Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

TIỂU LUẬN HIẾN PHÁP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (117.69 KB, 16 trang )

MỤC LỤC

I.

LỜI MỞ ĐẦU
Hiến pháp là đạo luật cơ bản của mỗi nhà nước, nó xác định những điều cơ bản

nhất, quan trọng nhất của nhà nước và xã hội như chính trị, kinh tế- xã hội, văn hóa, an
ninh quốc phòng, đối ngoại, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, tổ chức và hoạt
động của bộ máy nhà nước.
Hiện nay trên thế giới có khoảng 190 nước có Hiến pháp và sự hiện diện của Hiến
pháp được xem là dấu hiệu pháp lý không thể thiếu của một nhà nước dân chủ hiện đại.
Trên thực tế, ở mỗi quốc gia, mỗi thời kỳ, Hiến pháp và các đạo luật có vị trí, vai trò đặc
biệt quan trọng trong hệ thống pháp luật. Bởi vì, Hiến pháp và các đạo luật được ban
hành bởi cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Nó phản ánh ý chí của nhà nước, quyết
định đến sự tồn tại và phát triển của mỗi quốc gia trên thế giới. Là đạo luật cơ bản để nhà
nước dựa vào, căn cứ vào đê xây dựng các đạo luật khác trong quá trình điều hành quản lí
Nhà nước.
Chính vì vậy chúng ta có thể thấy nó có một ý nghĩa vô cùng to lớn đối với sự tồn
tại của mỗi quốc gia trên thế giới.


II.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HIẾN PHÁP
1. Khái niệm về Hiến pháp

Có nhiều quan điểm và định nghĩa về hiến pháp. Tuy nhiên, hiểu một cách khái
quát, Hiến pháp là đạo luật cơ bản của một quốc gia, dùng để xác định thể chế chính trị,
cách thức tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước và bảo vệ các quyền con người,
quyền công dân
Ở Việt Nam, Luật Hiến pháp được xác định: “ Luật Hiến pháp là một ngành luật


trong hệ thống pháp luật Việt Nam, gồm tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh
những quan hệ cơ bản về tổ chức quyền lực Nhà nước, về chế độ chính trị, chính sách
kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng và an ninh, đối ngoại quan hệ quốc tế, chế độ bầu
cử quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân, tổ chức và hoạt động của bộ máy
Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.”


2. Nguồn gốc ra đời và sự phát triển của “ Hiến pháp”

Từ hàng ngàn năm trước công nguyên, ở nhiều khu vực đã có những đạo luật được
thiết lập để điều chỉnh những mối quan hệ cơ bản trong xã hội. Vì thế, đôi khi chúng
cũng được coi là hiến pháp. Mặc dù vậy, theo nghĩa hiện đại, Hiến pháp Hoa Kỳ 1787
được thừa nhận rộng rãi là bản hiến pháp thành văn đầu tiên trên thế giới.
Trong thời kỳ đầu (cuối thế kỷ 18 đến hết thế kỷ 19), các hiến pháp chủ yếu được
xây dựng ở Bắc Mỹ và châu Âu, sau đó dần lan sang một số nước châu Á và châu Mỹ
La-tinh. Phải từ sau thập kỷ 1940, số quốc gia trên thế giới có hiến pháp mới tăng nhanh,
đặc biệt ở khu vực châu Á và châu Phi, cùng với thắng lợi của phong trào giành độc lập
dân tộc và sự tan rã của hệ thống thuộc địa của các nước thực dân châu Âu.
Hiện nay, không chỉ các quốc gia mà một số lãnh thổ trên thế giới cũng ban hành
hiến pháp. Trong giai đoạn đầu, hiến pháp (còn gọi là hiến pháp cổ điển) thường có nội
dung hẹp (chủ yếu quy định về tổ chức bộ máy nhà nước và một số quyền cơ bản của
công dân). Kể từ sau năm 1917, xuất hiện mô hình hiến pháp của các nước XHCN
(XHCN) với nội dung rộng hơn nhiều (ngoài các vấn đề về tổ chức bộ máy nhà nước và
quyền công dân, còn đề cập đến cả chế độ kinh tế, chính sách văn hoá, xã hội, khoa học,
quốc phòng, an ninh…).
Xen giữa hai trường phái này là một dạng hiến pháp có nội dung trung hoà. Kể từ
đầu thập kỷ 1980, hiến pháp hiện đại có xu hướng hiến định các cơ quan độc lập để giám
sát quyền lực (hội đồng bầu cử quốc gia, hội đồng/toà án hiến pháp, ngân hàng nhà nước,
ombudsman, cơ quan công vụ, cơ quan nhân quyền quốc gia, cơ quan chống tham nhũng
quốc gia…) – những thiết chế mà trước đó ít hoặc chưa được quy định trong hiến pháp.

