Tải bản đầy đủ (.doc) (96 trang)

Giải quyết việc làm cho thanh niên huyện đắk mil, tỉnh đắk nông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (358.87 KB, 96 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀO ĐÀO TẠO

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

TRẦN THÁI LẬP

GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO THANH NIÊN
HUYỆN ĐĂK MIL, TỈNH ĐĂK NÔNG

Chuyên ngành: Kinh tế phát triển
Mã số: 60.31.01.05

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ

Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN HIỆP

Đà Nẵng - Năm 2015


LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng
được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Tác giả

Trần Thái Lập


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU.......................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài........................................................................ 1
2. Mục tiêu nghiên cứu............................................................................. 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.........................................................3
4. Phương pháp nghiên cứu.......................................................................3
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài..................................................3
6. Bố cục đề tài..........................................................................................3
7. Tổng quan tài liệu nghiên cứu...............................................................4
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT VIỆC
LÀM CHO THANH NIÊN.............................................................................8
1.1. VIỆC LÀM VÀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM..............................................8
1.1.1. Khái niệm và phân loại việc làm.....................................................8
1.1.2. Đặc điểm và ý nghĩa của giải quyết việc làm cho thanh niên.......20
1.2. NỘI DUNG VÀ TIÊU CHÍ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO THANH
NIÊN............................................................................................................... 28
1.2.1. Tạo việc làm mới cho thanh niên..................................................29
1.2.2. Kết nối thanh niên với các cơ sở sử dụng lao động......................32
1.2.3. Đào tạo nghề cho thanh niên.........................................................33
1.2.4. Giải quyết việc làm thông qua xuất khẩu lao động.......................34
1.3. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO
THANH NIÊN................................................................................................ 35
1.3.1. Điều kiện tự nhiên.........................................................................35
1.3.2. Điều kiện kinh tế...........................................................................36
1.3.3. Điều kiện xã hội............................................................................ 38
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO THANH
NIÊN HUYỆN ĐĂK MIL.............................................................................40


2.1. TỔNG QUAN CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN GIẢI QUYẾT
VIỆC LÀM CHO THANH NIÊN HUYỆN ĐĂK MIL..................................40

2.1.1. Điều kiệntự nhiên..........................................................................40
2.1.2. Điều kiện kinh tế...........................................................................44
2.1.3. Điều kiện xã hội............................................................................ 46
2.2. THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO THANH NIÊN
HUYỆN ĐĂK MIL.........................................................................................49
2.2.1. Thực trạng giải quyết việc làm từ tạo việc làm mới cho thanh niên
.................................................................................................................49
2.2.2. Thực trạng kết nối thanh niên với các cơ sở sử dụng lao động.....50
2.2.3. Thực trạng tạo việc làm thông qua đào tạo, dạy nghề cho thanh
niên..........................................................................................................53
2.2.4. Thực trạng tạo việc làm thông qua đẩy mạnh xuất khẩu lao động
cho thanh niên......................................................................................... 55
2.3. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO THANH
NIÊN HUYỆN ĐĂK MIL.............................................................................. 56
2.3.1. Một số kết quả đạt được về giải quyết việc làm cho thanh niên
huyện Đăk Mil........................................................................................ 56
2.3.2. Những tồn tại, hạn chế.................................................................. 57
2.3.3. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế......................................60
CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO THANH
NIÊN TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN ĐĂK MIL...............................................62
3.1. QUAN ĐIỂM VÀ ĐỊNH HƯỚNG VỀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO
THANH NIÊN HUYỆN ĐĂK MIL............................................................... 62
3.1.1. Một số quan điểm chung...............................................................62
3.1.2. Định hướng và mục tiêu giải quyết việc làm của huyện Đăk Mil
đến năm 2020..........................................................................................63
3.2. CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO THANH


NIÊN TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN ĐĂK MIL..................................................68
3.2.1. Giải pháp tạo việc làm mới cho thanh niên...................................68

3.2.2. Tăng cường kết nối thanh niên với các cơ sở sử dụng lao động...71
3.2.3. Hoàn thiện và đẩy mạnh việc đào tạo, dạy nghề cho thanh niên
huyện Đăk Mil........................................................................................ 72
3.2.4. Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu......................................................75
3.2.5. Các giải pháp khác........................................................................ 77
KẾT LUẬN.................................................................................................... 86
TÀI LIỆU THAM KHẢO
QUYẾT ĐỊNH GIAO ĐỀ TÀI LUẬN VĂN THẠC SĨ (BẢN SAO).


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT


: Cao đẳng

CN

: Công nghiệp

CNH - HĐH

: Công nghiệp hoá, hiện đại hoá

CNKT

: Công nhân kỹ thuật

ĐTN

: Đào tạo nghề


GQVL

: Giải quyết việc làm

KT

: Kinh tế

KH - CN

: Khoa học - Công nghệ

KT-XH

: Kinh tế - Xã hội

LĐ-TB&XH

: Lao động Thương binh và Xã hội



: Lao động

LĐNT

: Lao động nông thôn

LLLĐ


: Lực lượng lao động

NT

: Nông thôn

NN

: Nông nghiệp

TC

: Trung cấp

THCS

: Trung học cơ sở

THPT

: Trung học phổ thông

TN

: Thanh niên

UBND

: Uỷ ban nhân dân


VL

: Việc làm

XKLĐ

: Xuất khẩu lao động


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
bảng

Tên bảng

Trang

2.1

Tình hình thu-chi ngân sách huyện qua các năm

45

2.2

Cơ cấu kinh tế huyện qua các năm

46


2.3

Chuyển dịch cơ cấu lao động 2010-2014

47

2.4

Lực lượng lao động

48

2.5

Tình hình tạo việc làm mới cho thanh niên

49

2.6

Cơ cấu việc làm mới cho thanh niên theo ngành

49

2.7

Việc làm cho TN nhờ kết nối

51


2.8

Hoạt động tư vấn việc làm cho thanh niên

51

2.9

Việc làm nhờ đào tạo nghề

54

2.10

Số việc làm nhờ xuất khẩu lao động

55


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Giải quyết việc làm là một trong những chính sách quan trọng đối với
mọi quốc gia, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển có lực lượng lao
động lớn như Việt Nam. Giải quyết việc làm cho người lao động trong sự phát
triển của thị trường lao động là tiền đề quan trọng để sử dụng có hiệu quả
nguồn lao động, góp phần tích cực vào việc hình thành thể chế kinh tế thị
trường, đồng thời tận dụng lợi thế để phát triển, tiến kịp khu vực và thế giới.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề giải quyết việc làm, Đảng và

