Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

ĐỀ CƯƠNG ĐƯỜNG lối

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.7 KB, 26 trang )

Vấn đề 1: Vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong việc chuẩn bị tổ chức cho việc thành lập Đảng.

1.

Tìm ra con đường cứu nước :

+ 6/1911: Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước trước sự thất bại của phong trào yêu nước trong nước.
+ 1911-1920: Người khảo sát các nước thuộc địa trên thế giới, tham gia những phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân, gửi bản yêu
sách 8 điều đến hội nghị Vecxay.
+ 7/1920: Nguyễn Ái Quốc đọc “Bản sơ thảo lần thứ nhất luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin và tìm thấy con đường cách
mạng vô sản là con đường cứu nước giải phóng dân tộc Việt Nam.
+ 12/1920: Người tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong việc chuẩn bị những điều kiện về chính trị tư
tưởng, tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.

2.

Nguyễn Ái Quốc đã chuẩn bị về chính trị tư tưởng cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam (1920-1930).

• Về chính trị: Sau khi tìm được con đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc tích cực tham gia hội nghị, diễn đàn, viết báo, tham gia
phong trào công nhân để tuyên truyền về vấn đề dân tộc, thuộc địa; đồng thời tiếp tục nghiên cứu về chủ nghĩa Mác – Lênin.



Năm 1922: Nguyễn Ái Quốc sáng lập ra tờ báo Người cùng khổ.



Năm 1923 – 1924: Nguyễn Ái Quốc sang Liên Xô tham dự hội nghị Quốc tế nông dân, Đại hội Quốc tế cộng sản, Đại hội của

Công hội Đỏ…



Nguyễn Ái Quốc còn tham gia viết bài cho báo Sự thật và Tạp chí Thư tín Quốc tế.

• Về tư tưởng: Thể hiện rõ rệt qua hai tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” (1925) và “Đường kách mệnh” (1927). Hai tác
phẩm không chỉ vạch trần tội ác của thực dân Pháp nói riêng và chủ nghĩa thực dân nói chung mà còn kêu gọi sự đoàn kết
giữa thuộc địa với thuộc địa, giữa thuộc địa với cách mạng vô sản ở chính quốc.

• Về tổ chức:


Năm 1921: Nguyễn Ái Quốc cùng với một số người yêu nước ở Châu Phi, Châu Mỹ Latinh thành lậ Hội Liên hiệp các dân tộc

bị áp bức.


Năm 1924: Nguyễn Ái Quốc trở về Trung Quốc, thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Đông Á.



Tháng 6/1925: Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam.



Năm 1925 – 1927: Nguyễn Ái Quốc mở các lớp huấn luyện chính trị tại Quảng Châu – Trung Quốc để truyền bá chủ nghĩa

Mác – Lênin và chuẩn bị cán bộ cho cách mạng Việt Nam.

3.

Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị hợp nhất 3 tổ chức cộng sản.


– Trước sự hoạt động không hiệu quả, sự công kích, mâu thuẫn lẫn nhau giữa các tổ chức cộng sản yêu cầu đặt ra cho cách mạng Việt
Nam là hợp nhất 3 tổ chức này thành một chính đảng duy nhất ở Việt Nam.


– Từ đó, Nguyễn Ái Quốc đã chủ động về Quảng Châu – Trung Quốc để chủ trì Hội nghị hợp nhất 3 tổ chức cộng sản này, lập ra một Đảng
duy nhất là Đảng Cộng sản Việt Nam.

4.

Soạn thảo Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.

– Các văn kiện được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam như: Chính cương vắn tắt, Sách lược văm tắt, Chương trình
tóm tắt của Đảng hợp thành Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam.
– Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng là cương lĩnh giải phóng dân tộc đúng đắn và sáng tạo, là cơ sở để Đảng lãnh đạo cách mạng Việt
Nam.
Vấn đề 2: Nội dung và ý nghĩa Cương lĩnh tháng 2.

• Bối cảnh lịch sử:
Cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 các phong trào yêu nước CM trước khi đảng ra đời từ lập trường cần vương đến lập trường dân chủ tiểu tư
sản qua khảo nghiệm của lịch sử đều lần lượt thất bại, vượt qua những hạn chế của những sĩ phu yêu nước lâm thời NAQ quyết trí ra đi tìm
đường cứu nước. Trải qua qtrình bôn ba khắp các châu lục để tìm đường cứu nước thì NAQ đã đến với CN M.lênin và tìm đc cho dân tộc
VN con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc, đó là con đường độc lập dân tộc gắn với CNXH con đường CM vô sản. Sau 1 thời gian
chuẩn bị đầy đủ về ctrị, tư tưởng, tổ chức thì NAQ thay mặt cho quốc tế cộng sản chuẩn bị hội nghị thành lập đảng. Tại hội nghị 6/17/2/1930 ở Hương cảng trung quốc thì các đại biểu dự hội nghị đã nhất trí thành lập ĐCSVN và thông qua chánh cương vắn tắt, sách lược
vắn tắt của đảng hợp thành cương lĩnh chính trị đầu tiên.

• Nội dung:
-Cương lĩnh nêu nên phương hướng chiến lược cơ bản của cách mạng: làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã
hội cộng sản.
-Nêu rõ nhiệm vụ và mục tiêu của cách mạng VN trên các lĩnh vực:

Chính trị: đánh đổ CN đế quốc pháp và phong kiến, làm cho nước VN hoàn toàn độc lập, xdựng chính phủ công nông binh và tổ chức
quân đội công nông
Kinh tế: tịch thu toàn bộ các sản nghiệp lớn của đế quốc giao cho chính phủ công nông binh, tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc làm của
công và chia cho dân cày nghèo, mở mang cnghiệp và nnghiệp, miễn thuế cho dân cày nghèo, thi hành luật ngày làm việc 8 giờ.
Văn hoá xã hội: dân chúng được tự do tổ chức, phổ thông giáo dục theo hướng công nông hoá, nam nữ bình quyền
-Về lực lượng CM phải đoàn kết công nhân, ndân phải dựa vào dân cày nghèo, lãnh đạo công nhân làm CM ruộng đất, lôi kéo tiểu tư sản,
trí thức, trung nông…Đi vào phe vô sản giai cấp, đối với phú nông, trung , tiểu địa chủ, tbản an nan mà chưa rõ phản cmạng thì phải lợi
dụng, ít nhất là làm cho họ đứng trung lập, đối với những đối tượng đã ra mặt phản CM phì phải kiên quyết đánh đổ.
-Đề ra phương pháp CM VN: Sử dụng bạo lực cách mạng của quần chúng để đánh đổ đế quốc phong kiến
-Cương lĩnh nêu rõ vấn đề đoàn kết quốc tế: cách mạng VN là một bộ phận của cách mạng thế giới
-Về lực lượng lãnh đạo cách mạng: GCCN là lực lượng lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiên phong của mình là ĐCS.


• Ý nghĩa:


Cương lĩnh chính trị đầu tiên của ĐCSVN có ý nghĩa lịch sử rât to lớn:

+ Lần đầu tiên CMVN có một bản cương lĩnh chính trị tuy rất ngắn gọn nhưng phản ánh được tương đối đầy đủ những quy luật vận động
phát triển chủ quan, khách quan của XHVN, đáp ứng được nhu cầu cơ bản và cấp bách của nhân dân ta, đồng thời phù hợp với xu thế phát
triển của thời đại lịch sử mới.
+ Chính vì thế, chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt đã trở thành ngọn cờ đoàn kết toàn đảng, toàn dân; là vũ khí chiến đấu sắc bén của
những người cộng sản Việt nam trước mọi kẻ thù; là cơ sở cho các đường lối chủ trương của CMVN trong hơn 70 năm qua và là nhâ n tố
quan trọng để chỉ đường cho nhân da ta đạt nhiều thành tựu to lớn.
+ Chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt cũng thể hiện sự nhận thức và vận dụng đúng đắn chủ nghĩa Mác-lenin vào thực tiễn CMVN của
những người CMVN, chứng tỏ rằng ngay từ khi mới ra đời đặc điểm đã độc lập, sáng tạo.

Vấn đề 3: So sánh cương lĩnh tháng 2 và luận cương tháng 10.

1.


Giống nhau:

– Đều xác định tính chất của cách mạng Việt Nam là cách mạng tư sản dân quyền và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đây là hai nhiệm vụ cách
mạng nối tiếp nhau không có bức tường ngăn cách.
– Đều xác định mục tiêu của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc và ruộng đất dân cày.
– Khẳng định lực lượng lãnh đạo cách mạng Việt Nam là Đảng Cộng Sản, lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm nền tảng.
– Khẳng định cách mạng Việt Nam là một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới, giai cấp vô sản của Việt Nam phải đoàn kết với giai
cấp vô sản thế giới.
– Đều xác định được vai trò và sức mạnh của giai cấp công nhân.

2.

Kẻ thù

Khác nhau
Cương lĩnh tháng 2

Luận cương tháng 10

Đánh đổ đế quốc và bọn phong kiến, tư sản,
bọn tay sai phản cách mạng.

Đánh đổ phong kiến.

Nhiệm vụ độc lập dân tộc là nhiệm
Nhiệm vụ
vụ hàng đầu.
Mục tiêu


Làm cho cách mạng Việt Nam hoàn toàn độc
lập; nhân dân tự do, dân chủ,
bình đẳng; tịch thu ruộng đất của đế

Nhiệm vụ dân tộc và dân chủ
được tiến hành một lúc.

Làm cho Đông Dương hoàn
toàn độc lập, giải quyết 2 mâu


thuẫn cơ bản: mâu thuẫn dân tộc
quốc chia cho dân cày nghèo.

và mâu thuẫn giai cấp đang
ngày càng sâu sắc.

Chủ yếu là giai cấp công nhân và

Lực

nông dân. Bên cạnh đó phải liên minh, đoàn kết

lượng

với tiểu tư sản, lợi dụng

Chủ yếu là giai cấp công nhân và
nông dân, chưa
phát huy được sức mạnh của khối


cách

hoặc trung lập phú nông – trung, tiểu

đại đoàn kết dân tộc, tiểu tư sản, tư
sản.

mạng

địa chủ.

Vấn đề 4: Sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng (1939-1945)

1.

Nội dung chuyển hướng chỉ đạo chiến lược

– Đưa nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu
– Thành lập Mặt trận Việt Minh để đoàn kết, tập hợp lực lượng cách mạng nhằm mục tiêu giải phóng dân tộc.
– Quyết định xúc tiến chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang là nhiệm vụ trung tâm của Đảng và nhân dân ta trong giai đoạn hiện nay.

1.

Ý nghĩa

– Góp phần giải quyết mục tiêu hàng đầu của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc, đưa đến những chủ trương, sự chỉ đạo đúng đắn để
thực hiện mục tiêu đó.
– Giúp cho nhân dân ta có đường hướng đúng để tiến lên giành thắng lợi trong sự nghiệp đánh Pháp, đuổi Nhật, giành độc lập cho dân tộc
và tự do cho nhân dân.

