Tải bản đầy đủ (.docx) (62 trang)

CƠ sở LÝ LUẬN về PHỐI hợp GIỮA TRUNG tâm GDTX với CỘNG ĐỒNG TRONG GIÁO DỤC GIÁ TRỊ SỐNG CHO HỌC SINH TRUNG học PHỔ THÔNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (200.06 KB, 62 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHỐI HỢP GIỮA
TRUNG TÂM GDTX VỚI CỘNG ĐỒNG
TRONG GIÁO DỤC GIÁ TRỊ SỐNG CHO
HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG


Tổng quan nghiên cứu vấn đê
Giáo dục giá trị sống (GTS) là quá trình tổ chức và
hướng dẫn hoạt động của học sinh để học sinh chiếm lĩnh
được các giá trị xã hội, hình thành nên hệ thống giá trị của
bản thân phù hợp với sự mong đợi và yêu cầu chung của toàn
xã hội. Giáo dục giá trị sống là bộ phận cốt yếu của mọi
chương trình giáo dục nhằm hình thành và phát triển nhân
cách con người.
Giáo dục GTS cho học sinh THPT được xem là vấn đề
quan trọng góp phần trong việc hình thành và phát triển nhân
cách cho học sinh, vì thế đây là vấn đề được nhiều nhà nghiên
cứu, nhà giáo dục trong và ngoài nước quan tâm.
Các công trình nghiên cứu về giáo dục giá trị sống
cho học sinh phổ thông
Một trong những người có những nghiên cứu mang tính
hệ thống về giáo dục giá trị sống, kỹ năng sống ở Việt Nam là
tác giả Nguyễn Thanh Bình. Trong giáo trình Giáo dục kỹ
năng sống cho học sinh phổ thông (2013), tác giả đã triển
khai nghiên cứu tổng quan về giá trị sống, kỹ năng sống, các


phương pháp tiếp cận giá trị sống, kỹ năng sống trong giáo
dục ở nhà trường phổ thông, đồng thời đề xuất một số chủ đề
giáo dục GTS, kỹ năng sống cho học sinh THPT.
Nhóm tác giả Nguyễn Thị Mỹ Lộc, Đinh Thị Kim


Thoa,Trần Văn Tính, Vũ Phương Liên trong cuốn sách
“Phương pháp giáo dục giá trị sống và kỹ năng sống cho học
sinh trung học phổ thông” (2012) đã luận giải vấn đề lồng
ghép giữa giáo dục giá trị sống và kĩ năng sống, trong đó giáo
dục giá trị sống luôn là nền tảng, kĩ năng sống là công cụ và
phương tiện để tiếp nhận và thể hiện giá trị sống. Nghiên cứu
của các tác giả đã giúp cho giáo viên trung học định hướng tổ
chức thực hiện giáo dục giá trị sống và kĩ năng sống trong nhà
trường, chỉ ra rằng giáo viên có thể tổ chức các giờ dạy hay
hoạt động giáo dục giá trị sống và kĩ năng sống một cách
riêng biệt hoặc lồng ghép trong dạy học các môn học mà giáo
viên đảm nhận.
Tác giả Nguyễn Công Khanh trong cuốn “Phương pháp
giáo dục giá trị sống, kĩ năng sống” (2012) đã nghiên cứu về
đổi mới, đa dạng hóa phương pháp giáo dục giá trị sống và
phát triển kĩ năng sống đáp ứng nhu cầu, hứng thú, phù hợp


với đặc điểm lứa tuổi của học sinh, sưu tầm các câu chuyện ẩn
chứa trong đó các triết lí, các bài học giáo dục giá trị sống…
Các tác giả Bùi Văn Trực, Phạm Thế Hưng - Trung tâm
huấn luyện Kĩ năng sống Phù Sa Đỏ, đã tập hợp các chuyên
đề, bài giảng, phương pháp, truyện ngụ ngôn…về giáo dục
giá trị sống, kĩ năng sống.
Chương trình phát triển giáo dục trung học cho lưu hành
“Tài liệu tập huấn giáo viên chủ nhiệm với công tác tư vấn
tâm lí - giáo dục cho học sinh trung học”. Nhằm trang bị cho
giáo viên quy trình, công cụ tư vấn và các loại hình tư vấn học
sinh một số vấn đề tâm lí mà học sinh có thể gặp phải, cách
giúp đỡ các em phòng ngừa, đối mặt và giải quyết trong các