Sự sụp đổ của hệ thống các nước XHCN ở Liên Xô- Đông Âu cũ vào những năm cuối thế
kỷ 20 đã dẫn đến sự thay đổi hiến pháp của một loạt quốc gia trong khu vực này và nhiều
khu vực khác trên thế giới.
3. Đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh


Đối tượng điều chỉnh của Luật Hiến pháp là những quan hệ xã hội nảy sinh trong
hoạt động của con người bao gồm những hoạt động phổ biến nhất, cơ bản và quan trọng
nhất của Nhà nước và các quyền cơ bản của công dân.
Phương pháp điều chỉnh của Luật Hiến pháp gồm 03 phương pháp cơ bản là
phương pháp bắt buộc, phương pháp cho phép và phương pháp cấm.

III.
1.

Ý NGHĨA CỦA BẢN HIẾN PHÁP ĐỐI VỚI MỖI QUỐC GIA
Sự cần thiết của Hiến pháp.
Lịch sử tồn tại và phát triển của hiến pháp gắn liền với lịch sử phát triển của loài

người. Do nhu cầu chung sống, duy trì sự tồn tại và phát triển, con người cần có nhà
nước. Các nhà nước cần được xây dựng dựa trên những quy tắc tổ chức để bảo đảm rằng
bộ máy cơ quan của nó có thể quản lý được mọi hoạt động trong xã hội một cách hiệu
quả.
Ngay từ thời cổ đại, ở phương Đông và cũng như phương Tây, đã có những văn
bản đề cập đến những quy tắc tổ chức và hoạt động của nhà nước mà đôi khi được coi
như là hiến pháp, ví dụ như ở Hy Lạp. Tuy nhiên, phải đến thời kỳ Cách mạng Tư sản, do
nhu cầu hoàn thiện các quy định về cách thức tổ chức bộ máy nhà nước và ghi nhận các
quyền tự do của người dân để hạn chế việc lạm dụng của chính quyền mới dẫn đến sự ra
đời của hiến pháp theo cách hiểu hiện đại.
Trong thời đại ngày nay, sự hiện diện của hiến pháp, thành văn hoặc không thành

văn, là một tiêu chí không thể thiếu của chế độ dân chủ. Hiến pháp có tác dụng khẳng
định tính chính đáng của nhà nước, bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, xác
định những phương thức nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước và ngăn chặn sự xâm 8
phạm của chính quyền lực nhà nước đến các quyền và tự do của người dân. Hiến pháp,
do đó, rất cần thiết cho sự phát triển của một đất nước cũng như mỗi người dân.
2.

Hiến pháp quyết định vận mệnh đối với một quốc gia.


Một bản hiến pháp tốt là nền tảng để tạo lập một thể chế chính trị dân chủ và một
nhà nước minh bạch, quản lý xã hội hiệu quả, bảo vệ tốt các quyền lợi của người dân.
Đây là những yếu tố không thể thiếu để một quốc gia ổn định và phát triển.
Lịch sử nhân loại cho thấy hiến pháp gắn liền với vận mệnh của mỗi quốc gia. Sự
thịnh vượng, tính năng động, sức sáng tạo mạnh mẽ của xã hội và khả năng “hoá giải”
khủng hoảng một cách nhanh chóng của một số quốc gia (Hoa Kỳ, Nhật Bản, Đức…)
được cho là xuất phát từ những nguyên tắc được xác lập trong hiến pháp của các nước
này. Ngược lại, sự suy yếu và sụp đổ của nhiều quốc gia có nguyên nhân từ những thiết
chế, quy phạm chuyên chính, tập quyền và xa rời thực tế trong hiến pháp của các nước
đó.
3.