– Giúp công tác chuẩn bị giành độc lập dân tộc diễn ra sôi nổi ở khắp các địa phương trong cả nước, cổ vũ và thúc đẩy mạnh mẽ phong
trào cách mạng của quần chúng vùng lên đấu tranh giành chính quyền.
– Đảng đã chỉ đạo vuc trang cho quần chúng cách mạng, từng bước xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân làm cơ sở đưa tới sự ra đời của
Việt Nam giải phóng quân sau này.
– Đảng cộng sản Đông Dương cũng chỉ đạo việc lập các chiến khu và căn cứ địa cách mạng.
Vấn đề 5: Tại sao giai đoạn này Đảng lại đạt nhiệm vụ “giải phóng dân tộc lên hàng đầu.”
– Giai đoạn 1939-1945 là một giai đoạn lịch sử đầy biến động của Đảng ta. Đây là giai đoạn mà Đảng đã phải hết sức cố gắng để đưa ra
những quyết định đúng đắn khi chèo lái con thuyền cách mạng của dân tộc, đưa nhân dân tiến dần đến tự do. Thực tiễn tình hình thế giới và
trong nước đã buộc Đảng ta phai đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu
* Tình hình thế giới:


– Chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ:
+ 1/9/1939, phát xít Đức tấn công Ba Lan, 2 ngày sau Anh và Pháp tuyên chiến với Đức. Chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ. Phát xít Đức
lần lượt chiếm các nước ở châu Âu. Đế lực lượng dân chủ ở trong nước và phong trào cách mạng ở thuộc địa.
+6/1940, Đức tấn công Pháp. Chính phủ Pháp đầu hàng Đức.
+22/6/1941, phát xít Đức tấn công Liên Xô
è Từ khi Đức tấn công Liên Xô, tính chất chiến tranh đế quốc trở thành chiến tranh giữa các lực lượng dân chủ do Liên Xô làm trụ cột với
các lực lượng phát xít do Đức cầm đầu.
* Tình hình trong nước:
– Chiến tranh thế giới thứ 2 đã ảnh hưởng trực tiếp đến Việt Nam và Đông Dương. Tại đây, thực dân Pháp thi hành chính sách thời chiến,
phát xít hóa bộ máy thống trị, thẳng tay đàn áp các phong trào của nhân dân, tâp trung lực lượng đánh vào Đảng Cộng Sản Đông Dương.
– Lợi dụng Pháp đầu hàng Đức (22/9/1940), phát xít Nhật đã tấn công vào Lạng Sơn và đổ bộ vào Hải Phòng.
-23/9/1940, tại Hà Nội Pháp kí hiệp định đầu hàng Nhật, từ đó nhân dân ta phải chịu cảnh một cổ hai tròng, chịu sự bóc lột của cả PhápNhật. Mâu thuẫn giữa dân tộc ta với đế quốc, phát xít trở nên gay gắt hơn bao giờ hết.
Trước tình hình này, Đảng ta đã ba lần họp hội nghị gồm: Hội nghị lần thứ 6 (tháng 11/1939), Hội nghị lần thứ 7 (tháng 11/1940) và Hội nghị
lần thứ 8 (tháng 5/1941). Dựa trên diễn biến của chiến tranh thế giới thứ hai và tình hình cụ thể trong nước, Ban chấp hành Trung ương đã
vạch ra những chỉ đạo chiến lược trong đó đưa nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Đảng đã nêu rõ vấn đề cấp bách là phải giải quyết mâu thuẫn
với dân tôc và bọn phát xít, đế quốc bởi “Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi hỏi được độc lập, tự
do cho toàn thể dân tộc thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của đại bộ phận, giai cấp đến
vạn năm cũng không đòi lại được.”

è Đảng ta quyết định chuyển hướng chỉ đạo, xác định nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu là một quyết định đúng đắn, xác định đúng
con đường đi cho dân tộc.

Vấn đề 6: Tìm hiểu chỉ thị kháng chiến kiến quốc (25-11-1945)

1.

Hoàn cảnh của nước ta sau Cách mạng Tháng 8 thành công

• Thuận lợi:
– Trên thế giới: hệ thống xã hội chủ nghĩa do Liên Xô đứng đầu được hình thành. Phong trào cách mạng giải phóng dân tộc phát triển.
Phong trào dân chủ và hòa bình rất mạnh mẽ.
– Ở trong nước: nhân dân lao động được làm chủ vận mệnh đất nước, chính quyền dân chủ nhân dân được thành lập, có hệ thống từ Trung
ương đến cơ sở. Lực lượng vũ trang nhân dân được tăng cường. Đảng và Chính phủ được nhân dân tin tưởng và ủng hộ.

• Khó khăn:


– Hậu quả do chế độ cũ để lại: nạn đói (hơn 2 triệu người chết), nạn dốt (95% người mù chữ), ngân sách trống rỗng (kho bạc Nhà nước chỉ
có hơn 2,3 triệu đồng trong đó một nửa là rách, không sử dụng được). Kinh nghiệm quản lý đất nước non yếu.
– Nền độc lập chưa được quốc gia nào công nhận và đặt ngoại giao. Thù trong, giặc ngoài chống phá quyết liệt.
→ Vận mệnh dân tộc như ‘ngàn cân treo sợi tóc’.
Trước tình hình này, ngày 25-11-1945 Ban chấp hành Trung ương Đảng ra chỉ thị “kháng chiến kiến quốc”.

2.

Chỉ thị kháng chiến kiến quốc của Đảng:

-Về chỉ đạo chiến lược: mục tiêu phải nêu cao là dân tộc giải phóng, khẩu hiệu lúc này là “Dân tộc trên hết. Tổ quốc trên hết”.
-Về xác định kẻ thù: kẻ thù chính của ta lúc này là thực dân Pháp xâm lược.

-Về phương hướng, nhiệm vụ: 4 nhiệm vụ: “củng cố chính quyền, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống nhân
dân”. Chủ trương ngoại giao “Hoa-Việt thân thiện” với quân Tưởng và“Độc lập về chính trị, nhân nhượng về kinh tế” với Pháp.
→ Chỉ thị kháng chiến có ý nghĩa hết sức quan trọng, chỉ thị đã xác định đúng kẻ thù chính của dân tộc ta là thực dân Pháp và chỉ ra kịp thời
những vấn đề cơ bản về chiến lược và sách lược cánh mạng.
Vấn đề 7: Phương châm kháng chiến toàn dân, toàn diện

• Hoàn cảnh lịch sử:
-Tháng 11-1946, quân Pháp chiếm đóng cả thành phó Hải phòng và thị xã Lạng Sơn, đổ bộ lên Đà Nẵng và công kích ở Hà Nội. Trung ương
Đảng đã giải quyết bằng biện pháp hòa hoãn và thương lượng nhưng chúng đòi kiểm soát an ninh trật tự thủ đô
-Ngày 19-12-1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã họp Hội nhị mở rộng tại làng Vạn Phúc (Hà Đông) dưới sự chủ trì của Hồ Chí Minh
để hoạch định chủ trương đối phó. Tại hội nghị đã cho rằng khả năng hòa hoãn không còn. Hòa hoãn nữa sẽ dẫn đến họa mất nước
-Vào lúc 20 giờ ngày 19-12-1946, tất cả các chiến trường trong cả nước đã đòng loạt nổ súng
-Rạng sáng ngày 20-12-1946, lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chí Minh được phát trên Đài tiếng nói Việt Nam

• Nội dung phương châm kháng chiến được hình thành: ngay trong chỉ thị về kháng chiến kiến quốc, Đảng ta đã xác định kẻ thù
chính của dân tộc ta là thực dân Pháp, từng bước bổ sung, hoàn chỉnh trong quá trình chỉ đạo Nam bộ kháng chiến, qua thực
tiễn đối phó với âm mưu, thủ đoạn của địch cũng như việc chuẩn bị lực lượng về mọi mặt của ta. Đường lối toàn quốc kháng
chiến đã thể hiện tập trung trong ba văn kiện lớn: Toàn dân kháng chiến của Trung ương Đảng (12-12-1946), Lời kêu gọi toàn
quốc kháng chiến của Hồ Chí Minh (19-12-1946) và tác phẩm Kháng chiến nhất định tháng lợi của Trường Chinh

• Nội dung phương châm kháng chiến:
-Mục đích kháng chiến: “Đánh phản động thực dân Pháp xâm lược, giành thống nhất và độc lập”
-Tính chất kháng chiến: dân tộc giải phóng và dân chủ mới


-Phương châm kháng chiến: tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, thực hiện kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là
chính:
ü

Kháng chiến toàn dân là cuộc kháng chiến phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, toàn dân cúng đứng lên


kháng chiến, đánh giặc theo khẩu hiệu: mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi làng xã là một pháo đài.

• Kháng chiến toàn dân vì:
Cơ sở lý luận:
+ Xuất phát từ lí luận Mác- Lê Nin về vai trò quần chúng trong lịch sử nói chung, lịch sử đấu tranh nói riêng. Theo lí luận chủ nghĩa Mác Lê
Nin, quần chúng là động lực phát triển của cách mạng, muốn giành thắng lợi phải có đông đảo quần chúng tham gia, đo đó phải động viên
toàn dân kháng chiến.
+ Xuất phát từ truyền thống đoàn kết đấu tranh của dân tộc ta qua các thời kì lịch sử. Dân tộc ta vốn có truyền thống yêu nước và đấu tranh
bất khuất. Mặt khác, cách mạng là sự nghiệp của toàn dân, có phát huy sức mạnh toàn dân thì chúng ta mới có thể đánh địch toàn diện và
lâu dài
Cơ sở thực tiễn:
+ Xuất phát từ tương quan lực lượng giữa ta và thực dân Pháp lúc này quá chênh lệch. Nhân dân ta vừa giành được độc lập từ ta kẻ thù,
đang đứng trước muôn vàn khó khăn thử thách, trong đó có 3 thứ giặc phải đối phó: giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Còn quân thù thì
không ngừng tăng cường lực lượng, trang bị vũ khí hiện đại bao vây nhằm chống phá cách mạng. Vì vậy, muốn giành thắng lợi chúng ta
nhất thiết phải kháng chiến toàn dân, phát huy sức mạnh toàn dân thì mới có khả năng đánh tan thực dân Pháp xâm lược.
+ Xuất phát từ lợi ích của mối người dân, vai trò bổn phận của một người dân với đất nước. Thực dân pháp đánh vào mọi người dân, cho
nên mọi người dân phải đứng lên chống pháp, chỉ có hợp sức lại đánh tan quân thù thì tất cả sẽ được độc lập và tự do.
+ Ta chủ trương kháng chiến toàn diện, lâu dài, nên phải kháng chiến toàn dân để mọi người dân đều được đóng góp khả năng của mình
vào sự nghiệp chung của cả nước.

• Vận dụng hiện nay:
-Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất: Qua
các nhiệm kì Quốc hội, Đảng khẳng định đại đoàn kết dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là nguồn sức mạnh, động
lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan trọng sự nghiệp đại đoàn kết.
-Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân Khái niệm “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa” lần đầu tiên được Đảng ta sử dụng tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kì khóa VII. Các Đại hội VIII, IX, X đều nhấn mạnh xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Vì vậy, cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011, xác định: “Xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân” là một trong tám phương án cơ bản, là đúng đắn,

phù hợp cả về lý luận
-Đảng xác định sự nghiệp công nghiệp hóa là sự nghiệp của toán dân, sức mạnh của sự đổi mới là sức mạnh của nhân dân, việc tăng
cường đổi mới chính là tăng cường sức dân, trong đó công nông là gốc. Công cuộc đổi mới chỉ giành thắng lượi khi việc tham gia vào công
cuộc đổi mới đã trở thành hành động tự giác của nhân dân, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng ai cũng lo xây dựng công cuộc đổi mới.