quan hệ xã hội.
Năm 2013, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành tài liệu
tập huấn “Hiệu trưởng trường trung học với vấn đề giáo dục
giá trị sống, kĩ năng sống và giao tiếp ứng xử trong quản lí”
do các tác giả Lục Thị Nga và Nguyễn Thanh Bình biên soạn
để triển khai trong ngành giáo dục.
Từ năm 2010 đến nay, nhiều tác giả đã chọn các đề tài
có liên quan đến giáo dục giá trị sống, kĩ năng sống cho học


sinh làm luận văn tốt nghiệp cao học chuyên ngành quản lý
giáo dục, tâm lý, giáo dục và phát triển cộng đồng.
Năm 2013, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành tài liệu
tập huấn“ Hiệu trưởng trường trung học với vấn đề giáo dục
giá trị sống, kĩ năng sống và giao tiếpứng xử trong quản lí”
do các tác giả Lục Thị Nga và Nguyễn Thanh Bình biên soạn
để trển khai trong ngành giáo dục.
Tác giả Phạm Thị Nga, với đề tài luận án tiến sĩ quản lý
giáo dục:“Quản lý hoạt động giáo dục giá trị sống và kỹ năng
sống cho học sinh các trường trung học cơ sở trong bối cảnh
đổi mới giáo dục ” (2016), đã luận giải những vấn đề lý luận
về quản lý hoạt động giáo dục GTS và đề xuất những biện
pháp quản lý hoạt động giáo dục GTS cho học sinh các trường
trung học cơ sở vùng đồng bằng Sông Hồng trong bối cảnh
mới.
Tác giả Nguyễn Hữu Đức, với đề tài luận văn quản lý
giáo dục:“Quản lý giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trường
trung học phổ thông Trần Hưng Đạo - Nam Định trong giai
đoạn hiện nay” (2010), đã luận giải những vấn đề lý luận về
kỹ năng sống và đề xuất những giải pháp quản lý giáo dục kỹ



năng sống cho học sinh trung học phổ thông Trần Hưng Đạo
thành phố Nam Định.
Tác giả Lương Thị Hằng với đề tài luận văn quản lý giáo
dục:“Biện pháp quản lý hoạt động giáo dục giá trị sống, kĩ
năng sống ở trường trung học phổ thông Nam Phù Cừ, tỉnh
Hưng Yên” (2010) đã đề cập khá rộng, cả những hoạt động
giáo dục giá trị sống và kỹ năng sống, trên cơ sở đó đề xuất
những biện pháp khả thi để quản lý hoạt động này phù hợp
với những đặc điểm, thực tiễn của học sinh và nhà trường
Nam Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên.
Tác giả Trần Thị Hải Yến với đề tài luận văn thạc sĩ quản
lý giáo dục “Những biện pháp quản lý nhằm "xây dựng trường
học thân thiện" tại trường trung học phổ thông Việt Bắc thành phố Lạng Sơn” (2010), tác giả Lê Anh Tuấn với đề tài
luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục“Biện phápquản lý giáo dục
giá trị sống cho học sinh ở trường trung học phổ thông huyện
Thạch Thất, Hà Nội” (2011) và tác giả Nguyễn Văn Song với
đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục “Quản lý hoạt động
giáo dục học sinh có hành vi lệch chuẩn ở trường trung học
phổ thông Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên” (2012) đã luận giải những
khía cạnh khác nhau của giáo dục giá trị sống và quản lý giáo


dục giá trị sống để đề xuất những biện pháp đảm bảo cho hoạt
động giá trị sống thực hiện tốt mục tiêu, nội dung, xây dựng
những chuẩn mực, giá trị sống cốt lõi nhằm phát triển toàn
diện nhân cách học sinh trung học phổ thông.
Các công trình nghiên cứu về phối hợp giữa Trung
tâm GDTX với cộng đồng trong giáo dục giá trị sống cho

