Tải bản đầy đủ (.doc) (88 trang)

Diện mạo và đặc điểm du ký biển đảo nam bộ nửa đầu thế kỷ XX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (375.42 KB, 88 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

KIỀU NGỌC DUNG

DIỆN MẠO VÀ ĐẶC ĐIỂM DU KÝ BIỂN ĐẢO

NAM BỘ NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX

Chuyên ngành : Văn học Việt Nam
Mã số: 8220121

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. Nguyễn Hữu Sơn

Hà Nội, 2019


LỜI CAM ĐOAN

Đề tài luận văn “Diện mạo và đặc điểm du ký biển đảo Nam Bộ nửa đầu
thế kỷ XX” là kết quả nghiên cứu độc lập của tôi. Các thông tin có nguồn gốc
rõ ràng, tuân thủ đúng nguyên tắc trích dẫn tài liệu.
Nghiên cứu hoàn toàn trung thực và chưa hề được công bố ở công trình
đề tài nào.
Tác giả luận văn

Kiều Ngọc Dung



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. THỂ LOẠI DU KÝ VÀ CƠ SỞ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN......10
CỦA DU KÝ BIỂN ĐẢO NAM BỘ NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX.............................. 10
1.1. Diện mạo của du ký.......................................................................................... 10
1.2. Sự hình thành và phát triển của du ký về biển đảo Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX . 19

CHƯƠNG 2. ĐẶC ĐIỂM NỘI DUNG CỦA DU KÝ BIỂN ĐẢO NAM BỘ NỬA
ĐẦU THẾ KỶ XX.................................................................................................. 31
2.1. Biển đảo Nam Bộ với tư cách là một đối tượng của du ký nửa đầu thế kỷ XX 31
2.2. Thiên nhiên vùng biển đảo Nam Bộ................................................................. 33
2.3. Lịch sử, văn hoá và hiện thực đời sống vùng biển đảo Nam Bộ.......................38
CHƯƠNG 3. ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT CỦA DU KÝ BIỂN ĐẢO NAM BỘ
NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX........................................................................................ 53
3.1. Điểm nhìn trần thuật......................................................................................... 53
3.2.Thời gian và không gian nghệ thuật.................................................................. 59
3.3. Ngôn ngữ.......................................................................................................... 71
KẾT LUẬN............................................................................................................. 76
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................................... 80


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong những năm đầu thế kỷ XX nền văn học Việt Nam chuyển mình theo
hướng hiện đại hoá. Cùng với sự ra đời của các trào lưu văn học mới, du ký hiện
diện góp phần làm nên diện mạo và thành tựu văn học thời kỳ này.Tuy nhiên dựa
vào số lượng hạn chế các công trình chọn du ký làm đối tượng nghiên cứu có thể
thấy du ký chưa được quan tâm nhiều.Tìm hiểu về du ký đặc biệt là du ký đầu thế
kỷ XX nhằm xác định lại chỗ đứng của thể loại này trong tiến trình văn học đồng

thời phác hoạ chân thực chặng đường đổi mới của văn học Việt Nam.
Du ký nửa đầu thế kỷ XX có một đề tài rất mới mẻ đó là đề tài biển đảo.Viết
về đề tài này, du ký tạo nên một vùng văn học và được tiếp nối đến tận bây giờ. Đặc
biệt, những trang du ký viết trong chuyến “chu du” đến vùng biển đảo Nam Bộ như
những bức tranh sinh động, nhiều màu sắc về địa lý, văn hoá, con người vùng biển
đảo Nam Bộ Việt Nam. Bên cạnh đó, hội nhập và giao lưu kinh tế đã tạo nên những
thách thức cho ngành du lịch Việt Nam. Mỗi trang du ký về biển đảo Nam Bộ luôn
là một sự sáng tạo có ý nghĩa thiết thực giúp độc giả hiểu sâu sắc về giá trị thẩm mĩ,
văn hoá của các danh lam, thắng cảnh vùng biển đảo tựa như “ngồi một chỗ mà thấy
ngoài muôn dặm”.
Du ký Việt Nam vùng Nam Bộ góp phần cho chúng ta một cái nhìn đầy đủ
hơn về vùng biển đảo Nam Bộ trong nhận thức và thực tiễn hoạt động của người
Việt. Trong một không gian sinh tồn và phát triển, nơi mà nhiều thế hệ người Việt
đã trải qua nhiều gian nan, vất vả để chế ngự các thế lực tự nhiên và phát triển kinh
tế, xã hội, thấy được không gian thử thách trí tuệ, bản lĩnh, sự sống kiên cường và
khát vọng về bảo vệ chủ quyền của đất nước đầy gian nan, thử thách. Trên cơ sở của
hoạt động khai thác biển, bảo vệ vùng biển của Tổ quốc mà “Tư duy hướng biển”
của người Việt được phát triển và hoàn thiện.
Từ một số đề tài nghiên cứu về các vùng trên đất nước như du ký vùng Đông
Bắc, Tây Bắc, Đông Nam Bộ, Tây Nam Bộ… qua đó cho thấy mỗi một vùng miền
có một giá trị về địa lý, lịch sử, văn hóa, phong tục, tập quán và trên cơ sở đó đã
1


hình thành nên một nền văn học mang đặc trưng riêng cả về nội dung và nghệ thuật.
Đối với du ký biển đảo phía Nam mà cụ thể là vùng Nam Bộ đã có một số tác giả
tìm hiểu và nghiên cứu ở những góc độ về lịch sử, phong tục tập quán và văn hóa.
Tuy nhiên, chưa có một công trình nghiên cứu nào đi sâu và phân tích để làm rõ
những đóng góp cả về giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của du ký vùng biển đảo
phía Nam của Tổ quốc để đem đến cho độc giả một cái nhìn toàn diện về thiên

nhiên và con người cùng với chiều sâu văn hóa nơi đây.
Hiện nay, vùng biển Nam Bộ là một bộ phận nằm trong vịnh Thái lan thuộc
về vùng biển của 7 tỉnh: Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Kiên
Giang, Cà Mau. Gồm quần đảo “Hòn Khoai, Thổ Chu, An Thới, Hải tặc, bà Lụa, Củ
Tron, và hòn đảo Hòn Chuối, Hòn Bông, cụm hòn Đá Bạc…với vị trí thuận lợi cho
các hoạt động hải thương và sở hữu các nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú,
vùng biển Nam Bộ từ rất sớm đã giữ những vị trí quan trọng của nhiều quốc gia
phong kiến. Người viết chọn đề tài: "Diện mạo và đặc điểm du ký biển đảo Nam Bộ
nửa đầu thế kỷ XX". Hy vọng sẽ có thêm những đóng góp cho quá trình tìm hiểu về
dấu ấn văn hóa vùng biển đảo Nam Bộ cũng như thiên nhiên và con người nơi đây.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong dòng chảy của văn học Việt Nam, du ký là một thể loại ra đời từ rất
sớm, Trong lịch sử nghiên cứu về du ký chưa có một công trình lí luận và lịch sử
nào dành riêng cho thể loại này và tương xứng với giá trị của nó trong nền văn học
nước nhà.
Khi bàn về vị trí của thể loại du ký trong quá trình hiện đại hóa văn học, năm
1942, trong cuốn sách nghiên cứu nổi tiếng - nhà văn hiện đại, khi nói tới nhóm nhà
văn trong Nam Phong tạp chí Vũ Ngọc Phan đã nói sơ lược về thể tài du ký đồng
thời điểm danh một số tác phẩm tác giả, trong đó có Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi
của Trương Vĩnh Ký. [43]
Trong chương IV - “truyện ký” của cuốn Việt Nam văn học sử giản ước tân biên
tập 1, Phạm Thế Ngũ gọi Thượng kinh ký sự là “Một truyện dài du ký” - là loại văn
nhằm ghi chép những điều tai nghe mắt thấy sau những bước chân từng trải trong

2


những dịp đi xa. Trong tập 3 của cuốn sách này, Phạm Thế Ngũ bàn tới thể tài du ký
dựa trên những sáng tác của Phạm Quỳnh - chủ bút Nam phong tạp chí. Tác giả ghi
nhận Phạm Quỳnh chính là người mở đầu cho lối văn du hành trên Nam phong. [38]

