, đòi hỏi người học phải thực
sự say mê để phát huy hết trí tưởng tưởng, sáng tạo cũng như năng lực cảm thụ, có ý thức
chủ động tìm đến với tác phẩm văn chương để sống cùng thế giới nghệ thuật của người
nghệ sĩ. Điều này không phải bất kì đối tượng học sinh nào cũng có được. Bên cạnh đó,
các em lại quen với lối học thụ động, thích sao chép (sao chép từ lời giáo viên đến tài liệu
tham khảo). Vì vậy, đa phần các em đến với giờ học Văn với một tâm thế miễn cưỡng,
dựa dẫm, ỉ lại cho một số bạn học giỏi Văn và ít thấy hứng thú trong giờ học.
Tuy nhiên, nguyên nhân chính vẫn là ở phía người dạy, người có nhiệm vụ làm người
chỉ đường, hướng dẫn cho học sinh đến với các tác phẩm văn chương nghệ thuật. Người
giáo viên đã thực sự đầu tư và tâm huyết trong mỗi giờ dạy Văn hay chưa? Họ đã thực sự
“yêu Văn” để duy trì và tiếp lửa cho học sinh trong suốt chặng đường dạy học của mình
hay chưa? Hay vì đặc thù của môn học và tâm thế của học sinh mà người dạy chỉ chăm
chăm vào việc dạy làm sao cho hết, cho xong, tránh tình trạng giáo án “cháy”, “lụt”?
6
Sau khi điều tra thực nghiệm và tìm hiểu nguyên nhân, bản thân tôi xin phép được đưa ra
một số giải pháp nhằm tạo hứng thú học Văn cho học sinh THCS, góp phần giúp các em
gần Văn, yêu Văn và học Văn được hứng thú, có kết quả hơn.
II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TẠO HỨNG THÚ HỌC VĂN CHO HỌC SINH
THCS.
1. Sử dụng kĩ năng minh hoạ trong giảng dạy tác phẩm thơ.
Để tăng tính trực quan sinh động cho giờ dạy, khơi gợi hứng thú ở học sinh, có rất nhiều
phương pháp như sử dụng tranh ảnh, ứng dụng công nghệ thông tin, đọc diễn cảm, kể
chuyện, đóng vai...Ở đây tôi xin được trình bày thêm một giải pháp đó là sử dụng kĩ
năng minh hoạ trong giảng dạy tác phẩm thơ.
Kĩ năng minh hoạ là những thao tác, kĩ thuật, khả năng được người giáo viên vận dụng
vào để minh hoạ cho quá trình tổ chức, hướng dẫn hoạt động dạy học như vẽ, hát,
diễn...Hứng thú học tập của học sinh phần lớn có được từ những điều mang tính trực
quan sinh động. Vì vậy việc vận dụng khéo léo những kĩ năng minh hoạ vào dạy học Văn,
đặc biệt là trong dạy học thơ trữ tình sẽ đem lại khả năng gây hứng thú lớn.
Kĩ năng minh hoạ chủ yếu được vận dụng trong quá trình giáo viên hướng dẫn, tổ chức
cho học sinh khai thác thi liệu văn bản. Như ta đã biết, tác phẩm văn chương “mang tính
hình tượng gián tiếp”, nếu trong quá trình khai thác, khám phá thế giới hình tượng đó,
người giáo viên không vẽ ra, dựng ra được một cách cụ thể thì sẽ rất khó khăn cho những
đối tượng học sinh không giàu trí tưởng tượng và khả năng liên tưởng. Ngôn ngữ thơ vốn
giàu chất tạo hình, nhưng nếu người giáo viên biết cụ thể hoá nó bằng những đường nét
minh hoạ thì việc khai thác thi liệu đối với học sinh sẽ có một sức hấp dẫn không thể nào
cưỡng được. Ở phạm vi đề tài này, tôi xin được trình bày vài ý kiến về việc sử dụng kĩ
năng vẽ minh họa trong dạy học tác phẩm thơ.
Chẳng hạn, khi dạy văn bản Ngắm trăng của Hồ chí Minh (Ngữ Văn 8, tập 2), đến hai
câu thơ:
“Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt
Nguyệt tòng song khích khán thi gia”
Sau khi gợi ý hướng dẫn cho học sinh (HS) bằng các câu hỏi:
? Cho biết những đối tượng nào được xuất hiện trong hai câu thơ?
- HS: người, trăng và song cửa.
? Vị trí xuất hiện của ba đối tượng đó trong hai câu thơ ntn?
7
Sau khi HS trả lời, giáo viên (GV) có thể vừa đọc hai câu thơ vừa vẽ minh hoạ hình ảnh
người – song cửa – vầng trăng theo đúng vị trí xuất hiện của chúng trong hai câu thơ lên
bảng và đặt câu hỏi:
? Vì sao luôn có sự xuất hiện của “song” giữa người (thi gia) và trăng?
- HS: trả lời.
