Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH và PHÁT TRIỂN tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH THỜI kỳ 1930 1945 vượt QUA THỬ THÁCH KIÊN TRÌ GIỮ VỮNG lập TRƯỜNG CÁCH MẠNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (213.9 KB, 20 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

----------oOo----------

QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
THỜI KỲ 1930-1945: VƯỢT QUA THỬ THÁCH, KIÊN TRÌ
GIỮ VỮNG LẬP TRƯỜNG CÁCH MẠNG

Giảng viên hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị Mai Phương

Hà Nội – 9/2018
1


2


DANH SÁCH ĐỀ MỤC VIẾT TẮT
BCH

Ban Chấp hành

3


CNXH

Chủ nghĩa Xã hội


ĐCSVN

Đảng Cộng sản Việt Nam

QTCS

Quốc tế Cộng sản

TW

Trung ương

4


THỜI KỲ 1930-1945:VƯỢT QUA THỬ THÁCH, KIÊN TRÌ
GIỮ VỮNG LẬP TRƯỜNG CÁCH MẠNG
CHƯƠNG I.VỤ ÁN NGUYỄN ÁI QUỐC Ở HỒNG KÔNG
1. Khái quát bối cảnh
- Kể từ khi thay mặt Hội những người Việt Nam yêu nước tại Pháp ký tên vào bản Yêu
sách của nhân dân An Nam gửi Hội nghị Vecxay - Pháp, cho đến khi sáng lập Đảng
Cộng sản Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã trở thành một nhân vật quan trọng trong kế
hoạch lùng bắt của thực dân Pháp. Vì vậy, hoạt động giữa vòng vây của nhiều kẻ thù,
kèm theo một án tử hình vắng mặt của toà Đại hình Vinh theo phán quyết số 115
(10/10/1929), cùng lệnh truy nã ráo riết của thực dân Pháp luôn là những khó khăn, là
những hiểm nguy cận kề đối với Nguyễn Ái Quốc.
-

Đặc biệt những năm 1930 chính quyền thực dân Anh - Pháp thẳng tay đàn áp, truy tìm
bắt bớ những người cộng sản yêu nước tại hầu khắp các nước Đông Nam Á, một số

nước châu Á và người An Nam.

-

Mùa xuân năm 1930, sau khi triệu tập và chủ trì thành công Hội nghị thành lập Đảng
Cộng sản Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc- Tống Văn Sơ tiếp tục ở lại Hồng Kông, hoạt
động cách mạng.

2. Quá trình Nguyễn Ái Quốc bị bắt
-

Tới nửa đầu năm 1930, Nguyễn Ái Quốc đã hoàn thành bước đầu một số công tác ở
các nước (Xiêm, Malaysia, Indonesia, Singapore…). Sau khi thoát khỏi cuộc vây bắt
ở Singapore, đầu tháng 5/ 1930, Nguyễn Ái Quốc trở lại Hồng Kông.

-

Trong thời gian ở Hồng Kông, giấy căn cước của Nguyễn Ái Quốc mang tên Trung
Quốc là Tống Văn Sơ. Địa chỉ thường trú là số nhà 186 Tam Kung. Nơi đây là cơ sở
bí mật, có mật hiệu an toàn cho các đồng chí đến liên lạc cảnh báo để không bị bắt.
Mật thám Pháp đã phối hợp với mật thám Anh tìm ra được địa chỉ này của Nguyễn Ái
Quốc ở Hồng Kông.

-

Ngày 30/4/1931, mật thám Pháp tại Sài Gòn bắt được một số người "tình nghi cộng
sản" trong đó có Nguyễn Thái, sau này được biết là "Thư ký Công hội Nam kỳ", Xứ
ủy viên. Khám trong người Thái, chúng bắt được thư của Nguyễn Ái Quốc viết ngày
24/4/1931.


5


-

Sáng sớm, ngày 6/6/1931. Một tốp cảnh sát ập vào xích tay Nguyễn Ái Quốc và lục
soát. Không tìm được chứng cứ gì nhưng Nguyễn Ái Quốc vẫn bị giam ở Sở cảnh sát
Hồng Kông suốt một tuần. Nguyễn Ái Quốc khai tên là Tống Văn Sơ, sinh tại Trung
Quốc. Ngày 12/6 cảnh sát đưa Nguyễn Ái Quốc chuyển về nhà tù Victoria và giam ở
đây suốt gần hai năm, từ tháng 6/1931 đến tháng 1/1933.

-

Sau khi Nguyễn Ái Quốc bị bắt ở Hồng Kông, các giới chức của Pháp ở Đông Dương
và các Bộ trưởng ở chính quốc tỏ thái độ chúc tụng, mừng rỡ; đồng thời vạch kế
hoạch vận động chính quyền Hồng Kông không để Nguyễn Ái Quốc tiếp tục hoạt
động và tuyệt đối tránh trả tự do cho Nguyễn Ái Quốc bằng mọi giá.