học sinh phổ thông.
Về phối hợp giữa Trung tâm GDTX với cộng đồng trong
giáo dục giá trị sống cho học sinh phổ thông. Nhiều công
trình nghiên cứu có liên quan đến phối hợp giữa nhà trường
và cộng đồng giáo dục giá trị sống, kĩ năng sống cho học như:
Tác giả Nguyễn Thị Yến Trang, với đề tài luận văn thạc
sĩ khoa học giáo dục: “Phối hợp giữa nhà trường với cộng
đồng trong giáo dục đạo đức cho học sinh trung học cơ sở
thành phố Vĩnh Long ” (2017), đã luận giải những vấn đề lý
luận về đạo đức và phối hợp giữa nhà trường với cộng đồng
trong giáo dục đạo đức cho học sinh trung học cơ sở; phân
tích, đánh giá thực trạng phối hợp giữa nhà trường với cộng
đồng trong giáo dục đạo đức cho học sinh trung học cơ sở
thành Phố Vĩnh Long; đề xuất những biện pháp phối hợp giữa


nhà trường với cộng đồng trong giáo dục đạo đức cho học
sinh trung học cơ sở thành phố Vĩnh Long.
Tác giả Trần Thị Cẩm Tú, với đề tài luận án tiến sĩ khoa
học giáo dục: “Giáo dục giá trị sống cho sinh viên sư phạm”
(2017), đã luận giải những vấn đề lý luận về giáo dục GTS
cho sinh viên sư phạm; phân tích, đánh giá thực trạng giáo
dục GTS cho sinh viên sư phạm; đề xuất những biện pháp
giáo dục GTS cho sinh viên sư phạm và thực nghiệm biện
pháp giáo dục GTS cho sinh viên sư phạm.
Tóm lại, các phân tích trên cho thấy, trong những năm
qua, Giáo dục GTS cho học sinh THPT ở Việt Nam ngày càng
được quan tâm. Các công trình trên đã đề cập vấn đề dưới
nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên, còn ít đề tài đi sâu nghiên
cứu về công tác phối hợp giữa Trung tâm GDTX với CĐ

trong giáo dục GTS cho học sinh THPT, đặc biệt tại huyện
Kim Thành, tỉnh Hải Dương. Chính vì vậy tôi chọn đề tài
“Phối hợp giữa Trung tâm Giáo dục thường xuyên với cộng
đồng trong giáo dục giá trị sống cho học sinh Trung học
phổ thông tại huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương” làm luận
văn tốt nghiệp thạc sĩ của mình.


Một số khái niệm cơ bản
Cộng đồng
Theo Từ điển Tiếng Việt: “Cộng đồng là toàn thể
những người cùng sống, có những điểm giống nhau, gắn bó
thành một khối trong sinh hoạt xã hội”
CĐ là hình thức chung sống trên cơ sở sự gần gũi của
các thành viên về mặt cảm xúc, hướng tới sự gắn bó đặc biệt
mật thiết (gia đình, tình bạn CĐ yêu thương) được chính họ
tìm kiếm và vì thế được con người cảm thấy có tính cội
nguồn. Và CĐ được xem là một trong những khái niệm nền
tảng nhất của xã hội học, bởi vì nó mô tả những hình thức
quan hệ và quan niệm về trật tự, không xuất phát từ các tính
toán lợi ích có tính riêng lẻ và được thỏa thuận theo kiểu hợp
đồng mà hướng tới một sự thống nhất về tinh thần - tâm linh
bao quát hơn và vì thế thường cũng có ưu thế về giá trị.
CĐ người có tính đa dạng, tính phức tạp hơn nhiều so
với các CĐ sinh vật khác. Trong đời sống xã hội, khái niệm
CĐ có nhiều tuyến nghĩa khác nhau đồng thời CĐ cũng là đối
tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác nhau: xã
hội học, dân tộc học, y học…



Khi nói tới CĐ người, người ta thường quy vào những
“nhóm xã hội” có cùng một hay nhiều đặc điểm chung nào
đó, nhấn mạnh đến đặc điểm chung của những thành viên
trong CĐ.
Theo quan điểm Mác – Lênin, CĐ là mối quan hệ qua lại
giữa các cá nhân, được quyết định bởi sự CĐ hóa lợi ích
giống nhau của các thành viên về các điều kiện tồn tại và hoạt
động của những người hợp thành CĐ đó, bao gồm các hoạt
động sản xuất vật chất và các hoạt động khác của họ, sự gần
gũi các cá nhân về tư tưởng, tín ngưỡng, hệ giá trị chuẩn mực
cũng như các quan niệm chủ quan của họ về các mục tiêu và
phương tiện hoạt động.
Quan niệm về CĐ theo quan điểm trên là quan niệm rất
rộng, có tính khái quát cao, mang đặc thù của kinh tế - chính
trị. Dấu hiệu đặc trưng chung của nhóm người trong CĐ này
chính là “điều kiện tồn tại và hoạt động”, là “lợi ích chung”,
là “tư tưởng”, “tín ngưỡng”, “giá trị”chung…Thực chất đó là
CĐ mang tính giai cấp, ý thức hệ.
Xuất phát từ tiếng La tinh, “Cộng đồng” – communis có
nghĩa là “chung/công cộng/được chia sẻ với mọi người hoặc