- GV bình, kết luận: Trong cảnh lao tù, song sắt nhà giam luôn tồn tại như sự hiện thân
của thế lực bạo tàn, của cái ác. Nó chia cách người với trăng, nó ngăn cản sự giao hoà,
giao cảm giữa người tù – thi nhân với thiên nhiên đẹp đẽ. Thế nhưng, ở đây, vượt lên trên
rào cản của song sắt nhà tù, người và trăng vẫn chủ động tìm đến với nhau để được
“khán”, được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nhau. Nhà tù có thể giam hãm thân thể con người
nhưng không cách nào khoá cửa tâm hồn yêu thiên nhiên của người tù cách mạng.
Cũng như vậy, khi dạy văn bản Cảnh ngày xuân (Trích Truyện Kiều, Nguyễn Du – Ngữ
Văn 9, tập 1), đến hai câu thơ:
“Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”
Giáo viên có thể đặt câu hỏi gợi tìm cho HS:
? Cảnh thiên nhiên được miêu tả qua những hình ảnh nào?
- HS: trả lời.
GV vừa đọc hai câu thơ vừa vẽ minh hoạ một đường thẳng chân trời, một nửa dùng phấn
màu xanh vẽ nền của cỏ non. Trên cái nền đó, vẽ minh hoạ một nhành cây điểm xuyết vài
bông hoa trắng. Sau đó đặt câu hỏi:
? Với việc sử dụng các hình ảnh “cỏ non”, “tận chân trời”, “điểm”, “hoa” và việc phối
màu “xanh – trắng”, tác giả đã dựng lên bức tranh thiên nhiên mùa xuân ntn?
- HS: trả lời.
- GV bình giảng: Cảnh thiên nhiên hiện lên thật trong trẻo, tươi mới và đầy sức sống. Cỏ
non xanh trải dài đến tận chân trời, những bông hoa đang dần dần hé nở. Không gian cao
rộng, thoáng đãng. Màu sắc “xanh – trắng” phối hợp càng tạo vẻ tinh khôi, trong trẻo của
trời xuân.
Khi dạy văn bản Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận (Ngữ Văn 9, tập 1), khai thác đến
cảnh đoàn thuyền ra khơi với hình ảnh:
“Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng”
8
Giáo viên đặt câu hỏi:
? Cảnh thiên nhiên được miêu tả qua những hình ảnh nào?
- HS: gió, trăng, mây cao, biển bằng.
? Những hình ảnh đó gợi tả không gian và cảnh sắc ra sao?
- HS: không gian cao rộng, cảnh sắc nên thơ.
Lúc này, giáo viên có thể vừa đọc hai câu thơ vừa vẽ một đường thẳng minh hoạ cho ranh
giới giữa trời và biển. Trên trời vẽ áng mây cao, vẽ vầng trăng bạc; dưới nước vẽ làn sóng
lặng và con thuyền nhẹ lướt ra khơi. GV kết hợp lời bình: “Trong không gian trời biển
mênh mông, giữa khung cảnh có gió, có trăng, có mây cao, sóng lặng, con thuyền lướt ra
khơi như bay vào một miền cổ tích. Cảnh thiên nhiên thật lãng mạn, nên thơ”.
Với giải pháp này, có thể nhiều người cho rằng khó thực hiện vì vẽ thuộc về năng khiếu.
Nhưng theo tôi, không gì là khó nếu người giáo viên thực sự tâm huyết yêu nghề, thực
tâm muốn đem lại hứng thú cho người học và thực lòng sống với tác phẩm văn chương.
Ở đây chỉ là những nét vẽ minh hoạ, những phác hoạ đơn giản, không đòi hỏi cầu kì.
Giáo viên có thể rèn luyện để có kĩ năng vẽ minh hoạ thành thạo, vận dụng linh hoạt
trong giờ dạy, đem lại hứng thú từ việc tạo tính trực quan sinh động cho học sinh.
2. Giải pháp thực hiện tích hợp môi trường trong thơ trữ tình, thông qua việc liên
hệ, tích hợp với tác phẩm có tích hợp môi trường khác.
Tác phẩm thơ trữ tình giàu tính văn chương nghệ thuật, nhưng ở đây, trong giảng dạy một
số văn bản lại đòi hỏi tích hợp với kiến thức thực tế về môi trường. Điều đó quả thực đặt
ra không ít khó khăn. Nếu tích hợp một cách gượng ép hay ôm đồm thì sẽ làm giảm tính
văn chương, nghệ thuật của tác phẩm thơ, gây mất hứng thú. Nhưng nếu tích hợp hời hợt,
không rõ ràng thì lại không giáo dục được cho học sinh ý thức về bảo vệ môi trường.
Vậy trên cơ sở nguyên tắc chia nhỏ, rải đều khi tích hợp môi trường trong thơ trữ tình,
chúng ta có thể vận dụng giải pháp tích hợp với các tác phẩm có tích hợp môi trường
khác trong chương trình thông qua việc liên hệ, so sánh, đối chiếu.
Ví dụ: khi dạy bài Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan (Ngữ Văn 7, tập 1), sau
khi hướng dẫn cho học sinh tìm hiểu nội dung bài thơ, chúng ta có thể tích hợp môi
trường bằng cách liên hệ tích hợp, đối sánh với bài Bài ca Côn Sơn của Nguyễn Trãi
(Ngữ Văn 7, tập 1) thông qua câu hỏi:
? Cảnh thiên nhiên và tâm trạng con người trong bài thơ “Qua Đèo Ngang” có gì khác so
với bài “Bài ca Côn Sơn” của Nguyễn Trãi?