Năm 2006, hai tác giả Bích Thu và Vũ Tuấn Anh trong Từ điển tác phẩm văn
xuôi Việt Nam (từ cuối thế kỷ XIX đến 1945) khẳng định du ký Chuyến đi Bắc Kỳ
năm Ất Hợi của P.J.P Trương Vĩnh Ký là tác phẩm văn xuôi ra đời sớm nhất.
Ở những công trình này, du ký hầu như được “điểm danh” và được gợi ra từ
các trường hợp tác phẩm, tác giả cụ thể. Các tác giả không quên khẳng định vị trí
của du ký trên hàng ghế danh dự của những thể tài, thể loại văn học đi đầu trong
công cuộc hiện đại hóa văn học, nói như Vũ Tuấn Anh trong bài viết Đọc du ký Việt
Nam trên Nam Phong tạp chí và cuộc du ngoạn ngược thời gian: Trong rất nhiều
công trình nghiên cứu lí luận văn học của các tác giả Việt Nam, du ký được xem là
một tiểu loại nằm trong thể loại ký. Bởi vậy, nghiên cứu về du ký xuất hiện tản mác,
nhỏ lẻ trong những công trình viết khái quát về thể ký. [38]
Năm 1967, Tạp chí Văn học, số 02 cho đăng bài Về thể ký của tác giả Tầm
Dương. Ở bài viết này, du ký được quan niệm là một phần của ký sự: “Du ký là
“ký” lại các sự (những điều mắt thấy tai nghe) trong lúc “du”. Du ký đứng song
song với các tiểu loại khác như: Hồi ký, truyện ký…
Cùng năm, trên Tạp chí Văn học số 06, Nam Mộc có bài Thể ký và vấn đề
viết về người thật việc thật phân chia ký thành các tiểu loại: Phóng sự, ký sự, tùy
bút, bút ký. Du ký được nhà nghiên cứu xếp và một tiểu loại của bút ký, cùng với
nhật ký, hồi ký, tạp văn và tiểu phẩm… Tác giả cuốn: Văn học Việt Nam thế kỉ XX,
khi nêu ra quan niệm về thể ký cũng cho rằng: “Ký là loại hình trung gian giữa báo
chí và văn học. Ký bao gồm nhiều thể dưới dạng văn xuôi tự sự như bút ký, hồi ký,
du ký, nhật ký, phóng sự, tùy bút và cả hồi ký tự truyện”
Đây đồng thời cũng là hướng đi của tác giả cuốn 150 thuật ngữ văn học - Lại
Nguyên Ân (2004) [3] hay Giáo trình lí luận văn học do Trần Đình Sử chủ biên
(2009), Năm bài giảng về thể loại của Hoàng Ngọc Hiến (1992), Giáo trình Lí luận
văn học(Hà Minh Đức chủ biên-1995 cũng xem du ký là một trong các hình thức
3


của thể loại ký, luận văn Ký - những vấn đề đặc trưng thể loại của Nguyễn Thị

Ngọc Minh (2005)… Các công trình này nhìn chung đã bước đầu đưa ra những định
nghĩa cho thể tài du ký cùng với một số đặc điểm chính. Du ký, giống như thể loại
bao trùm nó - ký được nhấn mạnh ở khả năng ghi chép sự thật. [2].
Trong nền văn học Việt Nam cũng như các tạp chí cùng thời đã xuất hiện các
thành tựu đáng trân trọng, lưu giữ của du ký các vùng miền trên đất nước Việt Nam,
tiêu biểu như Nguyễn Đăng Hai tìm hiểu về Thiên nhiên và con người đồng bằng
sông Cửu Long qua một số tác phẩm du ký tiêu biểu giai đoạn 1900 - 1945 (Tạp chí
Khoa học Xã hội và Nhân văn, số 6, 2012) qua các tác phẩm Cảnh vật Hà Tiên,
Thăm đảo Phú Quốc, Tôi ăn tết ở Côn Lôn. Nguyễn Hữu Sơn tìm hiểu về các cùng
địa lý - văn hóa với các địa danh, các vùng của đất nước như Thể tài du ký về Hà
Nội nửa đầu thế kỷ XX (Văn nghệ quân đội, số 10, 2000), Phác thảo du ký Hà Nội
trước Cách mạng Tháng Tám (Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh, số 6, 2000), Du
ký Ninh Bình nửa đầu thế kỷ XX (Tạp chí Văn nghệ Ninh Bình, số 6, 2004)… Qua
các bài viết, Nguyễn Hữu Sơn giúp người đọc thấy rõ hơn bức tranh đa dạng về du
ký Việt Nam từ các tác phẩm trung đại cho tới các du ký nửa đầu thế kỷ XX trên
Nam phong tạp chí và tìm thấy ở mỗi du ký là một phác thảo độc đáo, tạo thành bức
tranh đa màu sắc về các vùng ở Việt Nam.
Cho đến nay xem du ký là một thể tài không phải là duy nhất nhưng vẫn là
quan điểm đóng vai trò chủ chốt, chiếm đa số và tỏ rõ được nhiều thành tựu hơn cả
trong các nghiên cứu về du ký của văn giới.
Một số khác đi theo hướng coi du ký là một thể loại văn học. Cuốn Quá trình
hiện đại hóa văn học (2000), do nhà nghiên cứu Mã Giang Lân chủ biên đã khẳng
định vị trí tiên phong của thể tài du ký: “Thể loại văn học đầu tiên viết bằng chữ
quốc ngữ phải kể đến du ký” đồng thời cũng đưa ra một số đặc điểm để nhận dạng.
Võ Thị Thanh Tùng trên tạp chí Khoa học xã hội, số 4 năm 2013 có bài viết điểm
qua “Một vài đặc điểm của thể loại du ký Việt Nam” trong đó đặc biệt nhấn mạnh
đến tính chất phức hợp, giao thoa thể loại có trong du ký. Cho rằng du ký là trung
gian giữa báo chí và văn học, du ký có sự giao thoa với chính luận, tác giả đánh giá:
4



“Từ khi ra đời đến nay, du ký cùng với phóng sự, tùy bút… đã gia nhập vào đời
sống văn học sôi động trên cả nước, làm nên một khởi đầu ngoạn mục cho việc đưa
văn xuôi tiến dần vào vị trí trung tâm, đóng góp tích cực vào tiến trình phát triển
chung của nền văn học hiện đại Việt Nam. Nếu các thể loại như kịch, tiểu thuyết,
được học tập và mô phỏng theo mô hình thể loại của phương Tây, thì du ký là thể
loại được tiếp nối từ truyền thống, nhưng có những cách tân mới mẻ về chữ viết,
cách hành văn, cách phản ánh những vấn đề thẩm mỹ do thời đại đặt ra… nên càng
hấp dẫn hơn ” [71].
Luận án Đặc điểm du ký Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX của Nguyễn Hữu Lễ
(2015) là công trình mới nhất đã có nhiều cố gắng trong việc khảo cứu thực tiễn
sáng tác hướng tới góp phần định danh thể loại du ký, làm rõ đặc điểm của thể loại
này. Với quan điểm: “Đã đến lúc du ký cần được làm sáng tỏ về mặt thể loại” tác
giả cho rằng đây là xu hướng nghiên cứu phù hợp trong tình hình hiện nay, một khi
du ký được định danh rõ ràng thì những “vấn đề về đặc điểm và cách tiếp cận
nghiên cứu du ký không còn bị cản trở bởi sự giao thoa và các lằn ranh thể loại
cùng với quan niệm mơ hồ về du ký” [29]
Du ký từ điểm nhìn địa - văn hóa cũng là một hướng để tiếp cận các sáng tác du
ký. Nguyễn Hữu Sơn là người đã khơi gợi hướng nghiên cứu du ký về các cùng địa lý văn hóa: Vùng cao phía Bắc, vùng Quảng Ninh, Thanh Hóa, xứ Huế, Hà Nội, Sài Gòn Gia Định... Ông là tác giả của hàng loạt bài viết: Thể tài du ký về Hà Nội nửa đầu thế
kỷ XX (Báo Văn nghệ quân đội số 10, 2000), Phác thảo du ký Hà Nội trước Cách mạng
tháng Tám (báo Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh, số 6, 2000), Du ký Ninh Bình nửa
đầu thể kỷ XX (Tạp chí Văn nghệ Ninh Bình, số 6, 2004, Du ký viết về Sài Gòn - Gia
Định nửa đầu thế kỷ XX từ điểm nhìn những năm đầu thế kỷ XXI (tạp chí Khoa học xã
hội, số 11, 2008), Du ký xứ Thanh nửa đầu thế kỷ XX (báo Tổ Quốc, 2010), Diện mạo
và đặc điểm của du ký xứ Huế nửa đầu thế kỷ XX (báo Du lịch Sài Gòn, số 6, 2015),
Nhận diện du ký biển Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX theo các vùng văn hóa (Tạp chí
Biển, số 6, 2016)… Bằng việc tập hợp các tác phẩm tiêu biểu viết về từng vùng riêng
biệt, Nguyễn Hữu Sơn tìm thấy ở mỗi du ký là một phác thảo