nhiều người”. Đặc điểm/ dấu hiệu chung của CĐ này chính là
đặc điểm để phân biệt nó với CĐ khác.
Dấu hiệu/đặc điểm để phân biệt CĐ này với CĐ khác có
thể là bất cứ cái gì thuộc về con người và xã hội loài người,
màu da, đức tin, tôn giáo, lứa tuổi, ngôn ngữ, nhu cầu, sở
thích nghề nghiệp… nhưng cũng có thể là vị trí địa lý của khu
vực (địa vực), nơi sinh sống của nhóm người đó như làng, xã,
quận/huyện, quốc gia, châu lục… Những dấu hiệu này chính

là những ranh giới để phân chia CĐ.
Tóm lại, qua những phân tích trên, theo tác giả, trong
đời sống xã hội, CĐ là một danh từ chung chỉ tập hợp người
nhất định nào đó với hai dấu hiệu quan trọng: 1/ họ cùng
tương tác với nhau; 2/ họ cùng chia sẻ với nhau (có chung
với nhau) một hoặc một vài đặc điểm vật chất hay tinh thần
nào đó.
Giá trị sống
Để nghiên cứu khái niệm giá trị sống cần phải làm rõ
khái niệm giá trị.


Theo Từ điển Bách khoa toàn thư Xô Viết thì: “Giá trị là
sự khẳng định hoặc phủ định ý nghĩa của các đối tượng thuộc
thế giới xung quanh đối với con người, giai cấp, nhóm hoặc
toàn xã hội nói chung. Giá trị được xác định không phải bởi
bản thân các thuộc tính tự nhiên, mà là bởi tính chất cuốn hút
(lôi cuốn) của các thuộc tính ấy vào phạm vi hoạt động sống
của con người, phạm vi các hứng thú và nhu cầu, các mối
quan hệ xã hội, các chuẩn mực và phương thức đánh giá ý
nghĩa nói trên được biểu hiệntrong các nguyên tắc chuẩn mực
đạo đức, trong lý tưởng, tâm thế và mục đích” [54, tr.1462]
Theo Từ điển Tiếng Việt thì giá trị là “cái mà người ta
dùng làm cơ sở để xem xét một vật có lợi ích tới mức nào đối
với con người” [53, tr. 354]
Tiếp cận các quan điểm về giá trị nói trên, khi đề cập
đến khái niệm giá trị cần tính đến những điểm dưới đây:
Một là, bất cứ sự vật nào cũng có thể xem là có giá trị, dù
là vật thể hay phi vật thể được con người thừa nhận, cần đến nó
như một nhu cầu trong đời sống.

Hai là, giá trị của một sự vật, hiện tượng chỉ tồn tại
trong mối liên hệ với nhu cầu của con người. Tùy thuộc vào


con người có hay không có nhu cầu mà sự vật, hiện tượng ấy
có hay không có giá trị.
Ba là, giá trị luôn có tính xã hội, tính lịch sử, tính thực
tiễn, được hình thành trong hoạt động của con người.
Bốn là, trong mọi giá trị đều chứa đựng yếu tố nhận
thức, yếu tố tình cảm và yếu tố hành vi của chủ thể trong mối
quan hệ với sự vật mang giá trị được thể hiện ở sự lựa chọn,
đánh giá của chủ thể.
Trong hệ thống giá trị thì GTS được đánh giá là giá trị
cốt lõi, định hướng và quyết định sự phát triển của nhân cách.
Khi đề cập GTS là muốn nói đến những giá trị thiết thực
cho cuộc sống của từng cá nhân con người đang sống, hoạt
động, gắn liền với kỹ năng sống, giúp người ta sống và làm việc
hiệu quả hơn cho cá nhân và xã hội.
GTS cũng có nguồn gốc hình thành, biến đổi, duy trì...
theo những quy luật xã hội như các giá trị nói chung. Nhưng
khi giáo dục hay đánh giá giá trị sống người ta chủ yếu hướng
vào bình diện cá nhân.