3. Luật sư tham gia bào chữa
- Hồ Tùng Mậu, qua Liên đoàn Quốc tế cứu tế đỏ đã đến gặp ông Francis Henry
Loseby – một luật sư dân chủ tiến bộ người Anh, đang hành nghề ở Hồng Kông nhờ
giúp đỡ.
-

Ngày 8/6, Luật sư Loseby quyết định đi tìm gặp Tống Văn Sơ ở trại giam. Việc bắt
lén người trái pháp luật đã bị bại lộ khi báo chí đồng loạt đưa tin sự kiện Nguyễn Ái
Quốc bị bắt. Và để hợp pháp hóa việc bắt giữ, Thống đốc Hồng Kông đã phải ra lệnh
bắt giam Người nhiều lần và Sở cảnh sát Hồng Kông buộc phải đồng ý để luật sư vào
gặp Tống Văn Sơ (24/6/1931).


-

Sau lần gặp, Luật sư biết được một số chi tiết quan trọng: Tống Văn Sơ mướn nhà 186
Tam Kung; khi bị bắt, trong người và trong nhà không có tài liệu gì; lúc bắt người,
cảnh sát không đọc lệnh, thực tế lúc này chưa có lệnh bắt của ủy viên công tố;…

4. Quá trình xét xử vụ án
- Luật sư đã tìm cách bào chữa và ngăn cản âm mưu của chính quyền Hồng Kông giao
nộp Nguyễn Ái Quốc cho chính quyền thực dân Pháp ở Đông Dương.
-

Tống Văn Sơ phải trải qua ba cuộc thẩm vấn của Thư ký Trung Hoa vụ Hồng Kông
và 9 phiên toà xét xử tại Hồng Kông (ngày 31/7/1931 là phiên thứ nhất và phiên cuối
cùng kết thúc vào ngày 12/9/1931).

-

Diễn biến 9 phiên toà xét xử Nguyễn Ái Quốc:

Ngày 31/7/1931
Phiên toà thứ nhất

- Chính quyền Hương Cảng đã không đưa ông Tống ra Tòa
và luận tội: “Tống Văn Sơ là tay sai của Liên Xô, phái viên
của Đệ tam Quốc tế, đến HongKong định phá hoại chính
quyền ở đây. Vì lẽ đó, sẽ bị trục xuất khỏi HongKong vào
ngày 18 tháng 8 do chiếc tàu thủy Angiê của Pháp chở về
Đông Dương”.
- Luật sư Loseby chỉ thị cho luật sư Jenkin phản đối và đòi
hỏi Tòa phải đưa Tống Văn Sơ ra trước Tòa.

6


Ngày 14/8/1931
Phiên toà thứ hai

- Luật sư yêu cầu Tòa đề nghị công tố bảo đảm không thực
hiện lệnh trục xuất chừng nào tính pháp lý của lệnh đó
chưa được khẳng định.
- Lời khai có tuyên thệ của Tống Văn Sơ tố cáo nội dung
thẩm vấn của ban Thư ký Trung Hoa vụ do Công tố
Alabaxtơ đọc không đúng luật, trong đó nêu rõ ý kiến của
nguyên đơn là nếu bị “trục xuất đến Đông Dương, tôi
(Tống Văn Sơ) sẽ bị giết, dù có xét xử hay không xét xử”.

Ngày 15/8/1931
Phiên tòa thứ ba

- Tranh cãi về trục xuất, và phản đối việc giao nộp Tống
Văn Sơ cho người Pháp. Trong đó Người khẳng định
không muốn bị trục xuất, muốn được tự do, muốn sang
Anh quốc,…

Ngày 20/8/1931
Phiên tòa thứ tư

- Tòa tuyên bố lệnh trục xuất thứ nhất là sai do nội dung
thẩm vấn sai.
- Công tố tuyên bố lệnh trục xuất thứ hai vừa được ban
hành vào chiều ngày thứ 7 (15-8).

- Luật sư cho rằng việc ban hành một lệnh mới giữa hai
phiên tòa là sai trái.

Ngày 24/8/1931
Phiên tòa thứ năm

- Luật sư đề nghị Tòa áp dụng Luật Bảo thân cho Tống Văn
Sơ.
- Luật sư cũng khẳng định: cả hai lệnh trục xuất (lệnh trục
xuất và lệnh buộc phải lên một tàu biển) cũng đều bất hợp
pháp.

Ngày 25/8/1931
Phiên tòa thứ sáu

- Luật sư yêu cầu Công tố tuyên bố tài liệu đánh máy câu
hỏi và câu trả lời của Tống Văn Sơ do Trung Hoa Thư ký
vụ đưa ra, trong đó nêu Tống Văn Sơ cung khai bí danh thứ
ba Nguyễn Ái Quốc “là tài liệu giả” để ép cung.
- Trước tòa, công tố viên đã đọc lời khai của Tống Văn Sơ
trong các phiên thẩm vấn, nhưng Người đã không công
nhận những điều xuyên tạc trong biên bản, đồng thời, sự
thông minh, nhất quán và thận trọng trong từng câu trả lời,
đã khiến Tòa không thể khép Người vào bất cứ tội danh
nào để đưa về Đông Dương.

Ngày 2/9/1931
Phiên tòa thứ bảy

- Sự thừa nhận Tống Văn Sơ bị bắt, bị giam giữ bất hợp

pháp cho thấy chính quyền Hoàng gia có hai đuối lý theo
điều khoản trong sắc lệnh của Hồng Kông
- Vấn đề đòi trả tự do cho Tống Văn Sơ không được giải
quyết dứt điểm để “không làm mất lòng Pháp”, chính
quyền Luân Đôn vẫn chỉ thị Thống đốc Hồng Kông ra lệnh
trục xuất Nguyễn Ái Quốc về Đông Dương.
7


Ngày 11/9/1931
Phiên tòa thứ tám

- Mặc dù đã thừa nhận những điều sai trái trong quá trình
bắt Người, song Tòa vẫn quyết định thực hiện lệnh trục
xuất Nguyễn Ái Quốc.
- Luật sư kịch liệt phản đối và khẳng định sẽ kháng án lên
Hội đồng Cơ mật.