ü

Kháng chiến toàn diện là đánh địch về mọi mặt: chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, ngoại giao

• Kháng chiến toàn diện vì:
Cơ sở thực tiễn:
+ Xuất phát từ thực dân Pháp, chúng đánh ta trên tất cả các mặt: chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá, tư tưởng…. tương quan lực lượng
không cân, vì vậy chúng ta cũng phải đánh địch trên tất cả các mặt thì mới tạo nên chiến thắng toàn diện, phát huy mọi sức mạnh tiềm năng
của đất nước và buộc chúng phải khuất phục.
+ Xuất phát từ nhiệm vụ kiến quốc cũng được tiến hành một cách toàn diện vì vậy khi tiến hành kháng chiến chúng ta cũng phải đánh địch
toàn diện nhằm phát huy được sức mạnh nội lực của chính mình.
+ Chống lại âm mưu chiến tranh toàn diện và lấy chiến tranh nuôi chiến tranh của bọn thực dân Pháp
+ Kháng chiến toàn diện là điều kiện để thực hiện kháng chiến toàn dân vì sẽ phát huy được sức mạnh toàn dân.

• Vận dụng hiện nay: Quan điểm này được áp dụng mọi mặt trong nền xã hội ngay nay
– Vê chính trị: kiên quyết xây dựng nhà nước dân chủ pháp quyền, thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ
văn minh”, minh bạch hóa việc bổ nhiệm các chức vụ cấp cao, tuyên truyền tuyển chon công chức theo các tiêu chuẩn nhà nước
– Về kinh tế, phát triển theo hướng tạo nhiều công ăn việc làm, nền kinh tế có thể sánh vai với các nước phát triển trên thể giới.
-Về văn hóa, ngăn chặn sự xuống cấp về văn hóa, đạo đức và xã hội, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại nhưng không sao chép “hòa nhập
nhưng không hòa tan”
-Về ngoại giao,triển khai một đường lối ngoại giao độc lập về dân chủ, tạo mối quan hệ thân thiện, bình đẳng, hữu nghị với tất cả các nước
trên thế giới, chú trọng quan hệ chiến lược với ASEAN và Mỹ, thực hiện biện pháp mềm dẻo đối với Trung quốc trong giai đoạn căng thẳng
hiện nay.
CHƯƠNG IV: ĐƯỜNG LỐI CÔNG NGHIỆP HÓA

Vấn đề 8: Đặc trưng công nghiệp hóa trước đổi mới


Công nghiệp hóa theo mô hình khép kín, hướng nội, thiên về phát triển công nghiệp nặng.



Công nghiệp hóa chủ yếu dựa vài sức người, lợi thế nguồn lao động, tài nguyên, đất đai và nguồn việ trợ của các nước XHCN; chủ

lực thực hiện công nghiệp hóa là Nhà nước và các doang nghiệp quốc doanh; việ phân bổ nguồn lực để công nghiệp hóa được thực hiện
thông qua cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp, không tôn trọng các quy luật của thị trường.


Nóng vội, giản đơn, duy ý chí, ham làm nhanh, làm lớn, không quan tâm đến hiệu quả kinh tế-xã hội.

Vấn đề 9: Mô hình công nghiệp hóa trước đổi mới của nước ta
+ Thời kỳ trước đổi mới, nhận thức của Đảng ta về công nghiệp hóa chưa đầy đủ và đơn giản chỉ là quá trình chuyển đổi từ lao động thủ
công sang lao động máy móc. Thời kỳ trước đổi mới, công nghiệp hóa được thực hiện theo mô hình kinh tế khép kín, hướng nội.


+ Thời kỳ trước đổi mới, đường lối công nghiệp hóa của Đảng là ưu tiên phát triển công nghiệp nặng.
+ Thời kỳ trước đổi mới, công nghiệp hóa chủ yếu dựa vào lợi thế về lao động, tài nguyên, đất đai và nguồn vốn viện trợ của các nước xã
hội chủ nghĩa.
+ Công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới được tiến hành trong cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp.
+ Công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới được tiến hành một cách nóng vội, giản đơn, chủ quan duy ý chí, ham làm nhanh, làm lớn, không
quan tâm đến hiệu quả kinh tế – xã hội.
Vấn đề 10: Tại sao phải tiến hành công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa:
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH): theo tinh thần của hội nghị TW VII khóa 7, CNH, HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn
diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính, sang sử dụng một cách
phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển công nghiệp và tiến bộ khoa

học – công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
Nguyên nhân phải tiến hành công nghiệp hóa gắn liền với hiện đại hóa:
– Đặc điểm của nước ta là nước nông nghiệp nghèo nàn lạc hậu, kém phát triển, lại bị chiến tranh phá hoại nặng nề, cơ chế quản lý tập
trung quan liêu bao cấp trước đây dẫn đến nền kinh tế bị tụt hậu so với thế giới, điều đó đòi hỏi nước ta phải tiến hành công nghiệp hóa.
– Bối cảnh thế giới: sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, nếu nước ta không kịp thời tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa
thì sẽ bị bỏ lại phía sau.
– CNH – HĐH là động lực phát triển kinh tế – xã hội, tạo điều kiện tăng cường củng cố an ninh – quốc phòng và là tiền đề cho việc xây dựng
một nền kinh tế độc lập, tự chủ, đủ sức tham gia một cách có hiệu quả vào sự phân công và hợp tác quốc tế.
– Đồng thời nước ta tận dụng được lợi thế của nước phát triển sau, tiếp thu được công nghệ mà không phải bỏ công sức ra để tìm tòi, phát
minh. Trước đây, nước Anh thực hiện CNH đầu tiên phải mất 120 năm; nước Mỹ đi sau chỉ mất 90 năm; sau nữa là Nhật Bản xuống còn 70
năm; và các nước công nghiệp mới (NICs) có hơn 30 năm. Việt Nam thực hiện quá trình này trong bối cảnh loài người đang bắt đầu chuyển
sang phát triển kinh tế tri thức, với sự bùng nổ của tự động hóa, công nghệ thông tin, công nghệ gen, công nghệ nano, công nghệ vật liệu
mới…
Quá trình toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, số nước bắt đầu chuyển sang nền kinh tế tri thức yêu cầu nước ta phải bắt kịp
xu thế đó.
Vấn đề 11: Tại sao đảng ta chủ trương gắn công nghiệp hóa, hiện đại hóa với phát triển tri thức:

1.

Khái niệm về tri thức:

Tri thức là một yếu tố đặc trưng quan trọng của ý thức con người. Cùng với xúc cảm, tri thức của con người về tự nhiên, về xã hội đã tạo
nên ý thức. Tri thức là kết quả của quá trình nhận thức về thế giới hiện thực của con người. Trong quá trình đó các sự vật, hiện tượng trong
thế giới hiện thực đã tác động lên bộ não con người thông qua các giác quan và nhờ đó có bộ não tiến hóa nhất, tư duy con người đã tái
hiện lại những mối quan hệ bản chất, những thuộc tính… từ đó chúng được khái quát hóa, trừu tượng hóa thành những khái niệm, phạm
trù, phán đoán, quy luật… và được biểu đạt dưới hình thức ngôn ngữ hoặc các hệ thống ký hiệu khác nhau. Do đó sự tác động của thế giới
hiện thực lên bộ não con người chính là nguồn gốc của tri thức


Nguyên nhân Đảng ta chủ trương gắn công nghiệp hóa, hiện đại hóa với phát triển tri thức:

– Tri thức là tiền đề và động lực cho quá trình tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nghị quyết hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành Trung
ương khoá VIII đã xác định rõ “Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước phải bằng và dựa vào khoa học công nghệ”; “khoa học công nghệ
phải trở thành nền tảng và động lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá”. Đến đại hội IX của Đảng điều này lại được khẳng định lại một lần
nữa lại được khẳng định: “Phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của người Việt Nam, coi sự phát triển giáo dục vàđào tạo, khoa
học và công nghệ là nền tảng vàđộng lực của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá”. Ngày nay tri thức đã thật sự trở thành lực lượng
sản xuất trực tiếp.
Trong nền kinh tế tri thức mà một số nước công nghiệp phát triển đang thực hiện, tri thức đặc biệt là tri thức của một số lĩnh vực như tin học,
điều khiển học, sinh học… đã trực tiếp gia nhập vào quá trình sản xuất và dịch vụ của xã hội. Bằng cách này lực lượng sản xuất sẽ không
ngừng được bổ sung vàđổi mới theo hướng gia tăng tính hiện đại, tiên tiến. Xu hướng vận động chung của lực lượng sản xuất hiện đại là
không ngừng thay thế dần các trang thiết bị, các qui trình công nghệ chưa hoàn thiện (cho năng suất thấp, tiêu hao nhiên liệu, gây ô
nhiễm….) bằng các trang thiết bị, quy trình công nghệ cao, công nghệ sạch. Điều đó là dựa vào tri thức khoa học.
Ngoài ra nhờ có tri thức mà quan hệ sản xuất phát triển con người nắm bắt, truyền đạt thông tin nhanh hơn nhờ đó thúc đẩy sản xuất. Ngày
nay tri thức liên quan chặt chẽ và tác động trực tiếp, mạnh mẽ lên cả lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Vấn đề 12: Kinh tế tri thức là gì? Vai trò của nó trong phát triển kinh tế?

1.

Kinh tế tri thức là gì?

Kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế,
tạo ra của cải vật chất, nâng cao chất lượng cuộc sống. Hay có thể hiểu kinh tế tri thức là trình độ phát triển cao của lực lượng sản xuất xã
hội.


Trong nền kinh tế tri thức, những ngành kinh tế có tác động to lớn tới sự phát triển là những ngành dựa vào tri thức, những

thành tựu của khoa học – công nghệ.


Một ngành kinh tế được coi là ngành kinh tế tri thức khi giá trị do tri thức tạo ra chiếm tỷ lệ áp đảo (khoảng 70%) tổng giá trị


sản xuất của ngành nào đó. Một nền kinh tế được coi đã trở thành nền kinh tế tri thức khi tổng sản phẩm 70% GDP do nền kinh tế tri thức
mang lại, 70%GDP toàn ngành do tri thức làm ra, là kết quả của lao động trí óc.

2.


Vai trò của kinh tế tri thức trong phát triển kinh tế:

Phát triển kinh tế tri thức là cơ hội để rút ngắn khoảng cách lạc hậu. Từ những tri thức, công nghệ mới, các tư liệu lao động

mới, hệ thống máy móc thông minh, tự động hóa sẽ được tạo ra. Quá trình đó sẽ giúp phát hiện và sáng tạo ra nhiều đối tượng lao động
mới, những nguyên liệu mới, năng lượng mới…mà trước đây chưa từng xuất hiện, tạo ra nhiều giá trị sử dụng mới, đáp ứng thỏa mãn nhu
cầu xã hội ngày càng tốt hơn, giảm bớt việc khái thác các nguồn tài nguyên sẽ tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, giảm thiểu ô nhiễm môi
trường…


Kinh tế tri thức là động lực thúc đẩy tiến trình xã hội hóa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất, làm cho phân công lao động

xã hội phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu.


Kinh tế tri thức được hình thành, phát triển trên cơ sở các ngành sản xuất sử dụng công nghệ cao. Từ đó, tác động mạnh mẽ

đến quá trình phát triển của toàn bộ nền kinh tế.


Nó thúc đẩy nông nghiệp pát triển nhanh, tăng năng suất lao động thông qua cuộc cách mạng xanh, cách mạng sinh học…



Vấn đề 13: Vai trò của nguồn nhân lực đối với CNH-HĐH

1.

Vai trò của con người trong sự nghiệp CNH, HĐH:

• Con người là yếu tố cơ bản trong sự nghiệp CNH- HĐH. Mục tiêu của CNH ở Việt Nam là phát triển hài hoà giữa sản xuất và xã
hội, lấy con người làm trọng tâm. Để phát triển CNH – HĐH, phải có nguồn lực cần thiết như nguồn lực con người, vốn tài
nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất kỹ thuật….; trong đó nguồn lực con người, tài nguyên chất xám là một nguồn lực quan
trọng nhất cho tiến trình phát triển của đất nước.