Tác giả Đặng Quốc Bảo cho rằng: “Phạm trù giá trị
sống được tạo nên bởi kĩ năng sống thành thạo trên nền tảng
quan điểm sống đúng đắn. Đất nước nào xây dựng và giúp cho
thế hệ trẻ thực hiện được hệ giá trị bản thân đúng đắn và hợp
thời, thì đất nước đó sẽ có các giờ học tốt, nhà trường tốt, hệ
thống giáo dục và nền giáo dục tiên tiến không lạc hậu, lạc

điệu với thời đại”.[3]
Giá trị cuộc sống (hay giá trị sống) là những điều chúng
ta cho là quý giá, là quan trọng, là có ý nghĩa đối với cuộc
sống của mỗi người. Giá trị sống trở thành động lực để người
ta nỗ lực phấn đấu để có được nó. Giá trị sống mang tính cá
nhân, không phải giá trị sống của mọi người đều giống nhau.
Có người cho rằng tài sản vật chất là trên hết. Có người cho
rằng tình yêu thương mới là điều quý giá nhất trên đời. Có
người coi trọng lòng trung thực, hay sự bình yên…
Tác giả cho rằng: Giá trị sống là một hình thái ý thức xã
hội, là hệ thống các quan niệm về cái thiện, cái ác trong các
mối quan hệ của con người với con người. Giá trị sống về
bản chất là những quy tắc, những chuẩn mực trong quan hệ
xã hội, được hình thành và phát triển trong cuộc sống, được
cả xã hội thừa nhận.


Giá trị sống là quy tắc sống, nó có vị trí to lớn trong đời
sống, và định hướng cho cuộc sống của mỗi cá nhân, điều
chỉnh hành vi cho phù hợp với chuẩn mực của xã hội.
Giá trị sống là cái gốc, định hướng thúc đẩy cá nhân có
thái độ, suy nghĩ, cảm xúc và hành động. Kĩ năng sống là
hành vi biểu hiện, cách thức hành động của mỗi cá nhân. Cụ
thể là chất lượng các mối quan hệ, tình trạng sức khỏe, trạng
thái tâm trí, sử sụng thời gian, sử dụng các kĩ năng.
Giá trị sống có tính khách quan tồn tại ngoài ý muốn chủ
quan của mỗi người, cuốn hút con người, làm con người sống,
tồn tại, phát triển với tư cách là chủ thể tích cực của tự nhiên,
xã hội, của sự phát triển nhân cách. Giá trị sống không phải là
chuẩn mực, giá trị do con người tự đặt ra, mà là do yêu cầu

khách quan của cuộc sống quy định các giá trị, giá trị sống ở
các thời kỳ lịch sử khác nhau.
Giá trị sống có ý nghĩa và vai trò quan trọng tạo ra động
lực thúc đẩy con người phát triển: tạo ra động cơ cho hành
động, hành vi; thúc đẩy ham muốn hướng đến chân, thiện,
mỹ; giải quyết tốt những mâu thuẫn của cá nhân với cộng
đồng, với tự nhiên ...


Giáo dục giá trị sống
Giáo dục giá trị và giáo dục giá trị sống là vấn đề được
nhiều nhà khoa học nghiên cứu. Mỗi khái niệm đưa ra được
các tác giả dựa trên cách tiếp cận khác nhau vì vậy khái niệm
về giáo dục giá trị sống cũng rất đa dạng.
Cách xây dựng khái niệm nhấn mạnh đến quá trình của
giáo dục giá trị sống thì cho rằng: giáo dục giá trị sống là quá
trình tổ chức, hướng dẫn, kích thích hoạt động tích cực của
người được giáo dục để họ lĩnh hội được các giá trị xã hội,
hình thành nên hệ thống giá trị cá nhân, phù hợp với mong
đợi của xã hội [50, tr.185].
Cách xây dựng khái niệm nhấn mạnh đến kết quả của
giáo dục giá trị sống thì cho rằng: Giáo dục giá trị sống là quá
trình giúp người học tiếp thu, lĩnh hội được những giá trị phổ
quát của xã hội biến thành những giá trị đặc trưng của bản thân
mỗi học sinh, giúp các em có suy nghĩ, thái độ và hành động
tích cực, hiệu quả phù hợp với bản thân và đáp ứng mong đợi
của cộng đồng, xã hội (Phạm Minh Hạc [24]; Nguyễn Công
Khanh [31]; Trần Thị Lệ Thu [47]).
Cách xây dựng nhấn mạnh đến cơ chế của giáo dục giá trị