5



độc đáo, tạo thành bức tranh đa màu sắc về các vùng, miền ở Việt Nam. Võ Thị
Thanh Tùng khai thác Tính cách con người Nam Bộ - dấu ấn đặc sắc trong du ký
Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX (Tạp chí Khoa học, Đại học Sư phạm thành phố Hồ chí
Minh, số 44, 2013) hay Nguyễn Đăng Hai tìm hiểu về Thiên nhiên và con người
đồng bằng sông Cửu Long qua một số tác phẩm du ký tiêu biểu giai đoạn 1900 1945 (Tạp chí Khoa học xã hội và nhân văn, số 6, 2012). Chu Thị Yến khai thác Du
ký về biển đảo Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX (Luận văn Thạc sĩ Khoa học Ngữ văn,
Hà Nội, 2016)...Khai thác các sáng tác du ký từ khía cạnh văn hóa cũng là hướng
tiếp cận của bài viết Giá trị văn hóa và văn học của du ký (khảo sát qua sách Du ký
Việt Nam của tác giả Nguyễn Thúy Hằng (2009), khóa luận tốt nghiệp của Phạm Thị
Hoài Phương với đề tài khá mới lạ - Vùng tiếp xúc trong du ký Phương Đông lướt
ngoài cửa sổ (2013), luận văn Thể du ký trong tiến trình hiện đại hóa văn hóa Việt
Nam 30 năm đầu thế kỷ 20 của Nguyễn Thị Thúy Hồng (2008) [56].
Những nghiên cứu về du ký nói chung, du ký nửa đầu thế kỷ XX nói riêng
như vậy chưa thể coi là phong phú và tương xứng với số lượng và chất lượng của
các tác phẩm.
Là một bộ phận không nhỏ trong hệ thống du ký nửa đầu thế kỷ XX, những
sáng tác viết về biển đảo Nam Bộ cũng đã xuất hiện trong một số nghiên cứu như đã
nêu ở trên. Tuy nhiên, nghiên cứu chỉ dừng lại ở những bài viết tản mác về những
địa danh cụ thể ở Nam Bộ chứ chưa khảo sát cả một vùng văn hóa rộng lớn. Nguyễn
Hữu Sơn là người kỳ công sưu tầm những tác phẩm du ký viết về các địa danh khác
nhau dọc miền Nam Bộ … Hứng thú sưu tầm và những bài viết của tác giả đã thôi
thúc tôi tiếp tục khảo sát và đi sâu vào nghiên cứu: Du ký viết về biển đảo Nam Bộ
nửa đầu thế kỷ XX
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Với đề tài Diện mạo và đặc điểm du ký biển đảo Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX.
Công việc của luận văn cần đạt được các mục tiêu cụ thể sau đây:


6


- Nhấn mạnh đặc điểm của du ký viết biển đảo Nam Bộ ở các vấn đề: Nội
dung cảm hứng, điểm nhìn trần thuật, ngôn từ nghệ thuật, sự giao thoa thể loại.
Không gian và thời gian nghệ thuật để tạo nên nét đặc trưng riêng của du ký biển
đảo phía Nam của Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX.
- Đề tài khẳng định vai trò của du ký trong giai đoạn hiện đại hóa nền văn
học dân tộc. là một nguồn tư liệu hữu ích đóng góp cho quá trình tìm hiểu về đời
sống tự nhiên, văn hóa, xã hội vùng biển đảo Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX dưới góc
nhìn của một thể lại văn học.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Khảo sát các văn bản du ký viết về vùng biển đảo Nam Bộ, khai thác các
tác phẩm du ký từ điểm nhìn văn hóa.
- Xác định đặc điểm của du ký biển đảo Nam Bộ trên phương diện nội dung.
- Xác định đặc điểm của du ký viết về biển đảo Nam Bộ trên phương diện
hình thức.
- Đánh giá đóng góp của du ký về biển đảo Nam Bộ trong sự phát triển của
du ký Việt Nam đầu thế kỉ XX và trong lịch sử văn học dân tộc.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các tác phẩm du ký viết về biển đảo
Nam bộ Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX, bao gồm khu vực biển đảo thuộc 7 tỉnh: Trà
Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Bến Tre, Kiên Giang, Cà Mau, Hà Tiên. Các văn bản
này được đăng trên các báo và tạp chí đầu thế kỉ XX như: Nam kì tuần báo, Nam
phong tạp chí, Công luận báo, Tràng An báo, Phong hóa, Tri tân tạp chí…
Phạm vi nghiên cứu tư liệu của luận văn bao gồm các tác giả tác phẩm viết
về vùng biển đảo Nam Bộ Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX. Đến thời điểm hiện tại, tôi
sưu tầm và giới thiệu trong luận văn 15 du ký của các tác giả có phụ lục kèm theo.
Du ký biển đảo Nam bộ nửa đầu thế kỉ XX có sự phong phú về nội dung, đa dạng
về hình thức, đặc biệt là sự đa dạng của những cây bút viết du ký.


7


5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Từ đối tượng và phạm vi nghiên cứu đã được xác định, để đáp ứng yêu cầu
và đạt được mục tiêu của đề tài đặt ra, trong quá trình triển khai, tôi vận dụng một
số phương pháp nghiên cứu sau đây:
- Phương pháp sưu tầm, thống kê: Tìm kiếm và tập hợp các tác phẩm thuộc
thể tài du ký viết về vùng biển đảo phía Nam Bộ đăng tải trên một số báo, tạp chí
nửa đầu thế kỷ XX.
- Phương pháp cấu trúc hệ thống : Nghiên cứu đặc điểm du ký biển đảo Nam
Bộ nửa đầu thế kỷ XX như một chỉnh thể hoàn chỉnh, như một cấu trúc chặt chẽ,
hợp logic trong mối quan hệ biện chứng giữa các yếu tố, giữa lý thuyết và thực tiễn
sáng tác.
- Phương pháp phân tích - tổng hợp: Dựa trên các phương diện, quan điểm
liên quan đến lý thuyết về thể tài du ký; tiến hành phân tích các tác phẩm cụ thể để
tổng hợp, khái quát những đặc điểm của du ký viết về vùng biển đảo Nam Bộ nửa
đầu thế kỷ XX.
- Phương pháp so sánh đối chiếu: Để làm rõ các giá trị văn hóa, xã hội, lịch
sử , phong tục, tập quán của con người nơi đây. Đồng thời làm nổi bật về thời gian
và không gian nghệ thuật để tạo nên nét đặc trưng riêng có của vùng biển đảo Nam
Bộ nửa đầu thế kỷ XX.
- Phương pháp liên ngành: Phong cách học, Văn bản học, Thi pháp học… để
làm sáng tỏ các đặc trưng nội dung và nghệ thu các tác phẩm du ký về biển đảo
Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Về lý luận
- Xác lập các quan điểm về du ký và đặc điểm về du ký Việt Nam giai đoạn
nửa đầu thế kỷ XX. Xác lập được điểm nhìn trần thuật, thời gian và không gian

nghệ thuật cũng như những đặc trưng ngôn ngữ của vùng miền là cơ sở tạo nên đặc
trưng du ký biển đảo Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX.

