Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

người kể chuyện trong tự truyện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (84.57 KB, 11 trang )

I.

Người kể chuyện trong tác phẩm tự truyện

1.1.

Khái niệm người kể chuyện

Người kể chuyện/ narrateur là nhân tố trung tâm của lý thuyết tự sự học.
Bất kì nhà tự sự nào dù thuộc trường phái kinh điển hay hậu kinh điển đều dành
một phần quan trọng cho hệ thống lý thuyết của mình để diễn giải về nhân tố
này.
Người kể chuyện hay còn gọi là người trần thuật là yếu tố quan trọng
trong văn bản, thuộc thế giới miêu tả. Đó là một người do nhà văn tạo ra, thay
mặt nhà văn để thực hiện hành vi trần thuật.
Có nhiều quan niệm khác nhau về người trần thuật hay người kể chuyện,
các nhà nghiên cứu thế giới đã đưa ra một số khái niệm về người trần thuật
Theo Mieko Bal: “Người trần thuật là một chủ thể ngôn ngữ, một chức
năng mà không phải con người cụ thể, tự biểu hiện mình trong ngôn ngữ thiết
lập nên văn bản, cũng không phải là tác giả tiểu sử trần thuật”. Pospelov cho
rằng người kể chuyện đóng vai trò là người môi giới giữa các hiện tượng được
miêu tả và người nghe, người đọc là người tiếp nhận, cắt nghĩa và lý giải các sự
việc xảy ra. Todorov cho rằng: “Người kể chuyện là nhân tố chủ động trong việc
kiến tạo thế giới hư cấu, chính người kể chuyện là hiện thân của những khuynh
hướng mang tính xét đoán và đánh giá”.
Dù định nghĩa bằng những cách khác nhau nhưng đều khẳng định chức
năng và vai trò quan trọng của nhân tố này trong truyện kể. Một truyện kể thành
công hay không, phụ thuộc rất nhiều vào khả năng người trần thuật. Chọn một
chỗ đứng cho người trần thuật (giới tính, sự trải nghiệm và nhất là giọng điệu và
ngôn ngữ), đó cũng chính là sự bộc lộ tài năng sáng tạo của tác giả.
1. 2. Đặc điểm người kể chuyện


Người kể chuyện là sản phẩm của sự sáng tạo nghệ thuật, là một công cụ
do nhà văn hư cấu với mục đích thực hiện ý đồ trần thuật của tác giả. Cách tác
giả lựa chọn hình thức kể chuyện hoàn toàn không phải là sự ngẫu nhiên mà nó
mang tính quan niệm cao về nghệ thuật, dựa trên quan điểm, cách nhìn của tác


giả nhằm mục đích chuyển tải tư tưởng, nội dung một cách hiệu quả của tác giả
tác.
Xét theo lịch sử ra đời của hình thức kể chuyện – ngôi kể có hai kiểu phổ
biến sau:
- Người kể chuyện ở ngôi thứ nhất ra đời rất muộn, khoảng đầu thế kỉ
XXI xuất hiện ở Châu Âu và phổ biến đến ngày nay. Đây là thuật ngữ được nhà
nghiên cứu Genette đưa ra vào năm 1972. Kể chuyện với ngôi thứ nhất bộc lộ
những ý kiến chủ quan của tác giả qua nhân vật, dễ dàng thể hiện tư tưởng, quan
niệm của tác giả về thế giới, con người.
- Người kể chuyện ở ngôi thứ ba là ngôi kể lâu đời nhất ngự trị trong văn
chương thế giới xuất hiện từ văn học dân gian, văn học cổ trung đại, và tiếp tục
phát triển đến ngày nay với những kĩ thuật canh tân của các nhà văn nhằm làm
mới ngôi kể này. Đây là hình thức trần thuật mang cách nhìn khách quan về thế
giới và con người của tác giả.
Cùng với sự phát triển của xã hội, khi nhận thức của con người ngày càng
cao, người đọc có nhu cầu tiếp xúc với những tác phẩm văn học có giá trị nhiều
mặt, thì việc cách tân, đổi mới cách thức kể chuyện của nhà văn là yêu cầu sống
còn, bởi nếu không tạo nên được sự độc đáo, đặc biệt hấp dẫn độc giả thì nhà
văn xem như đã chết. Trong bối cảnh đó, người kể chuyện không đơn thuần chỉ
sử dụng hình thức kể để trình bày câu chuyện mà quan trọng hơn là cách kể. Tài
năng người kể - hay trình độ tư duy của tác giả được bộc lộ qua quá trình phối
kết các điểm nhìn, tức là tạo nên hệ thống điểm nhìn mới để chinh phục độc giả.
Điểm nhìn hay còn gọi là tiêu cự - vị trí, điểm quan sát người kể chuyện
chọn để nhìn hoặc thực hiện hành vi trần thuật của mình. Khi tiếp xúc với tác

