Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Những nguyên tắc của chủ nghĩa Mác – Lênin trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo và sự vận dụng nguyên tắc này của Đảng và nhà nước ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (301.36 KB, 14 trang )

MỞ ĐẦU
Việt Nam là quốc gia có nhiều tôn giáo cùng tồn tại lâu đời trong lịch sử
của dân tộc, có tôn giáo nội sinh và có tôn giáo được du nhập từ bên ngoài vào.
Trong những năm qua tôn giáo ở Việt Nam phát triển phong phú và đa dạng.
Bên cạnh đó cũng xảy ra không ít những mâu thuẫn. Vấn đề tôn giáo là một vấn
đề hết sức nhạy cảm, nếu không giải quyết vấn đề này một cách khéo léo và
đúng đắn thì sẽ dẫn đến những hậu quả lớn.Để tìm hiểu sâu hơn về vấn đề tôn
giáo, em xin chọn đề 9: “Những nguyên tắc của chủ nghĩa Mác – Lênin trong
việc giải quyết vấn đề tôn giáo và sự vận dụng nguyên tắc này của Đảng và
nhà nước ở Việt Nam hiện nay.”
NỘI DUNG
I. TÔN GIÁO VÀ NHỮNG NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA
MÁC – LÊNIN TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ VỀ TÔN GIÁO
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về tôn giáo
a. Định nghĩa tôn giáo
Tôn giáo là một hiện tượng xã hội ra đời rất sớm trong lịch sử nhân loại
và tồn tại phổ biến ở hầu hết các cộng đồng người trong lịch sử hàng ngàn năm
qua.Nói chung, bất cứ tôn giáo tôn giáo cùng với những hoạt động mang tính
chất nghi thức tín ngưỡng của nó.
Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, “tất cả mọi tôn giáo chẳng qua
chỉ là sự phản ánh hư ảo – nào, với hình thái phát triển đầy đủ của nó, cũng đều
bao gồm: ý thức tôn giáo, (thể hiện qua quan niệm về các đấng thiêng liêng cùng
những tín ngưỡng tương ứng) và hệ thống tổ chức vào đầu óc của con người –
của những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ là sự
phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế đã mang hình thức những lực
lượng siêu trần thế”.
b. Nguồn gốc, bản chất của tôn giáo
Nguồn gốc của tôn giáo: trong lịch sử xã hội loài người, tôn giáo xuất
hiện từ rất sớm.Nó hoàn thiện và biến đổi cùng với sự biến đổi của những điều
kiện kinh tế - xã hội, văn hóa, chính trị. Tôn giáo ra đời bởi nhiều nguồn gốc
1




khác nhau nhưng cơ bản là từ các nguồn gốc kinh tế - xã hội, nhận thức và tâm
lý.Khi trình độ con người thấp kém, bất lực trước sức mạnh của tự nhiên, của xã
hội con người đặt hi vọng vào những lực lượng siêu nhiên. Khi những hiện
tượng tự nhiên, xã hội không thể giải thích được, thay vào đó người ta giải thích
bằng tôn giáo. Tôn giáo góp phần bù đắp những hụt hẫng trong cuộc sống, nỗi
trống vắng trong tâm hồn, xoa dịu nỗi đau của con người.
Bản chất của tôn giáo: Tôn giáo là sản phẩm của con người, gắn với
những diều kiện tự nhiên và lịch sử cụ thể, xác định. Về bản chất, tôn giáo là
một hiện tượng xã hội phản ánh sự bế tắc, bất lực của con người trước tự nhiên
và xã hội. Tuy nhiên, trong ý thức tôn giáo cũng chứa đựng nhiều giá trị phù
hợp với đạo đức, đạo lý của con người.
2. Nguyên nhân tồn tại của tôn giáo trong xã hôi chủ nghĩa:
Trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và trong xã hội chủ nghĩa, tôn
giáo vẫn còn tồn tại. Điều đó có nhiều nguyên nhân, trong đó có các nguyên
nhân chủ yếu sau:
- Nguyên nhân nhận thức: trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và
trong xã hội chủ nghĩa vẫn còn nhiều hiện tượng tự nhiên, xã hội và của con
người mà khoa học chưa lý giải được, trong khi đó trình độ dân trí lại vẫn chưa
thực sự được nâng cao.Do đó, trước những sức mạnh tự phát của giới tự nhiên
và xã hội mà con người vẫn chưa thể nhận thức và chế ngự được đã khiến cho
một bộ phận nhân dân đi tìm sự an ủi, che chở và lý giải chúng từ sức mạnh của
thần linh.
- Nguyên nhân kinh tế: Trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, nền
kinh tế vẫn còn tồn tại nhiều thành phần kinh tế với những lợi ích khác nhau của
giai cấp, tầng lớp xã hội. Trong đời sống hiện thực, sự bất bình đẳng về kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội vẫn còn diễn ra, sự cách biệt khá lớn về đời sống vật
chất, tinh thần giữa các nhóm dân cư còn tồn tại phổ biến.Do đó, những yếu tố
may rủi, ngẫu nhiên vẫn tác động mạnh mẽ đến con người, làm cho con người