sống: Giáo dục giá trị sống là quá trình có mục đích nhằm
chuyển hóa những giá trị khách quan được xã hội thừa nhận
thành giá trị của cá nhân trên cơ sở tổ chức hoạt động trải
nghiệm để nhận thức, đánh giá và lựa chọn giá trị cho họ. Trên
cơ sở đó, giá trị được lựa chọn sẽ định hướng hành động, điều
chỉnh hành vi của cá nhân (Nguyễn Thanh Bình [5]).
Qua phân tích các khái niệm trên, chúng tôi cho rằng:
Giáo dục giá trị sống là quá trình nhà giáo dục tổ chức,
hướng dẫn các hoạt động trải nghiệm giúp người được giáo
dục chuyển hóa những giá trị khách quan được xã hội thừa
nhận thành giá trị sống đặc trưng của mỗi người, giúp họ có
nhận thức, thái độ, hành vi tích cực, hiệu quả, phù hợp.
Giáo dục giá trị sống của học sinh THPT trong bối
cảnh hiện nay
Những đặc điểm phát triển tâm lí của học sinh
THPT
Học sinh THPT còn gọi là tuổi thanh niên, là giai đoạn
phát triển bắt đầu từ lúc dậy thì và kết thúc khi bước vào tuổi


người lớn. Tuổi thanh niên được tính từ 15 đến 25 tuổi, được
chia làm 2 thời kì:
+ Thời kì từ 15 - 18 tuổi: gọi là tuổi đầu thanh niên (học
sinh THPT) ;
+ Thời kì từ 18 - 25 tuổi: giai đoạn hai của tuổi thanh
niên (sinh viên).
Tuổi thanh niên cũng thể hiện tính chất phức tạp và nhiều
mặt của hiện tượng, nó được giới hạn ở hai mặt: sinh lí và tâm
lý. Đây là vấn đề khó khăn và phức tạp vì không phải lúc nào

nhịp điệu và các giai đoạn của sự phát triển tâm sinh lý cũng
trùng hợp với các thời kỳ trưởng thành về mặt xã hội. Có nghĩa
là sự trưởng thành về mặt thể chất, nhân cách trí tuệ, năng lực
lao động sẽ không trùng hợp với thời gian phát triển của lứa
tuổi.
Tuổi học sinh THPT là thời kì đạt được sự trưởng thành
về mặt cơ thể. Hoạt động trí tuệ của các em có thể phát triển
tới mức cao. Khả năng hưng phấn và ức chế ở vỏ não tăng lên
rõ rệt có thể hình thành mối liên hệ thần kinh tạm thời phức
tạp hơn. Tư duy ngôn ngữ và những phẩm chất ý chí có điều
kiện phát triển mạnh. Ở tuổi này, các em dễ bị kích thích và


sự biểu hiện của nó cũng giống như ở tuổi thiếu niên. Tuy
nhiên tính dễ bị kích thích này không phải chỉ do nguyên nhân
sinh lý như ở tuổi thiếu niên mà nó còn do cách sống của cá
nhân. Nhìn chung ở tuổi này các em có sức khỏe và sức chịu
đựng tốt hơn tuổi thiếu niên. Thể chất của các em đang ở độ
tuổi phát triển mạnh mẽ rất sung sức, nên người ta hay nói:
“tuổi 17 bẻ gãy sừng trâu”. Sự phát triển thể chất ở lứa tuổi
này sẽ có ảnh hưởng đến sự phát triển tâm lý và nhân cách
đồng thời nó còn ảnh hưởng tới sự lựa chọn nghề nghiệp sau
này của các em.
Trong gia đình: Các em có quyền lợi và trách nhiệm như
người lớn, các em cũng thấy được quyền hạn và trách nhiệm
của bản thân đối với gia đình. Có thể nói rằng các em trong độ
tuổi này là vừa học tập vừa lao động.
Trong nhà trường, học tập vẫn là hoạt động chủ đạo
nhưng tính chất và mức độ thì phức tạp và cao hơn hẳn so với
tuổi thiếu niên. Đòi hỏi các em tự giác, tích cực hơn, biết cách

vận dụng tri thức một cách sáng tạo. Nhà trường lúc này có
nghĩa đặc biệt quan trọng vì nội dung học tập không chỉ nhằm
trang bị tri thức và hoàn chỉnh tri thức mà còn có tác dụng
hình thành thế giới quan và nhân sinh quan cho các em.