Nhà nước ta đã đề ra nhiều chủ trương, đường lối, chính sách thiết thực, hiệu
quả nhằm phát huy tối đa nội lực, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực,
chuyển đổi cơ cấu lao động, đáp ứng yêu cầu của quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, tạo nhiều việc làm cho người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp ở
thành thị, tăng tỷ lệ sử dụng, thời gian lao động ở nông thôn, góp phần tăng
thu nhập và cải thiện đời sống nhân dân.
Gần 30 năm đổi mới, cùng với những thành tựu to lớn về tăng trưởng
kinh tế, Việt Nam cũng đạt được những kết quả quan trọng trong việc giải
quyết việc làm cho người lao động, đời sống người lao động trong đó có tầng
lớp thanh niên được cải thiện rõ rệt. Thanh niên là lực lượng tiên phong trong
phát triển chính trị, kinh tế và xã hội, đồng thời cũng là lực lượng mang lại sự
thay đổi và đổi mới. Thế giới việc làm tạo môi trường cho thanh niên để họ
tham gia một cách chủ động vào xã hội, cống hiến tài năng và tầm nhìn cho
tương lai, phát triển cam kết và các mối quan hệ xã hội. Tuy nhiên, tính trung
bình, tỷ lệ thất nghiệp ở thanh niên cao hơn từ hai đến ba lần so với nhóm dân
số lớn tuổi hơn, nhất là thanh niên ở nông thôn, những vùng khó khăn.
Cũng như nhiều địa phương khác trong cả nước, ở khu vực huyện Đăk
Mil, quá trình đô thị hoá đang diễn ra khá nhộn nhịp. Đây là quy luật phát


2

triển tất yếu, đem lại một cuộc sống văn minh, hiện đại, một nền kinh tế phát
triển. Song, bên cạnh những biến đổi tích cực đó còn những vấn đề xã hội
khác đang cần quan tâm giải quyết. Điển hình hơn cả là vấn đề việc làm của
thanh niên vùng nông thôn. Điều này được phát huy hiệu quả hay không phụ
thuộc một phần vào chính sách và sự quan tâm của chính quyền địa phương và
các cơ quan chức năng.
Điều đó đặt ra yêu cầu cần có sự nghiên cứu một cách cơ bản, có hệ
thống vấn đề giải quyết việc làm cho thanh niên ở huyện Đăk Mil, tỉnh Đăk

Nông, đảm bảo kinh tế có thể tăng trưởng cao, ổn định trong điều kiện Việt
Nam hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới và khu vực. Để góp phần vào
những nghiên cứu chung đó, tôi chọn vấn đề “Giải quyết việc làm cho thanh
niên huyện Đăk Mil, tỉnh Đăk Nông” làm đề tài luận văn thạc sĩ, chuyên
ngành Kinh tế Phát triển.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu của luận văn là góp phần làm rõ thêm những vấn đề lý luận
và thực tiễn của vấn đề lao động, việc làm, giải quyết việc làm cho thanh niên
trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở nước ta nói chung và huyện Đăk Mil,
tỉnh Đăk Nông nói riêng. Trên cơ sở đó, đề xuất những giải pháp giải quyết
việc làm cho thanh niên trên địa bàn huyện Đăk Mil, tỉnh Đăk Nông.
Đạt được mục tiêu trên, nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra là:
- Hệ thống hoá và làm rõ thêm một số vấn đề lý luận về lao động, việc
làm, giải quyết việc làm cho thanh niên trong điều kiện kinh tế thị trường.
- Phân tích, đánh giá thực trạng giải quyết việc làm cho thanh niên trên
địa bàn huyện Đăk Mil, tỉnh Đăk Nông.
- Xác định quan điểm và đề xuất các giải pháp giải quyết việc làm cho
thanh niên trên địa bàn huyện Đăk Mil, tỉnh Đăk Nông đến năm 2020.


3

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: những vấn đề lý luận, thực tiễn liên quan đến
việc làm và tạo việc làm cho thanh niên trên địa bàn huyện Đăk Mil.
- Phạm vi nghiên cứu: luận văn đi sâu nghiên cứu vấn đề tạo việc làm
cho thanh niên trên địa bàn huyện Đăk Mil giai đoạn 2010 - 2014, đề xuất các
giải pháp tạo việc làm đến năm 2020.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng phương pháp tiếp cận hệ thống, sử dụng phương

pháp thống kê, phương pháp so sánh. Ngoài ra, cách thức thu thập tài liệu,
thông tin được sử dụng trong nghiên cứu là:
- Kế thừa các công trình nghiên cứu trước đó.
- Tổng hợp các nguồn số liệu thông qua các báo cáo, tổng kết của các
phòng, ban, ngành của tỉnh Đăk Nông và huyện Đăk Mil.
- Tìm thông tin thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như:
- Kết hợp các phương pháp thu thập thông tin, tài liệu, số liệu để có dữ
liệu nghiên cứu, phân tích đầy đủ.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Luận văn góp phần làm rõ những vấn đề cơ bản về việc làm, giải quyết
việc làm cho thanh niên, đánh giá thực trạng giải quyết việc làm cho thanh
niên trên địa bàn huyện Đăk Mil, giai đoạn 2010-2014;đề xuất giải pháp tạo
việc làm cho thanh niên trên địa bàn huyện Đăk Mil đến năm 2020.
6. Bố cục đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về giải quyết việc làm cho thanh niên.
Chương 2: Thực trạng giải quyết việc làm cho thanh niên huyện Đăk
Mil, tỉnh Đăk Nông.