8


6.2. Về thực tiễn
- Luận văn tập trung nghiên cứu về các tác phẩm du ký viết về biển đảo Nam
Bộ để thấy được những đóng góp của thể tài du ký trong quá trình hiện đại hoá văn
học và làm phong phú diện mạo văn xuôi Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX.
- Phân tích các tác phẩm văn du ký vùng biển đảo Nam Bộ giai đoạn đầu thế
kỷ XX với các điểm nhìn lý luân như trên để có những đánh giá đầy đủ và toàn vẹn
trong đời sống văn hóa, xã hội và sự đổi thay, tiếp nối giữa các giá trị truyền thống
và quá trình hiện đại hóa văn học trong thời kỳ lịch sử nửa đầu thế kỷ XX gắn liền
với khát vọng giải phóng dân tộc và quá trình chuyển giao thời đại và tư duy văn
học Việt Nam diễn ra trên một quy mô lớn và toàn diện.
- Nhấn mạnh giá trị và bài học của các tác phẩm du ký viết về biển đảo Nam
Bộ đối với việc nêu cao ý thức bảo vệ độc lập, chủ quyền dân tộc và sự phát triển
ngành du lịch Việt Nam trong những năm đầu thế kỉ XX và hiện nay.
7. Cơ cấu của luận văn
Chương 1.Thể loại du ký và cơ sở hình thành, phát triển của du ký biển đảo
Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX.
Chương 2. Đặc điểm nội dung của du ký biển đảo Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX.
Chương 3.Đặc điểm nghệ thuật của du ký biển đảoNam Bộ nửa đầu thế kỷ XX.

9


Chương 1
THỂ LOẠI DU KÝ VÀ CƠ SỞ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN

CỦA DU KÝ BIỂN ĐẢO NAM BỘ NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX
1.1. Diện mạo của du ký
1.1.1. Quan niệm về du ký
Những năm đầu thế kỉ XX, xã hội Việt Nam, dưới sự thống trị của thực dân
Pháp đã thay đổi mọi mặt của đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội…trong đó,
văn học Việt Nam đã xuất hiện những luồng tư tưởng mới, nhiều thể loại văn học
mới đã được du nhập và ra đời, dần thay thế cho các dòng chảy của văn học Trung
đại trước đó từng bị chi phối trực tiếp bởi hệ tư tưởng Nho giáo làm cho nền văn
học vốn già cỗi của nước ta như được thay da đổi thịt. Luồng gió văn học phương
Tây, mà nhất là văn học Pháp, thổi mạnh vào Việt Nam.Trong đó, sự thay đổi dễ
nhận thấy nhất là sự thay đổi về mặt thể loại. Hàng loạt thể loại văn học mới được
du nhập từ Tây như thơ mới, kịch, tiểu thuyết, truyện ngắn… Đã làm cho diện mạo
văn học dân tộc như mang xu hướng của thời đại mới.
Du ký là một thể loại đặc biệt của văn học, hay nói cách khác du ký là một
hình thức bút ký văn học thường được ghi lại bằng văn xuôi, thuật lại những chuyến
đi, ghi lại những cảm xúc, tình cảm và suy ngẫm của tác giả khi đến những vùng đất
khác nhau. Du ký có nguồn gốc từ ký, theo quan điểm của Vũ Phương Đề, thì “khi
việc quan rảnh rỗi thường ghi chép lại những điều bấy lâu mình nghe được, cùng
những chuyện biết được từ các bậc học rộng đương thời, tất cả đều theo đúng sự
thực mà viết lại thành bài”. Sự việc ấy bao gồm nhiều lĩnh vực khác nhau như lịch
sử, địa lí, xã hội, nông nghiệp, thậm chí là những ghi chép linh tinh… Nghĩa là tất
cả “Những việc gì lạ mà mắt thấy tai nghe đều ghi lại tất…”. Sau đó, động từ ký
được chuyển thành danh từ và có nhiều biến thể cũng có nghĩa là ghi chép sự việc.
Thời trung đại thì có chí, lục, ngữ lục, tạp văn, tạp lục, mạn lục, thực lục, tiểu lục,
khảo… Sang thời hiện đại thì có phóng sự, du ký, nhật ký, hồi ký, tản văn, ký chính
luận… Vì là ghi chép sự việc, nên đối tượng mà ký hướng tới nhất thiết phải là
người thật việc thật.Sự việc và con người phải được phản ánh một cách khách quan,
10



“có địa chỉ chính xác của nó” . Ký không cho phép người viết thêm thắt hay bịa đặt
vì điều đó khiến cho người đọc thiếu tin cậy vào những nội dung mà người viết đưa
ra.Với các thể loại văn học khác thì hư cấu chính là nét đặc trưng tạo nên dấu ấn
riêng của tác phẩm và cá nhân người viết.Nhưng với thể loại ký tuyệt đối không hư
cấu là đặc trưng thể loại cơ bản của ký, “vi phạm đặc trưng này, nhà văn nhất định
sẽ phá hoại tính chân thực lịch sử và cả tính chân thực nghệ thuật của tác phẩm”.
Chính đặc điểm không hư cấu, không tưởng tượng sẽ tạo nên niềm tin cậy cả độc
giả với tác giả và tác phẩm. Thể loại chỉ có thể tồn tại được khi đặc trưng cơ bản
được tôn trọng, nếu không ranh giới của thể loại sẽ dễ bị xóa mờ sẽ dẫn tới tình
trạng thiếu sự tôn trọng, trân trọng và niềm tin của người đọc trước tác phẩm.
Là thể loại văn học nằm trong nhóm thể loại ký, du ký cũng không thoát ly
khỏi những đặc trưng chung của hệ thống thể loại. Sách các thể văn chữ Hán Việt
Nam do Trần Thị Kim Anh và Hoàng Hồng Cẩm biên soạn, định nghĩa khá đầy đủ:
“Văn du ký là loại văn được viết ra trong những chuyến đi, vừa để ghi lại hành
trình, vừa để bày tỏ cảm xúc về những điều mắt thấy tai nghe. Đặc điểm của du ký
là chuyên lấy việc mô tả thắng cảnh núi sông, phong vật làm đề tài, cách viết đa
dạng, có thể miêu tả, có thể trữ tình, có thể nghị luận và phải là chính tác giả ghi
chép về chính chuyến đi của mình, miêu tả lại cảm thụ của bản thân trước non sông
phong vật”. Sách Lí luận Văn học, tập 2: Tác phẩm và thể loại văn học, do Trần
Đình Sử chủ biên đưa ra cách hiểu: “Có thể hiểu du ký là thể loại ghi chép về vẻ kì
thú của cảnh vật thiên nhiên và cuộc đời, những cảm nhận, suy tưởng của con
người trong những chuyến du ngoạn, du lịch. Du ký phản ánh, truyền đạt những
nhận biết, những cảm tưởng, suy nghĩ mới mẻ của bản thân người đi du lịch về
những điều mắt thấy tai nghe ở những xứ sở xa lạ, những nơi mọi người ít có dịp đi
đến, chứng kiến” [14] . Vũ Ngọc Phan nhân bàn về tác phẩm Chuyến đi Bắc Kỳ
năm Ất Hợi (1876) của Trương Vĩnh Kỳ, ông đã nhắc đến du ký: “Tập du ký này
viết không có văn chương gì cả, nhưng tỏ ra ông là một người có mắt quan sát rất
sành, vì cuộc du lịch của ông là cuộc du lịch lần đầu, ông lại đi rất chóng. Tuy
không có văn chương nhưng công nhận ngòi bút của ông rất linh hoạt” Như vậy,