Ngày 12/9/1931
Phiên tòa thứ chín

- Tòa đã cho phép kháng án lên Hội đồng Cơ mật và chỉ thị
rằng: hồ sơ phải được chuẩn bị và gửi đi trong vòng ba
tháng.

-

Sau khi Nguyễn Ái Quốc đã nộp kháng cáo đến Hội đồng Cơ mật, có luật sư Denis
Noel Pritt (đại diện cho Tống Văn Sơ) và luật sư Richard Stafford Cripps (đại diện
cho Bộ thuộc địa Anh). Hai bên luật sư đã hòa giải và cùng đi đến thỏa thuận như

sau: Tống Văn Sơ rút đơn kháng án với cam kết của chính quyền Hồng Kông: 1. Bỏ
việc chỉ định “tàu biển” trong lệnh trục xuất; 2. Trong bất cứ trường hợp nào cũng
không giao người kháng án cho Pháp hoặc đến một lãnh thổ do Pháp bảo hộ hoặc
xuống một tàu biển của Pháp; 3. Chính quyền Hồng Kông sẽ hết sức cố gắng để bảo
đảm rằng người kháng án sẽ đến được nơi họ muốn đến; 4. Chi 250 bảng Anh cho
phí tổn của người kháng án.

-

Ngày 21 -7-1932, Hội đồng Cơ mật đã chấp thuận cho Tống Văn Sơ rút đơn kháng
án và chỉ thị cho Thống đốc Hồng Kông và các bên liên quan phải thực hiện nghiêm
chỉnh.

 Như vậy là theo quyết định của Hội đồng Cơ mật, Tống Văn Sơ (Nguyễn Ái Quốc)
phải rời khỏi Hồng Kông nhưng được lựa chọn nơi muốn đến. Ý nghĩa của quyết
định này là: Thứ nhất, tuyệt đối không có gì chứng tỏ rằng ông Nguyễn là tay sai của
Liên Xô. Thứ hai, không có chứng cứ ông Nguyễn muốn phá hoại Hồng Kông.Thứ
ba, cộng sản hay quốc gia điều đó không phải là một tội phạm trước pháp luật Anh.
5. Kết thúc vụ án: Nguyễn Ái Quốc về lại Liên Xô
- Nhờ sự tận tình giúp đỡ của luật sư, Tòa án đã không đủ chứng cứ kết tội và đã phải
trả tự do cho bị cáo – dù việc đó họ không bao giờ muốn mà vẫn phải tuân theo pháp
luật. Trong cuộc hành trình Nguyễn Ái Quốc rời khỏi Hồng Kông, vợ chồng luật sư
Loseby tiếp tục giúp đỡ Nguyễn Ái Quốc vượt qua được nhiều khó khăn “hậu vụ án”
mà cảnh sát, mật thám Anh, Pháp vẫn còn cố đeo bám gây trở ngại cho ông.
-

Ngày 28/12/1932, Tống Văn Sơ định đi đến nước Anh, song khi đi đến Singapore,
Tống Văn Sơ lại bị chính quyền sở tại buộc quay trở lại Hồng Kông và ngày
19/1/1933, Người lại bị bắt giam.


8


-

Ngay khi ấy, Người đã kịp thời viết thư báo tin cho luật sư Loseby và nhờ ông giúp
đỡ. Luật sư đã đề nghị Thống đốc Hồng Kông can thiệp, và Thống đốc đã buộc phải
ra lệnh thả Tống Văn Sơ và hạn trong ba ngày Tống Văn Sơ phải rời khỏi Hồng Kông.

-

Cuối cùng ngày 22-1-1933, Nguyễn Ái Quốc đã cải trang thành một thương gia Trung
Quốc giàu có, và với một viên thư ký tháp tùng (thư ký của luật sư, tên Lung Ting
Chang), Người đi xuồng ra khơi, rồi lên tàu Anhui đi Hạ Môn bí mật rời Hồng Kông.
Tàu cập bến Hạ Môn vào ngày 25-1-1933, vừa đúng 30 Tết âm lịch.

-

Ở Hạ Môn một thời gian, Người lên Thượng Hải, và sau khi nhờ bà Tống Khánh Linh
giúp đỡ, Nguyễn Ái Quốc bắt liên lạc được với Quốc tế Cộng sản và trở về Liên Xô
an toàn sau đó.

6. Tình bạn của Hồ Chí Minh và Loseby
- Sau khi rời khỏi Hồng Kông, Nguyễn Ái Quốc đã hai lần viết thư cho luật sư Loseby,
nhưng vì sợ nhà cầm quyền tìm ra địa chỉ của Người nên luật sư đã không trả lời.
-

Là lãnh tụ, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn bộn bề công việc, song dù bận, Người vẫn
không quên gửi thư, thiếp và quà đến gia đình luật sư Loseby mỗi dịp Nôen, khi
Xuân về, Tết đến. Năm 1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư và ảnh của Người đến

gia đình luật sư và gia đình luật sư cũng đã gửi thư và ảnh cho Chủ tịch Hồ Chí
Minh.