Hiến pháp có vị trí quan trọng trong hệ thống pháp luật quốc gia
Ở mọi nước trên thế giới, hiến pháp đều được coi là đạo luật gốc của quốc gia, là

nền tảng để xây dựng các đạo luật thông thường khác. Mọi đạo luật thông thường đều
nhằm để cụ thể hoá các chế định, quy phạm của hiến pháp, và vì vậy, không được trái với
hiến pháp. Khi hiến pháp được thay thế hoặc sửa đổi, các đạo luật có những quy định trái
hoặc còn thiếu so với nội dung của hiến pháp đều phải được thay thế hoặc sửa đổi theo.
Điều này tạo ra tính thống nhất của hệ thống pháp luật quốc gia.

Trong hệ thống pháp luật của quốc gia, hiến pháp là đạo luật có hiệu lực pháp lý
cao nhất. Tất cả các văn bản pháp luật khác phải phù hợp, không được trái với hiến pháp.
Vị trí tối cao của hiến pháp là do nó phản ánh sâu sắc nhất chủ quyền của nhân dân và về
nguyên tắc phải do nhân dân thông qua (qua hội nghị lập hiến, quốc hội lập hiến hoặc
trưng cầu ý dân). Điều này khác với các đạo luật bình thường chỉ do quốc hội (nghị viện)
gồm những người đại diện do dân bầu và uỷ quyền xây dựng.
Hiến pháp là văn kiện chính trị - pháp lý quan trọng, là nhân tố bảo đảm sự ổn
định chính trị - xã hội và chủ quyền của quốc gia, thể hiện bản chất dân chủ, tiến bộ của
Nhà nước và chế độ.


Hiến pháp là luật cơ bản của một nước, thể hiện ý chí và nguyện vọng của tuyệt
đại đa số nhân dân, là nền móng xác định thể chế chính trị ưu việt, cách thức tổ chức,
hoạt động của bộ máy nhà nước và bảo vệ các quyền con người, quyền công dân. Hiến
pháp là một hệ thống quy định những nguyên tắc chính trị căn bản, thiết lập kiến trúc, thủ
tục, quyền hạn và trách nhiệm của một chính quyền, đồng thời là đạo luật gốc làm cơ sở
cho việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật của mỗi nước.
4.

Hiến pháp có sự ảnh hưởng rất lớn đến mỗi người dân
Một bản hiến pháp tốt rất quan trọng với mọi người dân, xét trên nhiều phương

diện. Trước hết, một bản hiến pháp tốt giúp tạo lập một nền dân chủ thực sự, trong đó
mọi người dân có thể tự do bày tỏ tư tưởng, ý kiến và quan điểm về các vấn đề của đất
nước và bản thân mình mà không sợ hãi bị đàn áp hay trừng phạt. Đây là tiền đề để khai
mở và phát huy trí tuệ, năng lực của mọi cá nhân trong xã hội, cũng như để phòng, chống
lạm quyền và tham nhũng.
Một bản hiến pháp tốt cũng đồng nghĩa với việc ghi nhận đầy đủ các quyền con
người, quyền công dân phù hợp với các chuẩn mực chung của cộng đồng quốc tế, cũng
như các cơ chế cho phép mọi người dân có thể sử dụng để bảo vệ các quyền của mình khi

bị vi phạm. Hiến pháp tốt là công cụ pháp lý đầu tiên và quan trọng nhất để bảo vệ dân
quyền và nhân quyền. Cuối cùng, một bản hiến pháp tốt, với tất cả những ưu điểm nêu
trên, sẽ tạo ra sự ổn định và phát triển của đất nước, qua đó giúp người dân thoát khỏi sự
đói nghèo.
Điều này khá là quan trọng, mang một ý nghĩa to lớn đối với sự sinh tồn và phát
triển một cách toàn diện của một đất nước.
5.