phẩm người đọc được dẫn dắt từ một hoặc nhiều điểm nhìn nhất định. Thông
thường điểm nhìn được chia thành hai loại: điểm nhìn bên trong và điểm nhìn
bên ngoài. Trong quá trình trần thuật tác giả luôn giữ một khoảng cách nhất định
với độc giả, khoảng cách đó còn được gọi là cự li trần thuật. Theo lý thuyết tự sự
học, từ mối quan hệ giữa người kể chuyện với các dạng tiêu cự có thể chia thành


các kiểu: Tiêu cự hóa zéro, tiêu cự hóa nội tại, tiêu cự hóa ngoại tại, dựa vào đó
có thể chia tiêu cự giữa người kể chuyện và nhân vật thành ba kiểu: Người kể
chuyện > nhân vật, Người kể chuyện = nhân vật, Người kể chuyện < nhân vật.
-

Điểm nhìn bên trong xuất hiện khi người kể chuyện thâm nhập vào

đời sống nội tâm , nhìn thấu những diễn biến tinh vi của nhân vật đó. Điểm nhìn
bên trong gắn với ngôi thứ nhất. Mục đích sử dụng hình thức trần thuật này tác
giả nhằm diễ đạt những diễn biến nội tâm của nhân vật. Trần thuật ngôi thứ nhất
với điểm nhìn bên trong có tác dụng tạo góc nhìn khách quan không kém gì khi
sử dụng ngôi kể thứ ba. Tiêu cự ở hình thức trần thuật này thường là: Người kể
chuyện = nhân vật, Người kể chuyện < nhân vật.
-

Điểm nhìn bên ngoài là vị trí quan sát khách quan của người kể,

điểm nhìn này gắn liền với hình thức kể theo ngôi thứ ba. Ở vị trí này người kể
cố gắng kể những gì vốn có trong cuộc sống thường ngày. Tiêu cự ở hình thức
trần thuật này thường là: Người kể chuyện > nhân vật. Người kể chuyện đóng
vai trò là thượng đế trong quá trình diễn biến câu chuyện.
Để tăng sức hấp dẫn của cốt truyện tác giả thường phối kết trong ngoài
các điểm nhìn với nhau, điều này khiến các điểm nhìn di động tạo có khi tạo nên

sức hấp dẫn với độc giả. Khả năng xử lý hệ thống các điểm nhìn tạo nên sức lôi
cuốn mạnh mẽ, lý thuyết tự sự học ngày nay xem kĩ thuật xử lý điểm nhìn là một
trong những vấn đề then chốt.
Quan niệm về người kể chuyện của M.Bakhtin và G.Genette
a. Quan niệm về người kể chuyện của Bakhtin
Bakhtin khi bàn về tiểu thuyết Doxtoiepxki đã xem điểm nhìn như là “cái
lập trường mà xuất phát từ đó câu chuyện được kể, hình tượng được miêu tả hay
sự việc được thông báo” (Thi pháp tiểu thuyết)
b. Quan niệm về người kể chuyện của G.Genette
Để nhận diện người kể chuyện, Genette dựa trên mối quan hệ giữa người
thuật chuyện và câu chuyện mà anh ta kể lại. Tức là người trần thuật có tham dự