dễ trở nên thụ động với tư tưởng nhờ cậy cầu mong vào những lực lượng siêu
nhiên.
2


- Nguyên nhân tâm lý: Tín ngưỡng, tôn giáo đã tồn tại lâu đời trong lịch sử
nhân loại, đã trở thành niềm tin, lối sống, phong tục tập quán, tình cảm của một
bộ phận đông đảo quần chúng nhân dân qua nhiều thế hệ. Bởi vậy, cho dù trong
tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và trong xã hội chủ nghĩa đã có những biến
đổi mạnh mẽ về kinh tế, chính trị, xã hội, song tôn giáo vẫn không thể biến đổi
ngay cùng với tiến độ của những biến đổi kinh tế - xã hội mà nó phản ánh.Điều
đó cho thấy, trong mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, ý thức xã
hội thường có tính bảo thủ hơn so với sự biến đổi của tồn tại xã hội, trong đó ý
thức tôn giáo thường lại là yếu tố mang tính chất bền vững nhất trong đời sống
tinh thần của mỗi con người, của xã hội.
- Nguyên nhân chính trị - xã hội: Xét về mặt giá trị, có những nguyên tắc
của tôn giáo phù hợp với chủ nghĩa xã hội, với chủ trương, đường lối, chính
sách của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Đó là những giá trị đạo đức, văn hóa với
tinh thần nhân đạo, hướng thiện... đáp ứng được nhu cầu của một bộ phận quần
chúng nhân dân.Chính vì thế, trong một chừng mực nhất định tôn giáo có sức
thu hút mạnh mẽ đối với một bộ phận quần chúng nhân dân.Mặt khác, những thế
lực phản động lợi dụng tôn giáo như một phương tiện để chống phá sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội.
- Nguyên nhân văn hóa: Trong thực tế sinh hoạt văn hóa xã hội, sinh hoạt
ín ngưỡng tôn giáo đã đáp ứng được phần nào nhu cầu văn hóa tinh htaafn của
cộng đồng xã hội và trong một mức độ nhất định, có ý nghĩa giáo dục ý thức
cộng đồng, phong cách, lối sống cuả mỗi cá nhân cộng đồng.Về phương diện
sinh hoạt văn hóa, tôn giáo thường được thực hiện dưới hình thức là những nghi
lễ tín ngưỡng cung với những lời răn theo chuẩn mực đạo đức phù hợp với quan
niệm của mỗi loại tôn giáo.Những sinh hoạt văn hóa có tính chất tín ngưỡng, tôn

giáo ấy đã thu hút một bộ phận quần chúng nhân dân xuất phát từ nhu cầu văn
hóa tinh thần, tình cảm cuả họ.
Trên đây là những nguyên nhân cơ bản khiến tôn giáo vẫn còn tồn tại trong
tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và trong xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, cùng
3


