Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

LỰC LƯỢNG sản XUẤT, QUAN hệ sản XUẤT và mối QUAN hệ BIỆN CHỨNG GIỮA CHÚNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (97.72 KB, 12 trang )

PHẦN I: MỞ ĐẦU:
1. Lý do chọn đề tài:
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tồn tại không tách rời nhau, thống
nhất biện chứng với nhau trong phương thức sản xuất nhất định. Sự tác động qua
lại lẫn nhau một cách biện chứng đó tạo thành quy luật về sự phù hợp của quan
hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất - quy luật cơ bản nhất
của sự vận động, phát triển xã hội.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất là qui luật hết sức phổ biến trong công cuộc xây dựng đất
nước của mỗi quốc gia. Sự mâu thuẫn hay phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực
lượng sản xuất đều có ảnh hưởng rất lớn tới nền kinh tế. Sự tổng hoà mối quan
hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tạo nên một nền kinh tế có lực
lượng sản xuất phát triển kéo theo một quan hệ sản xuất phát triển.
Nói cách khác quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ
của lực lượng sản xuất là một điều kiện tất yếu để phát triển một nền kinh tế.
Do vậy, nghiên cứu về quy luật này và sự vận dụng quy luật này trong
công cuộc đổi mới ở nước ta sẽ giúp cho mỗi chúng ta, có thêm những hiểu biết
ban đầu và sâu sắc hơn về sự phát triển của nước ta cũng như trên thế giới; hiểu
được quy luật vận động của nền kinh tế từ đó có thể góp một phần nhỏ bé của
mình vào sự nghiệp xây dựng nước nhà sau này.
2. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài:
- Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất để thấy được sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất quyết định
quan hệ sản xuất, làm cho quan hệ sản xuất biến đổi phù hợp với nó, đồng thời
thấy được quan hệ sản xuất cũng có tính độc lập tương đối và tác động trở lại
lực lượng sản xuất.
- Phân tích để thấy được sự vận dụng đúng đắn của Đảng ta về mối quan hệ


chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong thời kỳ quá độ tiến lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta.


- Đánh giá những thành tựu đạt được nhờ sự vận dụng đúng đắn mối quan
hệ chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất ở nước ta.
3. Bố cục của đề tài:
Phần I: Mở đầu.
Phần II: Nội dung:
I: Khái niệm lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và mối quan hệ biện
chứng giữa chúng.
1. Khái niệm lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất:
1.1 Khái niệm lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất.
1.2 Mối quan hệ biện chứng.
2: Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
2.1 Sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất quyết định quan hệ
sản xuất, làm cho quan hệ sản xuất biến đổi phù hợp với nó.
2.2 Quan hệ sản xuất cũng có tính độc lập tương đối và tác động trở lại
sự phát triển của lực lượng sản xuất.
II. Vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất trong thời kì quá độ ở nước ta.
1. Sự hình thành và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần.
2. Vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất trong quá trình CNH–HĐH ở nước ta.
3. Thành tựu của việc vận dụng vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong thời kì quá độ ở nước ta.
Phần III: Kết luận.

2


PHẦN II: NỘI DUNG:
I: LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT, QUAN HỆ SẢN XUẤT VÀ MỐI QUAN
HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA CHÚNG.

1.

Khái niệm lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất:

1.1: Lực lượng sản xuất:
Lực lượng sản xuất là toàn bộ các lực lượng được con người sử dụng
trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất. Nó bao gồm người lao động với
một thể lực, tri thức, kỹ năng lao động nhất định và tư liệu sản xuất, trước hết là
công cụ lao động. Trong quá trình sản xuất, sức lao động của con người kết hợp
với tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động, tạo thành lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên
trong quá trình sản xuất. Nó thể hiện năng lực hoạt động thực tiễn của con người
trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất.
Lực lượng sản xuất gồm các: Người lao động với kỹ năng lao động của họ
và tư liệu sản xuất (công cụ lao động và đối tượng lao động). Trong các yếu tố
của lực lượng sản xuất thì người lao động là yếu tố hàng đầu. Chính người lao
động là chủ thể của quá trình lao động sản xuất. Bằng thể lực, tri thức và kỹ
năng lao động của mình, người lao động sử dụng tư liệu lao động, trước hết là
công cụ lao động, tác động vào đối tượng lao động để sản xuất ra của cải vật
chất. Cùng với quá trình phát triển sản xuất, sức mạnh và kỹ năng lao động, đặc
biệt là trí tuệ ngày càng được nâng cao. Ngày nay, với cuộc cách mạng khoa học
và công nghệ, lao động trí tuệ ngày càng đóng vai trò chính yếu.
Cùng với người lao động, công cụ lao động là yếu tố cơ bản của lực lượng
sản xuất, đóng vai trò quyết định trong tư liệu sản xuất. Công cụ lao động là yếu
tố động nhất trong tư liệu sản xuất, nó không ngừng được cải tiến và hoàn thiện
trong quá trình lao động sản xuất. Chính sự cải tiến và hoàn thiện không ngừng
công cụ lao động đã làm biến đổi toàn bộ tư liệu sản xuất. Trình độ phát triển
của công cụ lao động là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của con người, là
tiêu chuẩn phân biệt các thời đại kinh tế trong lịch sử.
3