9
- HS: Ở “Bài ca Côn Sơn”, cảnh trong lành, thanh tĩnh; tâm hồn con người thư thái, yêu
đời. Còn với bài “Qua Đèo Ngang”, cảnh cô liêu, hoang vắng; tâm hồn con người lạc
lõng cô đơn.
? Qua sự đối chiếu đó, em thấy được điều gì về mối liên hệ giữa con người với môi
trường thiên nhiên?
- HS: trả lời.
- GV nhận xét, kết luận: môi trường thiên nhiên có ảnh hưởng lớn đến tâm hồn, trạng thái
tình cảm của con người. Môi trường thiên nhiên trong lành, thanh tĩnh khiến con người
được thư thái, nhẹ nhõm, muốn “tìm nơi hóng mát” để “ngâm thơ nhàn”. Môi trường
thiên nhiên hoang sơ, vắng lặng lại gây cho con người cảm giác lạnh lẽo, cô đơn: “Một
mảnh tình riêng ta với ta”. Bởi vậy, cần giữ gìn một môi trường trong lành, tươi đẹp để
con người luôn có được sự sảng khoái, thoải mái cho tinh thần.
Dạy văn bản Bài thơ về tiểu đội xe không kính của nhà thơ Phạm Tiến Duật (Ngữ Văn 9,
tập 1), sau khi cho học sinh tìm hiểu về hiện thực chiến tranh khốc liệt do đế quốc Mĩ gây
ra, giáo viên có thể nêu câu hỏi:
? Dưới sự tàn phá ác liệt đó, môi trường thiên nhiên sẽ ntn?
- HS: bị huỷ hoại nghiêm trọng.
? Tích hợp với “Bài ca Côn Sơn” của Nguyễn Trãi ở chương trình Ngữ Văn 7, tập 1, em
thấy mối quan hệ giữa môi trường thiên nhiên với con người ở hai bài thơ có gì khác
nhau?
- HS: trả lời.
- GV rút ra nhận xét: Ở bài “Bài ca Côn Sơn”, môi trường thiên nhiên trong lành, thanh
tĩnh giúp con người thư thái. Còn ở “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” lại cho thấy con
người (bọn đế quốc) quay trở lại huỷ diệt môi trường thiên nhiên, tàn phá chính sự trong
lành, thanh tĩnh đó.
Giải pháp này giúp học sinh không những thấy văn chương gần gũi với đời sống mà còn
nhận ra mối liên hệ giữa các tác phẩm, từ đó có hứng thú hơn khi phát hiện ra sự “giống”,
“khác” giữa các tác phẩm được tích hợp đối chiếu.
3. Giải pháp đặt mục tiêu để giải quyết câu hỏi “có vấn đề” trong giảng dạy tác
phẩm tự sự.
Câu hỏi “có vấn đề” là dạng câu hỏi đòi hỏi phát huy tính tư duy sáng tạo của học sinh.
Sử dụng câu hỏi “có vấn đề” trong tổ chức các hoạt động dạy học nói chung cũng như
dạy học tiết Đọc – Hiểu nói riêng có ý nghĩa rất quan trọng. Vì nó giúp mở rộng, khắc sâu
10
nội dung kiến thức và kích thích hứng thú được khám phá, tìm hiểu của học sinh. Tuy
nhiên vì đòi hỏi tính tư duy sáng tạo nên không phải đối tượng học sinh nào cũng hứng
thú. Nếu không có phương pháp vận dụng phù hợp thì việc đặt câu hỏi “có vấn đề” chỉ có
ý nghĩa kích thích hứng thú của đối tượng học sinh vốn yêu thích môn Văn và học sinh
có năng lực học tốt. Còn những đối tượng học sinh khác sẽ vì khó mà tránh, ỉ lại cho các
bạn vẫn thường tích cực phát biểu.
Đúc rút kinh nghiệm dạy học của bản thân, tôi nhận thấy việc sử dụng giải pháp đặt
mục tiêu để giải quyết câu hỏi “có vấn đề” đem lại hiệu quả tốt, kích thích được hứng
thú học tập của mọi đối tượng học sinh. Với học sinh THCS, một trong những mục tiêu
quan trọng trước mắt của việc học tập chính là để đạt điểm cao. Vì vậy có thể dùng chính
mục tiêu đó làm đích đến cho việc giải quyết những câu hỏi “có vấn đề”. Có thể sử dụng
nhiều hình thức khác nhau để đặt mục tiêu như: cho điểm tuyệt đối (điểm 10), cộng thêm
điểm vào bài kiểm tra sắp tới hoặc cho thêm một điểm tốt bù trừ cho điểm kém của lần
kiểm tra trước để nâng cao điểm bình quân (áp dụng với điểm miệng). Ở đây, tôi xin đưa
ra một số ví dụ về việc sử dụng giải pháp đặt mục tiêu để giải quyết câu hỏi “có vấn đề”
khi dạy tác phẩm tự sự.