Hiến pháp là văn bản tổ chức quyền lực nhà nước
Hiến pháp của quốc gia nào cũng đóng vai trò như là một đạo luật gốc, cơ bản và

khái quát nhất, về tổ chức quyền lực nhà nước. Chúng đều có những chế định (tập hợp 15
các quy định, quy phạm) xác lập cơ cấu, các quy tắc tổ chức, vận hành và mối quan hệ


giữa các cấu phần cơ bản của bộ máy nhà nước, bao gồm cơ quan lập pháp (quốc
hội/nghị viện), cơ quan hành pháp (chính phủ) và cơ quan tư pháp (tòa án). Dựa trên các
chế định này của hiến pháp, các đạo luật về tổ chức nhà nước sẽ được xây dựng để chi
tiết hoá những vấn đề còn chưa cụ thể. Các đạo luật này chỉ có thể cụ thể hóa mà không
được có những quy định trái với hiến pháp.

IV.

CÁC BẢN HIẾN PHÁP VIỆT NAM QUA CÁC THỜI KÌ
Tính đến nay, trong lịch sử lập Hiến của nước ta, có 5 bản Hiến pháp đã được ban

hành: Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm
1992 (được sửa đổi, bổ sung năm 2001) và bản Hiến pháp đang có hiệu lực là bản Hiến
pháp năm 2013.
Mỗi bản Hiến pháp đều gắn liền với một giai đoạn phát triển của lịch sử cách

mạng dân tộc, sau đây chúng ta cùng tìm hiểu về bối cảnh lịch sử cũng như bản chất các
bản Hiến pháp của Việt Nam.
1. Hiến pháp 1946

Hiến pháp năm 1946 là bản Hiến pháp đầu tiên của đất nước ta. Sau khi đọc bản
“Tuyên ngôn độc lập”, Hồ chủ tịch đã đề ra sáu nhiệm vụ cấp bách của Chính phủ, một
trong những nhiệm vụ cấp bách đó là xây dựng Hiến pháp: “Trước chúng ta đã bị chế độ
quân chủ cai trị, rồi đến chế độc thực dân không kém phần chuyên chế nên nước ta
không có hiến pháp, nhân dân ta không được hưởng quyền tự do, dân chủ. Chúng ta phải
có một hiến pháp dân chủ.”.
Ngày 09/1/1946 Quốc hội khóa I đã thông qua Hiến pháp đầu tiên của nước ta.
Hiến pháp năm 1946 được xây dựng trên ba nguyên tắc cơ bản: đoàn kết toàn dân, không
phân biệt giống nòi, trai, gái, giai cấp, tôn giáo; bảo đảm các quyền lợi dân chủ; thực hiện
chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân.


Hiến pháp năm 1946 là một bản Hiến pháp dân chủ, tiến bộ không kém bất kỳ một
bản hiến pháp nào trên thế giới. Lần đầu tiên nhân dân Việt Nam được hưởng các quyền
tự do, dân chủ. Và cũng lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc, phụ nữ được ngang quyền với
nam giới trên mọi phương diện.
Đánh giá về ý nghĩa của việc ban hành bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “... bản Hiến pháp đầu tiên trong lịch
sử nước nhà... là một vết tích lịch sử Hiến pháp đầu tiên trong cõi á Đông... Bản Hiến
pháp đó chưa hoàn toàn nhưng nó đã làm nên theo một hoàn cảnh thực tế. Hiến pháp đó
tuyên bố với thế giới nước Việt Nam đã độc lập. Hiến pháp đó tuyên bố với thế giới biết
dân tộc Việt Nam đã có đủ mọi quyền tự do… phụ nữ Việt Nam đã được đứng ngang
hàng với đàn ông để được hưởng chung mọi quyền tự do của một công dân. Hiến pháp
đó đã nêu một tinh thần đoàn kết chặt chẽ giữa các dân tộc Việt Nam và một tinh thần
liêm khiết, công bình của các giai cấp”.
Hiến pháp năm 1946 ra đời là sự khẳng định mạnh mẽ về mặt pháp lý chủ quyền

quốc gia của nhân dân Việt Nam, sự độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa. Tuy nhiên, do điều kiện chiến tranh nên bản Hiến pháp 1946 không được
chính thức công bố. Mặc dù vậy, những tinh thần và nội dung của Hiến pháp 1946 luôn
được Chính phủ lâm thời và Ban thường vụ Quốc hội áp dụng, điều hành đất nước. Tư
tưởng lập hiến của Hiến pháp 1946 luôn được kế thừa và phát triển trong các bản Hiến
pháp sau này.