-

Mùa xuân năm 1960, nhận lời mời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, hai vợ chồng luật sư
cùng người con gái đã sang ăn Tết cổ truyền với nhân dân Việt Nam (26-1 đến 3-21960).

-

Trở về Hồng Kông, luật sư đã viết thư cho Chủ tịch Hồ Chí Minh (19-2-1960), bày tỏ
lòng cảm ơn Người và sự hiếu khách của nhân dân Việt Nam đối với gia đình ông
trong những ngày thăm Việt Nam.

-

7 năm sau đó, luật sư Loseby qua đời, không với tư cách Chủ tịch nước, không ở
cương vị Quốc gia, giữa nồng hậu thân tình gia đình, vòng hoa gửi Kính viếng Luật
sư của vị Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa giản dị với dòng chữ: "Hồ Chí
Minh kính viếng".

CHƯƠNG II.
QTCS HIỂU SAI QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH

9


1. Khái quát bối cảnh
- Trong cương lĩnh và chương trình nghị sự, QTCS đã nêu vấn đề Cách mạng thuộc địa
và coi việc giúp đỡ Cách mạng thuộc địa là 1 trọng tâm trong sự nghiệp hoạt động của

mình. Nhưng trong thực tế, QTCS chưa coi trọng đúng mức loại hình Cách mạng này.
-

Là 1 tổ chức chính trị cao nhất của phong trào Cộng sản và công nhân quốc tế, nhưng
do áp dụng cơ chế tập trung quan liêu trong khi việc nắm thông tin, hiểu biết thực tiễn
còn bất cập…, nên QTCS không tránh khỏi có lúc cứng nhắc, chưa sát thực tế, đã áp
đặt, giáo điều.

-

Vào cuối những năm 20, đầu những năm 30 của thế kỷ XX, do không sát tình hình
Đông Dương, lại bị chi phối bởi quan điểm “tả” khuynh của Đại hội VI (1928) QTCS
đã chỉ trích đường lối Hồ Chí Minh vạch ra trong Hội nghị 03/02/1930 (Cải lương,
dân tộc chủ nghĩa dẫn tới hẹp hòi, không quan tâm đấu tranh giai cấp, không quan tâm
Cách mạng thế giới, không thành lập liên bang Đông Dương).

-

Vì thế Hội nghị Trung Ương diễn ra từ ngày 14 đến ngày 31/10/1930, ra Nghị quyết,
thủ tiêu Chánh cương, Sách lược của Đảng, Văn kiện 03/02/1930, đổi tên Đảng thành
Đảng Cộng sản Đông Dương.

-

Trong hoàn cảnh đó, Hồ Chí Minh tiếp tục hoạt động ở QTCS, nghiên cứu chủ nghĩa
Mác - Lênin và chỉ đạo Cách mạng Việt Nam, kiên định bảo vệ quyết định của mình.

2. Nguyên nhân
Bên cạnh những điểm tương đồng thì giữa Hồ Chí Minh với QTCS vẫn có nhiều điểm
khác biệt trong suốt thời kỳ tồn tại của QTCS (1919 – 1943) và cũng có những khác biệt

trong một kỳ đại hội của Quốc tế này – Đại hội VI QTCS (1928 – 1935). Những điểm khác
biệt này tập trung ở những sáng tạo của Hồ Chí Minh khi vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin
và Nghị quyết của QTCS vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Đây là nguyên nhân chính dẫn
đến việc QTCS hiểu sai quan điểm của Bác:
-

Trước hết, khác biệt lâu dài nhất xoay quanh nhận thức vấn đề: Cách mạng vô sản ở
chính quốc thành công trước hay Cách mạng giải phóng thuộc địa thành công trước và
hai cuộc Cách mạng đó phụ thuộc vào nhau như thế nào?Theo tư tưởng của Lênin,
QTCS cho rằng thắng lợi của Cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa,
trong đó có Cách mạng ở Đông Dương và Việt Nam, phụ thuộc trực tiếp vào thắng lợi
của Cách mạng vô sản ở chính quốc, rằng chỉ có Cách mạng vô sản ở chính quốc
thắng lợi rồi mới có điều kiện trực tiếp giúp đỡ Cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc
địa đi tới thành công. Khác với những quan điểm đó, Hồ Chí Minh cho rằng mối
quan hệ giữa Cách mạng thuộc địa và chính quốc là mối quan hệ bình đẳng, cùng hỗ
trợ cho nhau để phát triển chứ không phải quan hệ chính phụ.

10


-

Tiếp theo là những khác biệt giữa Hồ Chí Minh với những nghị quyết tại Đại hội
QTCS lần thứ VI (1928) về đường lối Cách mạng Việt Nam, kéo dài từ đó cho đến
Đại hội lần thứ VII QTCS (1935).

Các điểm khác biệt

Theo QTCS


Thực hiện tuần tự
1. Đánh đổ địa chủ phong
Tuần tự của con đường kiến
Cách mạng Đông Dương
2. Đánh đổ đế quốc thực
dân
3. Xây dựng CNXH

Theo Hồ Chí Minh
Mô hình nửa thể trái học
thuyết Mác- Lênin:
Tiến hành Cách mạng giải
phóng dân tộc, từng bước
đấu tranh chống phong kiến
và tư sản tay sai, liền sau
đó xây dựng CNXH.