Học sinh THPT có quyền tham gia mọi hoạt động bình
đẳng như người lớn. Khi tham gia vào hoạt động xã hội các
em được tiếp xúc với nhiều tầng lớp xã hội khác nhau, quan
hệ xã hội được mở rộng, các em có dịp hòa nhập và cuộc sống
đa dạng phức tạp của xã hội giúp các em tích lũy vốn kinh
nghiệm sống để chuẩn bị cho cuộc sống tự lập sau này.
Có thể nói ở lứa tuổi học sinh THPT, các em có hình
dáng người lớn, có những nét của người lớn nhưng chưa phải
là người lớn, còn phụ thuộc vào người lớn. Ở các em luôn tồn
tại hai đặc tính “tính trẻ con” và “tính người lớn”. Những yếu
tố kìm hãm sự phát triển người lớn, đó là các em phải lo việc
học, không quan tâm lo lắng điều gì, cha mẹ vẫn chăm lo mọi
mặt. Những yếu tố thúc đẩy người lớn là nguồn thông tin rộng
rãi và phong phú, cha mẹ bận rộn, con tự lập sớm, các em
tham gia các hoạt động xã hội ở nhà trường, cùng với sự phát
triển nhanh về thể lực.
Với những đặc điểm về tâm lí lứa tuổi của học sinh bậc
THPT như vậy, giáo dục trang bị cho các em giá trị sống là
nhiệm vụ rất cần thiết trong mỗi nhà trường.


Vai trò của giáo dục giá trị sống đối với học sinh
THPT trong bối cảnh hiện nay
Giáo dục GTS chính là định hướng cho các em những

con đường sống tích cực trong xã hội hiện đại trong ba mối
quan hệ cơ bản: con người với chính mình; con người với tự
nhiên; con người với các mối quan hệ xã hội. Qua đó, giúp
các em có thể ứng phó trước những tình huống trong cuộc
sống, biết quản lý cảm xúc, học cách giao tiếp, ứng xử với
mọi người xung quanh, giải quyết mâu thuẩn trong các mối
quan hệ, hoàn thiện bản thân một cách tích cực, lành mạnh.
GDGTS giúp học sinh biết sử dụng giá trị của bản thân,
của tri thức một cách hợp lý, mang lại lợi ích cho bản thân và
xã hội. Giáo dục GTS giúp cho học sinh biết cách tôn trọng
bản thân và người khác, biết cách hợp tác, biết xây dựng và
duy trì tình đoàn kết trong mối quan hệ, biết cách thích ứng
với những thay đổi không ngừng của cuộc sống. Cụ thể là:
Trong quan hệ với chính mình: Giáo dục GTS giúp HS
biết gieo những kiến thức vào thực tế để gặt hái những hành
động cụ thể và biến hành động thành thói quen, rồi lại gieo
những thói quen tích cực để tạo ra số phận cho mình.


Trong quan hệ với gia đình: Giáo dục GTS giúp HS biết
kính trọng ông bà, hiếu thảo với cha mẹ, quan tâm chăm sóc
người thân khi ốm đau, động viên, an ủi nhau khi gia quyến
có chuyện chẳng lành…
Trong quan hệ với xã hội: Giáo dục GTS giúp HS biết
cách ứng xử thân thiện với môi trường tự nhiên, với cộng
đồng như: có ý thức giữ gìn trật tự an toàn giao thông; giữ vệ
sinh đường làng, ngõ phố; bảo vệ môi trường thiên nhiên…Từ
đó, góp phần làm cho môi trường sống trong sạch, lành mạnh,
bớt đi những tệ nạn xã hội, những bệnh tật do sự thiếu hiểu
biết của chính con người gây nên; góp phần thúc đẩy những

hành vi mang tính xã hội tích cực để hài hoà mối quan hệ giữa
nhu cầu – quyền lợi – nghĩa vụ trong cộng đồng.
Hệ thống các giá trị sống của học sinh THPT trong
bối cảnh hiện nay
Giá trị và giá trị sống không có sự đối lập hay khác biệt
về bản chất. Đó chỉ là mỗi thời điểm hay trên mỗi lĩnh vực
người ta có cách tiếp cận vấn đề khác nhau, định hướng, nhấn
mạnh vào những mặt khác nhau, khía cạnh khác nhau của vấn
đề trong thực tiễn giáo dục mà thôi.