4

Chương 3: Giải pháp giải quyết việc làm cho thanh niên trên địa bàn
huyện Đăk Mil, tỉnh Đăk Nông.
7. Tổng quan tài liệu nghiên cứu
Vấn đề giải quyết việc làm được nghiên cứu với nhiều góc độ khác
nhau, từ nhiều tác giả và cơ quan nghiên cứu. Giá trị lớn nhất của những công
trình nghiên cứu có liên quan là nêu thực trạng và đề xuất những giải pháp
mang tính thực tiễn, nhằm giải quyết các vấn đề có liên quan đến đào tạo
nghề, giải quyết việc làm cho người lao động. Có thể nêu một số công trình

nghiên cứu có liên quan như:
Giáo trình Kinh tế lao động của TSKH. Phạm Đức Chính, Trường ĐH
Kinh tế Luật, Đai học Quốc gia TP.HCM (2008). Tác giả đã làm rõ những
khái niệm về lao động và nguồn lao động, việc làm, thất nghiệp, tiền lương.
Nghiên cứu của PGS.TS. Đỗ Minh Cương có tựa đề: “Phát triển lao
động kỹ thuật ở Việt Nam - Lý luận và thực tiễn” Nghiên cứu này đã đi sâu
vào phân tích lực lượng lao động kỹ thuật nói chung trong đó có đề cập sâu
đến hệ thống đào tạo nghề hiện nay và kết quả của quá trình đào tạo. Nghiên
cứu này tập trung vào khía cạnh cung lao động kỹ thuật trong nền kinh tế và
các giải pháp chủ yếu để phát triển đào tạo nghề thúc đẩy cung lao động kỹ
thuật cho nền kinh tế, trong đó đã đề cập đến việc làm cho người lao động
nhưng không tập trung vào tất cả các đối tượng lao động qua đào tạo nghề mà
chủ yếu ở nhóm lao động kỹ thuật.
Một công trình trực tiếp giải quyết vấn đề việc làm đó là: "Về chính
sách giải quyết việc làm ở Việt Nam" của tác giả TS.Nguyễn Hữu Dũng.
Nghiên cứu này đi sâu và phân tích toàn diện các chính sách giải quyết việc
làm trong nền kinh tế trong những năm cuối thế kỷ 20. Tác giả đã trình bày
phủ rộng hầu hết các vấn đề liên quan đến các chính sách giải quyết việc làm
và đề xuất các giải pháp giải quyết việc làm ở nước ta. Tuy nhiên công trình


5

này không đề cập riêng cho việc làm của lực lượng lao động thanh niên và các
vấn đề liên quan đến đối tượng này.
Hầu hết, công trình nghiên cứu đã được công bố, chủ yếu tập trung
nghiên cứu vấn đề đào tạo nghề, việc làm, giải quyết việc làm cho người lao
động do tác động, ảnh hưởng của quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa, hội
nhập ở nhiều góc độ và ở những địa phương khác nhau.
Trong nghiên cứu của PGS.TS. Bùi Quang Bình (2007), đánh giá tình

hình thất nghiệp và thiếu việc làm ở Việt Nam chủ yếu tập trung vào đối
tượng lao động trẻ từ 15-35 tuổi và tập trung ở khu vực nông thôn. Lý do cơ
bản nhất của thiếu việc làm do không có nghề nghiệp chuyên môn hay không
được đào tạo nghề. Trong nghiên cứu này cũng đề cập tới cơ chế phân bổ chi
phí đào tạo giữa doanh nghiệp và người lao động cho đào tạo nghề. Tiếp đó
trong nghiên cứu năm 2011 và 2012, tác giả cũng khẳng định quá trình công
nghiệp hoá đòi hỏi phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đặc biệt là phải
chú trọng đào tạo nghề cho lao động khu vực nông thôn. Trong nghiên cứu
2010 tác giả Bùi Quang Bình đã chỉ ra những vấn đề tồn tại của hệ thống đào
tạo nghề khu vực nông thôn và kiến nghị các giải pháp cụ thể: Các địa
phương nên lập dự án đào tạo nghề cho lao động nông thôn với những ngành
nghề phù hợp; Xây dựng kế hoạch đào tạo nghề gắn với chương trình giải
quyết việc làm và xoá đói giảm nghèo; Có chính sách ưu đãi đối với đào tạo
nghề cho lao động nông thôn; Tuyên truyền vận động và phân luồng hướng
nghiệp cho học sinh phổ thông nông thôn. Đây có thể coi là những gợi ý cho
nghiên cứu về đề tài này.
Tác giả Tạ Đức Khánh (2009) thông qua giải thích cơ chế vận hành của
thị trường lao động đã chỉ ra rằng việc làm của lao động chỉ có được nếu kết
hợp được các nhân tố sản xuất như máy móc, công nghệ và lao động. Nhưng
lao động phải có trình độ chuyên môn và tay nghề và do đó phải đào tạo. Đào