Đặt đấu tranh giải phóng
Đấu tranh giai cấp trước rồi
Giải quyết mối quan hệ
dân tộc lên trước hết, và
mới đấu tranh giải phóng
giữa dân tộc với giai cấp
từng bước tiến hành đấu
dân tộc.
tranh giai cấp.
Đặt vấn đề dân tộc lên
Đặt vấn đề quốc tế lên
Giải quyết vấn đề dân tộc
trước hết, do đó Người đã

hàng đầu, thứ đến là vấn đề
với quốc tế
quyết định thành lập
dân tộc
ĐCSVN.

Động lực Cách mạng chỉ
gồm công- nông, không
Quan điểm về động lực liên minh với tư sản dân
Cách mạng
tộc và phú nông, không
xem trọng tiểu tư sản thành
thị, tầng lớp tiểu thương.

Động lực của Cách mạng
là khối đoàn kết toàn dân
bao gồm giai cấp công
nhân, nông dân, tầng lớp
tiểu tư sản trí thức, giai cấp
tư sản dân tộc và các cá
nhân yêu nước thuộc tầng
lớp địa chủ vừa và nhỏ trên
nền tảng của công nông
liên minh.

 Những sáng tạo đó của Người đã không được QTCS coi là 1 đóng góp vào kho tàng
lý luận Mác- Lênin, trái lại, bị coi là biểu hiện của sự xa rời chủ nghĩa Mác- Lênin, xa
rời lý tưởng Cộng sản…

3. Tính đúng đắn trong quan điểm của Hồ Chí Minh

- Cơ sở lý luận

11


Cương lĩnh đã dựa trên nền tảng lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin, một hệ thống lí luận
tiến bộ đúng đắn và khoa học :
-

Khẳng định Cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn: Cách mạng tư sản dân
quyền và Cách mạng XHCN. Hai giai đoạn Cách mạng này kế tiếp nhau, không có
bức tường nào ngăn cách.

-

Giải quyết đúng hai mâu thuẫn cơ bản của xã hội Việt Nam và vận dụng sáng tạo chủ
nghĩa Mác- Lênin vào hoàn cảnh cụ thể ở Việt Nam. Mâu thuẫn chủ yếu của xã hội
Việt Nam lúc đó là: mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp xâm
lược; mâu thuẫn giữa nông dân với địa chủ phong kiến. Cách mạng Việt Nam muốn đi
đến thắng lợi phải giải quyết thành công hai mâu thuẫn đó.

-

Lực lượng Cách mạng
Giai cấp tư sản ở các nước, trong thực tế đã cấu kết với nhau để đàn áp phong trào
đấu tranh của giai cấp công nhân ở chính quốc và phong trào đấu tranh giải phóng dân
tộc ở các nước thuộc địa. Cho nên cách mạng ở các nước thuộc địa muốn thắng lợi thì
nhân dân các nước thuộc địa phải đoàn kết với nhau và đoàn kết với giai cấp vô sản
trên thế giới.


-

Ngoài công nhân và nông dân là hai lực lượng chính của Cách mạng, phải tranh thủ
các lực lượng khác: tư sản dân tộc, tiểu tư sản, trung tiểu địa chủ các loại. Điều đó
hoàn toàn phù hợp với thực tế của lịch sử Việt Nam. Vì các giai cấp khác ngoài công
nhân và nông dân, có một số bộ phận khác cũng có tinh thần yêu nước, như: tư sản
dân tộc, tiểu tư sản, địa chủ yêu nước,…Vì thế, cần phải tranh thủ kéo họ về phe Cách
mạng. Đó cũng là vấn đề thể hiện sự ưu tiên hơn cho nhiệm vụ giải phóng dân tộc của
Cương lĩnh, điều hoàn toàn hợp lí và đúng đắn.

4. Diễn biến cụ thể
Ngày 14 đến
31/10/1930
tại Hội nghị I BCH TW

- Đổi tên Đảng thành Đảng Cộng sản Đông Dương
- Thủ tiêu Chánh cương, Sách lược của Đảng, phải dựa
vào nghị quyết của QTCS

Tháng 3/1935
tại Đại hội I ĐCS
Đông Dương

- Hồ Chí Minh chỉ được bầu làm Uỷ viên dự khuyết
Trung ương Đảng.

12


Tháng 7/1935

Tại Đại hội VII của
QTCS

- QTCS đã tự kiểm điểm, phê bình về khuynh hướng “tả”
dẫn tới buông lơi ngọn cờ dân tộc, dân chủ để cho các
Đảng TTS của các nước nắm lấy chống phá Cách mạng.
- Vì thế Đại hội chỉ đạo chuyển hướng chiến lược Cách
mạng thế giới, tập trung thành lập mặt trận dân chủ
chống phát xít, chống chiến tranh, bảo vệ hòa bình.
- Đại hội cũng khẳng định quan điểm của Nguyễn Ái
Quốc về cách mạng Việt Nam là hoàn toàn đứng đắn.
- Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh bị cấm không thể tham gia
các hoạt động. QTCS cử Hồ Chí Minh học ở Trường
Quốc tế Lênin. Sau khi tốt nghiệp, Hồ Chí Minh muốn
trở về Việt Nam, nhưng vì nhiều lý do, Người chưa được
chấp thuận.