vào câu chuyện với tư cách là vai hành động, vai nhân chứng, trải nghiệm hay
nó đứng ngoài câu chuyện mà nó kể lại?
Genette chống lại quan điểm nhận diện người kể chuyện chỉ đơn thuần
dựa trên ngôi kể (ngôi kể thứ nhất hay ngôi kể thứ ba). Vì theo ông, người kể
chuyện không thể hiển thị ở hình thái ngữ pháp mà là ở thái độ trần thuật. Đó
chính là thái độ và hành động của anh ta đối với câu chuyện do anh ta kể lại. Và
dựa trên mối quan hệ giữa người kể chuyện và câu chuyên, Genette đã nhận diện
ba kiểu:
- Người kể chuyện dị sự - tương ứng với cách hiểu ngôi kể thứ ba
- Người kể chuyện đồng sự - tương ứng với cách hiểu ngôi kể thứ nhất
- Người kể chuyện tự thống chế, ngôi thứ nhất, phần lớn rơi vào thể loại
tự truyện
Người kể chuyện trong thể loại tự truyện
a/ Tự truyện là gì?
. Tự truyện (tiếng Anh:autobiography, tiếng Pháp: autobiographie) là một
thể loại văn học trong đó “tác giả tự kể và miêu tả cuộc đời của bản thân mình”.
Bản thân thuật ngữ “autobiography” đã hàm chứa sự kết hợp ba yếu tố trong một

thể loại (auto: tự, bio: cuộc đời, graphy: viết). Nhân vật chính của tự truyện
chính là tác giả. Người kể chuyện thường trùng với tác giả và với nhân vật
chính. Đây là những sáng tạo nghệ thuật làm cho quá khứ tái sinh. Nhà văn viết
tự truyện như được sống lại một lần nữa đoạn đời đã qua của mình. Thường tập
trung vào quá trình hình thành và lịch sử thế giới nội tâm của người viết trong sự
tương tác với thế giới bên ngoài, vì thế, với thể loại này, tính chất tự bạch, tự
thú, tự vấn... được đẩy tới hạn; ở đó, tác giả giữ vai trò lưỡng trị: vừa là “bị cáo”
vừa là “quan tòa” để phán xét, mổ xẻ chính mình. Tuy nhiên, do độ lùi thời gian
cùng với sự can thiệp trực tiếp, có dụng ý của cái “tôi” người viết, chân dung tác
giả trong tự truyện có độ lệch nhất định so với cuộc đời thật của nhà văn. Chính
sự cách biệt giữa thời gian viết và thời gian được nói tới đã ngăn trở việc người


viết nhìn lại cuộc đời của bản thân mình như một chỉnh thể duy nhất. ở tự
truyện, các sự kiện tiểu sử, đời tư của nhà văn chỉ đóng vai trò cơ sở của sáng
tạo nghệ thuật, là chất liệu hiện thực được tác giả sử dụng với nỗ lực tiếp cận
trạng thái tinh thần thời đại cũng như hiện thực vi tế của tâm hồn con người.
Đây là một thể loại hiện đại, được khai mở bắt đầu từ tác phẩm Tự thú
của Rousseau, được soạn thảo từ 1764 đến 1770, và được xuất bản sau khi ông
qua đời (1782-1789). Theo Philippe Lejeune một nhà lí thuyết pháp về thể loại
này đã định nghĩa “tự thuật” như một “ truyện kể hồi cố bằng văn xuôi mà một
con người có thật kể về cuộc đời riêng của mình, khi nó đặt điểm nhấn lên cuộc
đời cá nhân, đặc biệt điểm nhấn lên lịch sử hình thành nhân cách cá nhân người
tự thuật”
Theo Từ điển văn học đã định nghĩa: “Tự truyện là một thể loại văn học
trong đó tác giả kể truyện cuộc đời mình, nhân vật chính trong tác phẩm chính là
tác giả”. Hoặc “Tự truyện là văn bản bám vào hiện thực, người viết truyện kể lại
như sống lại quá khứqua tâm tưởng và kí ức, cảm tính hay ý thức”.
Lại Nguyên Ân trong 150 thuật ngữ văn học, mục “tự truyện” viết: “Tự
truyện là tác phẩm văn học tự sự, thường được viết bằng văn xuôi trong đó tác