với tiến trình đó, tôn giáo cũng có những biến đổi cùng sự thay đổi của những
điều kiện kinh tế - xã hội, với quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.
3. Nguyên tắc của chủ nghĩa Mác – Lênin trong giải quết vấn đề tôn giáo.
Tín ngưỡng, tôn giáo là những vấn đề nhạy cảm và phức tạp. Do đó, những
vấn đề nảy sinh từ ton giáo cần phải được xem xét, giải quyết hết sức thận trọng,
cụ thể và chuẩn xã, có tính nguyên tắc với những phương thức linh hoạt theo
quan điểm của chủ nghĩa Mac – Lênin.Khi giải quyết vấn đề tôn giáo cần nắm
vững các nguyên tắc cơ bản sau:
- Thứ nhất: giải quyết những vấn đề phát sinh từ tôn giáo trong đời sống xã
hội phải gắn liền với quá trình cải tạo xã hội cũ, xay dựng xã hội mới. Chủ nghĩa
Mac – Lênin và hệ tư tưởng tôn giáo có sự khác nhau về thế giới quan, nhân
sinh quan và con đường mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân. Vì vậy, khắc phục
dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo phải gắn liền với quá trình cải tạo xã
hội cũ, xây dựng xã hội mới
- Thứ hai: tôn trọng tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân
dân.Khi tín ngưỡng tôn giáo còn là nhu càu tinh thần của một ộ phận nhân dân
thì nhà nước xã hội chủ nghĩa phải tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng
và không tín ngưỡng của mọi công dân.Công dân có tôn giáo hay không có tôn
giáo đều bình đẳng trước pháp luật, đều có quyền lợi và nghĩa vụ như nhau.Cần
phát huy những giá trị tích cực của tôn giáo, nghiêm cấm mọi hành vi vi phạm
quyền tự do tín ngưỡng và không tôn giáo của công dân.
- Thứ ba: thực hiện đoàn kết những người có tôn giáo với những người
không có tôn giáo, đoàn kết các tôn giáo, đoàn kết những người theo tôn giáo

với những người không theo tôn giáo, đoàn kết toàn dân tộc xây dựng và bảo vệ
đất nước.Nghiêm cấm mọi hành vi chia rẽ cộng đồng vì lý do tín ngưỡng tôn
giáo.
- Thứ tư: cần phân biệt hai mặt nhu cầu tính ngưỡng, tôn giáo và lợi dụng
tính ngưỡng tôn giáo. Vì có sự phân biệt được hai mặt đó mới tránh khỏi khuynh
hướng tả hoặc hữu trong quá trình quản lý, ứng xử với những vấn đề nảy sinh từ
tín ngưỡng, tôn giáo. Nhu cầu tính ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần chính
4


đáng của đồng bào có đạo sẽ còn tồn tại lâu dài, phải được tôn trọng và bảo đảm.
Mọi biểu hiện vi phạm quyền ấy là trái với tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin.
- Năm là: phải có quan điểm lịch sự - cụ thể khi giải quyết vấn đề tôn giáo.
Trên đây là năm nguyên tắc quan trọng cơ bản cần phải chú ý khi giải
quyết vấn đề về tôn giáo để có thể giúp đất nước phát triển ổn định và hòa bình.
II. VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC –
LÊNIN TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ VỀ TÔN GIÁO CỦA
ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.
Việt Nam là một quốc gia có nhiều tín ngưỡng, tôn giáo cùng tồn tại lâu
đời trong lịch sử của dân tộc. Mặc dù đức tin, giáo lý và sự thờ phụng của đồng
bào theo các tôn giáo khác nhau nhưng đều có điểm tương đồng ở tinh thần dân
tộc, truyền thống yêu nước, truyền thống văn hóa và luôn đồng hành cùng dân
tộc cả trong cách mạng giải phóng dân tộc trước đây cũng như trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Chính vì thế, trong quá trình lãnh đạo
cách mạng, Đảng và Nhà nước ta luôn khẳng định chủ trương, chính sách nhất
quán là tôn trọng, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và tự do không tín
ngưỡng tôn giáo của đồng bào các dân tộc. Nghị quyết Đại hội XI của Đảng đã
khẳng định: “Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không
tín ngưỡng tôn giáo của nhân dân theo quy định của pháp luật”1. Hiến pháp
nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (năm 2013), Điều 24 quy định “1. Mọi người

có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào…
2. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. 3. Không ai
được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo
để vi phạm pháp luật”. Đây là cơ sở pháp lý rất quan trọng để nhân dân ta thực
hiện quyền bình đẳng trong chính sách tự do tôn giáo theo nguyên tắc: bình
đẳng về tín ngưỡng, bình đẳng về quyền lợi, nghĩa vụ (nghĩa vụ tôn giáo, nghĩa
vụ công dân) và bình đẳng về pháp luật.