Có thể xác định giá trị sống là tất cả những cái gì có ích lợi,
đáng ham chuộng, quý giá, quan trọng, có ý nghĩa đối với cuộc
sống khiến mỗi người mong muốn lĩnh hội, thể hiện ra để cuộc
sống của mình tốt đẹp hơn và góp phần cải thiện cuộc sống
chung.
Những giá trị sống cần thiết không thể thiếu đối với học
sinh trung học phổ thông là: ham học hỏi; trung thực;giàu tình
yêu thương; biết quan tâm đến người khác; cần cù, siêng
năng; chủ động, tự tin; chấp nhận thử thách, sẵn sàng vượt
mọi khó khăn; khoan dung, biết nhận lỗi và biết tha thứ; yêu
Tổ quốc và lịch sử dân tộc; yêu hòa bình; tôn trọng bạn bè;
sống có kỷ luật; đoàn kết; khiêm tốn; giản dị; cần kiệm; dũng
cảm….
Trong một khoá tập huấn về giá trị sống tại Đại học quốc
gia Hà Nội, bà Trish Summerfield – Giám đốc Trung tâm
Giáo dục Giá trị sống tại Việt Nam đã giới thiệu về “12 giá trị
sống mang tính phổ quát nhất của cuộc sống. Đó là: Hoà bình,
tôn trọng, hợp tác, đoàn kết, trách nhiệm, khoan dung, khiêm
tốn, giản dị, trung thực, yêu thương, tự do và hạnh phúc”.



Đây cũng là hệ thống giá trị sống mà đề tài hướng tới
nghiên cứu trong giáo dục giá trị sống cho học sinh trung học
phổ thông huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương.
Giá trị sống chủ yếu hướng vào những giá trị tinh thần
không đề cập đến giá trị tiền bạc, giàu sang, sức khoẻ ...) và
chủ yếu hướng vào các bình diện:
Những giá trị phẩm chất nhân cách, đạo đức bản thân
(khoan dung, khiêm tốn, giản dị, trung thực, yêu thương, hạnh
phúc);
Những giá trị quan hệ liên nhân cách, quan hệ với nhóm,
với cộng đồng ... (tôn trọng, hợp tác, đoàn kết, trách nhiệm);
Đồng thời cũng quan tâm đến một số giá trị chung (hoà
bình, tự do ...).
Những giá trị trên chỉ là những giá trị cơ bản nhất.
Những học sinh càng có nhiều những giá trị sống thì sẽ phát
triển và hoàn thiện phẩm chất, nhân cách, đạt được kết quả
cao trong học tập và rèn luyện. Ngược lại, những học sinh
thiếu hụt những giá trị sống cơ bản sẽ có những biểu hiện suy
thoái về đạo đức, sống buông thả, ứng xử thiếu văn hóa, vi


phạm kỷ luật, có những hành vi bao lực, thậm chí vi phạm
pháp luật gây ra những hậu quả đáng tiếc. Những vấn đề trên
đặt ra cho các nhà trường nhiệm vụ cấp thiết phải coi trọng
đúng mức giáo dục giá trị sống, góp phần nuôi dưỡng cho học
sinh những giá trị sống tích cực, giúp cho các em trải nghiệm
thực tiễn, phát triển toàn diện nhân cách người học.
Giáo dục giá trị sống của học sinh THPT

Mục tiêu và nội dung giáo dục giá trị sống
Mục tiêu giáo dục giá trị sống
Mục tiêu giáo dục giá trị sống trong nhà trường phổ
thông là trang bị cho học sinh những tri thức về giá trị sống,
giúp học sinh tự giác, tích cực rèn luyện, học tập tiếp nhận
những giá trị chung của nhân loại, của dân tộc thành giá trị
của bản thân mỗi cá nhân để có thái độ, tình cảm đúng đắn
trong cuộc sống và học tập, đem lại lợi ích thiết thực cho mỗi
học sinh nói riêng và cho gia đình, xã hội nói chung.
Lực lượng giáo dục giá trị sống trong nhà trường phổ
thông là ban giám hiệu nhà trường, các giáo viên, các tổ chức
chính trị xã hội trong nhà trường và ngoài xã hội đặc biệt là


×