giả kể và miêu tả cuộc đời của bản thân mình”. Ông cũng đề cập đến việc
“người viết tự truyện có khi
cũng vận dụng hư cấu, “thêm thắt” hoặc “sắp xếp lại” các chi tiết của cuộc đời
mình, nhằm làm cho sự trình bày về cuộc đời ấy trở nên hợp lí, nhất quán... Tự
truyện luôn là hành vi khắc phục cái thời gian đã lùi xa, là mưu toan quay về
tuổi thơ, tuổi trẻ, làm sống lại những đoạn đời quan trọng nhất, nhiều kỉ niệm
đẹp nhất, như là sống lại cuộc đời mình từ đầu. Tự truyện, do vậy, thường được
viết vào thời tác giả đã trưởng thành, đã trải qua phần lớn các chặng đường đời”.
b/ Phân biệt tự truyện với một số thể loại gần với nó
* Tự truyện tương đối gần với tiểu thuyết, nhất là những tiểu thuyết Tây
Âu thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19 có những nhân vật kể chuyện ở ngôi thứ nhất số ít
(xưng "tôi"), có tham vọng ghi lại lịch sử tâm hồn con người từ "cái nhìn bên


trong" như Adolphe (1816) của Benjamin Constant, Tự thú của một đứa con của
thời đại (1836) của Alfred de Musset v.v. Các tiểu thuyết của trường phái tự
nhiên chủ nghĩa Nhật Bản thế kỷ 19, như Ie (Gia đình, 1910-1911) của
Shimazaki Tōson và Iri no hotori (Bên con lạch, 1915) của Masamune Hakuchō,
Futon (Tấm đệm, 1907) của Tayama Katai, Hatten (Phát triển, 1911-1912) của
Iwano Hōmei, Fuji (1925-1927) của Tokutomi Roka (tên thật là Tokutomi
Kenjirō). Jioden (tự truyện, 1943-46, xuất bản năm 1947) của Kawakami
Hajime, đều có thể coi là các tác phẩm tiểu thuyết tự thuật. Các tác phẩm tự
truyện trở thành lời "tác giả thuật lại đời mình một cách tự nhiên và trung thực,
mỗi bối cảnh của một giai đoạn trong cuộc đời là một chủ đề xếp thành tiểu
thuyết, và tùy theo mỗi sự việc ấy mà tác giả bình luận hay lý luận để tỏ rõ tư
tưởng, lập trường hay chí hướng của mình", hay nói cách khác, cả về nội dung
và hình thức nghệ thuật, những tác phẩm đó thể hiện rõ rệt chức năng của các tự
truyện.
Philippe Lejeune tác giả của Hiệp ước tự thuật cũng cho rằng nếu ta coi
tiểu thuyết tự thuật nằm ở ranh giới giữa tự truyện (autobiography) và tiểu