Nguồn nhân lực phải đủ về số lượng mạnh về chất lượng mới có thể trở thành động lực phát triển. Do đó, phát triển nguồn nhân lực phục vụ
sự nghiệp CNH-HĐH ở nước ta không chỉ do yêu cầu về phát triển kinh tế (mặc dù đây là yêu cầu quan trọng và bức xúc) mà còn hướng
vào đáp ứng các yêu cầu phát triển con người và tiến bộ xã hội, xây dựng xã hội tiến bộ, công bằng, dân chủ, văn minh, dân giàu, nước
mạnh.

• Vai trò của con người trong sự nghiệp CNH- HĐH là hết sức quan trọng. Trước hết các nguồn lực khác như vốn, tài nguyên thiên
nhiên, vị trí địa lý… tự nó chỉ tồn tại dưới dạng tiềm năng, chịu sự tác động của con người. Nếu con người biết sử dụng, khai
thác chúng thì những nguồn lực này mới phát huy được tác dụng, phục vụ nhu cầu, lợi ích của con người, tham gia tích cực
vào quá trình CNH. Vì thế trong các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất, người lao động là yếu tố quan trọng nhất.

2.

Ưu điểm và hạn chế của con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa:
Ưu điểm:

– Nguồn lực con người mà cốt lõi là trí tuệ là nguồn lực vô tận. Tính vô tận của trí tuệ con người biểu hiện ở chỗ nó có khả năng không chỉ
tái sinh, tự sản sinh về mặt sinh học mà còn đổi mới, không ngừng phát triển về chất nếu biết chăm lo, bồi dưỡng và khai thác hợp lý. Đó là
cơ sở làm cho năng lực và nhận thức hoạt động thực tiễn của con người phát triển như một quá trình vô tận. Nhờ vậy con người đã từng
bước làm chủ tự nhiên, khám phá ra những tài nguyên mới và sáng tạo ra những tài nguyên vốn không có sẵn trong tự nhiên, tạo ra những

hệ thống công cụ sản xuất mới. Chính sự phát triển không ngừng của công cụ sản xuất từ thủ công đến cơ khí và ngày nay là tự động hoá
mà xã hội loài người đã chuyển qua các nền văn minh từ thấp đến cao. Điều đó nói lên trình độ vô tận của con người, của sức mạnh nguồn
nhân lực.
Hạn chế:
Về mặt chất lượng, thực trạng nguồn lực nước ta hiện nay không thể không có những lo ngại. Lực lượng lao động ở nước ta hiện nay rất
hạn chế về chất lượng, nhất là về trình độ chuyên môn, nghề nghiệp, kỹ năng lao động, thể lực và văn hoá lao động công nghiệp. Đại bộ
phận lao động nước ta chưa được đào tạo đầy đủ, số người được đào tạo mới chỉ chiếm tỷ lệ khiêm tốn.
Vấn đề 14: Quan điểm “Nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”

1.

Phát triển nhanh và bền vững

Phát triển bền vững được phổ biến rộng rãi vào năm 1987 trong Báo cáo của Ủy Ban Môi trường và phát triển của ngân hàng thế giới. Trong
báo cáo nêu rõ: “Phát triển bền vững là sự phát triển đáp ứng nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng tổn hại đến nhu cầu tương lai”. Phát
triển bền vững là một sự phát triển triển cân đối giữa ba cực tăng trưởng kinh tế, xã hội, môi trường, không được xem nhẹ cực nào. Ở nước
ta, quan điểm phát triển nhanh và bền vững đã được nhận thức rất sớm và thể hiện trong nhiều chủ trương, nghị quyết của Đảng.

2.

Nguồn lực con người


Nguồn lực được hiểu là toàn bộ các yếu tố vật chất và tinh thần đã, đang và sẽ tạo ra sức mạnh cho sự phát triển và trong điều kiện thích
hợp sẽ thúc đẩy quá trình cải biến xã hội của một quốc gia dân tộc. Nguồn lực con người là tổng thể những yếu tố thuộc về thể chất, tinh
thần, đạo đức, phẩm chất, trình độ tri thức, vị thế xã hội, v.v. tạo nên năng lực của con người, của cộng đồng người có thể sử dụng, phát
huy trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội của đất nước và trong những hoạt động xã hội. Khi chúng ta nói tới nguồn lực con người là ta
nói tới con người với tư cách là chủ thể hoạt động sáng tạo tham gia cải tạo tự nhiên, làm biến đổi xã hội.

3.


Vì sao lại lấy phát huy nhân tố con người là yếu tố cơ bản để phát triển nhanh và bền vững?

Sự tồn tại bền vững và phát triển theo con đường tiến bộ xã hội của một quốc gia dân tộc nào cũng phụ thuộc vào 5 nguồn lực chủ yếu:
vốn; khoa học và công nghệ; con người; cơ cấu kinh tế; thể chế chính trị và quản lý nhà nước trong đó, nguồn lực con người được coi là
yếu tố cơ bản, quyết định nhất, vì:

• Các nguồn lực khác không có khả năng tự thân mà phải thông qua nguồn lực con người mới phát huy được tác dụng.
• Các nguồn lực khác dùng thì hết, trái lại nguồn lực con người càng dùng càng phát triển.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế, trong đó lực lượng cán bộ khoa học và công nghệ,
khoa học quản lí, và đội ngũ công nhân lành nghề giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi
phải đủ số lượng, cân đối về cơ cấu và trình độ, có khả năng nắm bắt và sử dụng các thành tựu khoa học và công nghệ mới.
Về kinh tế
Bền vững về kinh tế thể hiện ở sự tăng trưởng kinh tế nhanh và ổn định. Để có tăng trưởng kinh tế phải có các nhân tố tất yếu: nhân tố tự
nhiên, nhân tố con người, các yếu tố vật chất do con người tạo ra (công nghệ, vốn).
Bởi vì về mặt kinh tế, nguồn lực con người xem xét chủ yếu dưới góc độ là lực lượng lao động cơ bản của xã hội, cả trong hiện tại và tương
lai. Vai trò của người lao động được V.I.Lênin nhấn mạnh là lực lượng sản xuất hàng đầu của nhân loại. Con người là một đầu vào trực tiếp
của quá trình sản xuất. Nếu người lao động có kỹ năng lao động, trình độ khoa học – kĩ thuật thì hiển nhiên là năng suất lao động sẽ cao
hơn. Con người là chủ thể khai thác, sử dụng các nguồn lực khác, chỉ khi kết hợp với con người, các nguồn lực khác mới phát huy tác
dụng. Mặt khác, con người lại là khách thể, là đối tượng khai thác các năng lực thể chất và trí tuệ cho sự phát triển. Vậy con người vừa là
chủ thể vừa là khách thể của các quá trình kinh tế-xã hội, là nguồn lực của mọi nguồn lực.
Đầu tư cho phát triển nguồn lực con người mang lại hiệu quả kinh tế cao, tiết kiệm được việc khai thác sử dụng các nguồn lực khác.
Kinh tế tăng trưởng mang lại sự giàu có về vật chất, suy cho cùng, không ngoài mục đích đáp ứng tốt hơn các nhu cầu sống của bản thân
con người. Vậy con người không chỉ là động lực mà còn là mục tiêu cuối cùng của phát triển kinh tế.
Về xã hội
Bền vững về mặt xã hội là phải thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, xoá đói giảm nghèo, lấy chỉ số phát triển con người làm mục tiêu cao
nhất của sự phát triển xã hội (được cụ thể hoá qua chỉ số phát triển con người HDI, chỉ số bất bình đẳng thu nhập GINI, chỉ số phát triển giới
GEM).
Ở đây, vị trí trung tâm của con người nổi lên với tư cách là mục tiêu cao nhất của sự phát triển xã hội. Mục tiêu của phát triển bền vững chủ
yếu không phải là tạo ra nhiều hàng hóa, của cải mà nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống con người, không phân biệt tầng lớp, chủng tộc,

giới tính, vùng miền.


Vậy, để phát triển xã hội bền vững, trước hết cần phát triển con người một cách bền vững, hay làm tăng năng lực và phạm vi lựa chọn của
con người để họ có một cuộc sống đầy đủ và hạnh phúc.
Từ thực tiễn phát triển đất nước trong thời gian qua Đảng ta đã rút ra bài học kinh nghiệm và cũng là tư tưởng chỉ đạo trong thời gian tới:
Phát triển nhanh phải đi đôi với nâng cao tính bền vững. Quan điểm của Đảng đã thể hiện sự quan tâm đặc biệt tới con người trước hết và
trên hết phải nêu cao vai trò của con người với tư cách là chủ thể tích cực của quá trình tác động cải tạo tự nhiên, biến đổi tự nhiên; là
phương tiện, là động lực cơ bản của tăng trưởng kinh tế đồng thời là mục tiêu cao nhất của sự phát triển kinh tế-xã hội. Có thể thấy, quan
điểm của Đảng ta hoàn toàn phù hợp với những tuyên bố quốc tế về phát triển bền vững, trong đó nổi lên tư tưởng hàng đầu lấy con người
là trung tâm của sự phát triển.
Vấn đề 15: Vai trò của khoa học công nghệ (KHCN) với công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
CNH, HĐH cũng là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh các ngành sản xuất có hàm lượng KHCN cao, giá trị gia
tăng cao. Thực chất và nội dung cơ bản của CNH, HĐH là sáng tạo và ứng dụng tri thức do giáo dục – đào tạo và KHCN tạo ra, vào phát
triển kinh tế – xã hội, tạo nên sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước.
Vì vậy, với tư cách là một thành tố cơ bản của nền văn hóa dân tộc, KHCN có một vị trí trọng yếu trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Phát triển giáo dục – đào tạo cùng với phát triển KHCN là quốc sách hàng đầu, không chỉ có ý nghĩa lớn lao trong lĩnh vực sản xuất
vật chất, mà còn là cơ sở để xây dựng nền văn hóa tinh thần của chế độ xã hội chủ nghĩa.
KHCN còn có tác dụng to lớn trong việc truyền bá hệ tư tưởng chính trị xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc
dân tộc, xây dựng lối sống, đạo đức và nhân cách mới của toàn bộ xã hội. Sự nghiệp CNH, HĐH đất nước không phải chỉ là quá trình đổi
mới về KHCN, hiện đại hóa, thị trường hóa nền sản xuất xã hội mà còn là quá trình chuyển đổi về tâm lý, phong tục tập quán, lối sống thích
ứng với nhịp độ và tốc độ của xã hội công nghiệp và hội nhập kinh tế quốc tế.
Theo quan điểm của Đảng thì KHCN là quốc sách hàng đầu có nghĩa là chủ trương, chính sách phát triển đất nước, kinh tế – xã hội cũng
như bảo vệ Tổ quốc đều phải dựa vào KHCN và thực hiện bằng KHCN. Chỉ có phát triển KHCN, chúng ta mới phát triển được kinh tế – xã
hội, giữ vững được độc lập dân tộc, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
KHCN là nội dung then chốt trong mọi hoạt động của tất cả các ngành, các cấp, là nhân tố chủ yếu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và củng cố
quốc phòng an ninh. Hoạt động KHCN không chỉ là nhiệm vụ của các nhà KHCN, các nhà quản lý khoa học mà là công việc của mọi ngành,
mọi cấp, mọi người… Mọi hoạt động kinh tế – xã hội đều đòi hỏi phải có nội dung KHCN để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả.
Mọi hành động phải xác định cơ sở khoa học của nó, phải điều tra, nghiên cứu, tìm ra quy luật, dự báo sự phát triển, đề xuất các giải pháp
phù hợp với quy luật khách quan.