Trong sự phát triển của lực lượng sản xuất, khoa học đóng vai trò ngày
càng to lớn. Sự phát triển của khao học gắn liền với sản xuất và là động lực
mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất phát triển. Ngày nay, khoa học đã thâm nhập sâu
vào quá trình sản xuất và trở thành “lực lượng sản xuất trực tiếp”. Những phát
minh khoa học trở thành điểm xuất phát ra đời những nghành sản xuất mới,
những máy móc thiết bị mới, công nghệ mới, nguyên vật liệu mới, năng lượng
mới. Đội ngũ các nhà khoa học trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất ngày
càng đông. Tri thức khoa học trở thành một yếu tố không thể thiếu được của
người lao động. Sự thâm nhập ngày càng sâu của khoa học vào sản xuất đã làm
cho lực lượng sản xuất có bước nhảy vọt, tạo thành cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ hiện đại.
Năng suất lao động là thước đo trình độ phát triển của lực lượng sản xuất,
đồng thời nó cũng thể hiện tính ưu việt của xã hội này đối với xã hội khác.
1.2: Quan hệ sản xuất:
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản
xuất vật chất (sản xuất và tái sản xuất xã hội).
Quan hệ sản xuất gồm ba mặt:
+ Quan hệ giữa người với người về sở hữu về tư liệu sản xuất.
+ Quan hệ giữa người với người về phân công, tổ chức lao động.
+ Quan hệ giữa người với người về phân phối sản phẩm sản xuất ra.
Ba mặt của quan hệ sản xuất thống nhất biện chứng với nhau . Trong đó,
quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan trọng nhất và chi phối các hình
thức khác. Nói cách khác: quan hệ sở hữu là quan hệ xuất phát, quan hệ cơ
bản, quan hệ trung tâm của các quan hệ sản xuất. Trong lịch sử có hai loại
hình sở hữu cơ bản về tư liệu sản xuất: sở hữu tư nhân và sở hữu công cộng.
Sở hữu tư nhân là loại hình sở hữu mà trong đó tư liệu sản xuất tập trung vào
trong tay một số ít người, còn đại đa số không có hoặc có rất ít tư liệu sản
xuất. Do đó, quan hệ giữa người với người là quan hệ thống trị và bị trị, bóc

lột và bị bóc lột. Sở hữu công cộng là loại hình sở hữu mà trong đó tư liệu sản
4


xuất thuộc về mọi thành viên trong cộng đồng. Do đó, quan hệ giữa người với
người là quan hệ bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi.
Quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất trực tiếp tác động đến quá trình
sản xuất, đến việc tổ chức, điều khiển quá trình sản xuất. Nó do quan hệ sở
hữu quy định và phải thích ứng với quan hệ sở hữu. Tuy nhiên, có trường
hợp, quan hệ tổ chức và quản lý không thích ứng với quan hệ sở hữu, làm
biến dạng quan hệ sở hữu.
Quan hệ phân phối sản phẩm sản lao động cũng là những nhân tố có ý
nghĩa hết sức to lớn đối với sự vận động của toàn bộ nền kinh tế - xã hội. Vì nó
có khả năng kích thích trực tiếp vào lợi ích của con người.
Với tính cách là những quan hệ kinh tế khách quan, không phụ thuộc vào ý
muốn con ngừơi, quan hệ sản xuất là những quan hệ mang tính vật chất thuộc
đời sống xã hội.
2. Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tồn tại không tách rời nhau, thống
nhất biện chứng với nhau trong phương thức sản xuất nhất định. Trong hai mặt
đó, lực lượng sản xuất là nội dung, thường xuyên biến đổi, phát triển; quan hệ
sản xuất là hình thức xã hội của sản xuất, tương đối ổn định. Chúng liên hệ tác
động qua lại lẫn nhau, trong đó nội dung quyết định hình thức, nhưng hình thức
tác động trở lại nội dung.
Sự tác động qua lại lẫn nhau giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất
biểu hiện mối quan hệ mang tính biện chứng. Quan hệ này biểu hiện thành quy
luật cơ bản nhất của sự vận động trong đời sống xã hội - quy luật về sự phù hợp
của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.
2.1: Sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất quyết định quan hệ
sản xuất, làm cho quan hệ sản xuất biến đổi phù hợp với nó.