thuyết (novel) thì ranh giới đó khá mập mờ và lỏng lẻo để tạo điều kiện cho nhà
văn sáng tạo. Còn Bellemin thì cho rằng: “Người ta có quyền tìm thấy niềm vui
được đọc trong tự truyện một tiểu thuyết thuộc loại đặc biệt, ở đó, nhân vật
chính kiêm người kể chuyện hoàn toàn có thể trở thành một người hư cấu”.Công
trình của T.S Nguyễn Thị Từ Huy về Alain Robbe-Grillet thực sự trở thành “Một
nỗ lực khái niệm” khi tác giả đề cập và giải quyết những vấn đề lí luận trên cơ
sởcác sáng tác đa diện của Robbe-Grille trong “Trò chơi lời nói và mặt nạ”. Trên
thực tế thì hầu như phần lớn các tác giả ban đầu với ý định viết tự truyện về bản
thân mình nhưng sản phẩm lại là một cuốn tiểu thuyết tự thuật. Ở đó, nhà văn
tiểu thuyết hóa đời sống hiện thực, cái tôi và con người mình trong những vay
mượn tiểu sử, biến cố, tình huống... có thật của đời sống để tự hư cấu - giả tự
truyện cho tác phẩm của mình dưới hình thức cái tôi muôn hình vạn trạng, nửa
thật, nửa hư tạo nên đặc trưng khu biệt giữa tự truyện và tự thuật. Những dấu


hiệu đầu tiên của sự biến tướng tự truyện thành tựthuật xuất hiện ở phương Tây
với nhà văn J.P. Sartre, thuật ngữ “auto-fiction” (hư cấu, giả tự truyện) của Serge
Doubrovsky với quan điểm “Tự hư cấu về bản thân mình, dựa trên một số/nhiều
yếu tố tiểu sử có thật, làm lạc lối, rối trí người đọc, gây ra những bất ổn về cảm
nhận/ nhận biết/ đạo đức và sự thật”
Từ sự biến tướng, chuyển hóa trên, ranh giới giữa thể loại tự truyện và
phương thức tự thuật trở nên mong manh, nhòe mờ. Trong đó, “tự truyện” hay
“tự thuật” đều kể về cuộc đời cá nhân có thật, là lịch sử hình thành nhân cách
của người viết hơn là chú ý đến những sự kiện bên ngoài, khách quan của “hồi
kí”; nó cũng được viết ở dạng hồi cố (khi tác giả đã lớn tuổi) mà không phải như
dạng “nhật kí” (thời gian viết và thời gian kể không có sự phân biệt).
Dù tự truyện hay tự thuật thì làm nên thành công cho tác phẩm đều là
những tự sự tình cảm sâu sắc và sống động, có khi bình lặng như những dòng
lưu bút, trang nhật kí nhưng cũng có khi là biến cố sôi sục, dữ dội trong những
trang tự thuật của nhà văn.

* Tuy cùng nói về cá nhân, cần phân biệt tự truyện với các dạng thức
thông thường khác của tiểu sử nhà văn như các sơ yếu lý lịch, các bản tự thuật
ngắn gọn nhằm đáp ứng các cuộc phỏng vấn của báo chí, các bản tự thuật mà
nhà văn cho in kèm theo khi công bố tác phẩm của mình. Trong thực tế tự truyện
bao gồm cả yếu tố truyện (hình thức, một thể loại tự sự) và yếu tố tự thân (nội
dung, bản thân) của người của người viết truyện. Tác phẩm tự truyện thường có
thiên hướng lý giải cuộc sống đã qua của tác giả như một chỉnh thể, tạo nên
những đường nét mạch lạc cho cuộc sống kinh nghiệm của mình. Người viết tự
truyện có khi vận dụng hư cấu, thêm thắt hoặc sắp xếp lại các chi tiết của cuộc
đời mình.
Do luôn là hành vi khắc phục cái thời gian đã qua, thể hiện mưu toan quay
lại với thời tuổi trẻ, tuổi thơ, làm sống lại những quãng đời nhiều kỷ niệm nhất,
hình thức tự truyện thường được viết khi tác giả đã trưởng thành, đã trải qua