Các chủ trương, quyết định, chương trình, dự án phát triển kinh tế – xã hội quan trọng phải có luận cứ xác đáng về KHCN. Các nhiệm vụ
KHCN phải hướng vào giải quyết có hiệu quả các mục tiêu kinh tế – xã hội. Mọi ngành, mọi cấp phải đẩy mạnh việc triển khai nghiên cứu và
ứng dụng rộng rãi thành tựu KHCN vào hoạt động kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh, từ việc định hướng chiến lược phát triển, hoạch
định chính sách, xây dựng quy hoạch, kế hoạch đến việc tổ chức thực hiện.
Đặc biệt, trong sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn, cần phải làm thay đổi tư duy, cách nghĩ, cách làm, nhanh chóng ứng dụng
khoa học kỹ thuật, tạo ra các ngành nghề mới, các sản phẩm mới, tạo nên sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và kinh tế nông thôn.
Phát triển KHCN không phải chỉ nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế mà còn nhằm bảo vệ môi trường sinh thái, giải quyết tốt mối quan hệ
giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, bảo vệ môi trường ngay trong từng bước đi và từng chính sách phát triển.
Vấn đề 16: Tại sao Đảng lại tiến hành CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn?


Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là quá trình xây dựng cơ sở vật chất, kĩ thuật và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp và nông thôn theo định hướng sản xuất hàng hóa lớn, hiện đại, gắn nông nghiệp với công nghiệp và dịch vụ, cho phép phát huy có
hiệu quả cao mọi nguồn lực và lợi thế của nền nông nghiệp nhiệt đới, mở rộng giao lưu trong nước và quốc tế nhằm nâng cao năng suất lao
động xã hội trong nông nghiệp và nông thôn, xây dựng nông thôn mới giàu có, công bằng, dân chủ, văn minh và xã hội chủ nghĩa. Thực
chất của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn là quá trình phát triển nông thôn theo hướng tiến bộ kinh tế – xã hội của
một nước công nghiệp. Điều đó có nghĩa là không chỉ phát triển công nghiệp nông thôn mà bao gồm cả việc phát triển toàn bộ các hoạt
động, các lĩnh vực sản xuất, dịch vụ và đời sống văn hóa, tinh thần ở nông thôn phù hợp với nền sản xuất công nghiệp ở nông thôn và cả
nước nói chung.
Đảng tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn là vì:
Thứ nhất, nước ta đi lên công nghiệp hóa từ xuất phát điểm thấp, nông nghiệp lạc hậu, nền kinh tế kiệt quệ sau chiến tranh, do đó cần phát
triển nông nghiệp nông thôn sao cho phù hợp với sự phát triển CNH – HĐH.
Thứ hai, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn sẽ tạo tiền đề và cơ sở vững chắc thúc đẩy toàn bộ quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nề kinh tế đất nước. Ở các nước chậm phát triển, tỷ lệ đóng góp của nông nghiệp vào GDP là rất lớn và tuyệt đại đa số
dân cư là nông dân.
Thứ ba, nông nghiệp phát triển, đời sống nông dân được nâng cao thì mới có sức mua để tiêu thụ hàng hóa nội địa. Qua đó thấy được vai
trò quan trọng của nông nghiệp trong việc tích lũy vốn cho giai đoạn đầu của quá trình phát triển kinh tế.
Thứ tư, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn là mũi đột phá quan trọng nhằm giải phóng sức lao động của giai cấp nông
dân, tạo điều kiện khai thác tốt tiềm năng dồi dào về lao động và đất đai. Với nguồn lao động dồi dào, đây là một lợi thế tương đối quan
trọng để tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nông thôn. Ngược lại, khi quá trình đó diễn ra, nó lại giải phóng sức lao động ở nông

thôn taọ thêm nhiều việc làm cho người lao động.
Thứ năm, nước ta có một nguồn tài nguyên về đất đai vô cùng phong phú, trước đây chỉ mới khai thác bằng những kỹ thuật lạc hậu, kinh
nghiệm lâu đời.thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa nông thôn ta có thể khai thác tốt tiềm năng về đất đai để phục vụ sự nghiệp phát
triển đất nước.
Cuối cùng nhắc đến công nghiệp nông thôn phải kể đến vai trò quan trọng của ngành sản xuất nông nghiệp đối với mọi mặt của đời sống xã
hội.cung cấp nguyên liệu, cung cấp lương thực, cung cấp phần vốn để công nghiệp hóa.là một nước nông nghiệp, thông qua quá trình xuất
khẩu nông sản phẩm, nông nghiệp.nông thôn có thể góp phần giải quyết tốt nhu cầu về vốn cho nền kinh tế.
Kết luận: Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là một chủ trương lớn của Đảng nhằm thúc đẩy nền kinh tế phát triển, tạo
công ăn việc làm, tăng thu nhập cho dân cư nông thôn, tạo tiền đề để giải quyết hàng loạt các vấn đề chính trị – xã hội của đất nước, đưa
nông thôn nước ta tiến lên trình độ văn minh, hiện đại.
Vấn đề 17: Những lợi thế của Việt Nam khi tiến hành CNH, HĐH
Trên thế giới khoa học công nghệ ngày càng phát triển cao thúc đẩy chuyển dịch kinh tế thế giới, quốc tế hóa nền kinh tế và đời sống xã hội.
Đây chính là thuận lợi cho phép chúng ta khai thác nguồn lực bên ngoài (vốn, công nghệ thị trường…) và nguồn lực bên trong có hiệu quả
thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa rút ngắn, kết hợp các bước đi tuần tự nhảy vọt.
Nhà nước tiến hành CNH-HĐH sau có những thuận lợi của nghững người đi sau. Chúng ta có thể khắc phục được những thất bại của
người đi trước gặp phải. Lợi dụng KHCN tiến tiến thích hợp với Việt Nam đạt được sự phát triển nhanh bền vững.


Nước ta có vị trí thuận lợi cho việc phát triển giao lưu kinh tế. Nằm trên bán đảo Đông Dương gần trung tâm Đông Nam Á, đây là đầu mối
giao thông quan trọng quốc tế nơi diễn ra các hoạt động kinh tế sôi nổi và được coi là phát triển năng động nhất hiện nay. Do đó chúng ta có
điều kiện mở rộng ngoại giao thu thập và xử lí thông tin nhanh chóng.
Hệ thống pháp luật ổn định hợp lí, đặc biệt là luật đầu tư đang được bổ sung sửa đổi và hoàn thiện. Điều đó thuận lợi cho việc thực hiện các
quan hệ quốc tế, các hợp đồng nước ngoài làm cho họ yên tâm kinh doanh đồng thời là cơ sở pháp lí để bảo vệ lợi ích đất nước.
Ngoài ra nước ta còn có những thuận lợi khác và được coi là nguồn nội lực không thể thiếu trong quá trình CNH-HĐH: có chế độ chính sách
ưu việt phù hợp với từng ngành nghề, nguồn lực dồi dào, tài nguyên thiên nhiên phong phú.
Vấn đề 18: Toàn cầu hóa có tác động như thế nào đến quá trình công nghiệp hóa ở nước ta hiện nay?

1.

Những tác động tích cực


– Toàn cầu hóa thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của LLSX, đưa lại sự tăng trưởng cao cho nền kinh tế. Trong đó, cơ cấu kinh tế chuyển dịch
mạnh: tỷ trọng các ngành công nghiệp chế tạo và dịch vụ dựa vào công nghệ cao và tri thức tăng mạnh. Đây là cơ hội và tiền đề hết sức
quan trọng cho sự phát triển và hiện đại hóa xã hội.
– Tham gia vào toàn cầu hóa giúp chúng ta có điều kiện tiếp nhận các nguồn lực phát triển từ bên ngoài như vốn đầu tư nước ngoài, công
nghệ chuyển giao, kinh nghiệm tổ chức quản lý… khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trong nước như lao động, đất đai, tài
nguyên… thúc đẩy nhanh sự tăng trưởng kinh tế trong nước.
– Toàn cầu hóa giúp sự giao lưu hàng hóa thông thoáng hơn, hàng rào quan thuế và phi quan thuế bị dỡ bỏ, nhờ đó trao đổi hàng hóa tăng
mạnh, có lợi cho sự phát triển của đất nước.
Ngoài ra còn giúp nước ta có thể tận dụng các nguồn lực của mình, nhất là nguồn lực lao động dồi dào để tạo ra lợi thế cạnh tranh trong
một số ngành công nghiệp chế tạo và dịch vụ.
– Dưới tác động của quá trình toàn cầu hóa, những thành tựu của khoa học – công nghệ được chuyển giao nhanh chóng và ứng dụng rộng
rãi tạo điều kiện điều kiện tiếp cận với những thành tựu mới của khoa học – công nghệ để phát triển.

1.

Những tác động tiêu cực

– Tuy có chuyển giao công nghệ song các nước công nghiệp phát triển thường không chuyển giao những thành tựu mới nhất mà thậm chí
là chuyển giao những công nghệ lạc hậu hoặc đã khấu hao hết giá trị vào các nước chậm phát triển. Điều này tác động xấu đến sự phát
triển kinh tế ở nước ta và dẫn đến nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế.
– Toàn cầu hóa làm trầm trọng thêm những bất công xã hội, làm sâu thêm hố ngăn cách giàu nghèo trong nước và giữa nước ta với các
nước khác.

CHƯƠNG V: ĐƯỜNG LỐI XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Vấn đề 19: Đặc trưng của nền kinh tế hàng hóa tập trung, quan liêu, bao cấp


– Nhà nước quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính dựa trên hệ thống chi tiêu pháp lệnh chi tiết từ trên xuống dưới. Các
doanh nghiệp hoạt động trên cơ sở các quyết định của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền vad chỉ tiêu pháp lệnh được giao.