5


1. Thực tiễn tình hình tôn giáo ở Việt Nam hiện nay:
Tôn giáo tại Việt Nam khá đa dạng, gồm có các nhánh Phật giáo như Đại
thừa, Tiểu thừa, Hòa Hảo..., một số nhánh Kitô giáo như Công giáo Rôma, Tin
Lành, tôn giáo nội sinh như Đạo Cao Đài, và một số tôn giáo khác. Nền tín
ngưỡng dân gian bản địa cho tới nay vẫn có ảnh hưởng nhất định tại Việt Nam.
Ngoài ra, ở Việt Nam còn có một số tôn giáo khác nhưng nó nhỏ lẻ không
đáng kể và còn có một số người không có tôn giáo.
Về mặt tích cực thì tôn giáo là hình thức phản ánh đặc thù, phản ánh hư
ảo thế giới hiện thực, tôn giáo đã góp phần chế ngự các hành vi phi đạo đức. Do
tuân thủ những điều răn dạy về đạo đức của các tôn giáo, nhiều tín đồ đã sống và
ứng xử đúng đạo lý, góp phần làm cho xã hội ngày càng thuần khiết. Ở Việt
Nam giáo phái sống hòa thuận, không có xung đột dẫn đến chiến tranh như một
số nước hồi giáo ở Trung Đông.
Bên cạnh đó thì tôn giáo cũng có một số mặt tiêu cực. Một số người lợi
dụng vào vấn đề tâm linh để lừa gạt người khác như vụ làm giả hài cốt nhằm tạo
lòng tin để chiếm đoạt tài sản của vợ chồng nhà ngoại cảm “rởm” “cậu Thủy”
của Ngân hàng Chiń h sách Xã hô ̣i Viêṭ Nam khoảng 8 tỷ đồ ng, … Còn có một
số kẻ phản động chuyên đi kích động một số bà con giáo dân làm loạn để chống
phá Đảng và Nhà nước ta… .

2.Sự vận dụng của Đảng và Nhà nước ta hiện nay
Chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam được xây dựng trên
quan điểm của chủ nghĩa Mac – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng,
tôn giáo và căn cứ vào đặc điểm tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam.Tư tưởng nhất
quán xuyên suốt của Đảng và Nhà nước Việt Nam là tôn trọng quyền tự do tín
ngưỡng tôn giáo của nhân dân, đoàn kết tôn giáo, hòa hợp dân tộc.Tinh thần đó
được Đảng và Nhà nước Việt Nam thể hiện bằng hệ thống chính sách phù hợp
với từng giai đoạn cách mạng và đã có từ khi mới thành lập Đảng.Trong chỉ thị
của Thường vụ Trung Ương về vấn đề thành lập Hội phản đế Đồng minh ngà
18/11/1930, Đảng đã có tuyên bố đầu tiên về chính sách tôn trọng tự do tín
ngưỡng của quần chúng phải lãnh đạo tưng tập thể sinh hoạt hay tập đoàn của
6


nhân dân gia nhập tổ chức cách mạng để dần dần cách mạng hóa quần chúng và
đảm bảo tự do tín ngưỡng của quần chúng .Chính sách này cũng được Chủ tịch
Hồ Chí Minh đề ra ngay trong phiên họp đàu tiên của Hội đồng chính phủ ngày
3/9/1945 “tín ngưỡng tự do và lương giáo đoàn kết” coi đó là một trong sáu
nhiệm của Nhà nước non trẻ hay trong lời kết thúc buổi ra mắt vào ngày
3/3/1951, Đảng Lao Động Việt Nam đã tuyên bố :vấn đề tôn giáo thì Đảng Lao
động Việt Nam hoàn toàn tôn trọng tự do tín ngưỡng của mọi người”. Ngày
14/6/1955, Chủ tịch Hồ Chí Minh kí sắc lệnh 234-SL ban hành chính sách tôn
giáo của Chính phủ Việt Nam, trong đó ghi rõ “Việc tự do tín ngưỡng, thờ cúng
là một quyền lợi của nhân dân.Chính quyền Dân chủ Cộng hòa luôn tôn trọng
quyền lợi ấy và giúp đỡ nhân dân thực hiện”.
Trong quá trình lãnh đạo cach mạng Việt Nam, Đảng ta luôn có quan
điểm, thái độ rõ ràng về tín ngưỡng, tôn giáo.Báo cáo chính trị tsji Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng năm 1991 đã khẳng định: “ tín ngưỡng, tôn
giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, Đảng và Nhà nước tôn
trọng quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân, thực hiện bình