phần lớn các chặng đường trong cuộc đời mình và nhìn lại những gì đã qua như
một sự chiêm nghiệm.
Là một thể loại mang tính giáp ranh (với hồi ký, nhật ký, tiểu sử), tự
truyện vẫn có sự khác biệt nhất định. Nhật ký vốn thiên về tóm tắt sự kiện đang
diễn ra, không hư cấu, và có thể không bao gồm sự bình luận về sự kiện, trong
khi tự truyện có thể bao gồm sự tái cấu trúc, sắp xếp sự kiện rời rạc không liền
lạc trong trí nhớ của tác giả, có thể gắn với hư cấu. Nhật ký cũng không có sự
cách biệt giữa thời gian viết và thời gian được nói tới mà là những sự kiện đang
diễn ra theo tiến trình thời gian sống của người cầm bút, trong khi đó tự truyện,
do hạn chế của khoảng cách thời gian sự kiện được viết và thời điểm viết, đã
ngăn trở ít nhiều việc nhìn nhận lại cuộc đời của bản thân mình như một chỉnh
thể duy nhất và liền mạch.
Tự truyện cũng khác biệt với hồi ký tuy ít nhiều rất khó có thể tìm một
ranh giới tuyệt đối cho thể loại: nếu tác giả tự truyện thường tập trung vào quá
trình hình thành và lịch sử thế giới nội tâm của mình trong sự tương tác với thế

giới bên ngoài, thì hồi ký thường lưu ý trước hết đến thế giới bên ngoài ấy, với
những con người, cảnh quan đã được tác giả tiếp xúc, nếm trải. Sự khó khăn
trong việc phân định loại thể của tự truyện so với hồi ký sẽ chỉ được các nhà
nghiên cứu, phê bình văn học giải quyết với từng trường hợp cụ thể, tác phẩm
nhấn mạnh ở khía cạnh tự truyện hơn hay hồi ký hơn, mà thôi.
c/ Người kể chuyện trong thể loại tự truyện
Người kể chuyện trong thể loại tự truyện thường rơi vào dạng người kể
chuyện tự thống chế hay là người kể chuyện tự thân. Tự truyện phải được kể ở
ngôi thứ nhất, câu chuyện được kể phải là chính nhân vật xưng tôi đã « nếm
trải ». Và sụ « nếm trải » của cái tôi tự thuật đó phải trở thành trung tâm của việc
tổ chức trần thuật.
Dạng này giống người kể chuyện đồng sự: nhân vật ở cấp độ hành động,
vừa trần thuật vừa tham dự vào câu chuyện. Tuy nhiên cái tôi tự thuật trong thể


loại tự truyện hàm chứa nhiều vai : người tự thuật đồng thời là người trần thuật,
người kể chuyện và đó cũng chính là tác giả kể lại câu chuyện của chính mình.
Ở thể loại này điểm nhìn trần thuật được đặt vào bên trong tâm lý nhân
vật (tiêu cự bên trong). Nhân vật tự cảm xúc, suy nghĩ hay tự đánh giá, nhận xét,
biểu lộ về chính bản thân hay các hiện tượng bên ngoài nó. Ở đây là đặt điểm
nhìn bên trong hoàn toàn vào một nhân vật, điểm nhìn của nhân vật trong truyện
và người đọc đều hướng theo sự dẫn dắt của nhân vật này.
II.

Người kể chuyện trong « Lê Vân – Yêu và sống » và « Cánh chim
trong bão tố»