Từ năm 1936- 1939

- Nguyễn Ái Quốc vẫn luôn theo dõi tình hình trong
nước, kịp thời chỉ đạo Cách mạng Việt Nam tiếp tục tiến
lên. Người viết tám điểm xác định đường lối, chủ trương
cho Cách mạng Đông Dương và chủ động xin QTCS cho
về nước hoạt động.
- Sau bức thư ngày 6-6-1938, Người được chấp thuận và
rời Matxcova về Trung Quốc vào tháng 10/1938.
- Cũng trong thời gian này, Hội nghị Trung ương Đảng
trong 3 ngày 6, 7, 8 tháng 11-1939 tại Bà Điểm (Gia
Định) do Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ chủ trì, đã trở lại
với những quan điểm đúng đắn của Hồ Chí Minh về

Cách mạng Việt Nam, Đảng ta chuyển hướng đấu tranh
và thành lập Mặt trận dân chủ Đông Dương.

Từ ngày 10- 19/5/1941
tại Hội nghị TW lần
VIII

- Dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái Quốc, Ban Chấp hành
Trung Ương Đảng Cộng Sản Đông Dương đã hoàn chỉnh
việc chuyển hướng chiến lược của Cách mạng Việt Nam.

Tháng 8/ 1945

- Cách mạng Tháng Tám thắng lợi

Ngày 2/9/1945

- Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh
nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa.

5. Kết quả
- Thực tiễn đã chứng minh quan điểm của Người là đúng.
13


-

-

Hồ Chí Minh đã hóa giải hiểu lầm đối với QTCS.

Hồ Chí Minh kiên trì bảo vệ qua điểm của mình về vấn đề dân tộc, giai cấp, Cách
mạng giải phóng dân tộc thuộc địa và Cách mạng vô sản, chống lại những biểu hiện
“tả” khuynh và biệt phái trong Đảng là đúng.
Cách mạng trở lại với với Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt của Nguyễn Ái
Quốc. Đó cũng là cơ sở để Đảng ta chuyển hướng đấu tranh trong thời kỳ 1936-1939
thành lập Mặt trận nhân dân phản đế Đông Dương (từ tháng 3-1938 đổi thành Mặt
trận dân chủ Đông Dương) và từ năm 1939 đặt vấn đề giải phóng dân tộc lên hàng
đầu.

14


CHƯƠNG III.

KHÓ KHĂN CỦA NGƯỜI SAU KHI VỀ NƯỚC NHỮNG
NĂM 1941-1945

Sau hơn 30 năm bôn ba nước ngoài tìm đường cứu nước, ngày 28/1/1941, Nguyễn Ái
Quốc bước qua mốc biên giới 108 (mốc cũ) Việt Nam - Trung Quốc, thuộc xã Trường Hà
(Hà Quảng), về nước trực tiếp chỉ đạo phong trào cách mạng Việt Nam. Nhận thấy được vị
trí đắc địa, Người chọn Cao Bằng làm cǎn cứ địa xây dựng tổ chức, phát động phong trào
cách mạng. Những ngày tháng đầu tiên ở Việt Nam, Người sống và làm việc tại hang Cốc
Bó, thôn Pác Bó, Trường Hà, Hà Quảng, Cao Bằng. Cuối tháng 4/1941, sau một thời gian
chuẩn bị, một cuộc hội nghị cán bộ tỉnh Cao Bằng được triệu tập. Vùng Khuổi Nậm Pác
Bó là nơi diễn ra Hội nghị lần thứ VIII của Trung ương, cũng là nơi ra báo Việt Nam độc
lập, mở các lớp huấn luyện xây dựng lực lượng cách mạng để tổng kết kinh nghiệm, tổ
chức thí điểm các hội quần chúng như: Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc nhằm tiến
tới thành lập Mặt trận Việt Minh trên cả nước.
Từ ngày 10 đến 19/5/1941, Người chủ trì Hội nghị lần thứ VIII của Trung ương Đảng
Cộng sản Đông Dương. Nghị quyết Hội nghị đã đề cập và làm rõ nhiều vấn đề quan trọng

của cách mạng Việt Nam, trong bối cảnh Chiến tranh thế giới thứ hai ngày càng lan rộng.
Hội nghị khẳng định nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của cách mạng là giải phóng dân tộc,
tiếp tục thực hiện chủ trương gác khẩu hiệu ruộng đất, nêu khẩu hiệu giảm tô, giảm tức,
chia lại ruộng đất, tiến tới thực hiện người cày có ruộng. "Trong lúc này quyền lợi của bộ
phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc
này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do
cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa
trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”. Hội nghị
còn chỉ rõ sau khi đánh đuổi đế quốc Pháp - Nhật, sẽ thành lập Chính phủ nhân dân của
nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Hội nghị quyết định thay tên các hội phản đế thành Hội
Cứu quốc, thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh) thay cho
Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương và giúp đỡ việc lập mặt trận các các
nước Lào, Campuchia.
Sau 5 tháng Mặt trận hoạt động, Tuyên ngôn, Chương trình và Điều lệ Việt Minh được
chính thức ban hành. Dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Ái Quốc và của Đảng, ta đã đẩy mạnh
công cuộc chuẩn bị tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền, trong đó xây dựng lực lượng
chính trị là một trong những nhiệm vụ cấp bách trong lúc này. Cao Bằng là nơi thí điểm
cuộc vận động xây dựng các Hội cứu quốc trong Mặt trận Việt Minh. Đến năm 1942, khắp
các châu ở Cao Bằng đều có Hội cứu quốc, trong đó, có 3 châu “hoàn toàn”. Tiếp đó, Uỷ
ban Việt Minh tỉnh Cao Bằng và Uỷ ban Việt Minh lâm thời liên tỉnh Cao - Bắc - Lạng
được thành lập. Ở nhiều tỉnh miền Bắc, một số tỉnh miền Trung, ở Hà Nội, Hải Phòng, hầu
hết các “Hội phản đế” (thời kỳ Mặt trận phản đế Đông Dương từ tháng 11/1939 - 5/1941)
chuyển thành các “Hội cứu quốc” (thời kỳ Mặt trận Việt Minh tháng 5/1941), đồng thời
nhiều Hội cứu quốc mới được thành lập. Cùng với việc xây dựng lực lượng chính trị, công
15