Tính pháp lệnh: nhà nước xây dựng một cách chủ quan, sau đó đưa xuống cho các doanh nghiệp, thậm chí cả hợp tác xã thực hiện. Các
doanh nghiệp hoạt động trên cơ sở của các quyết định cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Hệ thống chi tiêu: cấp phát vốn, vật tư, giao nộp
sản phẩm cho nhà nước cũng đều nằm trong chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước giao cho. Các doanh nghiệp chỉ quan tâm đến một vấn đề duy
nhất đó là hoàn thành chỉ tiêu.
– Cơ quan hành chính can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
Can thiệp từng khâu cấp phất vốn, quy trình sản xuất đến phân phối sản phẩm, nhưng lại không chịu bất cứ vật chất và pháp lý đói với
quyết định của mình. Doanh nghiệp không có quyền tự chủ về kinh doanh, sản xuất.Những thiệt hại về vật chất do các quyết định không
đúng gây ra thì ngân sách nhà nước phải gánh chịu.Chỉ coi trọng kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể, nó tạo nên sự hạn chế phát triển và
đóng góp vào nền kinh tế của các thành phần kinh tế khác.Hậu quả là cơ quan quản lý nhà nước làm thay đổi chức năng quản lý sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp.
– Quan hệ hàng hóa tiền tệ bị coi nhẹ, chỉ là hình thức, quan hệ hiện vật là chủ yếu
Các công cụ như giá cả, lãi suất, tiền lương chỉ áp dụng để tính toán một cách hình thức. Giá cả không phản ánh quan hệ cung cầu mà
do nhà nước đặt ra dùng để tính toán cho việc cấp phát giao nộp giữa nhà nước với doanh nghiệp. Tiền lương được quy định theo cấp bậc
hành chính và thâm niên, tính theo chủ nghĩa bình quân, không tính hiệu quả lao động của mỗi người. Các doanh nghiệp khi không có tiền
lương trả cho công nhân thì bằng sản phẩm. Tình trạng khan hiếm hàng hóa khiến cuộc sống vật chất không những về số lượng mà cả về
phẩm chất cả nhiều mặt hàng.
– Bộ máy quản lý cồng kềnh, nhiều cấp trung gian.
Hệ thống thể chế chưa đồng bộ, còn chồng chéo, thiếu thống nhất, thủ tục hành chính còn rườm rà, phức tạp, trật tự kỉ cương chưa
nghiêm.Tổ chức bộ máy cồng kềnh nhiều từng nấc, phương thức quản lý hành chính vừa tập trung quan liêu, vừa phân tán chưa thông
suốt. Đội ngũ quản lý còn nhiều điểm yếu về phẩm chất, tinh thần và trách nhiệm.
Vấn đề 20: Tính tất yếu khách quan của việc phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.
Kinh tế hàng hóa là nền kinh tế có sự phân công lao động và trao đổi hàng hóa, dịch vụ giữa người này với người khác. Nó trái với nền kinh
tế tự cung tự cấp ( tự nhiên) trong đó người ta tự sản xuất sản phẩm và tự tiêu dùng.
Kinh tế thị trường là nền kinh tế mà trong đó người mua và người bán tác động với nhau theo quy luật cung cầu, giá trị để xác định giá cả và
số lượng hàng hoá, dịch vụ trên thị trường.
=> KTTT là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hóa, các yếu tố đầu vào, ra của quá trình sản xuất đều thông qua thị trường, “sản phẩm”
sản xuất ra là để “ trao đổi- mua bán” trên thị trường.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế vừa mang tính chất chung của kinh tế thị trường vừa được xây dựng dựa trên
cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội.
Tính tất yếu khách quan của việc phát triển KTTT ở VN:

– Trước sự suy thoái nghiêm trọng viện trợ nước ngoài lại giảm sút đã đặt nền kinh tế nước ta tới sự bức bách phải đổi mới. Tại đại hội VI
của Đảng đã chủ chương phát triển kinh tế nhiều thành phần và thực hiện chuyển đổi cơ chế hạch toán kinh doanh XHCN. Đến Đại hội VII
Đảng ta xác định rõ việc đổi mới cơ chế kinh tế ở nước ta là một tất yếu khách quan và trên thực tế đang diễn ra việc đó tức là chuyển từ
nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Đây là một sự thay đổi


về nhận thức có ý nghĩa rất quan trọng trong lý luận cũng như trong thực tế lãnh đạo của Đảng trên mặt trận làm kinh tế. Việc chuyển đổi
trên hoàn toàn đúng đắn. Nó phù hợp với thực tế của nước ta phù hợp với các qui luật kinh tế và xu thế của thời đại.
– Nếu không thay đổi cơ chế vẫn giữ cơ chế kinh tế cũ thì không thể nào có đủ sản phẩm để tiêu dùng chứ chưa muốn nói đến tích luỹ vốn
để mở rộng sản xuất. Thực tế những năm cuối của thập kỷ 80 đã chỉ rõ thực hiện cơ chế kinh tế cho dù chúng ta đã liên lục đổi mới hoàn
thiện cơ chế quản lý kinh tế, nhưng hiệu quả của nền sản xuất xã hội đạt mức rất thấp. Sản xuất không đáp ứng nổi nhu cầu tiêu dùng của
Xã hội đạt mức rất thấp, tích luỹ hầu như không có đôi khi còn ăn lạm cả vào vốn vay của nước ngoài.
– Do sự phân công lao động xã hội mang tính chuyên mô hóa trong quá trình sản xuất.
– Tính độc lập tương đối về mặt kinh tế giữa các chủ thể kinh doanh.
– Do đặc trưng của nền kinh tế tập trung là rất cứng nhắc cái đó chỉ có tác dụng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Và chỉ có tác dụng phát triển
nền kinh tế theo chiều rộng. Nền kinh tế chỉ huy ở nước ta tồn tại quá dài do đó nó không những không còn tác dụng đáng kể trong việc thúc
đẩy sản xuất phát triển mà nó còn sinh ra nhiều hiện tượng tiêu cực làm giảm năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất.
– Xét về sự tồn tại thực tế ở nước ta những nhân tố của nền kinh tế thị trường, Về vấn đề này có nhiều ý kiến đánh giá khác nhau. Nhiều
nước cho rằng thị trường ở nước ta là thị trường sơ khai. Thực tế kinh tế thị trường đã hình thành và phát triển đạt được những mức phát
triển khác nhau ở hầu hết các đô thị và vùng hẻo lánh và đang được mở rộng với thị trường quốc tế. Nhưng thị trường ở nước ta phát triển
chưa đồng bộ còn thiếu hẳn thị trường các yếu tố sản xuất như thị trường lao động thị trường vốn và thị trường đất đai về cơ bản vẫn là thị
trường tự do, mức độ can thiệp của nhà nước còn rất thấp.
– Xét về mối quan hệ kinh tế đối ngoại ta thấy nền kinh tế nước ta đang hoà nhập với nền kinh tế thị trườngthế giới, sự giao lưu về hàng hoá
dịch vụ và đầu tư trực tiếp của nước ngoài làm cho sự vận động của nền kinh tế nước ta gần gũi hơn với nền kinh tế thị trường thế giới.
Tương quan giá cả các loại hàng hoá trong nước gần gũi hơn với tương quan giá cả hàng hóa quốc tế.
– Xu hướng chung phát triển kinh tế thế giới là sự phát triển kinh tế của mỗi nước không tách rời sự phát triển và hoà nhập quốc tế, sự cạnh
tranh giữa các quốc gia đã thay đổi hẳn về chất không còn là dân số đông, vũ khí nhiều, quân đội mạnh mà là tiềm lực kinh tế. Mục đích của
các chính sách của các quốc gia là tạo được nhiều của cải vật chất trong quốc gia của mình là tốc độ phát triển kinh tế cao, đời sống nhân
dân được cải thiện, thất nghiệp thấp, tiềm lực kinh tế đã trở thành thước đo chủ yếu, vai trò và sức mạnh của mỗi dân tộc, là công cụ chủ
yếu để bảo vệ uy tín duy trì sức mạnh của các Đảng cầm quyền.

Tuy vậy, nền kinh tế thị trường hướng tới ở nước ta sẽ không phải là nền kinh tế thị trường thuần túy. Lý thuyết “để mặc” cho thị trường tự
do cạnh tranh là không tồn tại. Ngoài bàn tay “vô hình”, vai trò của chính phủ để điều tiết, khắc phục những khuyết tật của thị trường tạo cho
nền kinh tế ổn định và phát triển. Đối với nước ta vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường cũng sẽ rất quan trọng.
Nền kinh tế thị trường phát triển cũng mang lại nhiều tác dụng to lớn:
-Tạo ra động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Do cạnh tranh giữa những người sản xuất hàng hóa, buộc các chủ thể sản xuất
phải cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới vào sản xuất để giảm chi phí nhờ đó có thể cạnh tranh trên thị trường.
-Kích thích tính năng động, sáng tạo của chủ thể kinh tế, kích thích việc nâng cao chất lượng, cải tiến mẫu mã, cũng như tăng khối lượng
hàng hóa và dịch vụ.
-Thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, do đó tạo điều kiện ra đời của sản xuất lớn, đồng thời chọn lọc được sản xuất, kinh doanh
giỏi, hình thành đội ngũ cán bộ quản lý có trình độ, lao động có tay nghề.
Vì vậy, phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam là một tất yếu khách quan.
Vấn đề 21: Quá trình đổi mới về nhận thức của Đảng về kinh tế thị trường từ Đại hội VI đến Đại hội VIII.


Bước vào thời kỳ đổi mới Đảng ta đã có những nhận thức mới về nền kinh tế thị trường vốn được xem là gắn liền với CNTB trong giai
đoạn trước đổi mới. Đó là một quá trình thay đổi nhận thức từng bước, thông qua các kỳ Đại hội.
Đại hội VI được họp vào ngày 18/12/1986. Trong lúc hoàn cảnh tình hình kinh tế diễn ra theo chiều hướng xấu, Đại hội đã thông qua những
nghị quyết quan trọng đánh giá tình hình, những tồn tại yếu kém “Đại hội chủ trương đổi mới một cách toàn diện, trong đó đổi mới tư duy lý
luận là cơ bản, đổi mới tư duy kinh tế là trọng tâm, đổi mới với các hình thức bước đi thích hợp. Đổi mới trên cơ sở đảm bảo định hướng xã
hội chủ nghĩa.”
Đại hội VII đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, thông qua chiến lược ổn định
và phát triển kinh tế xã hội đến năm 2000, thông qua nội dung các chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch nhà nước 5 năm 1991-1996. Đại hội đã
khẳng định chủ trương tiếp tục xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo “cơ chế thi trường có sự quản lý của Nhà nước”.Đặc
trưng của mô hình: Các đơn vị kinh tế có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh, cạnh tranh và hợp tác với nhau. Các đơn vị kinh doanh
lựa chọn lĩnh vựa kinh doanh và các phương án tổ chức sản xuất theo sự hướng dẫn của thị trường. Nhà nước quản lý nền kinh tế để định
hướng, dẫn dắt các thành phần kinh tế, tạo môi trường thuận lợi cho sản xuất kinh doanh đảm bảo hài hòa giữa phát triển kinh tế và phát
triển xã hội.
Đại hội VIII đã rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu, chỉ rõ thời cơ trước mắt cùng những thách thức mới. Đại hội này có sự thay đổi
căn bản và sâu sắc:
+KTTT không phải là cái riêng có của CNTB mà là thành tựu chung của toàn nhân loại. KTTT tồn tại khách quan trong thời kỳ quá độ lên

CNXH.
+KTTT là phương thức tổ chức, vận hành kinh tế, là phương tiện điều tiết nền kinh tế lấy cơ chế thị trường làm cơ sở để phân bổ nguồn lực
kinh tế và điều tiết mối quan hệ giữa người với người.
+ KTTT vừa có thể liên hệ với chế độ công hữa vừa có thể liên hệ với chế độ tư hữa và phục vụ cho quần chúng.
Sự cần thiết của KTTT để xây dựng xã hội nước ta KTTT có vai trò to lớn vì đặc trưng chung của KTTT:
+Các chủ thể kinh tế có tính độc lập, có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh.
+Giá cả do thị trường quyết định, hệ thống thị trường phát triển đầy đủ, và có tác dụng là cơ sở cho sự phân phối các nguồn lực.
+Nền kinh tế có tính mở cao và vận động theo quy luật vốn có của thị trường.
+Nền kinh tế thị trường hiện đại còn có sự điều tiết vĩ mô của nhà nước.
Vấn đề 22: Sự thay đổi tư duy của Đảng về kinh tế thị trường từ đại hội IX đến đại hội XI
– Tại đại hội IX của Đảng xác định nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ
quá độ đi lên xã hội chủ nghĩa. Đây là một bước chuyển quan trọng từ nhận thức kinh tế thị trường chỉ như một công cụ, một cơ chế quản
lý, đến nhận thức coi kinh tế thị trường như một chỉnh thể, cơ sở kinh tế của sự phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
– Tại đại hội X xác định kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo quy luật của thị trường vừa
dựa trên cơ sở và chịu sự dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội.
Tại đại hội X, kế thừa tư duy của đại hội IX, đã làm sáng tỏ thêm nội dung cơ bản của định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển nền kinh
tế thị trường ở nước ta thể hiện ở 4 tiêu chí:


Mục đích phát triển
Mục tiêu của kinh tế thị trường định hướng xhcn ở nước ta nhằm thực hiện: “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh’’
giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất và không ngừng nâng cao đời sống nhân dân, đẩy mạnh xóa đói, giảm nghèo, khuyến khích mọi
người vươn lên làm giàu chính đáng, giúp đỡ người khác thoát nghèo và từng bước khá giả hơn.
Phương hướng phát triển
Phát triển nền kinh tế với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế nhằm giải phóng mọi tiềm năng trong mọi thành phần kinh tế,
trong mỗi cá nhân và mọi vùng miền …, phát huy tối đa nội lực để phát triển nhanh nền kinh tế. trong nền kinh tế nhiều thành phần , kinh tế
nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là công cụ chủ yếu để Nhà nước điều tiết nên kinh tế, định hướng cho sự phát triển vì mục tiêu dân giàu nước
mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh.
Định hướng xã hội và phân phối
Thực hiện tiến bộ xã hội và công bằng xã hội ngay trong tưng bước và từng chính sách phát triển, tăng trưởng kinh tế gắn kết chặt chẽ và

đồng bộ với phát triển xã hội, văn hóa, giáo dục và đào tạo, giải quyết các vấn đề xã hội và mục tiêu con người. Hạn chế tác động tiêu cực
của kinh tế thị trường.
Quản lý
Phát huy vai trò làm chủ của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự
lãnh đạo của Đảng.
Hoàn thiện nhận thức và chủ trương về nền kinh tế nhiều thành phần, Đại hội X khẳng định: “trên cơ sở 3 chế độ sở hữu (toàn dân, tập thể,
tư nhân), hình thành nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế: kinh tế tư nhân, kinh tế tập thể, kinh tế nhà nước, kinh tế tư bản
nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh.
Kinh tế nhà nươc giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và
thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền
kinh tế quốc dân.
Vấn đề 23: Đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
– Kinh tế hàng hóa: là nền kinh tế mà hàng hóa sản xuất ra được mang đi trao đổi để đáp ứng nhu cầu của người làm ra nó.
– Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế mà trong đó người bán và người mua tác động đến nhau theo quy luật cung cầu, quy luật giá trị để
xác định giá cả và số lượng hàng hóa, dịch vụ trên thị trường. Kinh tế thị trường là trình độ phát triển cao của nền kinh tế hàng hóa.
Đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam:

• Mục tiêu phát triển của nền kinh tế:
– Thực hiện dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh.
– Giải phóng mạnh mẽ lực lượng xã hội, không ngừng nâng cao đời sống nhân dân, đẩy mạnh xóa đói giảm nghèo, khuyến khích mọi người
vươn lên làm giàu chính đáng.


• Phương hướng phát triển:
– Phát triển nền kinh tế ở nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế.
– Trong nền kinh tế nhiều thành phần, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là công cụ chủ chốt để nhà nước điều tiết nền kinh tế.
– Nền kinh tế dựa trên nền tảng của sở hữu toàn dân và các tư liệu sản xuất chủ yếu.

• Định hướng xã hội và phân phối:

– Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển, tăng cường kinh tế đồng bộ với văn hóa, xã hội,
giáo dục và đào tạo, giải quyết tốt các vấn đề xã hội.
– Thực hiện phân phối theo mức góp vốn và các nguồn lực khác.

• Nền kinh tế thị trường phát triển dưới sự quản lý vĩ mô của nhà nước:
– Phát huy vai trò làm chủ của nhân dân, đảm bảo vai trò quản lý của kinh tế nhà Nước nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam dưới
sự lãnh đạo của Đảng
– Quản lý trên 3 chế độ sở hữu: toàn dân, tập thể, tư nhân; hình thành nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế: kinh tế tập thể,
kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Đặc trưng của kinh tế thi trường Việt Nam khác với đặc trưng của nền kinh tế thị trường ở tư bản chủ nghĩa trong đại hội VI-VIII là:
+ Nền kinh tế thi trường Việt Nam xây dựng theo đuổi mục đích dân giàu nước mạnh, vì mục tiêu con người khác với mục tiêu tất cả vì lợi
nhuận phục vụ lợi ích của các nhà tư bản như trong nền kinh tế thị trường của tư bản chủ nghĩa.
+Nền kinh tế thị trường Việt Nam có nền kinh tế nhiều thành phần trong đó nền kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo còn ở tư bản chủ
nghĩa thì nền kinh tế tư nhân chiếm toàn bộ nền kinh tế.
Vấn đề 24: Trình bày ưu, nhược điểm của nền kinh tế thị trường.

1.

Ưu điểm của kinh tế thị trường:

– Kinh tế thị trường luôn tạo cơ hội cho mọi người sang tạo, luôn tìm cách để cải tiến lối làm việc và rút ra những bài học kinh nghiệm về
thành công hay thất bại để phát triển không ngừng.
– Kinh tế thị trường tạo ra cơ chế đạo tạo, tuyển chọn, sử dụng người quản lý kinh doanh năng động, có hiệu quả và đào thải các nhà quản
lý kém hiệu quả.
– Kinh tế thị trường tạo ra môi trường kinh doanh tự do, dân chủ trong kinh tế bảo vệ lợi ích người tiêu dùng.

2.

Nhược điểm của kinh tế thị trường:


– Kinh tế thị trường chú trọng đến những nhu cầu có khả năng thanh toán, không chú ý đến những nhu cầu cơ bản của xã hội. Kinh tế thị
trường, đặt lợi nhuận lên hàng đầu, cái gì có lãi thì làm, không có lãi thì thôi nên nó không giải quyết được cái gọi là “ hàng hóa công cộng”
(đường xá, các công trình văn hóa, y tế và giáo dục,…)


– Trong nền kinh tế thị trường có sự phân biệt giàu nghèo rõ rệt và khoảng cách giàu nghèo ngày càng tăng: giàu ít, nghèo nhiều, bất công
xã hội.
– Suy đổi đạo đức, không còn lương tâm do chạy theo lợi nhuận mà làm mọi thứ (hàng giả, hàng kém chất lượng, thực phẩm không đảm
bảo an toàn).
– Do tính tự phát vốn có, kinh tế thị trường có thể mang lại không chỉ có tiến bộ mà còn cả suy thoải, khủng hoảng và xung đột xã hội nên
cần phải có sự can thiệp của Nhà nước. Sự can thiệp của Nhà nước sẽ đảm bảo hiệu quả cho sự vận động của thị trường được ổn định,
nhằm tối đa hóa hiệu quả kinh tế, bảo đảm định hướng chính trị của sự phát triển kinh tế, sửa chữa khắc phục những khuyết tật vốn có của
kinh tế thị trường, tạo ra những công cụ quan trọng để điều tiết thị trưởng ở tầm vĩ mô.Bằng cách đó Nhà nước mới có thể kiềm chế tính tự
phát của kinh tế thị trường, đồng thời kích thích đối với sản xuất thông qua trao đổi hàng hóa dưới hình thức thương mại.
Vấn đề 25: Sự phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam có mâu thuẫn với mục tiêu phát triển xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam không?
– Kinh tế thị trường ở Việt Nam: là nền kinh tế mà người mua và người bán tác động với nhau theo quy luật cung cầu, giá trị để xác định giá
cả và số lượng hàng hóa, dịch vụ trên thị trường (nền kinh tế được điều hành bởi thị trường). Thế mạnh của thị trường được sử dụng để
phát triển lực lượng sản xuất phát triển kinh tế, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân.
– Kinh tế thị trường có hệ thống pháp quy, quy luật hoàn chỉnh có sự quản lý của những yếu tố ở tầm vĩ mô.
– Định hướng xã hội chủ nghĩa được thể hiện ở 3 mặt của quan hệ sản xuất: sở hữu, tổ chức, quản lý và phân phối nhằm mục đích cuối
cùng là” dân giàu, nước mạnh”, tiến lên hiện đại trong một xã hội do nhân dân làm chủ, nhân ái, có văn hóa, kỷ cương, xóa bỏ áp bức bất
công, tạo điều kiện cho mọi người có cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
=> Kinh tế thị trường ở Việt Nam không mâu thuẫn với định hướng xã hội chủ nghĩa.
Vấn đề 26: Anh chị hiểu như thế nào về nền kinh tế thị trường trong xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

1.

Khái niệm:

– Kinh tế thị trường là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hóa, mà ở đó 2 yếu tố đầu ra và đầu vào do thị trường quyết định. Kinh tế thị

trường có quy mô lớn, chất lượng sản phẩm cao.
– Kinh tế thị trường thực chất là kinh tế hàng hóa, là hình thức phát triển cao của hình thức kinh tế hàng hóa.
– Kinh tế thị trường là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Đó là nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần được vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Có 5 thành phần kinh tế,
đó là:

• Kinh tế nhà nước.
• Kinh tế tập thể.
• Kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân).
• Kinh tế tư bản nhà nước.
• Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.


2.

Điều kiện ra đời và phát triển của KTTT.

– Điều kiện: Phân công lao động xã hội mang tính chất chuyên môn hóa sản xuất.
– Tác dụng trong phát triển KTTT:
+ Phát triển KTTT phá vỡ kinh tế tự nhiên, thúc đẩy kinh tế hóa sản xuất.
+ Tạo ra động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phá triển.
+ Kích thích tính năng động sáng tạo của chủ thể kinh tế.
+ Thúc đẩy phân công lao động và chuyên môn hóa sản xuất phát triển.
+ Phát triển kinh tế thị trường thúc đẩy quá trình tập trung vì sản xuất tạo điều kiện cho một nền sản xuất lớn mang tính xã hội cao, đáp ứng
được nhu cầu phát triển của đất nước.
è

Nền KTTT là tất yếu, là một nhiệm vụ kinh tế cấp bách để chuyển nền kinh tế lạc hậu sang nền kinh tế hiện đại, hội nhập sâu vào

phân công lao động quốc tế. Đây là con đường đúng đắn để phát triển lực lượng sản xuất, khai thác có hiệu quả tiềm năng của đất nước và

hiện đại hóa.

3.

Nền KTTT chủ nghĩa xã hội ở VN hiện nay có 4 đặc trưng cơ bản:

• Về mục đích phát triển: Việc thực hiện KTTT nhằm mục đích cuối cùng là “dân giàu, nước mạnh, tiến lên hiện đại một xã hội do
nhân dân làm chủ, nhân ái, có văn hóa, có kỷ cương, xóa bỏ áp bức và bất công, tạo điều kiện cho mọi người có cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc”.

• Về phương hướng phát triển: Giải phóng mọi tiềm năng trong mọi thành phần kinh tế, trong mỗi cá nhân và mọi vùng miền…phát
huy tối đa nội lực để phát triển nhanh nền kinh tế.

• Về định hướng xã hội và phân phối: Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển,
tăng trưởng kinh tế gắn kết chặt chẽ và đồng bộ với phát triển xã hội, văn hóa, giáo dục và đào tạo, giải quyết tốt các vấn đề
xã hội vì mục tiêu phát triển con người. Phân phối theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế và phúc lợi xã hội.

• Về quản lý: Phát huy vai trò làm chủ xã hội của nhân dân, đảm bảo vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước.
Vấn đề 27: Mâu thuẫn giữa cơ chế kế hoạch hóa tập trung với kinh tế thị trường
Cơ chế kế hoạch hóa tập trung

Kinh tế thị trường

Chế độ sở hữu: toàn dân và tập thể (công hữu)

– Chế độ sở hữu: toàn dân, tập thể, tư
nhân.