đẳng, đoàn kết lương giáo và giữa các tôn giáo.Khắc phục mọi thái độ hẹp hòi,
thành kiến, phân biệt đối xử với đồng bào có đạo, chống những hành vi lợi dụng
tôn giáo phá hoại độc lập dân tộc và đoàn kết dân tộc.
Chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước đối với tín ngưỡng, tôn
giáo từng bước được hoàn thiện, đến đầu thập kỉ 90, trong những năm đầu thực
hiện công cuộc đổi mới, bộ Chính trị ra Nghị quyết số 24-NQ/TƯ về công tác
tôn giáo trong tình hình mới, ghi đầu son về sự đổi mới đường lối, chính sách tín
ngưỡng, tôn giáo.những quan điểm của Đảng và Nhà nước ta từ ngày thành lập
đến nay đã chứng minh rằng Đảng và Nhà nước coi quyefn tự do tôn giáo là một
nhu cầu quan trọng của con người, là một trong những quyền công dân, quyền
chính đáng của con người.Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta luôn tôn trọng đức tin
của đồng bào theo tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau, tôn trọng qyền được theo bất
cứ tôn giáo nào cũng như quyền không theo tôn giáo nào, mong muốn cho người
dân theo tôn giáo được “ phần hồn thong dong, phần xác ấm no”.
7


Tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một quyền nhân thân cơ bản của công dân
cũng được đề cập trong bộ luật dân sự, được bảo vệ bằng pháp luật và được cụ
thể hóa trong các văn bản quy phạm pháp luật ngày càng ở mức đọ cao hơn,
hoàn thiện hơn.Sau 5 năm thực hiện nghị định số 26/1999 NĐ-CP, nagyf
19/4/1999, về các hoạt động tôn giáo được thay thế bằng Pháp lệnh tín ngưỡng
tôn giáo.Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo ra đời là một minh chứng, một bước tiến
và một lần nữa tiếp tục khẳng định nguyên tắc quan trọng chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam là tôn trọng tự do tín ngưỡng tôn giáo.
3. Chủ trương đường lối tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta hiện nay.
Hoạt động tôn giáo và công tác tôn giáo trong giai đoạn mới phải nhằm
tăng cường đoàn kết đồng bào các tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc,
phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc,

vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Về quan
điểm, chính sách:
Một là, tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân
dân đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta.
Hai là, Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết dân tộc,
không phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo. Đồng bào các tôn giáo là
bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Ba là, nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần
chúng. Lấy mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh
làm điểm tương đồng để gắn bó đồng bào các tôn giáo với sự nghiệp chung. Mọi
công dân không phân biệt tín ngưỡng, tôn giáo đều có quyền, nghĩa vụ xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc. Công tác vận động quần chúng các tôn giáo nhằm động viên
đồng bào nêu cao tinh thần yêu nước, ý thức bảo vệ độc lập và thống nhất Tổ
quốc thông qua việc thực hiện tốt các chính sách kinh tế - xã hội, an ninh, quốc
phòng, bảo đảm lợi ích vật chất và tinh thần của nhân dân nói chung, trong đó có
đồng bào các tôn giáo.
8


Bốn là, công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị đặt dưới
sự lãnh đạo của Đảng. Nước ta hiện nay có hàng chục triệu tín đồ, chức sắc, nhà
tu hành của các tôn giáo, phân bổ ở mọi vùng, miền, địa phương trong cả nước.
Vì vậy, công tác tôn giáo có liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội và
nhiều cấp, nhiều ngành.
Năm là, vấn đề theo đạo và truyền đạo. Mọi tín đồ đều có quyền tự do
hành đạo tại gia đình và cơ sở thờ tự hợp pháp theo quy định của pháp luật. Các
tổ chức tôn giáo được Nhà nước công nhận, hoạt động theo pháp luật và được
pháp luật bảo hộ, được mở trường đào tạo chức sắc, nhà tu hành, xuất bản kinh
sách và giữ gìn, sửa chữa, xây dựng cơ sở thờ tự tôn giáo,.. của mình theo đúng