2. Hiến pháp 1959

Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ, tình hình đất nước ta có sự biến đổi to lớn. Miền Bắc
được giải phóng, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam kháng chiến chống Mỹ,
thống nhất nước nhà. Ở miền bắc có những biến chuyển to lớn, kinh tế phát triển đạt
được những thành tựu nhất định, giai cấp địa chủ phong kiến bị đánh đổ, liên minh giai


cấp công nhân, nông dân ngày càng được củng cố và vững mạnh. "Trong giai đoạn mới
của cách mạng, Quốc hội ta cần sửa đổi bản Hiến pháp năm 1946 cho thích hợp với tình
hình và nhiệm vụ mới" (Lời nói đầu, Hiến pháp 1959). Ngày 31-12-1959, Quốc hội đã
nhất trí thông qua Hiến pháp sửa đổi và ngày 1-1-1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc
lệnh công bố Hiến pháp.
Hiến pháp khẳng định nhà nước ta là nhà nước cộng hòa dân chủ, tất cả quyền lực
trong nước đều thuộc về nhân dân. Hiến pháp ghi nhận những thành quả đấu tranh giữ
nước và xây dựng đất nước của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động
Việt Nam. Với Hiến pháp 1959, lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam vai trò lãnh
đạo của Đảng Lao động Việt Nam (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam) được ghi nhận bằng
đạo luật cơ bản của Nhà nước (tại lời nói đầu). Hiến pháp cũng khẳng định nước Việt
Nam là một khối thống nhất, không thể chia cắt.
Hiến pháp năm 1959 xác định đường lối kinh tế của nước ta trong giai đoạn này là
biến nền kinh tế lạc hậu thành một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công nghiệp và nông
nghiệp hiện đại, khoa học và kỹ thuật tiên tiến. Hiến pháp cũng ghi nhận nhiều quyền và

nghĩa vụ của công dân, đồng thời quy định trác nhiệm của nhà nước trong việc bảo đảm
các quyền đó.
Hiến pháp năm 1959 là bản hiến pháp được xây dựng theo mô hình xã hội chủ
nghĩa, nó là bản hiến pháp xã hội chủ nghĩa đầu tiên của nước ta.
3. Hiến pháp 1980

Sau chiến thắng năm 1975, nước ta hoàn toàn thống nhất, mở ra một trang mới
trong lịch sử dân tộc. Nước nhà được độc lập, tự do là điều kiện để đưa cả nước quá độ đi
lên chủ nghĩa xã hội. Ngày 18/12/1980, Quốc hội khóa VI đã nhất trí thông qua bản Hiến
pháp mới – Hiến pháp năm 1980.


So với các bản Hiến pháp trước đây, Hiến pháp năm 1980 có nhiều sự đổi khác.
Về chế độ chính trị, Hiến pháp xác định bản chất của nhà nước là chuyên chính vô sản,
sứ mệnh lịch sử của nhà nước là thực hiện quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động,
động viên và tổ chức nhân dân xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội, tiến lên chủ nghĩa
cộng sản. Lần đầu tiên trong lịch sử, Hiến pháp năm 1980 thể chế hóa vai trò lãnh đạo
của Đảng cộng sản đối với nhà nước và xã hội trong một Điều của Hiến pháp – Điều 4.
Về kinh tế, Hiến dân và thành phần kinh tế hợp tác xã thuộc sở hữu tập thể của nhân dân
lao động. Kế tục các bản Hiến pháp trước, Hiến pháp năm 1980 xác định thêm một số
quyền của công dân phù hợp với giai đoạn mới của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, tuy
nhiên, một số quyền mới trong Hiến pháp năm 1980 không phù hợp với thực tế của đất
nước nên ko có điều kiện vật chất bảo đảm thực hiện (ví dụ: quyền khám chữa bệnh
không phải trả tiền, quyền được học tập không phải trả tiền…). Tổ chức bộ máy nhà nước
được thiết kế theo mô hình đề cao trách nhiệm tập thể như thành lập Hội đồng nhà nước
(thực hiện chức năng của Ủy ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước), Hội đồng Bộ
trưởng.
Tóm lại, Hiến pháp năm 1980 là Hiến pháp của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội trong phạm vi cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong phạm vi cả nước.