11


Vũ Ngọc Phan có chỉ ra được đặc điểm cơ bản là “bài ghi chép cuộc hành trình”
Tuy chưa nêu quan điểm về thể loại của du ký.
Chỉ đến khi nhà Nghiên cứu Nguyễn Hữu Sơn - người có bề dày về nghiên
cứu du ký vào bậc nhất ở Việt Nam hiện thì vấn đề du ký đã được “duy danh” và
nhấn mạnh hơn ở phía đề tài, phía nội dung và cảm hứng nghệ thuật nơi người viết.
Ông nhận định “Một tác phẩm du ký hay không đơn thuần chỉ là một tác phẩm văn
chương mà còn có dung chứa trong đó nhiều yếu tố lịch sử, địa lý, giáo dục và đôi
khi còn phản ánh cả phương diện chính trị xã hội nữa. Nói cách khác, du ký cùng
với bút ký, hồi ký, nhật ký, ký sự, phóng sự, tùy bút… nằm ở phần giao nhau giữa
văn học và ngoài văn học”. Giống như tùy bút, phóng sự, hồi ký… du ký cũng là
một thể tài thuộc thể loại ký. Hiển nhiên nó hội tụ đầy đủ những phẩm chất chung
của thể loại này [55].
Như vậy, du ký là thể loại ký có cốt truyện ghi chép về vẻ kỳ thú của cảnh
vật thiên nhiên và cuộc đời những cảm nhận, suy tưởng của con người trong những
chuyến du ngoạn.Trong đó yếu tố cốt lõi là đi, xem và ghi chép. Nhưng tất nhiên ghi
chép sự thật không có nghĩa là ghi chép một cách cơ học, máy móc, mà sự thật ấy
phải được sàng lọc hay sáng tạo để tạo nên những giá trị thẩm mỹ mới mang tính
tiêu biểu, điển hình, giúp ký đạt đến chỗ có giá trị văn học. Đã là một thể loại văn
học thì trong du ký phản ánh, truyền đạt những nhận biết, những cảm tưởng, suy
nghĩ mới mẻ của bản thân người khám phá về những điều mắt thấy tai nghe bằng
cái nhìn, cảm nhận chủ quan của người viết. Thông qua các thể loại sáng tác bằng
thơ, phú, tụng hay những bài văn xuôi theo các phong cách ký như: ghi chép, hồi
ký, phóng sự, khảo cứu, hồi ức. Tuy nhiên, bao trùm toàn bộ tinh thần của du ký là
niềm say mê khát khao tìm kiếm, khám phá những điều mới lạ là cảm hứng phiêu
lưu. Những khám phá đầy bất ngờ, thú vị về phong cảnh thiên nhiên, văn hóa,
phong tục tập quán, tôn giáo luôn là những điều mới lạ, những nét đặc trưng riêng
của mỗi vùng miền. từ nhiều lĩnh vực của đời sống hết sức phong phú và đa dạng.

Mỗi cuộc hành trình ấy, mỗi chuyến đi ấy luôn là những dư âm hết sức ấn tượng đối
với cá nhân người khám phá, bởi những cái mới lạ luôn kích thích sự tưởng tượng,

12


sáng tạo và đam mê, để rồi suy ngẫm về cuộc sống với cái nhìn toàn vẹn hơn, thực
tiễn hơn và cũng triết lý hơn về không gian và thời gian của văn hóa, về thế giới
nhân sinh quan và giá trị của chính bản thân mình cũng như sự cống hiến của cá
nhân mình cho xã hội. Chính vì thế làm nên cái hồn cho tác phẩm vẫn là tư duy,
cách nhìn và cách tiếp cận của bản thân với những gì mình nhìn thấy, nghe thấy,
những gì mình khám phá, trải nghiệm.Tất cả những giá trị đó sẽ là một định vị về
cảm xúc, hình thành một nhu cầu tự thân đối với người đọc về mong muốn cũng
được đi, được khám phá và trải nghiệm như người viết.
Trên thực tế, có những tác phẩm du ký không thấy định danh thể loại. Có
những tác phẩm không được gọi đích danh là du ký nhưng bản chất vẫn là tác phẩm
du ký như Chuyến đi Bắc Kì năm Ất Hợi của Trương Vĩnh Ký, Ngày và đêm ở Đà
Lạt của Du Tử, Hương Cảng nhơn vật của Trần Chánh Chiếu,… Bản chất du ký là
ghi chép về sự đi, sự xê dịch, thưởng ngoạn cảnh quan xứ lạ, thế nhưng nội hàm của
khái niệm này lại khá phức tạp.Bằng chứng là các nhà nghiên cứu không phải lúc
nào cũng thống nhất với nhau về điểm nhìn nghiên cứu cách định danh. Khi nhìn
nhận và xác định một nội dung có phải là du ký cần dựa trên một số đặc điểm cơ
bản sau:
Thứ nhất,Tác phẩm du ký được thực hiện gắn với ghi chép tư liệu. Một tác
phẩm du ký không đơn giản là một tác phẩm văn học mà còn chứa đựng trong nó cả
một kho kiến thức lịch sử địa lí, giáo dục, chính trị, văn hóa, phong tục tập quán
mỗi vùng miền, rồi cả những cảm nhận, suy tưởng của nhà văn trong quá trình tiếp
xúc với người thật việc thật. Du ký thường là miêu tả những sự việc mắt thấy tai
nghe của người đi trên hành trình, nó gần như một dạng nhật ký hành trình. Điều
này không chỉ kích thích sự tò mò, nhu cầu muốn được khám phá thế giới mà còn là

sự tìm kiếm cơ hội khẳng định bản thân, tìm sự khác biệt cả về cách đi và cách
tường thuật trong văn bản du ký để tạo sự độc đáo cá nhân.
Lối tường thuật cũng có sự biến chuyển dạng thức, từ việc kể chuyện người
sang kể chuyện mình, từ các câu chuyện mang màu sắc huyền thoại sang những câu
chuyện có thực xuất phát từ những điều mắt thấy tai nghe, từ lối kể chuyện khách
13


quan chuyển sang sự lồng ghép những cảm nhận, cảm xúc cá nhân. Về tính chất
thông tin của lộ trình cũng có sự thay đổi, từ những thông tin mang tính ước đoán,
phỏng đoán sang những thông tin được tái hiện một cách cẩn trọng và chính xác
như những khảo cứu khoa học.
Để viết được tác phẩm du ký xuất sắc thì nhà viết ký cũng phải hội tụ đầy đủ
những phẩm chất như bất kì nhà văn, nhà thơ nào. Vốn sống, tài năng cũng như tư
tưởng tình cảm của người viết sẽ được bộc lộ trực tiếp qua lời văn, “Cho nên đối
với người viết ghi chép cũng như người viết văn nói chung, phải có tư tưởng sâu
sắc và vốn sống phong phú thì mới sáng tác thành công được”.
Để có thể ghi chép tư liệu tốt, chuyển hóa những chất liệu của hiện thực trở
thành một tác phẩm du ký có chất lượng, có những giá trị tươi mới, tư chất mà nhà
văn cần có như: Năng lực trí tuệ sắc bén, trí tưởng tượng sáng tạo, phông văn hóa,
kĩ thuật nghề nghiệp, thông qua kỹ năng thu thập, xử lý thông tin, nghiên cứu, khả
năng tư duy logic, sáng tạo.khả năng quan sát tinh tế, thì sự cần thiết của vốn sống
nổi lên như một điều kiện quan trọng hàng đầu. Năng động, tự tin, có trách nhiệm,
nghiêm túc trong công việc, hoà đồng, cầu tiến.Biết học hỏi, tìm tòi để xây dựng
cho mình một vốn văn hóa, vốn sống phong phú và phong cách viết riêng.
Thứ hai,Tác phẩm du ký thể hiện rõ nhận định và vốn kiến thức của tác giả.
Trong những tác phẩm du ký, ngoài việc kể truyện thì tác phẩm đậm tính
chất tư liệu, hướng vào việc tái hiện chính xác thực tại với những sự kiện có thực,
thường kèm theo sự lý giải, đánh giá tùy theo sự nhạy cảm và cách hiểu của tác giả.
Vì du ký là thể loại được lấy cảm hứng từ những chuyến đi. Do đó trên hành trình

lãng du, khám phá của mình, được tiếp xúc với những điều mới lạ. Trong cuộc hành
trình du ký có một sức hấp dẫn lạ kì, kích thích trí tò mò và bản năng khám phá của
con người với những điều chưa từng được biết đến, chưa từng được tiếp xúc hoặc
đã nghe từ lâu giờ mới được thấy, được thưởng ngoạn. Cộng thêm khối kiến thức vô
cùng phong phú được góp nhặt trên từng dặm đường khiến du ký vừa giàu giá trị
nghệ thuật vừa giàu giá trị thông tin.