Thành phần kinh tế: chủ yếu là kinh tế Nhà nước và tập
thể


Thành phần kinh tế: Nhà nước, tập thể, tu
nhân tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu
tư nước ngoài

Hạn chế phát triển kinh tế tư nhân

Khuyến khích các thành phần kinh tế tư
nhân

Nhà nước chỉ huy toàn bộ kinh tế từ cấp phát, phân phối,

Nhà nước thực hiện chức năng quản lý


thu mua

nhà nước về kinh tế, chức năng quản lý
doanh nghiệp thì thuộc về doanh nghiệp

Phủ nhận vai trò của thị trường

Thừa nhận vai trò của thị trường, kế hoạch
chỉ mang tính định hướng

Hình thức phân phối: phân phối theo lao động

Hình thức phân phối: phân phối theo kết
quả lao động và hiêu quả kinh tế là chủ
yếu


1.

Cơ chế kế hoạch hóa tập trung:

– Cơ chế kế hoạch hóa tập trung từ nhiều năm không tạo được động lực phát triển, làm suy yếu kinh tế xã hội chủ nghĩa, hạn chế sử dụng
và cải tạo các thành phần kinh tế khác, kìm hãm sản xuất, làm giảm năng suất, chất lượng và hiệu quả, gây rối loạn trong phân phối lưu
thông, tạo ra nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội.
– Cơ chế này thủ tiêu tính cạnh tranh, kìm hãm tiến bộ khoa học công nghệ, triệt tiêu động lực kinh tế đối với người lao động, không kích
thích tính năng động, sáng tạo của các đơn vị sản xuất, kinh doanh khiến cho nền kinh tế rơi vào khủng hoảng, trì trệ.

2.

Kinh tế thị trường:

Nhờ sự phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, chúng ta đã bước đầu khai thác được tiềm năng trong nước và thu hút được vốn,
kỹ thuật công nghệ của nước ngoài, giải phóng được năng lực sản xuất, góp phần quyết định vào việc bảo đảm tăng trưởng kinh tế với nhịp
độ tương đối cao trong thời gian qua.
Vấn đề 28: Vai trò của thành phần kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường.
Trong nền kinh tế nhiều thành phần, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền KTTT. Kinh tế nhà nước là thành phần kinh tế dựa trên
chế độ sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất. Kinh tế Nhà nước bao gồm các doanh nghiệp nhà nước, ngân hàng nhà nước, ngân sách nhà
nước, các quỹ dự trữ quốc gia, các quỹ bảo hiểm nhà nước và các tài nguyên quốc gia, các tài sản thuộc sở hữu nhà nước có thể dựa vào
còng chu chuyển kinh tế.
Vai trò của kinh tế Nhà nước:
– Là công cụ chủ yếu để Nhà nước điều tiết, quản lý vĩ mô nền kinh tế.
– Kinh tế Nhà nước mở đường, hướng dẫn hỗ trợ và lôi cuốn các thành phần kinh tế khác cùng phát triển.
– Định hướng cho sự phát triển vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
– Các doanh nghiệp nhà nước giữ những vị trí then chốt ở các ngành, các lĩnh vực kinh tế và địa bàn quan trọng của đất nước. Đi đầu trong
các ứng dụng khoa học công nghệ giúp nâng cao năng suất lao động, chất lượng, hiệu quả kinh tế và chấp hành pháp luật.
CHƯƠNG VI: ĐƯỜNG LỐI XÂY DỰNG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ

Vấn đề 29: Mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới hệ thống chính trị
Giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là một nội dung cốt lõi quan trọng trong các quan điểm, đường lối, chính
sách của Đảng ta từ khi đổi mới đến nay. Sự nhận thức và giải quyết đúng đắn vấn đề này của Đảng cũng là khâu đột phá trong tư duy và
thực tiễn lãnh đạo sự nghiệp đổi mới của Đảng.


Đổi mới kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, từng bước đổi mới hệ thống chính trị.
– Đổi mới kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm. Trong những năm đầu của sự nghiệp đổi mới, Đảng ta chủ trương đổi mới kinh tế đi trước một
bước, từng bước đổi mới hệ thống chính trị nhằm giữ vững ổn định chính trị, tập trung mọi nguồn lực phấn đấu đưa đất nước vượt qua
khủng hoảng để phát triển.
Từ khi đổi mới đến nay, về quan điểm Đảng ta chủ trương “Kết hợp ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm
trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị”. Đây là nhận thức đúng cả về mặt lý luận cả về mặt thực tiễn.
Về đổi mới kinh tế, Đại hội XI của Đảng tập trung vào đổi mới để hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường XHCN. Để hoàn thiện thể chế kinh tế
thị trường XHCN, Đại hội XI của Đảng chủ trương:
Thứ nhất, Đảng ta coi hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường đồng bộ và hiện đại là tiền đề quan trọng thúc đẩy quá trình cơ cấu lại nền kinh
tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô.
Thứ hai, đổi mới việc xây dựng và thực thi luật pháp cho cạnh tranh bình đẳng, minh bạch, giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần
kinh tế.
Thứ ba, đổi mới công tác quy hoạch, kế hoạch, điều hành phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường.
Thứ tư, chú ý đặc biệt trong việc thực hiện chính sách tài chính, tiền tệ bảo đảm phát triển lành mạnh nền kinh tế.
Thứ năm, tạo lập đồng bộ và vận hành thông suốt các loại thị trường: Thực hiện tốt năm giải pháp này sẽ góp phần trực tiếp hoàn thiện thể
chế kinh tế thị trường XHCN. Đây là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới kinh tế giai đoạn này.
Về đổi mới chính trị, Đại hội XI của Đảng tập trung 3 yếu tố cơ bản, trọng yếu là đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN; mở rộng dân chủ trong Đảng và trong xã hội gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương. Đây là balĩnh vực cơ bản,
trọng yếu mang tính đột phá trong đổi mới chính trị. Trong đó, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng là cấp thiết và hàng đầu.
Đảng cho rằng mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị có tác động rất chặt chẽ và qua lại với nhau. Vì vậy để thúc đẩy kinh tế chúng ta phải
đổi mới về tư duy chính trị để phát triển đất nước.
Vấn đề 30: Nhận thức mới về đấu tranh giai cấp và về động lực chủ yếu phát triển đất nước trong giai đoạn mới.
Trong xã hội có giai cấp tất yếu nảy sinh đấu tranh giai cấp. V.I.Lênin định nghĩa đấu tranh giai cấp là “cuộc đấu tranh của quần chúng bị
tước hết quyền, bị áp bức và lao động, chống bọn có đặc quyền, đặc lợi, bọn áp bức và bọn ăn bám, cuộc đấu tranh của những người công

nhân làm thuê hay những người vô sản chống những người hữu sản, vô sản.
Ở Việt Nam, đấu tranh giai cấp trong giai đoạn quá độ hiện nay cũng là một tất yếu. Do bối cảnh lịch sử của quá trình hình thành giai cấp và
điều kiện mới của xu hướng quốc tế hoá, đấu tranh giai cấp ở Việt Nam có những đặc điểm riêng.
Nhưng đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay phải nhận thức cho đúng, nó diễn ra trong điều kiện mới với những nội dung mới và hình thức
mới. Bởi vì cùng với những biến đổi to lớn về kinh tế xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước, cơ cấu giai cấp, nội
dung, tính chất, vị trí của các giai cấp trong xã hội ta cũng đã thay đổi nhiều, khác với thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ trong những năm
đầu chúng ta mới giành được chính quyền.
Ngày nay, mối quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp chủ yếu là mối quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân nhằm tăng
cường đoàn kết trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Lợi ích giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích
toàn dân tộc trong mục tiêu chung là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội dân, giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh.


Cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa hai con đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa gắn liền với cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân
tộc, chống áp bức bất công, chống bóc lột chống nghèo nàn lạc hậu đấu tranh chống tình trạng đói nghèo, kém phát triển. Vì vậy, nội dung
chủ yếu của đấu tranh giai cấp trong giai đoạn hiện nay ở nước ta là thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục tình trạng nước nghèo kém phát triển, thực hiện công bằng xã hội, chống áp bức, bất công, đấu tranh
ngăn chặn, khắc phục những tư tưởng và hành động tiêu cực, sai trái, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các
thế lực thù địch; bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh, nhân dân hạnh phúc.
_ Đảng cho rằng mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị có tác động rất chặt chẽ và qua lại với nhau. Vì vậy để thúc đẩy kinh tế chúng ta phải
đổi mới về tư duy chính trị để phát triển đất nước
Do đó động lực để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh công nông và trí thức do đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa
các lợi ích cá nhân,tập thể và xã hội,phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội.
Vấn đề 31: Mối quan hệ giữa các bộ phận cấu thành hệ thống chính trị (HTCT) hiện nay
Hệ thống CNXH được quan niệm là hệ thống các tổ chức chính trị, xã hội mà nhờ đó nhân dân lao động thực thi quyền lực của mình trong
xã hội.HTCT này bao trùm và điều chỉnh mọi quan hệ chính trị giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội, giữa các dân tộc và giữa các tổ chức xã
hội, giữa các yếu tố xã hội, tập thể, cá nhânvề vấn đề quyền lực, về hoạch định đường lối, chủ trương chính sách phát triển xã hội
Những bộ phận cấu thành HTCT Việt Nam hiện nay:

• Tổ chức chính trị: Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

• Tổ chức chính trị – xã hội: Tổng liên Đoàn lao động Việt Nam, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ vữ Việt
Nam, Hội cựu chiến binh Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam.

=> Các bộ phận cấu thành nên HTCT VN có vị trí, vai trò, chức năng, và nhiệm vụ riêng nhưng có mối quan hệ mật thiết, có tác động qua lại
với nhau, trong đó ĐCS VN là 1 yếu tố cấu thành nên HTCT, đồng thời là hạt nhân lãnh đạo toàn bộ HTCT của đất nước.
Với vai trò, vị trí và tầm quan trọng của cơ sở, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm xây dựng, củng cố hệ thống chính trị cơ sở, coi việc đổi
mới tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở là một nhiệm vụ quan trọng, nhằm nâng cao vai trò lãnh đạo của tổ chức đảng, tăng
cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước của chính quyền và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa.

Nhận thức mới của Đảng về mối quan hệ giữa các bộ phận cấu thành hệ thống chính trị
– Lãnh đạo là đề ra chủ trương, đường lối chiến lược, sách lược gắn liền với vấn đề tổng quát và mang tính định hướng.
– Quản lý là tổ chức thực hiện, có nhiệm vụ trông nom tài sản và tự nguyện làm việc đó.
– Đảng lãnh đạo là chỉ rõ vai trò của Đảng Cộng Sản Việt Nam từ khi thành lập tới nay, đó là vai trò lãnh đạo trong toàn bộ tiến trình cách
mạng Việt Nam.
– Nhà nước quản lý là việc bất kỳ nhà nước nào cũng thực hiện chức năng quản lý xã hội, dân chúng của mình, nhà nước không có quyền
lực tự than mà quyền lực của nhà nước là do nhân dân ủy quyền, thành lập Lập Pháp, Hành pháp và Tư pháp để đảm bảo phân công, phối
hợp minh bạch nhất.
– Nhân dân làm chủ đề cập đến quyền lực của nhân dân, nhân dân thực hiện quyền làm chủ không chỉ thông qua nhà nước mà nhân dân tự
thực hiện quyền đó, vì thế nhân dân cần xây dựng hiến pháp và luật pháp trực tiếp hoặc gián tiếp và thực hiện pháp luật.


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×