Chẳng hạn, giáo viên có thể sử dụng các câu hỏi “có vấn đề” như:
? Vì sao cô bé bán diêm đã chết mà “đôi má ửng hồng và đôi môi mỉm cười”? (Văn bản
Cô bé bán diêm của An-đéc-xen, Ngữ Văn 8 – tập 1)
? Vì sao sau khi được giải oan, Vũ Nương vẫn không quay trở lại cuộc sống trần gian với
chồng con?
(Văn bản Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ, Ngữ Văn 9 – tập 1)
? Vì sao Thuý Vân được tác giả miêu tả cả khuôn mặt với làn da, mái tóc, lông mày, hàm
răng, khuôn miệng, còn Thuý Kiều lại chỉ được tả có mỗi đôi mắt: “Làn thu thuỷ, nét
xuân sơn”?
(Văn bản “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, trích Truyện Kiều, Ngữ Văn 9 – tập 1)
Để kích thích mọi đối tượng học sinh cùng hứng thú tham gia giải quyết những câu hỏi
đó, giáo viên sẽ đặt mục tiêu: “Ai trả lời đúng câu hỏi, cô (thầy) sẽ cho 10 điểm” hoặc
“Cô (thầy) sẽ cộng thêm một điểm vào điểm kiểm tra viết sắp tới cho những ai trả lời
đúng câu hỏi này” hay: “Với những bạn đạt điểm thấp lần trước, nên cố gắng tìm câu trả
lời vì nếu trả lời đúng hoặc có ý, cô sẽ cho thêm một điểm tốt để bù trừ cho điểm thấp lần
trước”...
Kinh nghiệm cho thấy, khi sử dụng giải pháp này trong quá trình dạy học, giáo viên đã
khơi gợi được hứng thú và tính tích cực chủ động của học sinh. Nhưng một điều cần lưu
11
ý là người giáo viên nên để học sinh phát biểu hết ý kiến của mình, không phải vì sợ hết
giờ mà chỉ gọi một vài em đại diện còn nhiều em khác giơ tay nhưng giáo viên lại không
cho phát biểu. Vì như thế sẽ làm cho các em có suy nghĩ “giáo viên không công bằng”.
Tuy nhiên, giáo viên cần linh hoạt, nếu thấy nhiều ý kiến trùng hợp thì nên gợi ý: “Có ai
có ý kiến khác ngoài những ý kiến đã phát biểu không”. Đặc biệt nếu thấy học sinh gặp
khó khăn, giáo viên nên gợi ý dần để học sinh tiếp cận gần hơn với đáp án và đạt được
mục tiêu đặt ra. Điều đó sẽ giúp học sinh tự tin, phấn khích và hiểu rằng: “nếu cố gắng thì
sẽ đạt được điều mình muốn”.
4. Giải pháp hướng dẫn học sinh liên hệ, xử lí tình huống trong dạy học tác phẩm tự
sự.
Phần lớn các phẩm tự sự thường có nhiều tình huống xảy ra liên tiếp nhau, trong đó có
những tình huống đóng vai trò rất quan trọng trong việc “thắt nút” và “mở nút” cho câu
chuyện. Việc cho học sinh liên hệ bản thân để tự xử lí tình huống trong tác phẩm tự
sự sẽ là một cách gây hứng thú lớn cho học sinh trong dạy học Đọc – Hiểu văn bản. Giải
pháp này giúp học sinh được hoá thân vào nhân vật để đặt mình trước tình huống cần xử
lí, đồng thời học sinh có thể tự do bày tỏ ý kiến, quan điểm, lập trường của mình. Và trên
cơ sở đó, học sinh dễ dàng đối chiếu cách xử lí tình huống của nhân vật trong tác phẩm
với cách xử lí của chính bản thân mình để có thể nhận ra đâu là điều nên làm, vì sao nhân
vật lại xử lí tình huống như thế và ý nghĩa của việc xây dựng tình huống đó.
Ví dụ: khi dạy bài Cô bé bán diêm (Ngữ Văn 8, tập 1) giáo viên có thể cho học sinh liên
hệ bản thân, xử lí tình huống thông qua câu hỏi sau:
? Nếu em là người cha của em bé bán diêm hay một người khách qua đường sống trong
xã hội thời đó, chứng kiến cảnh em bé cô đơn, đói rét, không ai quan tâm trong đêm giao
thừa, em sẽ làm gì?
Chắc chắn sẽ có nhiều ý kiến khác nhau, nhưng phần lớn vẫn nghiêng về cách giải quyết
tích cực như: nếu là người cha, em sẽ đi tìm bằng được và đưa cô bé về nhà, chăm sóc, lo
lắng, che chở cho em. Nếu là người qua đường, em sẽ mua hết diêm, hoặc cho em bé tiền
hoặc đưa em về nhà cho em được hưởng đêm giao thừa ấm áp với gia đình mình...Sau khi
học sinh bày tỏ ý kiến, giáo viên lại hỏi:
? Thế nhưng, thực tế, lại hoàn toàn không như vậy. Không ai quan tâm, đoá i hoài đến em
bé, dù cả người thân lẫn người lạ. Em có nhận xét gì về những con người đó qua cách xử
sự của họ?
- HS: họ là những người vô tâm, thiếu trách nhiệm, thiếu tình yêu thương con người.
? Vậy tác giả xây dựng tình huống trên nhằm mục đích gì?