6

tạo coi như một thị trường có cung và cầu, mối quan hệ mâu thuẫn lợi ích
giữa cung và cầu này chỉ được giải quyết thông qua thị trường.
Luận án tiến sĩ của tác giả Ngô Quỳnh An “Tăng cường khả năng tự
tạo việc làm cho thanh niên Việt Nam”. Luận án đã hệ thống hoá và bổ sung
cơ sở lý luận nghiên cứu về tự tạo việc làm nói chung, tự tạo việc làm của
thanh niên nói riêng và các yếu tố ảnh hưởng thông qua xây dựng lần đầu tiên

khái niệm sâu và đầy đủ về “tự tạo việc làm”, “khả năng tự tạo việc làm” và
“tăng cường khả năng tự tạo việc làm”. Luận án đề ra các giải pháp để tăng
khả năng tự tạo việc làm cho thanh niên nói chung. Tuy vậy, nghiên cứu này
chưa chỉ rõ các biện pháp để thanh niên ở từng khu vực như thành thị, nông
thôn tự tạo việc làm phù hợp với đặc điểm vùng, miền.
Nghiên cứu của tác giả Hoàng Thị Nguyệt Nga (2012): “Giải quyết
việc làm cho lao động thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai’’. Nghiên cứu này đi sâu
phân tích thực trạng và đề xuất giải pháp việc làm cho lao động nói chung,
chưa đi sâu vào giải quyết việc làm đối tượng có những nét đặc thù riêng là
thanh niên.
Nghiên cứu của tác giả Lưu Bích Ngọc (2011): “Giải quyết việc làm
cho lao động nữ ở tỉnh Quảng Nam”. Nghiên cứu này đi sâu phân tích và đề
xuất các chính sách giải quyết việc làm cho lao động nữ ở tỉnh Quảng Nam.
Tuy nhiên, công trình này phần lớn tập trung chủ yếu giải quyết việc làm cho
lao động nữ ở khu vực nông thôn và thành thị chưa đề cập riêng vấn đề tạo
việc làm cho đối tượng có những nét đặc thù riêng là thanh niên.
Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Văn Bửu (2013): “Giải quyết việc làm
cho thanh niên huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng’’. Nghiên cứu này đi sâu
phân tích thực trạng và đề xuất các giải pháp giải quyết việc làm cho thanh
niên ở huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng. Tuy nhiên, công trình này
nghiên cứu đặc thù thanh niên ở vùng trung du, đồng bằng, chưa đề cập đến


7

thanh niên vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa, nhiều thành phần dân tộc khu
vực vùng Tây Nguyên.
Ở Đăk Nông, đã có những bài viết về đào tạo nghề, việc làm và tạo việc
làm cho người lao động như: “Chương trình hành động thực hiện chiến lược
phát triển dạy nghề trên địa bàn tỉnh Đăk Nông thời kỳ 2011-2020“(Ban hành

kèm theo Quyết định số 600/QĐ-UBND, ngày 11/12/2012 của UBND tỉnh
Đăk Nông; Phan Tuấn: “Quan tâm hướng nghiệp, giải quyết việc làm cho
thanh niên” (đăng trên website: baodaknong.org.vn); Quy hoạch phát triển
kinh tế xã hội huyện Đăk Mil đến năm 2020.
Hầu hết các công trình nghiên cứu đã được công bố chủ yếu tập trung
nghiên cứu vấn đề đào tạo nghề, việc làm, tạo việc làm cho người lao động
nói chung. Giá trị lớn nhất của những công trình nghiên cứu này là phân tích
thực trạng và đề xuất những giải pháp mang tính thực tiễn nhằm giải quyết
các vấn đề có liên quan đến đào tạo nghề, tạo việc làm cho người lao động,
chưa có nghiên cứu nào đi sâu phân tích thực trạng việc làm và giải quyết việc
làm cho thanh niên trên địa bàn huyện Đăk Mil, tỉnh Đăk Nông. Nghiên cứu
các công trình đã công bố, tôi cũng tham khảo được nhiều vấn đề lý luận và
thực tiễn rất có giá trị đối với đề tài của mình. Trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc
những vấn đề được nghiên cứu trong các công trình khoa học đó, kết hợp với
việc tìm hiểu tình hình thực tế trên địa bàn huyện Đăk Mil, tôi có thể rút ra và
kiến nghị những giải pháp tạo việc làm cho thanh niên trên địa bàn huyện Đăk
Mil.


8

CHƯƠNG 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM
CHO THANH NIÊN
1.1. VIỆC LÀM VÀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM
1.1.1. Khái niệm và phân loại việc làm a.
Khái niệm việc làm
Ngày nay, việc làm, thiếu việc làm, thất nghiệp là một trong những vấn
đề có tính chất toàn cầu, là mối quan tâm của hầu hết các quốc gia, bởi nó

ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của một đất nước. Tăng việc làm, giảm
tỉ lệ thất nghiệp là một trong những biện pháp quan trọng để từng bước ổn
định và nâng cao đời sống nhân dân, đảm bảo phát triển bền vững. Đặc biệt
đối với Việt Nam, tốc độ tăng dân số, nguồn lao động cao, trong khi tốc độ
tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm bị hạn chế do khả năng cung về vốn, tư liệu
sản xuất còn thấp.
Về mặt bản chất, việc làm là quan hệ tích cực, sáng tạo của chủ thể
việc làm với hoạt động sống của mình, với ý nghĩa, nội dung và mục đích đặt
ra. Tuỳ thuộc vào từng thời điểm, không gian và từng chủ thể có cách tiếp
cận vấn đề, đưa ra các khái niệm khác nhau về việc làm.
Việc làm là một phạm trù tổng hợp liên kết các quá trình kinh tế, xã hội và
nhân khẩu; nó thuộc loại vấn đề chủ yếu nhất của toàn bộ đời sống xã hội. Hiện
nay, trên các phương tiện thông tin đại chúng, khái niệm “việc làm” và “thị
trường lao động” không hiếm khi bị đồng nhất với nhau. Hệ thống việc làm
được đưa thêm hàng loạt chức năng không đúng là tính chất của nó, còn thị
trường lao động được tăng thêm tính chất tổng hợp. Khái niệm việc làm và khái
niệm lao động có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, nhưng không hoàn toàn giống
nhau. Việc làm không phải là hoạt động mà là những quan hệ xã hội giữa con
người, mà trước hết là những quan hệ kinh tế và pháp lý về việc đưa người


9

lao động vào hợp tác lao động cụ thể trong một chỗ làm việc xác định. Hoạt
động lao động, trước hết, đó là một quá trình, còn việc làm là tài sản của chủ thể
mà bằng cách nào đấy được đưa vào (hay là loại trừ ra) từ quá trình đó. Về giác
độ kinh tế, việc làm thể hiện mối tương quan giữa sức lao động và tư liệu sản
xuất, giữa yếu tố con người và yếu tố vật chất trong quá trình sản xuất. Việc làm
gắn với quá trình tăng thu nhập, giảm sự nghèo khổ của người lao động, đồng
thời không đi ngược lại với lợi ích cộng đồng mà pháp luật quy định. Nói cách

khác, việc làm là công việc, những hoạt động có ích, không bị pháp luật cấm và
mang lại thu nhập cho bản thân hoặc tạo điều kiện để tăng thu nhập cho các
thành viên trong gia đình, đồng thời góp một phần cho xã hội.