quy định của pháp luật. Việc truyền đạo cũng như mọi hoạt động tôn giáo khác
đều phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; không được lợi dụng tôn giáo tuyên
truyền tà đạo, hoạt động mê tín dị đoan, không được ép buộc người dân theo
đạo. Nghiêm cấm các tổ chức truyền đạo, người truyền đạo và các cách thức
truyền đạo trái phép, vi phạm các quy định của Hiến pháp và pháp luật.
4. Phương hướng hoạt động trong thời gian tới.
Để thực hiện tốt chính sách tôn giáo theo tinh thần Nghị quyết Đại hội
Đảng, trong những năm tới, theo tác giả cần làm tốt những nhiệm vụ cụ thể sau:
Một là, thực hiện có hiệu quả chủ trương, chính sách và các chương trình
đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng của Đảng, Nhà nước, quan
tâm đúng mức đối với các vùng trọng điểm: Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam
Bộ, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và dân trí cho nhân dân
trong đó có đồng bào các tôn giáo.
Hai là, nâng cao nhận thức, thống nhất quan điểm chỉ đạo của cấp ủy
Đảng, chính quyền, các ban, ngành, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể đối với công
tác tôn giáo. Trên cơ sở triển khai nghiêm túc các chỉ thị, nghị quyết của Đảng
về tôn giáo, trong cán bộ, đảng viên và nhân dân làm cho cán bộ, đảng viên và
nhân dân làm cho cán bộ, đảng viên nhận thức rõ yêu cầu nhiệm vụ của công tác
tôn giáo trong tình hình mới.
9


Ba là, đẩy mạnh công tác tham mưu, từng bước hoàn thiện cơ chế, chính
sách đối với công tác tôn giáo, tích cực tham gia xây dựng các văn bản pháp luật
về tôn giáo, đồng thời bổ sung kịp thời những chính sách đối với tôn giáo ở
những vùng, miền khác nhau
Bốn là, thực hiện tốt hơn công tác quản lý Nhà nước về tôn giáo, tạo điều
kiện giúp đỡ Đại hội, Hội nghị thường niên của các tổ chức tôn giáo, xem xét
cho đăng ký hoạt động một số tổ chức tôn giáo theo quy định của pháp luật. Xử
lý kịp thời các trường hợp vi phạm pháp luật và mọi hoạt động lợi dụng tín

ngưỡng, tôn giáo để kích động, chia rẽ tôn giáo, dân tộc, gây rối, xâm phạm an
ninh quốc gia; góp phần đảm bảo an ninh chính trị ở địa phương.
Năm là, tăng cường công tác kiểm tra thực hiện chủ trương, các kết luận
của Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng và Chỉ thị của Thủ tướng Chính
phủ đối với công tác tôn giáo hiện nay. Xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở
vững mạnh, nhất là đối với vùng đồng bào dân tộc, vùng đông tôn giáo.
Sáu là, Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội
phối hợp chặt chẽ với các ngành chức năng tuyên truyền sâu rộng các chủ
trương, chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước trong chức sắc, tín đồ các tôn
giáo.
Bảy là, công tác đối ngoại tôn giáo và đấu tranh chống lợi dụng tôn giáo
trong tình hình hiện nay, cần chủ động và tăng cường hơn nữa sự phối hợp giữa
các bộ, ban, ngành, các tỉnh, thành trong việc đối thoại và xử lý những vấn đề
tôn giáo nhạy cảm đang được các thế lực thù địch lợi dụng chiến lược “diễn biến
hòa bình” để xuyên tạc tình hình tôn giáo và chính sách tự do tín ngưỡng, tôn
giáo ở Việt Nam, gây sức ép với Nhà nước về tự do tôn giáo, dân chủ, nhân
quyền.
Tám là, tiếp tục kiện toàn bộ máy làm công tác tôn giáo của Đảng , chính
quyền, mặt trận tổ quốc, các đoàn thể nhân dân từ Trung ương đến cơ sở đáp
ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ làm công tác tôn giáo Đồng thời xây dựng chế độ phu ̣ cấ p ưu đaĩ
cán bô ̣ làm công tác quản lý nhà nước về tôn giáo.
10


KẾT LUẬN
Như vậy, quan điểm của Đảng ta về tôn giáo là rõ ràng, nhất quán, đảm
bảo quyền tự do, dân chủ. Trong khi đó, hiện nay, có những cá nhân, tổ chức
trong và ngoài nước vẫn cho rằng ở Việt Nam người dân không có quyền tự do
tín ngưỡng, tôn của nhân loại, kìm hãm sự phát triển của tư duy con người trong

những bức tường chật hẹp của những sách kinh, giáo điều. Nhưng cũng không
thể không nhắc đến ý nghĩa của tôn giáo như là một phương thuốc giảm đau cho
những con người đang bất lực trước tự nhiên kinh khủng và bí ẩn, đang rên siết
trong gông cùm của nô dịch và đàn áp, bất công. Bởi vậy, khi nghiên cứu về tôn
giáo phải nắm vững quan điểm toàn diện của chủ nghĩa Mác - Lênin, không thể
chỉ xem xét nó một cách phiến diện trong những mặt tiêu cực và hạn chế.
Qua bài tập này, ta còn thấy tôn giáo là một vấn đề hết sức nhạy cảm cần
được giải quyết trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đảng và Nhà nước
Việt Nam đã hiểu được vấn đề tôn giáo rất quan trọng và đã đưa ra những nghị
quyết hợp lí để giải quyết vấn đề này. Việc giải quyết hợp lí vấn đề tôn giáo
giúp cho đất nước ta ổn định và công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa được
thuận lợi hơn.