tác xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng đặc biệt coi trọng, những đội du kích ở khu
căn cứ hoạt động ở căn cứ địa Bắc Sơn - Võ Nhai lớn mạnh lên và thống nhất lại thành
Trung đội Cứu quốc quân I ( ngày 14/2/1941). Cứu quốc quân phát động chiến tranh du

kích trong 8 tháng (7/1941 - 2/1942) để đối phó với sự vây quét của địch, sau đó phân tán
thành nhiều bộ phận để chấn chỉnh lực lượng, gây dựng cơ sở chính trị trong quần chúng
tại các tỉnh: Thái Nguyên, Tuyên Quang, Lạng Sơn. Ngày 19/5/1941, Trung đội Cứu quốc
quân II ra đời. Trong quá trình đó, Trung đội Cứu quốc quân III ra đời (5/2/1944). Ở căn
cứ địa Cao Bằng, những đội tự vệ vũ trang, đội du kích được thành lập. Năm 1943, Ban
Việt Minh liên tỉnh Cao - Bắc - Lạng lập ra 19 ban “xung phong Nam tiến” đến liên lạc
với căn cứ địa Bắc Sơn - Võ Nhai và phát triển lực lượng xuống các tỉnh miền xuôi. Ngày
7/5/1944, Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị cho các cấp “Sửa soạn khởi nghĩa” và Trung ương
Đảng kêu gọi nhân dân “sắm vũ khí đuổi thù chung”.
Ngày 13/8/1942, Nguyễn Ái Quốc đổi tên thành Hồ Chí Minh và lên đường đi Trung
Quốc để liên lạc với các lực lượng cách mạng của người Việt Nam và lực lượng Đồng
minh. Ngày 27/8/1942, Người bị bắt giam, hơn một năm trời, bị giải qua hơn 30 nhà lao,
phải trải qua những ngày tháng bị giam cầm thiếu thốn, khổ cực, bệnh tật. Đến tháng
9/1943, Người mới được trả tự do.
Tháng 3 nǎm 1944, Người tham dự Hội nghị các lực lượng cách mạng Việt Nam ở Liễu
Châu (Trung Quốc). Tại Hội nghị này Người đã đọc báo cáo về hoạt động của Mặt trận
Việt Minh và Đảng Cộng sản, nêu rõ tiền đồ của sự nghiệp giải phóng dân tộc ở Việt Nam,
mối quan hệ mật thiết và lâu đời giữa hai nước Việt Nam và Trung Quốc. Cuối tháng
9/1944, Người trở về Pác Bó (Cao Bằng). Trước tình hình thế giới, cùng những điều kiện
thuận lợi và khó khăn của cách mạng Việt Nam, sau khi phân tích tình hình và cân nhắc
những điều kiện, chuẩn bị cho ngày khởi nghĩa, Hồ Chí Minh nhấn mạnh phương châm
kết hợp hai hình thức đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang, đẩy mạnh phong trào cách
mạng, tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền. Nhờ có sự kế thừa, phát triển di sản quân sự
truyền thống của cha ông ta trong lịch sử cùng với sự tiếp thu và vận dụng sáng tạo tư
tưởng lý luận quân sự hiện đại của học thuyết Mác - Lênin trong điều kiện cụ thể của Việt
Nam, người quyết định thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân (nay là
Quân đội nhân dân Việt Nam). Sau một thời gian ngắn chuẩn bị, ngày 22/12/1944, theo chỉ
thị của lãnh tụ Hồ Chí Minh, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân tiền thân của
Quân đội nhân dân Việt Nam ngày nay được thành lập tại khu rừng Sam Cao (còn gọi là
Trần Hưng Đạo), thuộc huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng, gồm 34 đội viên do đồng chí

Võ Nguyên Giáp chỉ huy. Sau khi ra đời, Đội đã đánh thắng liên tiếp hai trận ở Phai Khắt
và Nà Ngần (Cao Bằng) từ đó giúp cho căn cứ Cao - Bắc - Lạng ngày càng được củng cố
và mở rộng hơn.
Để có thể kịp thời chỉ đạo phong trào cách mạng trong cả nước, đầu tháng 5/1945, Hồ
Chí Minh quyết định chuyển về hoạt động tại Tuyên Quang, nơi phong trào cách mạng
phát triển, giao thông giữa miền xuôi và miền ngược đều thuận tiện. Đến giữa tháng
16