Nhà khoa học nổi tiếng trong kinh tế lao động người Nga Kotlia A, đã
đưa ra khái niệm việc làm như phạm trù kinh tế nói chung tồn tại ở mọi hình
thái xã hội. Đồng thời, việc làm là phạm trù tái sản xuất xã hội, mà không thể
đồng nhất với lao động và sử dụng sức lao động. Nó định rõ đặc tính dân số
hoạt động kinh tế so với những yếu tố sản xuất vật chất thể hiện quan hệ giữa
con người về việc tham gia của họ vào trong sản xuất xã hội.
Các nhà khoa học kinh tế Anh thì lại cho rằng “việc làm theo nghĩa
rộng là toàn bộ các hoạt động kinh tế của một xã hội, nghĩa là tất cả những gì
quan hệ đến cách kiếm sống của một con người, kể cả các quan hệ xã hội và
các tiêu chuẩn hành vi tạo thành khuôn khổ của quá trình kinh tế” . Theo quan
điểm này thì tất cả những việc làm tạo ra thu nhập mà không cần phân biệt có
được pháp luật thừa nhận hay ngăn cấm đều được gọi là việc làm.
Các nhà kinh tế Sônhin và Grincốp của Liên xô lại cho rằng, “việc làm
là sự tham gia của người có khả năng lao động vào một hoạt động xã hội có
ích trong khu vực xã hội hoá của sản xuất, trong học tập, trong công việc nội
trợ, trong kinh tế phụ của các nông trang viên”. Theo khái niệm này thì những
người đang đi học, đang tham gia hoạt động trong các lực lượng vũ trang,


10

những người nội trợ đều coi là người có việc làm. Ngày nay, ở Liên Bang Nga
khái niệm này được quy định rõ trong Bộ Luật Việc làm của dân cư Liên bang
Nga như sau: “việc làm là hoạt động của công dân nhằm thoả mãn những nhu
cầu xã hội và của cá nhân, đem đến cho họ thu nhập và không bị pháp luật
Liên bang ngăn cấm”.

Theo Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), khái niệm việc làm chỉ đề cập
đến trong mối quan hệ với lực lượng lao động. Khi đó, việc làm được phân
thành hai loại: Có trả công (những người làm thuê, học việc...) và không được
trả công nhưng vẫn có thu nhập (những người như giới chủ làm kinh tế gia
đình...). Vì vậy, “việc làm có thể được định nghĩa như một tình trạng trong đó
có sự trả công bằng tiền hoặc hiện vật, do có một sự tham gia tích cực, có tính
chất cá nhân và trực tiếp vào nỗ lực sản xuất”. Theo khái niệm này, người có
việc làm là người làm việc gì đó để được trả công, lợi nhuận được thanh toán
bằng tiền hoặc hiện vật, hoặc tham gia vào các hoạt động mang tính chất tự
tạo việc làm vì lợi ích hay vì thu nhập của gia đình (không được nhận tiền
công hay hiện vật). Khái niệm này đã được chính thức nêu tại Hội nghị quốc
tế lần thứ 13 của nhà thống kê lao động (ILO.1993) và đã được áp dụng ở
nhiều nước. Tuy nhiên, quan niệm này mang nghĩa rất rộng, bao trùm mọi
hoạt động lao động của con người. Trong thời đại ngày nay, với quan niệm
trên, có rất nhiều người sẽ thuộc diện có việc làm, bao gồm: những hoạt động
mang tính hợp pháp và những hoạt động mang tính phi pháp hay là những
hoạt động lao động của con người vi phạm pháp luật hoặc bị cho là vi phạm
đạo đức xã hội và bị ngăn cấm ở một số nước. Ví dụ, việc buôn bán heroin,
mại dâm,... ở các nước như Hà Lan, Colômbia thì không cấm, nhưng những
hoạt động này bị cấm ở các nước khác, đặc biệt là các nước Châu Á như: Việt
Nam, Trung Quốc... Do vậy, khái niệm trên chỉ mang tính khái quát, là cơ sở
nghiên cứu vấn đề chung cho các nước trên thế giới.


11

Ở nước ta, trong thời kỳ tập trung bao cấp, nhà nước đã đứng ra giải
quyết việc làm, trực tiếp quản lý nguồn lao động kể từ khâu đào tạo, phân bổ
đến việc sử dụng đãi ngộ đối với người lao động thực hiện theo chỉ tiêu pháp
lệnh. Trong giai đoạn này, những khái niệm về thiếu việc làm, lao động dư