Sự phát triển của lực lượng sản xuất bắt nguồn từ đòi hỏi khách quan của
sự phát triển xã hội, là phải không ngừng phát triển sản xuất, nâng cao năng suất
lao động. Để thực hiện điều đó, con người không ngừng cải tiến và đổi mới công
5


cụ lao động; đồng thời với quá trình đó, trình độ của người lao động cũng không
ngừng được nâng cao, phân công lao động xã hội ngày càng sâu, và do đó lực
lượng sản xuất không ngừng phát triển.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất được đánh dấu bằng trình độ của lực
lượng sản xuất:
+ Trình độ của công cụ lao động.
+ Trình độ tổ chức lao động.
+ Trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất.
+ Kinh nghiệm và kĩ năng lao động của con người
+ Trình độ phân công lao động.
Tính chất của lực lượng sản xuất - tính chất của quá trình sản xuất ra sản
phẩm. Quá trình này phụ thuộc vào tính chất của tư liệu sản xuất và lao động:
+ Khi lực lượng sản xuất là công cụ thủ công, phân công lao động xã hội
kém phát triển thì lực lượng sản xuất chủ yếu có tính chất cá nhân.
+ Khi lực lượng sản xuất đạt tới trình độ cơ khí, hiện đại, phân công lao
động xã hội phát triển thì lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hoá cao.
Khi một phương thức sản xuất mới ra đời, khi đó quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp của quan hệ sản
xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là trạng thái mà trong đó,
quan hệ sản xuất là “hình thức phát triển” của lực lượng sản xuất. Trong trạng
thái đó, tất cả các mặt của quan hệ sản xuất đều là điều kiện thuận lợi cho lực
lượng sản xuất phát triển. Điều đó có nghĩa là quan hệ sản xuất tạo điều kiện sử
dụng và kết hợp một cách tối ưu giữa người lao động với tư liệu sản xuất, và do
đó thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.

Song, sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định lại
làm cho quan hệ sản xuất từ chỗ phù hợp trở thành không phù hợp với sự phát
triển của lực lượng sản xuất. Khi đó quan hệ sản xuất kìm hãm lực lượng sản
xuất phát triển. Yêu cầu khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất tất yếu
sẽ dẫn đến thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với
6


trình độ phát triển mới của lực lượng sản xuất, thúc đẩy lực lượng sản xuất
tiếp tục phát triển. Thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới
cũng có nghĩa là phương thức sản xuất cũ mất đi, phương thức sản xuất
mới ra đời thay thế.
2.2: Quan hệ sản xuất cũng có tính độc lập tương đối và tác động trở lại
lực lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuất quy định mục đích của sản xuất, tác động đến thái độ của
con người trong lao động sản xuất, đến tổ chức phân công lao động xã hội, đến
phát triển và ứng dụng khoa học vào sản xuất và do đó, tác động đến sự phát
triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Ngược lại, quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu, hoặc “tiên tiến” hơn một cách giả
tạo so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất sẽ kìm hãm sự phát triển của
lực lượng sản xuất. Khi đó, theo quy luật chung, quan hệ sản xuất cũ sẽ được
thay thế bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất để thúc đẩy lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển.
Tuy nhiên, việc giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản
xuất không phải giản đơn. Nó phải thông qua nhận thức và hoạt động cải tạo xã
hội của con người. Trong xã hội có giai cấp phải thông qua đấu tranh giai cấp,
thông qua cách mạng xã hội.
II: VẬN DỤNG MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN
XUẤT VÀ QUAN HỆ SẢN XUẤT TRONG THỜI KÌ QUÁ ĐỘ Ở NƯỚC TA.


Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng
sản xuất là quy luật quan trọng nhất, cơ bản nhất, chi phối sự vận động và phát
triển của nền sản xuất, các hình thái kinh tế - xã hội.
Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội
bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của
quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế
thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa,
7


đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây
dựng nền kinh tế hiện đại. Đồng thời phải từng bước xây dựng và hoàn thiện
quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
1. Sự hình thành và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần.
Sau khi cả nước thống nhất, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan,
chúng ta đã xây dựng chủ nghĩa xã hội theo mô hình kế hoạch hoá tập trung. Mô
hình đó có những đặc trưng cơ bản sau:
+ Dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu dưới hai hình thức:
toàn dân và tập thể.
+ Việc sản xuất cái gì, như thế nào, phân phối cho ai, giá cả như thế nào
được quyết định từ nhà nước và mang tính pháp lệnh.
+ Phân phối mang tính chất bình quân và trực tiếp bằng hiện vật là chủ yếu,
xem nhẹ các quan hệ hàng hoá - tiền tệ.
+ Nhà nước quản lí bằng mệnh lệnh hành chính là chủ yếu, xem nhẹ các
biện pháp kinh tế.
Trong điều kiện chiến tranh, mô hình đó đã đóng vai trò tích cực trong việc
huy động sức người, sức của cho chiến tranh – một trong những nhân tố quyết
định sự thắng lợi trong chiến tranh, nhưng trong điều kiện hoà bình, mô hình đó
dần dần bộc lộ những hạn chế của nó, như không khai thác được các năng lực

sản xuất trong nước, không phát huy được nhiệt tình và tính chủ động sáng tạo
của con người trong quá trình lao động sản xuất, không đẩy nhanh được sự tiến
bộ khoa học và công nghệ, không mở rộng được quan hệ kinh tế quốc tế…Từ
đó, năng suất lao động xã hội thấp, hàng hoá nghèo nàn và chất lượng kém…
đồng thời cũng đẻ ra bộ máy hành chính quan liêu, chủ quan duy ý chí… Nên đã
dẫn đến khủng hoảng nghiêm trọng về kinh tế - xã hội. Sở dĩ như vậy là vì trong
khi lực lượng sản xuất còn thấp, trình độ sản xuất không đồng đều, công cụ lao
động còn thô sơ, khoa học kỹ thuật chưa phát triển, chúng ta đã vội xoá bỏ các
thành phần kinh tế phi XHCN như kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân, chỉ có
kinh tế quốc doanh, kinh tế hợp tác. Như vậy chúng ta đã đẩy quan hệ sản xuất
8


đi quá xa so với lực lượng sản xuất, “tiên tiến” một cách giả tạo đã kìm hãm sự
phát triển của lực lượng sản xuất.
Nhận thức được quy luật quan hệ sản xuất phù hợp tính chất và trình độ của
lực lượng sản xuất, Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra đường lối
đổi mới đất nước. Đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà
là nhận thức cho đúng mục tiêu, và con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta. Nhận tức được sai lầm và khắc phục sai lầm trước đó, Đảng ta đã định ra
đường lối: chuyển từ mô hình kế hoạch hoá tập trung sang xây dựng nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, gồm kinh tế Nhà
nước, kinh tế tập thể, kinh tế TB nhà nước, kinh tế TB tư nhân, kinh tế cá thể –
tiểu chủ, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai
trò chủ đạo.
Trong sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta, Đảng ta khẳng định: “Phát
triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới
phù hợp trên cả ba mặt sở hữu, quản lý và phân phối”
Phù hợp với sự phát triển lực lượng sản xuất ở nước ta, Đảng ta chủ
trương sử dụng “nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, nhiều thành

phần kinh tế”. Đồng thời thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát
triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị
trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN; đó chính là
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Ngày nay tất cả các nước đều phải xây dựng và phát triển kinh tế thị
trường. Tuy nhiên trong chế độ xã hội khác nhau, kinh tế thị trường được sử
dụng với mục đích khác nhau. Theo quan điểm của Đảng ta kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần
kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với
kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc.
Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, người lao động với các trình độ
từ thấp đến cao sử dụng công cụ lao động phù hợp cho năng suất lao động tối đa.
9