12
- HS: phê phán, tố cáo một xã hội vô cảm, vô nhân đạo.
Dạy văn bản Lão Hạc (Ngữ Văn 8, tập 1), giáo viên có thể hướng dẫn học sinh liên hệ xử
lí tình huống qua câu hỏi sau:
? Nếu em là lão Hạc, khi rơi vào cảnh đã bán chó rồi nhưng vẫn đói, ốm đau, lại không
cách gì để kiếm sống, em sẽ làm gì ?
Trước câu hỏi này, học sinh sẽ có nhiều cách xử lí khác nhau như: bán vườn hay đi ăn
xin, đi vay nợ của những người xóm giềng tốt bụng như ông giáo chẳng hạn hoặc là có
thể “theo gót Binh Tư” để kiếm ăn như Binh Tư và ông giáo từng nghĩ...
? Vậy thì vì sao lão Hạc không chọn những cách đó mà lại tìm đến một cái chết dữ dội,
đau đớn?
- HS: trả lời.
- GV bình để kết luận: Lão không bán vườn vì muốn bảo đảm tương lai, hạnh phúc cho
con; lão không đi vay nợ vì muốn giữ lòng tự trọng, lão cũng không “theo gót Binh Tư”
vì muốn thà chết còn hơn làm kẻ bất lương. Lão coi phẩm giá cao hơn cái chết. Cái chết
giúp lão bảo toàn được nhân phẩm: một người cha giàu đức hi sinh, một người nông dân
lương thiện giàu lòng tự trọng. Mặc dù đó là cách lựa chọn tiêu cực nhưng xã hội thời đó
không cho họ lựa chọn nào khác: muốn làm người lương thiện thì phải chết còn nếu
không muốn chết thì phải làm kẻ tha hoá, bất lương.
Sẽ có rất nhiều tình huống đặt ra để học sinh liên hệ, xử lí tình huống trong dạy học văn
bản tự sự như:
? Nếu là Trương Sinh, khi nghe bé Đản nói về người đàn ông “đêm nào cũng đến, mẹ
Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả”, em sẽ làm gì?
(Văn bản Chuyện người con gái Nam Xương, Ngữ Văn 9 - tập 1).
? Nếu là nhân vật Nhĩ, khi muốn con trai sang bên kia bờ sông để thực hiện tâm nguyện
của mình, em sẽ nói với Tuấn như thế nào?
(Văn bản Bến quê của Nguyễn Minh Châu, Ngữ Văn 9 – tập 2).
Việc liên hệ xử lí tình huống giúp học sinh thâm nhập một cách chủ động vào tác phẩm,
gắn tác phẩm với thực tế và với chính bản thân mình, từ đó đem lại hứng thú cho học
sinh. Tuy nhiên, giáo viên không nên sa đà để trở thành một cuộc tranh luận giữa các
cách xử lí tình huống của học sinh. Giáo viên cần khéo léo tổ chức để những cách xử lí
đó chỉ là ví dụ, giả thiết, còn nội dung chính vẫn là tình huống với cách xử lí của nhân vật
trong tác phẩm.
13
5. Giải pháp đa dạng hoá hình thức tổ chức dạy học kiểu văn bản thuyết minh hoặc
kiểu văn bản nghị luận trong loại văn bản nhật dụng.
Văn bản nhật dụng là loại văn bản có nội dung đề cập đến các vấn đề nóng bỏng, bức
thiết, có ý nghĩa đối với cuộc sống con người, đang đặt ra trước mắt và đòi hỏi được giải
quyết. Vì thế, văn bản nhật dụng mang tính cập nhật, sát với đời sống thực tế, bắt kịp với
những vấn đề đang đặt ra trong cuộc sống con người. Dạy văn bản nhật dụng chính là
muốn học sinh không xa rời thực tế, biết gắn văn chương với hiện thực cuộc sống thường
nhật. Tuy nhiên, vì tính chất nội dung của nó mà các văn bản nhật dụng thuộc kiểu văn
bản thuyết minh và nghị luận sẽ ít đi tính văn chương, nghệ thuật. Điều đó dễ gây cho
học sinh cảm giác nhàm chán, tẻ nhạt, khô khan khi đến với việc tìm hiểu loại văn bản
này. Chính vì vậy, trong quá trình dạy, người giáo viên cần chú ý và khéo léo tổ chức các
hoạt động để tránh cho học sinh tình trạng mất hứng thú. Ở đây, xin được đưa ra một giải
pháp nhằm tạo hứng thú cho học sinh khi học tiết Đọc – Hiểu văn bản nhật dụng thuộc
kiểu văn bản thuyết minh hoặc nghị luận, đó là: đa dạng hoá các hình thức tổ chức dạy
học.
Thông thường, chúng ta vẫn tổ chức dạy các tiết văn bản nhật dụng thuộc kiểu thuyết
minh hoặc nghị luận theo như dạy một văn bản thông thường. Điều đó sẽ là một thiếu sót
nếu giờ dạy thiếu các phương tiện dạy học, đặc biệt là các phương tiện mang tính trực
quan sinh động. Giờ dạy nếu cung cấp được càng nhiều thông tin, tư liệu sát thực, chính
xác thì càng làm rõ được tính chất nội dung của văn bản nhật dụng. Vì vậy, cần đa dạng
hoá các hình thức tổ chức dạy học để vừa đảm bảo mục tiêu, vừa gây hứng thú cho người
học.