4. Hiến pháp năm 1992

Sau một thời gian phát huy hiệu lực, Hiến pháp năm 1980 tỏ ra không phù hợp với
điều kiện kinh tế xã, hội của đất nước. Đại hội Đảng lần VI năm 1986 đã mở ra thời kỳ
đổi mới ở nước ta. Ngày 15/4/1992 Quốc hội khóa VIII đã nhất trí thông qua Hiến pháp
năm 1992. Đây là “sản phẩm trí tuệ của toàn dân, thể hiện ý chí và nguyện vọng của đồng
bào cả nước”.
Một trong những thay đổi nổi bật ở Hiến pháp năm 1992 sửa đổi bổ sung năm
2001 là chế độ kinh tế. “Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế


thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình
thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập
thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng” (Điều
15). Mục đích chính sách kinh tế của nhà nước là làm cho dân giàu nước mạnh, đáp ứng
ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân trên cơ sở phát huy mọi
năng lực sản xuất, mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế gồm kinh tế nhà nước, kinh
tế tập thể, kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước và kinh
tế có vốn đầu tư nước ngoài dưới nhiều hình thức…. Các thành phần kinh tế đều là bộ
phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.(Điều
16). Như vậy, với Hiến pháp năm 1992, nước ta đã chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch
hóa tập trung với 2 thành phần kinh tế chủ yếu là kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể sang
nền kinh tế hàng hóa thị trường với nhiều thành phần kinh tế.
Về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, so với Hiến pháp năm 1980 thì Hiến
pháp năm 1992 có nhiều điều hơn, nhiều quyền và nghĩa vụ được bổ sung và sửa đổi.
Bên cạnh các quyền công dân, Hiến pháp năm 1992 lần đầu tiên quy định: “các quyền
con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn trọng” (Điều 50). Đặc
biệt, Hiến pháp năm 1992 xác lập quyền tự do kinh doanh của công dân (Điều 57), đây là
chìa khóa quan trọng để mở cánh cửa vào nền kinh tế thị trường.
Về tổ chức bộ máy nhà nước, Hiến pháp năm 1992 đã quy định một số sự thay đổi

so với Hiến pháp năm 1980, nhằm bảo đảm tính linh động trong việc quản lý điều hành
của nhà nước trong nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đặc biệt, sau lần sửa đổi, bổ sung năm 2001, tư tưởng về xây dựng nhà nước pháp
quyền lần đầu tiên được thể hiện trong Hiến pháp “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân… Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ
quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”


Tóm lại, Hiến pháp năm 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001 đánh dấu sự chuyển
mình của đất nước ta trong thời kỳ đổi mới toàn diện và sâu sắc về kinh tế, từng bước và
vững chắc về chính trị. Đây là bản Hiến pháp kế thừa có chắt lọc những tinh hoa của các
bản Hiến pháp trước. Hiến pháp năm 1992 đã đánh dấu sự phục hưng và phát triển nền
tảng kinh tế của xã hội Việt Nam trong thời gian 20 năm sau khi có hiệu lực.
5. Hiến pháp năm 2013

Trên cơ sở Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội năm 1991 (bổ sung, phát triển năm 2001) của Đảng Cộng sản Việt Nam, cùng với kết
quả tổng kết thực tiễn qua 25 năm thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước đã đặt
ra yêu cầu phải sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992; nhằm thể chế hóa đầy đủ hơn, sâu
sắc hơn quan điểm của Đảng và nhà nước ta về đề cao chủ quyền nhân dân, phát huy dân
chủ xã hội chủ nghĩa và đảm bảo tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
Ngày 6/8/2011, tại kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa XIII, đã thông qua Nghị quyết
số 06/2011/QH13 thành lập Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 gồm 30 thành
viên, do đồng chí Nguyễn Sinh Hùng – Chủ tịch Quốc hội làm Chủ tịch Ủy ban.
Sau thời gian 9 tháng (từ 1 - 9/2013) triển khai lấy ý kiến góp ý của nhân dân cả
nước và người Việt Nam ở nước ngoài, ngày 28/11/2013, tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa
XIII chính thức thông qua Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam – Hiến
pháp năm 2013.
Ngày 8/12/2013, Chủ tịch nước đã ký Lệnh công bố Hiến pháp. Hiến pháp năm