14


Những câu chuyện được nghe, được chứng kiến trong cuộc hành trình luôn
làm cho du ký có một sức hấp dẫn lạ kì, kích thích trí tò mò cũng như bản năng
khám phá của con người, cộng thêm khối kiến thức vô cùng phong phú được góp
nhặt trên từng dặm đường khiến du ký vừa giàu giá trị nghệ thuật vừa giàu giá trị
thông tin. Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tư duy khoa học với tư duy nghệ thuật mà
Gorki gọi là “sự hợp nhất giữa truyện và nghiên cứu” là nét rất riêng, làm nên đặc
trưng cơ bản cho thể loại này. Tư duy nghệ thuật cho phép du ký được tự do “bay
bổng”, thỏa sức bày tỏ những cung bậc cảm xúc trước hiện thực muôn màu. Còn tư
duy khoa học lại góp phần làm giàu cho nhận thức của người đọc.
1.1.2. Vài nét sơ lược về du ký Việt Nam
Trước khi du ký xuất hiện, trong văn học Việt Nam thời kỳ trung đại, đã tồn
tại một số tác phẩm có phương thức sáng tác là nghi chép về những điều mắt thấy,
tai nghe, những điều mới lại về thiên nhiên, cuộc sống và con người, qua những
chuyến đi xa. Những chuyến đi thời trung đại hầu hết không phải là những chuyến
du lịch theo đúng nghĩa mà đều là những chuyến công cán, đi sứ, đi thi, hoặc có
mục đích khác. Trong nước những lúc nhàn rỗi và khi về ngồi hồi tưởng lại, ghi
những cảm tưởng, suy nghĩ, những quan sát thu nhận được trên đường du lữ, để lại
các áng văn thơ du ký. Văn du ký trung đại cũng khá phong phú về hình thức: Thơ,
văn xuôi…
Số lượng sáng tác du ký còn giữ được không nhiều, chủ yếu tập trong trong

khoảng gian từ thế kỷ XVIII đến hết thế kỷ XIX. Xét mục đích chuyến đi, địa điểm
di chuyển đến và hình thức chữ viết, có thể tạm thời chia văn du ký trung đại thành
ba loại: Loại văn du ký của các sứ thần Việt Nam đi Trung Quốc và đến giữa thế kỷ
XIX có văn du ký của sứ thần nhà Nguyễn sang Đông Nam Á và Pháp; văn du ký
của các nhà nho đi lại giữa các vùng trong nước; một loại thứ ba là văn du ký viết
bằng chữ cái la tinh mà ngày nay ta gọi là chữ quốc ngữ của Philiphê Bỉnh và
Trương Vĩnh Ký, những tác phẩm này đã có những nét của du ký hiện đại.
- Du ký của các Nhà nho trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam; các chuyến đi
trong phạm vi không gian của nước Việt được ghi chép lại cũng khá đa dạng. Về
15


thời gian, du ký ở các thế kỷ trước đã lác đác xuất hiện ví dụ Bài ký tháp Linh tế núi
Dục Thúy của Trương Hán Siêu (chưa kể thơ, phú có nội dung du ký như thơ của
Nguyễn Trãi về Côn Sơn, phú của Nguyễn Hoàng Đại đồng phong cảnh phú.Nhưng
phải đợi đến thế kỷ XVIII-nửa đầu thế kỷ XIX, thể loại du ký văn xuôi này mới
thực sự nở rộ. Đó là bài ký động Nhị Thanh của Ngô Thì Sỹ. Thượng kinh ký sự của
Lê Hữu Trác từ Hà Tĩnh ra Thăng Long chữa bệnh cho Trịnh Cán với những cuộc
du ngoạn trong lúc rảnh rỗi được chép lại . Tác phẩm được hoàn thành vào cuối năm
Quý Mão, Cảnh Hưng 44 (1783) là một tác phẩm ký sự bằng chữ Hán rất có giá trị
trong văn học Việt Nam giai đoạn nửa cuối thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX, một
tập bút ký ghi lại hành trình lên kinh đô, vào phủ khám chữa bệnh chữa bệnh cho
chúa. Trước thời thế và nhân tình, không ngăn được nỗi ưu sầu, Lãn Ông đã mượn
thơ giãi bày tâm sự.Chất thơ ca, du ký, nhật ký, ký sự… hòa quyện với nhau khó mà
tách bạch. Điều này cho thấy tính chất giao thoa, đan xen giữa tư duy nghệ thuật tự
sự và trữ tình, văn xuôi và thi ca, kể sự và ngụ tình, kể chuyện và đối thoại, tự thuật
và ngoại đề, ghi chép thực tại và hồi cố trong tác phẩm. Để cho phù hợp với sự tiếp
nhận của đời sau, người dịch tác phẩm này đã tổ chức lại: “Tập Thượng kinh ký sự
viết theo lối du ký, theo thời gian chép việc trước, việc sau.Tuy nhiên, tự sự cũng có
đoạn mạch. Ông Nguyễn Trọng Thuật đem dịch ra Việt văn có ý dựa theo ý mà chia

thành mười lăm chương”. Cùng với những kiến giải trong quá trình phân tích sự
kiện của Phạm Thế Ngũ cho thấy tính không đồng nhất trong quan niệm về thể loại
du ký mang tính lịch sử như trường hợp của tác phẩm Thượng kinh ký sự trong cách
tiếp nhận của thế hệ sau này. Vì thế, tác phẩm không chỉ được gọi là tập du ký mà
còn được định danh bởi các thể loại khác như: ký sự, truyện ký lịch sử, bút ký…
[38]
Chuyến du ngoạn từ Thăng Long lên núi Sài Sơn vãn cảnh chùa Phật Tích,
đền Trấn Vũ, tháp Bảo Thiên, chùa Tiên Tích của Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án
còn ghi lại trong Tang thương ngẫu lục, với rất nhiều cảm xúc khác nhau. Nhưng
xem truyện đủ biết Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án hòa mình vào thiên nhiên, tôn

16


giáo để quên đi cuộc đời. Tuy nhiên, Tang thương ngẫu lục là những tài liệu quý về
lịch sử, địa lý, điển lễ, phong tục, lễ nghi ở cuối đời Lê [21].
Tác phẩm Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ cùng với Nguyễn Án là một
tác phẩm rất tiêu biểu. Với những nội dung ghi chép lại những việc xảy ra trong xã
hội lúc bấy giờ từ việc trong phủ chúa đến ngoài xã hội [21].
Ngoài ra, thế kỷ XVIII-XIX còn để lại nhiều bài ký đi thăm chùa chiền, danh
lam thắng cảnh khác trong lãnh thổ Việt Nam. Tinh thần chung của du ký thời trung
đại là ghi chép về phong cảnh và các di tích văn hóa lịch sử.
Văn du ký của xứ thần Việt Nam có các áng văn du ký tiêu biểu thuộc loại
này có Bắc sứ thông lục của Lê Quý Đôn (1726 -1784), Bắc hành tùng ký của Lê
Quỳnh. Trong bài tựa cho Bắc sứ thông lục cho biết thơ viết đi sứ của sứ thần Việt
Nam trong lịch sử thì rất nhiều, song văn xuôi thì mãi đến Lê Hữu Kiều mới viết Sứ
Bắc kỷ sự (chuyến đi sứ năm 1737) (theo tập 88,1) - tập này hiện không còn. Và tập
Bắc sứ thông lục là tập văn du ký thứ hai của sứ thần Việt Nam, viết bằng văn xuôi
chữ Hán trong chuyến đi sứ năm 1760 -1761. Lê Quý Đôn ghi chép tỉ mỉ, chi tiết
trước hết các nội dung liên quan đến chuyến đi sứ, từ thành phần sứ đoàn, các cống

vật, lễ vật; hành trình qua các ngày tháng, các địa điểm được ghi chép theo hình
thức nhật ký…Trong giai đoạn đầu của nền quốc văn, du ký quốc ngữ phát triển sôi
nổi như một thể tài tiên phong mang nhiệm vụ tiếp biến nền văn học. Từ những tác
phẩm khởi đầu với quy mô, tầm vóc lớn như “Sách sổ sang chép các việc” của
Philipphê Bỉnh, “Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi” của Trương Vĩnh Ký đến hai du ký
bằng thơ trường thiên của Trương Minh Ký, “Như Tây nhựt trình”, ‘Chư quấc thại
hội”, du ký đã chứng minh được sự tiếp nối vững chắc của nền văn chương mới.
Hoàng Xuân Việt đã ghi dấu sự phát triển chữ quốc ngữ trong du ký của Trương
Minh Ký thể hiện qua đoạn trích Như Tây nhựt trình như sau: “Chữ quốc ngữ ở đây
thật điêu luyện đến mức đáng ngạc nhiên. Đây có thể xem là bước đầu khai mở một
khả năng diễn đạt mới của chữ quốc ngữ”.
Du ký quốc ngữ phát triển phong phú ở cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX là
yêu cầu tất yếu của cuộc chuyển giao nhiệm vụ giữa nền văn học mang tính khu vực