Cụ thể như chúng ta có thể ứng dụng công nghệ thông tin để dạy văn bản nhật dụng
kiểu thuyết minh dưới hình thức như chuyên đề, hội thảo . Có thể 1 đến 2 lớp cùng
tham gia học một tiết tại một địa điểm rộng (như văn phòng nhà trường, phòng học đa
chức năng...). Trong tiết học, giáo viên chủ yếu sử dụng các phương pháp thảo luận, hoạt
động nhóm...với sự hỗ trợ đắc lực của các phương tiện kĩ thuật hiện đại nhằm cụ thể hoá
nội dung, kiến thức văn bản bằng những hình ảnh, thước phim tư liệu chân thực.
Ví dụ: dạy bài Ca Huế trên Sông Hương (Ngữ Văn 7, tập 1), giáo viên phải cung cấp
được hình ảnh, tư liệu về toàn cảnh sông Hương, cảnh các ca công biểu diễn ca Huế cũng
như không khí nghệ thuật của cảnh diễn; phải cung cấp hình ảnh về các nhạc khí được sử
dụng và ít nhất cũng cho học sinh thưởng thức được một vài đoạn ca Huế qua những
thước ghi âm. Từ đó, giáo viên tổ chức cho học sinh nhận xét, phát biểu cảm tưởng, suy
nghĩ và rút ra kết luận là những kiến thức cần đạt của tiết học cho mình. Như vậy, học
một văn bản thuyết minh hoặc nghị luận thuộc loại văn bản nhật dụng sẽ không còn nhàm
tẻ nữa. Mọi kiến thức đời sống mà văn bản muốn thể hiện sẽ từ từ đi vào tâm trí học sinh
14
một cách tự nhiên và đầy hứng thú. Và chắc chắn học sinh sẽ rất háo hức, chờ đợi khi đến
tiết học lần sau.
Cũng có thể chúng ta tổ chức tiết dạy học văn bản thuyết minh hoặc nghị luận dưới hình
thức một cuộc thi. Hình thức cuộc thi sẽ có thể trải qua 2 phần là: trả lời nhanh và
hùng biện; diễn ra tại lớp học với sự tham gia của các đội chơi là các nhóm hoặc tổ trong
lớp, dưới sự hướng dẫn, điều khiển của chính giáo viên (chú ý, giáo viên nên phân loại
học sinh khi tổ chức các đội thi. Hai đội thi của vòng 1, phần “trả lời nhanh”, thuộc đối
tượng học sinh trung bình. Hai đội tham gia vòng 2, phần “trả lời nhanh”, thuộc đối
tượng học sinh khá và giỏi. Bốn học sinh tham gia phần “hùng biện” sẽ thuộc đối tượng
học sinh học tốt Văn nhất lớp).
Để thực hiện tốt hình thức tổ chức dạy học này, đòi hỏi khâu chuẩn bị phải thật kĩ càng.
Giáo viên phải chuẩn bị được hệ thống câu hỏi phù hợp, các phương tiện dạy học có liên
quan, chuẩn bị về luật chơi, cách chơi, cách tính điểm, giao nhiệm vụ cụ thể và ra nội
dung đề tài cần hùng biện cho học sinh .Về phía học sinh, cần đọc thật kĩ văn bản, tìm
hiểu về nội dung của nó; cử đại diện tham gia đội thi; chuẩn bị phần hùng biện cùng với
người sẽ hùng biện; sắp xếp bàn ghế lấy địa điểm chuẩn bị cho cuộc thi.
Vào tiết học, sau khâu ổn định tổ chức, giáo viên có thể bắt đầu cuộc thi với vòng 1 của
phần “trả lời nhanh”. Luật chơi là sẽ có 5 câu hỏi có nội dung khai thác kiến thức văn
bản. Mỗi câu trả lời đúng được 10 điểm. Điểm tối đa của vòng thi sẽ là 50 điểm. Hai đội
tham gia (mỗi đội gồm 4 – 5 em) sẽ giành quyền trả lời trước bằng cách người đội trưởng
phất cờ ra hiệu. Nội dung của 5 câu hỏi của vòng 1 phần “trả lời nhanh” sẽ tập trung
khai thác kiến thức phần “Đọc – Tìm hiểu chung” của văn bản. Sau khi hai đội đã sẵn
sàng, giáo viên sẽ đọc qua văn bản một lần để học sinh liên tưởng lại. Sau đó là phần thi,
có thể với các câu hỏi như:
? Tác giả của văn bản là ai?
? Văn bản ra đời trong hoàn cảnh nào?
? Thể loại văn học của văn bản là gì?
? Văn bản thuộc kiểu văn bản nào?
? Văn bản giới thiệu (hoặc bàn luận) về vấn đề gì?
Cũng có thể ra câu hỏi giải nghĩa một từ khó nào đó trong văn bản...Chú ý, sau mỗi câu
trả lời chưa đầy đủ, giáo viên cần bổ sung, điều chỉnh, kết luận để học sinh khắc sâu kiến
thức.