2013 có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2014. Đây là bản Hiến pháp của thời kỳ tiếp tục đổi
mới đất nước trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và hội nhập quốc tế.
pháp năm 1980 quốc hữu hóa toàn bộ đất đai (Điều 19).
Đồng thời, theo Điều 18, Nhà nước tiến hành cách mạng về quan hệ sản xuất,
hướng dẫn, sử dụng và cải tạo các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, thiết lập và


củng cố chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất nhằm thực hiện một nền kinh
tế quốc dân chủ yếu có hai thành phần: thành phần kinh tế quốc doanh thuộc sở hữu toàn

V.

HIẾN PHÁP 2013 – HIẾN PHÁP CỦA THỜI KÌ PHÁT TRIỂN MỚI
CỦA ĐẤT NƯỚC.
Thông qua việc tìm hiểu các bản Hiến pháp của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa

Việt Nam, có thể nhận định rằng, bản Hiến pháp 2013 là một bản Hiến pháp có ý nghĩa
và giá trị nhất đối với xu thế phát triển của nước ta hiện nay.
Hiến pháp 2013 đã phản ánh ý chí và nguyện vọng của Nhân dân ta, trong đó ý
Đảng lòng Dân được hòa quyện sâu sắc. Đó là bảo đảm chính trị - pháp lý vững chắc, cơ
sở hiến định quan trọng cho toàn thể dân tộc ta, nhân dân ta và đất nước ta vượt qua
những khó khăn, thách thức của thời kỳ mới, vững bước tiến vào giai đoạn đẩy mạnh
toàn diện công cuộc đổi mới đất nước và chủ động hội nhập quốc tế. Những quy định của
Hiến pháp mới thể hiện sâu sắc và toàn diện chủ trương đổi mới toàn diện, đồng bộ cả về
kinh tế và chính trị; thể hiện rõ và đầy đủ hơn bản chất dân chủ, tiến bộ của Nhà nước và
chế độ ta trong giai đoạn quá độ lên Chủ nghĩa xã hội; thể hiện bao quát, toàn diện hơn về
Nhà nước pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân và vì
Nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Hiến pháp quy định rõ ràng và đầy đủ về chế độ
chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường, quyền
con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, bảo vệ Tổ quốc, tổ chức bộ máy nhà

nước, hiệu lực và quy trình sửa đổi Hiến pháp. Hiến pháp năm 2013 với kỹ thuật lập hiến
khoa học và có nhiều đổi mới, vừa kế thừa những nhân tố hợp lý của kỹ thuật lập hiến
nước ta, vừa kế thừa kỹ thuật lập hiến của nhân loại. Các quy định của Hiến pháp có
phạm vi điều chỉnh và cách thức thể hiện vừa bao quát, vừa cụ thể, vừa khái quát lại vừa
đủ chi tiết, vừa nguyên tắc lại vừa đủ độ mềm dẻo, đủ sức chỉ đạo và giữ vị trí cao nhất
làm cơ sở và nền tảng cho sự ra đời của toàn bộ quy định pháp luật khác của Nhà nước ta.