11


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mac – Lênin, Nhà xuất bản
chính trị quốc gia – sự thật Hà Nội – 2012, Bộ Giáo dục và Đào tạo
2. Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học, Nhà xuất bản chính trị quốc gia năm
2005, Bộ giáo dục và đào tạo.
3. Bài viết “Tôn giáo tại Việt Nam”, />4. Báo Văn hóa Nghệ An, bài viết “ Các ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của đạo
đức tôn giáo Việt Nam”, tác giả Đặng Thị Lan.
5. Bài “Thực hiện chính sách tôn giáo theo tinh thần nghị quyết Đại hội XI của
Đảng” , tác giả Chấn Hưng.
6. Bài “Tôn giáo và chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam theo tinh
thần Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI”, tác giả Đại tá, PGS, TS,
Trần Nam Chuân, Viện Chiến lược Quốc phòng/BQP

PHỤ LỤC


12


Trong số các tôn giáo ở Việt Nam, Phật giáo có số tín đồ đông đảo nhất.
Theo thống kê dân số năm 2009 thì số tìn đồ Phật Giáo là 6.802.318 người trong
đó 2.988.666 tín đồ ở thành thị và 3.813.652 tín đồ ở nông thôn.
Công giáo Rôma (hay Thiên Chúa giáo La Mã), lần đầu tiên tới Việt bởi
những nhà truyền giáo Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, trước khi Việt Nam là một
thuộc địa của Pháp. Theo thống kê năm 2009 ở Việt Nam có khoảng 5.677.086
tín đồ Công giáo trong đó có 1.776.694 tín đồ ở khu vực thành thị và 3.900.392
ở các khu vực nông thôn, địa phương có đông đảo tín đồ Công giáo nhất là tỉnh
Đồng Nai với 797.702 tín đồ, và khoảng 6.000 nhà thờ tại nhiều nơi trên đất
nước.
Đạo Hoà Hảo phát triển ở miền Tây Nam Bộ. Theo thống kê năm 2009 có
khoảng 1.433.252 tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo khiến tôn giáo này trở thành tôn
giáo có số tín đồ đông thứ ba tại Việt Nam. tín đồ Phật giáo Hòa Hảo tập trung
chủ yếu ở miền Tây Nam Bộ (Đặc biệt là An Giang với 936.974 tín đồ Phật
Giáo Hòa Hỏa là tỉnh có số tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo đông nhất cả nước)
Cao Đài, hay Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, là một tôn giáo bản địa Việt Nam
do Ngô Văn Chiêu, Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc thành lập năm 1926, với
trung tâm là Tòa Thánh Tây Ninh. Theo điều tra Ban Tôn giáo chính phủ, có 3
triệu người tự xem mình là tín đồ Cao Đài phân bố tại 39 tỉnh thành cả nước.
Tin Lành được truyền vào Việt Nam năm 1911. Năm 2009, số tín đồ Tin
Lành ở Việt Nam là 734.168 chủ yếu tập trung ở khu vực Tây Nguyên và Tây
Bắc và là tôn giáo chính của nhiều dân tộc thiểu số. Tỉnh có đông đảo tín đồ Tin
Lành nhất là Đăk Lăk với 149.526 tín đồ.
Hầu hết tín đồ Hồi giáo và Hindu giáo tại Việt Nam là người Chăm.
Người ta cho rằng Hồi giáo đã được truyền vào Việt Nam là khoảng thế kỉ 10,
11, ở cộng đồng người Chăm. Năm 2009, tại Việt Nam có khoảng 75.268 tín đồ

Hồi giáo.
Một số hình ảnh về tôn giáo:

13


Phật giáo

Công giáo Roma

Đạo Hòa Hảo

Đạo Tin Lành

Hồi Giáo
Đạo Cao Đài

14



×