Kết thúc vòng 1, sẽ là vòng 2 của phần “trả lời nhanh” với sự tham gia của hai đội thi
mới. Nội dung các câu hỏi hướng vào khai thác nội dung phần “Tìm hiểu chi tiết” của
15
văn bản. Phần thi này sẽ trải qua 10 câu hỏi (mỗi câu đúng đạt 5 điểm . Như vậy, vòng thi
này cũng có điểm tối đa là 50 điểm). Nội dung các câu hỏi giống như những câu hỏi
chúng ta vẫn thực hiện ở hình thức dạy học thông thường (tất nhiên có cô đọng, trọng tâm
hơn).
Ở phần “hùng biện”, đại diện mỗi đội chơi sẽ lên trình bày trước lớp về suy nghĩ, cảm
tưởng của mình về thông điệp mà văn bản nhật dụng muốn gửi gắm tới. Ví dụ:
* Ý nghĩa của môi trường thiên nhiên đối với cuộc sống con người.
(Văn bản Bức thư của thủ lĩnh da đỏ – Ngữ Văn 6, tập 2)
* Cảm nghĩ của em về một thứ quà của lúa non: cốm.
(Văn bản Một thứ quà của lúa non: cốm – Ngữ Văn 7, tập 1)
* Em có suy nghĩ gì về thực trạng sử dụng bao bì ni lông hiện nay ở nước ta và tác
hại của nó.
(Văn bản Thông tin về ngày Trái Đất năm 2000 – Ngữ Văn 8, tập 1)
* Tác hại của thuốc lá.
(Văn bản Ôn dịch thuốc lá – Ngữ Văn 8, tập 1)
* Hậu quả của chiến tranh hạt nhân và sự phi lí, tốn kém của chạy đua vũ trang.
(Văn bản Đấu tranh cho một thế giới hoà bình – Ngữ Văn 9, tập 1)
Giáo viên sẽ linh hoạt trong cách cho điểm ở phần thi này trên cơ sở điểm của các tiêu
chí:
+ Bám sát, làm rõ nội dung văn bản (20đ)
+ Thể hiện được ý kiến, suy nghĩ của bản thân (10đ)
+ Lời văn rõ ràng, trong sáng (10đ).
+ Khả năng trình bày rõ ràng, mạch lạc, tự nhiên, có ngữ điệu (10đ)
Kết quả sẽ là tổng điểm hai phần thi của các đội. Đội chiến thắng sẽ dành được phần
thưởng là điểm 10 – hệ số 1- cho tất cả các thành viên của đội, hoặc cũng có thể là những
mòn quà nhỏ, hấp dẫn khác...
Việc thực hiện giải pháp này vừa gây hứng thú lớn cho học sinh, vừa giúp các em rèn
luyện được nhiều kĩ năng, phát huy được tính chủ động, tích cực, sáng tạo. Tuy nhiên,
giáo viên cần lưu ý chọn địa điểm để giờ học không ảnh hưởng đến các lớp. Đồng thời,
thực hiện tổ chức khéo léo để không vượt quá thời lượng của tiết học.
16
Tóm lại, việc đa dạng hoá các hình thức dạy học , đặc biệt với những văn bản ít tính văn
chương, nghệ thuật sẽ là một cách tạo hứng thú hiệu quả cho học sinh khi mà các em
không còn cảm thấy giờ học nhàm chán, tẻ nhạt, đơn điệu nữa.
III. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
Tôi đã áp dụng các giải pháp trên vào giờ học Đọc – Hiểu văn bản trong học kì II năm
học 2010-2011 ở 2 lớp 7B, 7D, và đầu năm học 2011-2012 ở 8A, 8C, tôi thấy các em đã
có những tiến bộ rõ rệt. Trong mỗi giờ học, các em chú ý hăng say phát biểu hơn, tích cực
tham gia các hoạt động hơn, bài viết cũng khắc phục được nhiều nhược điểm hơn và bắt
đầu mạnh dạn đưa ra những thắc mắc về những điều chưa hiểu. Cuối năm học, tôi lại làm
khảo sát, kết quả thu được như sau:
Học kì II năm học: 2010 – 2011.
Lớp Số học sinh Số học sinh có hứng thú Số học sinh có điểm trung
được khảo sát với giờ Đọc – Hiểu văn bình môn học kì II loại Khá
bản
- Giỏi
Đầu HKII
Cuối năm
Cuối HKI
Cuối năm
7B
32
15
23
9
11
7D
34
16
26
11
14
Năm học: 2011 – 2012.
Lớp Số học sinh Số học sinh có hứng thú Số học sinh có điểm trung
được khảo sát với giờ Đọc – Hiểu văn bình môn học kì II loại Khá bản
Giỏi
Đầu HKI
Cuối năm
Đầu năm
HKI
Cuối
năm
8A
35
27
32
16
19
21
8C
34
15
24
6
10
11
17
Từ kết quả so sánh trên, ta thấy HS đã có sự tiến bộ. Tôi tin rằng đó không chỉ là sự tiến
bộ trong hiện tại mà chắc chắn các em sẽ yêu thích môn Ngữ văn hơn, không còn coi đó
là một môn học nhàm tẻ, khô khan, “viết nhiều” và “buồn ngủ” nữa.