thừa, việc làm không đầy đủ... hầu như không được biết đến. Còn khái niệm
“thất nghiệp” dường như là điều cấm kị nói tới dưới bất kỳ hình thức nào,
trong nền kinh tế quốc dân, xu hướng quốc doanh hoá được coi là một điều tất
yếu. Hướng phấn đấu của mọi cơ sở sản xuất kinh doanh là chuyển nhanh vào
khu vực quốc doanh, đối với mỗi công dân là vào đội ngũ viên chức nhà
nước. Do đó việc làm và người có việc làm được xã hội thừa nhận và trân
trọng là những người làm việc trong thành phần kinh tế quốc doanh, khu vực
Nhà nước và kinh tế tập thể.
Khi chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo
cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, quan điểm về việc làm được
hiểu là hoạt động lao động không bị pháp luật ngăn cấm tạo thu nhập hoặc tạo
ra điều kiện cho các thành viên trong hộ gia đình có thêm thu nhập. Điều này
cũng phù hợp với các nhìn nhận và phân tích của Nhà nước ta, được quy định
trong Điều 13 của Bộ luật Lao động: “Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn
thu nhập, không bị pháp luật ngăn cấm đều được thừa nhận là việc làm”.
Khái niệm việc làm của Bộ luật Lao động Việt Nam được cụ thể hoá,
có thể hiểu dưới ba dạng hoạt động sau:
- Làm các công việc để nhận tiền công, tiền lương bằng tiền mặt hoặc
hiện vật.
- Làm các công việc để thu lợi nhuận cho bản thân.
- Làm các công việc cho hộ gia đình mình nhưng không được trả thù
lao dưới hình thức tiền lương, tiền công cho công việc đó.
Theo quan niệm trên, một hoạt động được coi là việc làm cần thoả mãn
hai tiêu thức:


12

Một là, hoạt động đó phải có ích và tạo ra thu nhập cho người lao động
và cho các thành viên trong gia đình. Điều này chỉ rõ tính hữu ích và nhấn

mạnh tiêu thức tạo ra thu nhập của việc làm.
Thứ hai, hoạt động đó không bị pháp luật ngăn cấm. Điều này cho rõ
tính pháp lý của việc làm, quan niệm đã rõ ràng hơn so với quan niệm của tổ
chức ILO. Hoạt động có ích không giới hạn về phạm vi, ngành nghề và hoàn
toàn phù hợp với sự phát triển của thị trường lao động ở Việt Nam trong quá
trình phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Người lao động hợp pháp ngày
nay được đặt vào vị trí chủ thể, có quyền tự do hành nghề, tự do liên kết kinh
doanh, tự do tìm kiếm việc làm, tự do thuê mướn lao động trong khuôn khổ
của pháp luật, không bị phân biệt đối xử dù làm việc trong hay ngoài khu vực
Nhà nước. Điều này khẳng định tính chất pháp lý trong hoạt động của người
lao động thuộc khu vực ngoài Nhà nước và các khu vực phi chính thức.
Hai điều kiện đó có quan hệ chặt chẽ với nhau và là điều kiện cần và đủ
để một hoạt động lao động được thừa nhận là việc làm. Nếu một hoạt động
tạo ra thu nhập, nhưng vi phạm pháp luật như trộm cắp, buôn bán ma tuý, mại
dâm... thì không được thừa nhận là việc làm. Mặt khác một hoạt động là hợp
pháp và có ích, nhưng không tạo ra thu nhập cũng không được thừa nhận là
việc làm.
Nhận thức về việc làm và tạo việc làm đã có sự chuyển biến căn bản.
Nếu như trước đây, quan niệm phổ biến là Nhà nước chịu trách nhiệm tạo việc
làm và bố trí việc làm cho người lao động thì nay đã chuyển sang quan niệm
tạo việc làm là trách nhiệm của Nhà nước, doanh nghiệp, xã hội và của chính
bản thân người lao động. Sự thay đổi quan niệm về việc làm của Nhà nước
phù hợp với nền kinh tế thị trường, coi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu
nhập, không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm, có vai trò quan
trọng trong giải phóng sức lao động, thúc đẩy tạo mở việc làm và phát triển
thị trường lao động ở nước ta.


13


Quan niệm về việc làm nêu trên đã mang tính khái quát cao, tuy nhiên
vẫn còn một số hạn chế, cụ thể là:
Thứ nhất, xét trên phạm vi rộng thì tính hợp pháp của một hoạt động
lao động được thừa nhận là việc làm tuỳ thuộc vào luật pháp của mỗi quốc gia
và mỗi thời kỳ. Có hoạt động là việc làm ở nước này nhưng lại không được
thừa nhận là việc làm ở nước khác.
Thứ hai, không phải mọi hoạt động có ích và cần thiết cho gia đình và
xã hội đều tạo ra thu nhập mặc dù nó góp phần làm giảm chi tiêu cho gia đình
thay vì thuê người làm công.
Theo giáo trình Kinh tế Lao động của Khoa Kinh tế Lao động và Dân
số- Trường đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội, khái niệm việc làm được hiểu
“là phạm trù để chỉ trạng thái phù hợp giữa sức lao động và những điều kiện
cần thiết (vốn, tư liệu sản xuất, công nghệ...) để sử dụng sức lao động đó”.
Trạng thái phù hợp được thể hiện thông qua quan hệ tỉ lệ giữa chi phí
ban đầu (C) như nhà xưởng, máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu...và chi phí về
sức lao động (V). Quan hệ tỉ lệ biểu diễn sự kết hợp giữa sức lao động với
trình độ công nghệ sản xuất. Khi công nghệ thay đổi thì sự kết hợp đó cũng
thay đổi theo, có thể công nghệ sử dụng nhiều vốn hoặc công nghệ sử dụng
nhiều sức lao động. Chẳng hạn, trong điều kiện kỹ thuật thủ công một đơn vị
chi phí ban đầu về tư liệu sản xuất, vốn có thể kết hợp với nhiều đơn vị sức
lao động. Còn trong điều kiện tự động hoá, sản xuất theo dây chuyền hiện đại
thì chi phí về vốn, thiết bị, công nghệ rất cao, nhưng chỉ đòi hỏi sức lao động
với tỉ lệ thấp. Do đó, tuỳ từng điều kiện cụ thể mà lựa chọn phương án phù
hợp để có thể tạo việc làm cho người lao động.
Trong điều kiện của tiến bộ khoa học kỹ thuật và sự áp dụng các thành
tựu của khoa học công nghệ vào sản xuất mạnh mẽ như hiện nay, quan hệ tỉ lệ
giữa C và V thường xuyên biến đổi theo các dạng khác nhau.