17


và nền văn học mang tính toàn cầu. Trên phương diện nội dung, du ký quốc ngữ đã
phá bỏ sự hạn hẹp trong không gian phản ánh của văn chương nhà Nho để hướng
cái nhìn mở rộng ra toàn thế giới. Du ký thực hiện sứ mệnh trung gian của hai phạm
trù văn học, kết lại phạm trù văn học cũ và mở ra phạm trù văn học mới.Cùng với
dịch thuật, phóng tác, tiểu thuyết, biên khảo, phê bình văn học, du ký quốc ngữ góp
phần khẳng định sự lớn mạnh của một nền văn học mới phù hợp với tư duy thẩm
mỹ của một tầng lớp công chúng văn học mới. Những giá trị của thời thuộc địa gắn
liền với nền văn minh Phương Tây đã tạo ra những thay đổi vô cùng quan trọng
trong việc tiếp nhận những thành tựu của phương Tây và thế giới hiện đại.
Hầu hết các báo, tạp chí giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX đều đăng văn du ký.
Các báo địa phương như Nam Kỳ tuần báo, Thanh Nghệ Tĩnh tân văn, Thần
chung… các báo có vận mệnh khá ngắn ngủi như An Nam tạp chí, các báo chuyên
về văn học như Phong hóa ở các mức khác đều đăng văn du ký. Có ba tờ tạp chí và

báo công bố nhiều du ký, là tạp chí Nam phong, báo Phụ nữ tân văn, tạp chí Tri tân.
Du ký là một thể loại có nhiều đóng góp cho quá trình hiện đại hóa của nền
văn học Việt Nam giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX. Từ khi ra đời đến nay, du ký cùng
với phóng sự, tùy bút… đã gia nhập vào đời sống văn học sôi động trên cả nước,
làm nên một khởi đầu ngoạn mục cho việc đưa văn xuôi tiến dần vào vị trí trung
tâm,đóng góp tích cực vào tiến trình phát triển chung của nền văn học hiện đại Việt
Nam. Du ký không khác gì một pho tư liệu quý giá, hấp dẫn, góp phần truyền lại
niềm cảm hứng sâu đậm cho những sáng tác văn học về sau.
Kể từ khi con người thực hiện khát vọng chinh phục thế giới bằng hành trình
vượt không gian và thuật lại hành động đó bằng cảm nhận của chính mình thì cũng
là thời điểm du ký ra đời. Lịch sử của du ký chính là lịch sử của những giá trị mà
con người đạt được qua sự chinh phục không gian và chính mình. Vì thế, làm sáng
tỏ vấn đề lịch sử của du ký không chỉ là sự bổ sung những khiếm khuyết trong
nghiên cứu văn học, mà còn phản ánh sự tồn tại khách quan của thể loại này. Trên
bước đường tìm đến với văn học thế giới của văn học dân tộc, chúng ta không thể

18


phủ nhận vai trò của du ký vì nó đã mở đường cho văn chương, giao thoa giữa văn
hóa phương Đông và phương Tây.
1.2. Sự hình thành và phát triển của du ký về biển đảo Nam Bộ nửa đầu
thế kỷ XX
1.2.1.Cơ sở văn hoá, xã hội, con người của vùng biển đảo Nam Bộ
Nếu lấy biển đảo làm điểm quy chiếu, vùng ven biển Việt Nam được chia
làm 4 khu vực. Mỗi khu vực đều có dấu ấn, có những sắc thái riêng về biển đảo
trong tổng thể văn hóa dân tộc nói chung. Khi bàn về văn hóa biển đảo, vùng biển
đảo Nam Bộ nó đã thỏa mãn bốn điều kiện sau đây.
- Về không gian sinh tồn, Vùng biển Tây Nam có các quần đảo và đảo nổi
tiếng như: Côn Đảo, An Thới, Thổ Chu, Nam Du, Hải Tặc, Bà Lụa... Trong đó, đảo

Phú Quốc cùng với Thổ Chu và tuyến đảo Nam Du, Hòn Chuối, Hòn Khoai tạo
thành thế khép kín bao bọc lấy phần đất liền phía Tây Nam của Tổ quốc. Địa hình
các đảo với bờ biển bao quanh hình dáng uốn lượn, nhiều bãi biển rất đẹp, nước
trong xanh, nhiều đảo còn giữ được vẻ hoang sơ, rừng nguyên sinh rất hấp dẫn và
các di tích lịch sử, văn hóa... Nằm cạnh các luồng hải thương quan trọng của thế
giới, biển đảo Nam Bộ không chỉ là môi trường sống mà còn là mạch nguồn giao
lưu chính trị, kinh tế, văn hóa với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới.
- Về chủ thể, về chủ thể văn hóa, có bốn tộc người chính là Việt chiếm tới hơn
90% dân số và người Việt cũng là trung tâm để gắn kết các dân tộc Khmer, Hoa, Chăm
để cùng sinh tồn và phát triển trên mảnh đất này. Có ba nguồn gốc xuất hiện chính. Thứ
nhất là những người từ miền Trung, miền Bắc do bần cùng phải bỏ quê hương vào Nam
Bộ hoặc do lưu tán để tránh cuộc chiến tranh Trịnh - Nguyễn. Thứ hai là những người
giàu có muốn mở mang canh tác đã chiêu mộ dân nghèo đi vào Nam Bộ khai khẩn đất
đai. Thứ ba là những người bị tù tội lưu đầy và những lính tráng được triều đình diều
vào Nam Bộ để lập đồn điền và bảo vệ biên cương. Họ đều mong muốn và mưu cầu
một cuộc sống tốt đẹp hơn, đây quả thực là một miền đất chứa đầy niềm hy vọng mới
cho những con người quyết định đặt chân đến nơi đây.

19


- Về thời gian tồn tại, cách nay khoảng 4000 năm, sự hiện diện đầu tiên của
con người trên mảnh đất Nam bộ đã được thừa nhận qua các di chỉ khảo cổ như hài
cốt, đồ gốm, đồ đá, đồng và sắt…Như vậy, Nam bộ là vùng đất đã có nền văn hóa từ
lâu đời. Khoảng 2000 năm TCN đến đầu công nguyên; người Indonesian đã đến
Nam Bộ và khai phá, kiến lập nên nền văn hóa Đồng Nai thời tiền sử với các du tích
như di tích Cầu Sắt, Hàng Gòn và những hiện vật và các công cụ sản xuất nông
nghiệp. Sau đó, Nam Bộ đã có trung tâm thương mại khá phồn vinh là Óc Eo. Thời
điểm người Việt tới khai phá chỉ mới hơn ba trăm năm trở lại đây, khi đó vùng biển
đảo Nam Bộ vẫn là một vùng đất vừa hoang dã vừa hào phóng.thiên nhiên ưu đãi