8/1945, cao trào kháng Nhật cứu nước, khởi nghĩa từng phần đã cuồn cuộn dâng lên từ
Bắc đến Nam. Trong khi đó, quân Đồng minh đã đánh bại quân đội phátxít Nhật. Thời cơ
tổng khởi nghĩa chín muồi, đã đến lúc nhân dân ta vùng dậy giành lại quyền độc lập của
mình. Trước cơ hội có một không hai ấy, tại Tân Trào, thủ đô lâm thời của nước Việt Nam
mới, Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng họp từ ngày 13 đến 15/8/1945, quyết định
Đảng phải phát động và lãnh đạo toàn dân Tổng khởi nghĩa, giành chính quyền. Ngày
16/8/1945, Hồ Chí Minh dự Đại hội quốc dân tại Tân Trào. Đại hội đã nhiệt liệt tán thành
chủ trương tổng khởi nghĩa của Đảng và Tổng bộ Việt Minh. Đại hội đã bầu ra Ủy ban giải
phóng dân tộc Việt Nam (tức Chính phủ lâm thời) do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.
Thực hiện quyết định của Đảng và của Quốc dân Đại hội Tân Trào, chớp đúng thời cơ,
toàn dân ta từ Bắc đến Nam, từ miền núi đến đồng bằng, từ nông thôn đến thành thị đã
đứng lên khởi nghĩa giành lấy chính quyền từ tay phátxít Nhật. Sức mạnh của nhân dân cả
nước dưới sự lãnh đạo của Đảng đã bùng lên thành bão táp cách mạng, quyết giành lại độc
lập, tự do. Ngày 19/8, Tổng khởi nghĩa thành công ở Hà Nội, ngày 23/8 ở Huế, và ngày
25/8 ở Sài Gòn. Trong một thời gian ngắn, cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong
cả nước đã thành công, làn sóng cách mạng và sức mạnh bạo lực cách mạng của quần
chúng đã làm tê liệt mọi sự kháng cự của các thế lực thù địch, xoá bỏ bộ máy chính quyền
của giai cấp thống trị, chính quyền cách mạng đã về tay nhân dân.
Ngày 02/9/1945, trong cuộc mít tinh tại vườn hoa Ba Đình, Hà Nội, trước hàng chục
vạn đồng bào Thủ đô, trên diễn đàn cao và trang nghiêm, Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên
ngôn Độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Cuộc Tổng khởi nghĩa cách

mạng Tháng Tám 1945 thành công đã đưa nước ta từ một nước thuộc địa trở thành một
nước độc lập dưới chế độ dân chủ cộng hoà, đưa dân ta từ thân phận nô lệ trở thành người
dân tự do làm chủ nước nhà; mở ra một kỷ nguyên mới trong sự phát triển của lịch sử dân
tộc: kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh đã đem ánh sáng chủ
nghĩa Mác - Lênin soi đường cho phong trào yêu nước, chủ nghĩa yêu nước truyền thống
Việt Nam, làm cho chủ nghĩa yêu nước vươn lên tầm thời đại, trở thành chủ nghĩa yêu
nước Hồ Chí Minh, mà sau này biểu tượng sáng chói trong hai cuộc kháng chiến lừng lẫy
của dân tộc chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, trong công cuộc tái thiết và
phát triển đất nước theo con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Với việc tìm ra con đường cứu nước, phát triển của dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh đã
đóng góp to lớn, thiết thực chuẩn bị cho việc mở ra một giai đoạn phát triển mới của
phong trào cách mạng vô sản nói chung, phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc
địa và phụ thuộc trên thế giới và châu Á nói riêng.

17


KẾT LUẬN
Đây là thời kỳ thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh về cả phương diện lý luận và
phương diện thực tiễn. Khẳng định quan điểm Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt
Nam đúng đắn. Thời kỳ này Hồ Chí Minh và Quốc tế Cộng sản mâu thuẫn trong nhận thức
về liên minh lực lượng cách mạng, Hồ Chí Minh đã giữ vững quan điểm cách mạng của
mình, vượt qua khuynh hướng “tả” của Quốc tế Cộng sản, lãnh đạo cách mạng Việt Nam
thắng lợi. Điều này phản ánh quy luật của cách mạng Việt Nam, giá trị và sức sống của tư
tưởng Hồ Chí Minh

18


Tài liệu tham khảo

-

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập
Hồ Chí Minh tiểu sử.- H.: Chính trị quốc gia, 2010
Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh- NXB Chính trị Quốc gia- Sự thật 2018
Hồ Chí Minh toàn tập: T.3: 1930-1945.- H.: Chính trị quốc gia, 2009
Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử: T.2: 1930-1945.- H.: Chính trị quốc gia, 2006
“Đề cương Tuyên truyền 100 năm Ngày Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước ...” của
Ban Tuyên Giáo Trung ương
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh (Giai Đoạn 1941-1945)
/> />%E1%BB%99ng-s%E1%BA%A3n-va-nguy%E1%BB%85n-ai-qu%E1%BB%91c/
/>%93-chi-minh-b%E1%BB%8B-hi%E1%BB%83u-l%E1%BA%A7m/
/> /> /> />articleid=231&sitepageid=549#sthash.qYvs1OEj.dpbs

19


20



×