Xây dựng và phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa
phù hợp với xu hướng phát triển chung của nhân loại, vừa phù hợp với yêu cầu
phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta; với yêu cầu của quá trình xây dựng
nền kinh tế độc lập, tự chủ kết hợp với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
2. Vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong quá trình CNH-HĐH ở
nước ta.
Lý luận hình thái kinh tế – xã hội chỉ ra, mỗi hình thái kinh tế – xã hội có
một lực lượng sản xuất của nó, hay nói cách khác có một cơ sở vật chất – kỹ
thuật của nó. Để có chủ nghĩa xã hội phải có cơ sở vật chất – kỹ thuật hiện đại
do cuộc cách mạng khoa học và công nghệ mang lại. Song, nước ta tiến lên chủ
nghĩa xã hội từ một nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ, lao động thủ công là
chủ yếu, cái thiếu thốn nhát của chúng ta là chưa có nền đại công nghiệp. Vì vậy,
chúng ta phải tiến hành CNH – HĐH. Công nghiệp hoá phải gắn liền với hiện
đại hoá để đạt tới trình độ công nghệ hiện đại mà nhân loại đã tạo ra. Công

nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nước ta là nhằm xây dựng cơ sở vậy chất – kỹ thuật
cho chủ nghĩa xã hội. Đó là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ tiến
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Muốn công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước thì cần phải có tiềm lực về
kinh tế con người, trong đó lực lượng lao động là một yếu tố quan trọng.
Ngoài ra phải có sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ
phát triển lực lượng sản xuất đây mới là nhân tố cơ bản nhất.
Đất nước ta đang trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá với tiềm
năng lao động lớn cần cù, thông minh, sáng tạo và có kinh nghiệm lao động
nhưng công cụ của chúng ta còn thô sơ. Nguy cơ tụt hậu của đất nước ngày
càng được khắc phục. Đảng ta đang triển khai mạnh mẽ một số vấn đề của đất
nước về công nghiệp hoá - hiện đại hoá trước hết trên cơ sở một cơ cấu sở
hữu hợp quy luật gắn liền với một cơ cấu các thành phần kinh tế hợp qui luật,
cũng như cơ cấu một xã hội hợp giai cấp. Phát huy nguồn lực trí tuệ và sức
10


mạnh tinh thần của người Việt Nam; coi phtá triển giáo dục và đào tạo, khoa
học và công nghệ là nền tảng và động lực của sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá. Cùng với thời cơ lớn, những thử thách ghê gớm phải vượt qua
để hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước vì dân giàu
nước mạnh công bằng văn minh hãy còn phía trước mà nội dung cơ bản trong
việc thực hiện là phải nhận thức đúng đắn về qui luật quan hệ sản xuất phù
hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong giai đoạn
hiện nay của nước ta.
3. Thành tựu của việc vận dụng vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong thời kì quá độ ở nước ta.
Sau hơn 20 năm đổi mới đất nướcđất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, có sự thay đổi cơ bản và toàn diện. Kinh tế tăng trưởng khá nhanh; sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa đang đẩy mạnh. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống
chính trị và khối đại đoàn kết dân tộc được củng cố và tăng cường. Chính trị - xã

hội ổn định. Quốc phòng và an ninh được giữ vững. Vị thế nước ta trên trường
quốc tế không ngừng nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất
nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp.

11


PHẦN III: KẾT LUẬN
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tồn tại không tách rời nhau, thống
nhất biện chứng với nhau trong phương thức sản xuất nhất định. Sự tác động qua
lại lẫn nhau một cách biện chứng đó tạo thành quy luật về sự phù hợp của quan
hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất - quy luật cơ bản nhất
của sự vận động, phát triển xã hội.
Nhận thức đúng đắn quy luật này, Đảng ta đã vận dụng vào công cuộc đổi
mới đất nước, đó là:
+ Chủ trương sử dụng “nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, nhiều
thành phần kinh tế”. Đồng thời, thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát
triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có
sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đó chính là nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế thị trường là thành tựu chung của văn minh nhân loại. Nó là kết
quả của sự phát triển lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định, kết quả của
quá trình phân công lao dộng xã hội và đa dạng hoá các hình thức sở hữu. Đến
lượt nó, kinh tế thị trường là một động lực mạnh mẽ thúc đẩy lực lượng sản xuất
phát triển.
+ Tiến hành và đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước để xây
dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản
trả thành một nước công nghiệp. Đây cũng là yếu tố quyết định chống lại nguy
cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới.
Thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá là một trong

những nhân tố có ý nghĩa quyết định thắng lợi sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở nước ta.
Nhờ sự vận dụng đúng đắn quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất mà sau hơn 20 năm đổi mới nước
ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử, đã đưa lại cho nước
ta một sự thay đổi cơ bản và toàn diện, làm cho thế và lực, uy tín quốc tế của
nước ta tăng lên nhiều so với trước.

12



×