nhiều sản vật. Với hai đặc điểm này của thiên nhiên, đã góp phần tạo nên tính cách
đặc thù của cư dân vùng Tây Nam Bộ. Theo thời gian đã góp phần làm thành một
nền văn hóa Nam Bộ. Đây là vùng văn hóa mang tính tổng hợp, không thuần Việt,
vùng đất mới, tươi trẻ và năng động. Biển cả làm nguồn sống chính cho cộng đồng
dân cư ở nơi đây.
Về cách thức hoạt động sản xuất, ta thấy, hoạt động sản xuất ở Nam Bộ mang
đặc trưng của vùng đồng bằng châu thổ với tính sông nước rõ nét.Nhờ hệ thống
kênh, rạch, mương, rãnh… vô cùng chằng chịt và thuận lợi nên Người Nam Bộ
thường kết hợp canh tác giữa ruộng và vườn. Hoạt động ngư nghiệp qua việc kết
hợp nuôi cá, tôm trên ruộng lúa hoặc nuôi trồng theo kiểu vuông cá, vuông tôm
được phát triển mạnh. Nơi đây việc khai thác đánh bắt cá ở các ngư trường trên biển
còn bà nguồn sống chính của nhiều ngư dân làng chài ven biển và trên đảo.Người
Nam Bộ còn nuôi chim, cò, ong mật trong vườn trái cây, rừng tram (tạo thành
những rừng tràm, sân chim)… Nổi tiếng là Sân chim Vàm Hồ nằm trên Cù lao Lá.
Được hình thành nên những dãy rừng ngập mặn rộng hàng chục hecta xuôi theo
dòng Ba Lai. Đây là nơi sinh sống của rất nhiều loài chim, nhất là cò trắng, cò
ngang nhỏ, vạc, diệc xám.Vườn Quốc gia Tràm Chim Đồng Tháp nổi tiếng nhất cả
nước. Nơi đây được xem là khu dự trữ sinh quyển Ramsar thứ 2.000 của thế
giới.Nơi đây có cảnh quan thiên nhiên tuyệt đẹp với sông nước mênh mang, những
rừng tràm ngút ngàn và thảm thực vật vô cùng phong phú và đa dạng.
20


Sông nước nơi đây còn là tiền đề phát triển các nghề buôn bán trên sông, vận tải
đường sông.Phương tiện đi lại và vận chuyển chủ yếu là đường thủy, phương tiện là
ghe xuồng các loại.Cư ngụ giữa vùng sông nước, dù nhà nghèo ít nhất cũng có một
chiếc xuồng ba lá. Xuồng ba lá với đặc điểm nhỏ gọn, dễ luồng lách và cách rạch nhỏ
đã trở thành biểu tượng của văn hóa sông nước, xứ ruộng sình kinh ngập, mùa mưa lũ
kéo dài tới 6 tháng mỗi năm.Nhiều người vẫn nhớ câu ca được cải biên từ một điệu lý
để thấy chiếc xuồng ba lá gắn bó trong sinh hoạt với người dân nơi đây.


Nhà anh cách nhà em hai kinh một rạch
Anh ngó thấy em tóc dài buông hờ bà ba tím
Anh nghèo chưa sắm xuồng ba lá
Chẳng đành lội kinh dính sình sang bển gặp em Thì
mai anh sang nhà Năm Cua mượn xuồng ba lá.

Việc giao thương của vùng cũng mang đặc thù sông nước.Từ xưa, các trung
tâm giao thương lớn của vùng đều được hình thành ven bờ sông rạch, thuận lợi cho
việc vận chuyển hàng hoá nhất là ở những ngã ba sông.Đặc biệt ở miền Tây còn có
các chợ nổi mà toàn bộ hoạt động đều diễn ra trên sông nước.Bên cạnh đó, tại đây
nhiều ngành nghề thủ công nghiệp, thương nghiệp cũng đã hình thành để đáp ứng
cho nhu cầu hoạt động nông nghiệp.
Về hình thức tổ chức gia đình, làng xóm và nơi cư trú; Đến Nam Bộ để khai
hoang lập ấp, người Việt cũng theo truyền thống để tổ chức quần cư thành làng ấp.
Tuy nhiên, về nội dung và hình thức, làng ấp của người Việt Nam Bộ có nhiều điểm
khác biệt với làng quê ở đồng bằng Bắc Bộ và Trung Bộ. Các thành phần trong cư
dân cũng thường biến động, do đó xét về mối quan hệ thì dù có sự gắn bó nhưng
vẫn lỏng lẻo hơn ở Bắc Bộ và Trung Bộ. Những người từ nhiều vùng đất khác nhau
đến sinh sống tại một ngôi làng và nhanh chóng hòa nhập, gắn bó nhưng cũng có
thể nhanh chóng dời chỗ ở, đi tìm làng khác để sinh sống.Kẻ đến người đi đổi chỗ
cho nhau, nên không có sự phân biệt đáng kể giữa dân chính cư với dân ngụ cư.
Tiện việc đi lại, làng ấp ở Nam Bộ thường hình thành dọc theo kinh rạch hoặc trục

21


lộ, không có luỹ tre làng đóng kín. Do đó, tính cố kết cộng đồng của làng ấp nơi đây
lỏng lẻo hơn làng quê ở đồng bằng Bắc Bộ và Trung Bộ.
Đối với nơi cư trú, người Nam Bộ thường cất nhà dọc theo các tuyến sông thì

có cọc cắm xuống lòng kênh rạch. Thành phần vật liệu của nhà cửa ở Nam Bộ
thường được lấy từ thiên nhiên và chủ yếu là các vật liệu tự nhiên của vùng sông
nước như tràm, đước, chà là, bần, tre, mít, sú, vẹt, dừa nước…Đặc trưng nơi đây
chính là nhà lá, được làm bằng lá dừa. Nhà thậm chí là không có cửa, thể hiện một
lối tư duy khoáng đạt, rộng mở, đầy lòng mến khách. Với nhà của người Khmer
thường là nền đất, lợp lá và nhiều nhà làm thành một “phum”, nhiều “phum” họp
thành một “sóc”. Thêm vào đó, vì mỗi năm lại có một mùa nước nổi và vì địa hình
thấp mà ở Nam Bộ trước đây cũng có nhiều nhà sàn. Đặc biệt, xuồng ghe ở Nam Bộ
không chỉ là phương tiện di chuyển, mưu sinh mà còn là nhà, là nơi cư trú của nhiêu
cư dân làm nghề đò dọc, nuôi cá và bán buôn bán trên sông.
Về ẩm thực, bữa ăn của người Nam Bộ thiên về dư dật, phong phú về với
món ăn từ rau và cá. Trong đó, người Nam Bộ rất thích hải sản nên đã tạo ra những
món ăn rất đặc trưng như canh chua cá kèo, lươn um lá nhàu, ốc bươu luộc hèm,
mắm sống, mắm chưng, lẩu mắm…Khẩu vị của người Nam Bộ nói chung và miền
Tây nói riêng cũng rất khác biệt: Gì ra nấy! Mặn thì phải mặn quéo lưỡi, ăn cay thì
phải gừng già, cũng không thể thiếu ớt, mà ớt thì chọn loại ớt cay xé, hít hà, ngọt thì
ngọt như chè….Nói đến cay mà không đề cập và nghiên cứu khẩu vị của người
Nam khi ăn tiêu hột hoặc tiêu xay là cả một sự thiếu sót, bởi tiêu đâu chỉ là cay mà
còn ngọt. Họ chế biến rất nhiều món ăn khác nhau từ một loại thực phẩm, điển hình
như với cá lóc, người Nam có thể chế biến ra hơn 20 món khác nhau như canh chua
cá lóc, cá lóc nướng trui, mắm cá lóc, khô cá lóc, cá lóc kho hột vịt, cháo cá lóc, cá
lóc chiên cháy… Kế đến, từ một món ăn người ta có thể chế biến bằng nhiều loại
thực phẩm khác nhau ví dụ như chỉ với món kho đã có cá lóc kho, cá trê kho, cá hủn
hỉn kho tiêu, cá sặc kho, cá chạch kho, cá rô kho, cá lòng ròng kho… còn có cả gà
kho và dừa kho nữa. Sự độc đáo trong chế biến còn ở chỗ cũng là kho nhưng người
Nam Bộ có nhiều cách kho khác nhau, như: kho tiêu, kho tộ, kho quẹt, kho khô, kho

22



×