C. PHẦN KẾT LUẬN
I. BÀI HỌC KINH NGHIỆM
- GV giảng dạy Ngữ văn ngoài việc phải không ngừng tự học để nâng cao chuyên môn,
bồi dưỡng kiến thức lí luận, kiến thức từ thực tế đời sống, còn cần phải nghiên cứu thêm
về nghệ thuật sư phạm, tìm tòi các biện pháp gây hứng thú học tập, tạo một không khí
học tập vui vẻ, thoải mái giúp HS ngày càng yêu thích bộ môn Ngữ văn, giúp việc dạy
học đạt kết quả cao.
- Bên cạnh đó, phải thường xuyên học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp, tìm các thông
tin mới, hấp dẫn trên mạng internet làm cho các tiết học sinh động, lượng thông tin HS
thu được nhiều.
- GV cũng luôn phải cập nhật, tự bồi dưỡng những phương pháp dạy học tích cực, vận
dụng linh hoạt trong từng tiết dạy để tạo sự hứng thú cho các em, không nên thuyết giảng
nhiều mà cần để HS là người chủ động, tích cực tìm ra kiến thức.
- GV cần có sự hiểu biết về tâm lí lứa tuổi HS, biết khuyến khích động viên kịp thời, biết
gần gũi tìm hiểu nguyên do khi các em có biểu hiện tiêu cực, biết nghiêm khắc phê bình
những biểu hiện chây lười của HS...
Theo tôi, dù áp dụng bất kì phương pháp dạy học nào, biện pháp gây hứng thú nào cho
HS thì điều cốt yếu để có một giờ học tốt, GV nhất định phải có đủ tài, đủ đức, có cái tâm
của một người thầy thì chắc chắn sẽ được HS kính trọng, tin yêu, tâm phục khẩu phục.
Chính điều đó sẽ tạo cho các em một tâm thế học tập tốt nhất, có hứng thú nhất.
II. NHỮNG KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT
* Đối với Phòng GD-ĐT:
- Nên tổ chức các chuyên đề triển khai các sáng kiến kinh nghiệm (SKKN) có chất lượng
và hiệu quả ứng dụng thực tiễn, đặc biệt là các SKKN cấp Huyện, cấp Tỉnh cho giáo viên
học hỏi, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
- Tổ chức nhiều hơn các buổi gặp gỡ, nói chuyện giữa giáo viên với các nhà văn, nhà thơ,
nhà giáo ưu tú...để giáo viên có cơ hội giao lưu, học hỏi, mở mang hiểu biết.
18
* Đối với nhà trường:
- Thường xuyên tổ chức học tập, trao đổi kinh nghiệm giảng dạy lẫn nhau, nhất là
phương pháp giảng dạy theo tinh thần đổi mới sách giáo khoa.
- Cần đầu tư thêm tài liệu tham khảo về môn Văn, máy tính, đầu chiếu để GV và HS dễ
dàng tiếp cận với tri thức mới.
- Nhà trường cũng cần tuyên truyền cho HS hiểu tầm quan trọng của tất cả các môn học,
tránh tình trạng học lệch. Có như vậy, HS mới chăm chỉ, cố gắng trong tất cả các môn, có
hứng thú học tập thật sự.
* Đối với tổ chuyên môn:
- Thay đổi hình thức họp chuyên môn, bên cạnh dự giờ, góp ý, rút kinh nghiệm, còn nên
tổ chức các hội thảo với những chuyên đề cụ thể, thiết thực.
- Phối hợp với Đoàn trường tổ chức các buổi sinh hoạt ngoại khóa sinh động, hấp dẫn, đa
dạng nhằm gây hứng thú cho HS đối với bộ môn Ngữ văn.
*
*
*
Trên đây là ý kiến của bản thân tôi về một số giải pháp nhằm tạo hứng thú học Văn cho
học sinh THCS. Là một bài viết ghi lại những kinh nghiệm đã được đúc rút từ chính thực
tiễn dạy học của bản thân với mong muốn phần nào cải thiện tình trạng dạy Văn và học
Văn hiện nay, giúp học sinh ngày càng có hứng thú với môn Ngữ Văn và học Văn được
tốt hơn. Để thực hiện đề tài này, bản thân tôi đã dày công tìm tòi, nghiên cứu, khảo sát.
Tất nhiên, trong quá trình thực hiện không tránh khỏi những khó khăn, trở ngại. Được sự
tạo điều kiện của nhà trường, sự giúp đỡ hết mình của bạn bè, đồng nghiệp, đặc biệt là
của Tổ chuyên môn, tôi đã hoàn thành đề tài nghiên cứu. Tuy nhiên, bài viết vẫn không
tránh khỏi những bất cập, thiếu sót, vướng mắc. Vì vậy, bản thân tôi thành tâm mong mỏi
sự đóng góp ý kiến, xây dựng, điều chỉnh, sửa chữa của Hội đồng khoa học cũng như bạn
bè đồng nghiệp để công trình được hoàn thiện hơn, có tính khả thi hơn, để mọi sáng kiến
không dừng lại ở mức độ một bài viết mà được đi vào thực tiễn dạy học, thoả lòng mong
mỏi và bớt những trăn trở với nghề trong tôi.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
19
20