Hội nhập và phát triển đã đưa đất nước ta ngày một thay da đổi thịt, đời sống kinh
tế, văn hoá, tinh thần của nhân dân ngày một nâng cao, nền chính trị ổn định. Cùng với sự
phát triển chung của đất nước về mọi mặt, Hiến pháp đã có sửa chữa, thay đổi để phù hợp
với tình hình mới. Nhưng khác với các bản Hiến pháp trước, bản Hiến pháp năm 2013
không bị ràng buộc bởi bối cảnh trong nước và quốc tế, nhưng để phù hợp hơn với xu thế
hội nhập và phát triển thì cần phải có chỉnh sửa, bổ sung để Hiến pháp hoàn thiện hơn.
Vậy nên, bản Hiến pháp năm 2013 là sự hoàn thiện và phát triển. Đây là bản Hiến pháp
của thời kỳ tiếp tục đổi mới đất nước trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và hội
nhập quốc tế.
Hiến pháp năm 2013 ra đời phù hợp hơn, tạo điều kiện rộng mở hơn trong hội
nhập kinh tế thế giới, đồng thời khắc phục được những khe hở, những hạn chế thiếu sót
của các bản Hiến pháp trước. Trên con đường hội nhập và phát triển quốc tế bên cạnh
những lợi ích mang lại còn là những thách thức, khó khăn phải đối mặt nhưng tôi tin rằng
với bản Hiến pháp có tính toàn diện, chặt chẽ sẽ là hành lang pháp lý đúng đắn để bảo vệ
quyền, lợi ích của người dân và người dân cũng phải có trách nhiệm, nghĩa vụ xây dựng
và bảo vệ Hiến pháp.
Trước đó để có được bản Hiến pháp sửa đổi hoàn chỉnh, Quốc hội đã tổ chức việc
lấy ý kiến của nhân dân và toàn thể hệ thống chính trị một cách khẩn trương, đồng bộ,
dân chủ và rộng khắp nhằm phát huy hết trí tuệ của cả dân tộc xây dựng một bản Hiến
pháp hoàn chỉnh, phù hợp với bối cảnh tình hình mới của lịch sử Việt Nam và thế giới.
Có thể nói rằng bản Hiến pháp 2013 là “ bản Hiến pháp của lòng dân”.
Đáng chú ý, Hiến pháp 2013 tiếp tục khẳng định vai trò của Nhà nước và kinh tế

Nhà nước trong việc định hướng, điều tiết sự phát triển của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Thừa nhận các hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; các
thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế. Nhà nước
khuyến khích, tạo điều kiện để doanh nhân, doanh nghiệp và cá nhân, tổ chức khác đầu
tư, sản xuất, kinh doanh; phát triển bền vững các ngành kinh tế, góp phần xây dựng đất


nước. Tài sản hợp pháp của cá nhân, tổ chức đầu tư, sản xuất, kinh doanh được pháp luật
bảo hộ và không bị quốc hữu hóa. Điều này rất quan trọng cho sự hội nhập kinh tế của
đất nước, rất phù hợp với xu thế phát triển kinh tế Việt Nam hiện nay.
Có thể nói, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2013 đã thể
hiện được ý Đảng, lòng dân, tinh thần dân chủ, đổi mới, phát huy sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân tộc, đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền và phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc trong thời kỳ mới.

VI.

TỔNG KẾT

Với tư cách là đạo luật có hiệu lực pháp lý tối cao của mỗi quốc gia, hiến pháp
ngày càng có vị trí vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh đời sống chính trị của mỗi
quốc gia. Theo từng thời kỳ vai trò của hiến pháp luôn có sự thay đổi. Nhưng cho dù có
thay đổi như thế nào đi chăng nữa thì Hiến pháp vẫn phải giữ lại chức năng cổ điển vốn
có của mình là giới hạn quyền lực nhà nước. Khi sửa đổi Hiến pháp, các quốc gia luôn có
xu hướng tìm lại chức năng cũ của nó. Chính sự quay trở lại này mới có khả năng làm
cho Hiến pháp có "đời sống pháp lý" dài hơn và ổn định hơn. Đó chính là mục tiêu chính
đáng của bất kỳ sự sửa đổi nào của Hiến pháp các nước đang chuyển đổi.
Các bản Hiến pháp của nước Việt Nam nói chung và Hiến pháp năm 2013 nói
riêng là sự kết tinh trí tuệ, tâm huyết, ý nguyện của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, thể

hiện sâu sắc tinh thần đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
trong giai đoạn cách mạng mới, phù hợp với ý chí và nguyện vọng của tuyệt đại đa số
nhân dân ta.


Em xin cảm ơn !

VII.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Hiến pháp 2013,Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, Nhà xuất bản lao
2.
3.
4.
5.
6.

động
Hiến pháp 1992
Hiến pháp 1980
Hiến pháp 1959
Hiến pháp 1946
Bài tập giảng Luật Hiến pháp Việt Nam, Trường Đại học Kiểm Sát Hà Nội,2017.
Một số đường link:
1. />
%C3%A1p




Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×