14


- Sự phù hợp giữa chi phí ban đầu và sức lao động có nghĩa là mọi
người có khả năng lao động, có nhu cầu làm việc đều có việc làm. Nếu chỉ
xem xét trên phương diện sử dụng hết thời gian lao động có nghĩa là việc làm
đầy đủ. Trong trường hợp sự phù hợp của mối quan hệ này cho phép sử dụng
triệt để tiềm năng về vốn, tư liệu sản xuất và sức lao động ta có khái niệm
việc làm hợp lý.
- Sự không phù hợp giữa chi phí ban đầu và sức lao động sẽ dẫn đến
thiếu nguồn nhân lực tức thiếu việc làm và thất nghiệp.
Trong luận văn này, từ những phân tích trên, tác giả đồng tình với khái
niệm việc làm là phạm trù để chỉ trạng thái phù hợp giữa sức lao động và
những điều kiện cần thiết (vốn, tư liệu sản xuất, công nghệ...) để sử dụng sức
lao động đó. Trên cơ sở này sẽ hình thành các dạng việc làm cũng như phân
tích các nhân tố ảnh hưởng đến hỗ trợ giải quyết việc làm.
b. Phân loại việc làm
Trong lý thuyết và cả trong thực tế việc làm được chia làm nhiều hình
thức khác nhau. Những hình thức việc làm là các phương pháp tổ chức pháp
lý và những điều kiện sử dụng lao động. Trong khuôn khổ của thị trường lao
động quốc gia hoạt động lao động của con người được tổ chức với sự trợ giúp
của những hình thức tổ chức pháp lý khác nhau, được phân biệt bởi định mức
điều tiết pháp lý thời gian và chế độ ngày làm việc, sự đều đặn của hoạt động
lao động, vị trí thực hiện công việc...
- Việc làm đầy đủ khái niệm việc làm đầy đủ không thể chỉ giải thích
theo một nghĩa, nó phụ thuộc vào tiêu chí và tính chất của vấn đề. Đầy đủ ở
đây không có nghĩa là việc làm chung cho tất cả mọi người, đảm bảo chỗ làm
việc cho tất cả dân số có khả năng lao động. Xã hội luôn có khuynh hướng
đạt được cân đối nguồn lao động trong mức tối đa, dự đoán dòng chuyển
động nguồn lao động được dựa trên cơ sở dự báo và lên kế hoạch tạo chỗ làm



15

việc. Trong tư duy và thực tế ở phương Tây, việc làm đầy đủ là tình hình nền
kinh tế, mà ở đó tất cả những người mong muốn làm việc có việc làm với
mức lương thực tế khống chế. Trong ngữ cảnh này nó được sử dụng đồng
nhất như khái niệm “toàn dụng nhân lực”.
Trong lý thuyết kinh tế và thực tế người ta còn chia việc làm đầy đủ ra
thành nhiều dạng như việc làm năng suất, hiệu quả và hợp lý.
- Việc làm năng suất có nghĩa là việc làm tạo ra những phúc lợi và
dịch vụ hữu ích cả cho xã hội và cả cho từng người lao động.
- Việc làm hợp lý dự đoán sự phân chia một cách tối ưu người đang
làm việc theo các ngành sản xuất và các khu vực lãnh thổ của đất nước với
mục đích sản xuất ra những sản phẩm và sử dụng những dịch vụ phục vụ cho
nhu cầu.
- Việc làm hiệu quả là việc làm trong sản xuất sinh lợi nhuận được
trang bị kỹ thuật với tổ chức lao động tiên tiến, năng suất lao động cao và
đảm bảo chất lượng sản phẩm. Nó dự đoán sự hiện có những cán bộ và đội
ngũ những nhà quản lý có trình độ chuyên nghiệp cao và hướng tới công việc
có hiệu quả. Khái niệm việc làm hiệu quả này thường hướng vào sự phát
triển toàn diện con người và hoàn toàn chấp nhận được, nhưng nó khá rộng
và không có khả năng đo được bằng một chỉ tiêu.
Về hiệu quả việc làm có thể theo chỉ tiêu định mức thất nghiệp. Hiện
nay, ở phương Tây, việc làm đầy đủ và có hiệu quả đạt được khi có sẵn định
mức thất nghiệp tự nhiên. Định mức thất nghiệp tự nhiên là mức độ của nó
mà kiềm chế mức lương thực tế và giá cả không thay đổi với mức tăng
trưởng năng suất lao động bằng không. Trong thực tế định mức thất nghiệp
được tính bằng cách tính tổng thất nghiệp tạm thời và thất nghiệp cấu trúc.
Phương pháp đơn giản nhất để tính định mức thất nghiệp tự nhiên là tính theo
mức độ của nó trong điều kiện lạm phát ở mức vừa phải. Vì



16

vậy, không nên đánh giá việc làm đầy đủ và có hiệu quả chỉ theo một phương
pháp, mà để nhận được thông tin chính xác thì nên sử dụng hệ thống các chỉ
tiêu đã nêu trên.
- Việc làm hợp lý: là sự thoả mãn nhu cầu làm việc cho bất cứ ai có
khả năng lao động trong nền kinh tế quốc dân và phù hợp với trình độ,
nguyện vọng của họ.
Việc làm hợp lý không những hàm chứa nội dung việc làm đầy đủ mà
còn nói rõ việc làm đó phải phù hợp với khả năng và nguyện vọng của người
lao động. Việc làm hợp lý, do vậy có năng suất lao động và hiệu quả kinh tếxã hội cao hơn so với việc làm đầy đủ. Trong quá trình thực hiện việc làm
đầy đủ, cần từng bước, từng bộ phận thực hiện việc làm hợp lý. Việc làm hợp
lý phản ánh sự phù hợp về mặt số lượng và chất lượng của các yếu tố con
người với điều kiện vật chất của sản xuất và xã hội, hợp lý giữa lợi ích cá
nhân người lao động với lợi ích của xã hội.
Khái niệm việc làm đầy đủ và việc làm hợp lý cũng chỉ mang ý nghĩa
tương đối. Vì trong nền kinh tế thị trường có điều tiết thì việc làm đầy đủ và
việc làm hợp lý không có nghĩa là không có người thất nghiệp. Mục tiêu
phấn đấu của chúng ta là việc làm, tiến tới việc làm đầy đủ, việc làm hợp lý
và tự do lựa chọn việc làm.
- Việc làm chính: là công việc mà người thực hiện dành nhiều thời gian
nhất hoặc có thu nhập cao hơn so với các công việc khác. Như vậy, những
hoạt động lao động của con người mang lại nguồn thu nhập chính cho bản
thân và gia đình họ thì đó là việc làm chính. Hiện nay, các hoạt động lao
động được coi là việc làm chính, ví dụ những người lao động làm việc trong
các doanh nghiệp, các cơ quan đơn vị bởi vì thời gian và nguồn thu nhập của
họ lại chiếm cao hơn so với các công việc làm thêm ngoài giờ của họ. Mặc
dù hiện nay, vấn đề làm thêm giờ hoặc làm ở nhà do có cửa hàng của gia



17

đình nhưng số thời gian mà họ việc trong một ngày vẫn chiếm tỉ lệ cao tại các
doanh nghiệp, cơ quan.
Mặt khác, những hộ gia đình có cơ sở sản xuất kinh doanh dựa vào
nguồn sẵn có của mình để mở một cửa hàng mà nguồn thu nhập lại phụ thuộc
rất lớn vào cửa hàng thì khi đó, công việc mà họ làm tại cửa hàng đó cũng
được coi là việc làm chính.
- Việc làm phụ:là việc làm thêm theo nhu cầu hoặc mong muốn của
người lao động để kiếm thêm thu nhập ở một công sở khác hoặc là ngay tại
chính nơi mình đang làm việc. Việc làm phụ được xếp vào nhóm những công
việc kiêm nhiệm cả ở những công sở khác và cả ở nơi đang làm việc; những
công việc dịch vụ vào những lúc nhàn rỗi; buôn bán lặt vặt... Trong số nhiều
hình thức việc làm khác nhau thì việc làm phụ chiếm một vị trí đặc biệt. Nó
gắn với đặc thù bản chất việc làm và cả với tác động mà nó ảnh hưởng tới
hoạt động của thị trường lao động. Việc làm phụ là hình thức sử dụng lực
lượng lao động bổ sung vào hoạt động lao động, hay nói cụ thể là việc làm có
thu nhập thêm ở doanh nghiệp (công sở) khác hoặc là ngay tại nơi đang làm
việc, mà đang được sử dụng rộng rãi trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Việc làm thêm là nhu cầu chính đáng của người lao động để tăng thu
nhập trong điều kiện mức sống còn thấp như ở Việt Nam, đồng thời còn là
mong muốn thể hiện khả năng cạnh tranh của chính bản thân người lao động
trên thị trường lao động và cũng là một “cầu nối đặc biệt” đảm bảo thay thế
chỗ làm việc mới trong tương lai mà không phải trải qua thời kỳ thất nghiệp.
Hiện nay, việc làm thêm tuỳ tiện ở một số ngành (như giáo dục, y tế), sự khác
biệt quá lớn giữa tiền lương và thu nhập của một bộ phận công chức dưới
danh nghĩa việc làm thêm của khu vực nhà nước ở Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay lại ảnh hưởng rất tiêu cực đến tình hình kinh tế - xã hội nói chung
và sự phát triển đồng bộ thị trường lao động nói riêng.



18

Cùng với chính sách mới cho người lao động được tự do lựa chọn công
việc và nghề nghiệp thì việc làm phụ là một biểu hiện hợp lý. Tuy nhiên, ở
Việt Nam, biểu hiện này về cơ bản nó gắn với những xuất hiện tiêu cực như:
việc làm không đầy đủ, thu nhập của người lao động thấp, tăng trưởng kinh
tế chưa bền vững. Xét từ góc độ này thì phát triển việc làm phụ rộng rãi chỉ là
biểu hiện tạm thời và nó sẽ giảm khi nền kinh tế - xã hội của đất nước phát
triển ổn định.
- Việc làm không trọn ngày:hay việc làm dở dang có đặc điểm công
việc trong chế độ thời gian làm việc không trọn ngày làm việc hoặc tuần làm
việc không đầy đủ, nghỉ phép bắt buộc không hưởng lương theo chủ động
của lãnh đạo công sở (doanh nghiệp), có thể được ấn định từ phía công ty,
người thuê lao động và thậm chí có thể từ sự thoả thuận đồng ý của người lao
động, đó là việc làm không trọn ngày tự nguyện. Thời gian gần đây, cả chế
độ này hay chế độ kia đều được sử dụng rộng rãi ở các nước có nền kinh tế
thị trường phát triển.
Đối với người lao động, việc làm không trọn ngày hoàn toàn có thể
chấp nhận được trong hàng loạt các trường hợp: phụ nữ có con nhỏ, những
lao động lớn tuổi, những người tàn tật, thanh niên vừa đi học, vừa đi làm đều
có lợi thế với loại hình việc làm này.
- Việc làm độc lập:là công việc độc lập theo chủ động cá nhân không
thu nhận lao động làm thuê khi sản xuất những hàng hoá tiêu dùng và các
dịch vụ khác nhau. Đồng thời người lao động làm chủ những phương tiện sản
xuất nhất định và tự tổ chức công việc cho mình. Trong giới hạn nhất định
việc làm độc lập là tình thế phải chọn của người lao động thất nghiệp (có thể
do doanh nghiệp không đủ năng lực đảm bảo khả năng với mức lương đầy
đủ), nhưng điều đó không thể phủ nhận vai trò tích cực chủ động của nó.

- Việc làm tổng thể:là việc làm trong tất cả các lĩnh vực hoạt động lao


×