1. Người kể chuyện trong « Lê Vân – Yêu và sống »
Trong cuốn tự truyện dày gần 400 trang, Lê Vân nữ diễn viên nổi tiếng
của điện ảnh cách mạng Việt Nam bày tỏ một cách trần trụi về cuộc sống khốn

khó thời thơ ấu, về những xung đột trong gia đình một cách thật thà hơn những
hư cấu trên phim ảnh, về người cha của mình là một nghệ sĩ nổi tiếng – NSND
Trần Hiếu. Lê Vân còn viết và bộc bạch về những thăng trầm của số phận mình
qua ba mối tình nhiều ngang trái và cũng thật nhiều hạnh phúc. Nhiều độc giả tỏ
ra không đồng tình với Yêu và sống vì nó có nhiều chỗ thật đến nỗi “không nên
viết ra”. Phản ứng ngược của công chúng với Lê Vân sau cuốn tự truyện gây ầm
ĩ này là họ đã nhìn nữ diễn viên xinh đẹp bằng con mắt khác. Nhưng nếu nhìn
trên bình diện văn học thì theo một số nhà nghiên cứu phê bình văn học chuyên
môn, Yêu và sống của Lê Vân cũng khá thành công khi đã hội tụ được một số
yếu tố của một tác phẩm văn học thực thụ.
Là một phụ nữ, một nghệ sĩ, nên điểm nhìn của Lê Vân trong tác phẩm
cũng là cái nhìn quay quanh trong tâm sinh lý của một người phụ nữ đúng như
Lê Vân đã bộc bạch.
Lê Vân – Yêu và sống đưa ra cái nhìn về mối quan hệ gia đình, về tình
yêu, về công việc và đồng nghiệp.
2. Người kể chuyện trong « Cánh chim trong bão tố »


Tác phẩm, đồng thời cảm phục nghị lực, tâm hồn trong sáng và trái tim
nhân hậu của chính tác giả. “Vừa xuất hiện, cuốn sách đã cuốn hút bạn đọc
nhiều giới. Vượt qua hình hài của một cuốn tự truyện thuần túy về cá nhân của
tác giả, Cánh chim trong bão tố còn hàm chứa những vấn đề lớn lao của bi kịch
lịch sử - xã hội” - TS Trần Huyền Sâm phát biểu trong lời đề dẫn buổi tọa đàm.
“Cánh chim trong bão tố” là cuốn tự truyện, viết dưới dạng hồi ức của
Nguyễn Thanh Song Cầm. Trong đó có 3 nhân vật chính là tác giả, người Mẹ và
người chồng Michimi.
Xuyên suốt cuốn tự truyện là những tháng ngày vất vả, lận đận của Mẹ
với quyết tâm nuôi các con khôn lớn, được cắp sách tới trường, học hành đến
nơi đến chốn. Sự hi sinh và tình mẫu tử của mẹ vô cùng thiêng liêng, đời mẹ
chịu cảnh hai lần góa bụa. Mẹ hi sinh cả tuổi thanh xuân, chịu mọi thiệt thòi vất

vả, nuôi các con bằng sự tảo tần, đến lúc già, lúc đáng được hưởng sự thanh
nhàn, mẹ vẫn không ngừng lo lắng cho các con. Nhân vật thứ hai là tác giả
Nguyễn Thanh Song Cầm: Chị viết hồi ức về cuộc đời mình từ khi lọt lòng mẹ
cho đến lúc trưởng thành. Chị viết về đời mình một cách chân thực nhất. Với
giọng văn bình thản, tất cả những đắng cảy tủi nhục của cuộc đời cứ như bão tố
muốn đẩy cánh chim vào vô tận, nhưng bằng sự tự lập, ý chí tự lực tự cường, sự
vươn lên không ngừng, chị đã đẩy cánh chim đời mình thoát khỏi bão giông để
đón ánh bình minh của cuộc sống. Cũng nhờ sự tôi luyện từ đức tính tốt đẹp của
Mẹ, từ điểm tựa tin tưởng của người chồng Michimi và những đứa trẻ là nguồn
sống. Thứ ba là Murrannushi Michimi: Xuất thân từ gia đình trí thức thượng lưu,
giàu có và danh giá ở Nhật Bản. Anh không chỉ là một người học giả trẻ có uy
tín trên thế giới mà còn là một chàng trai có tình yêu không vẩn đục dành cho
Song Cầm. Bằng tình yêu trong sáng, đức độ và kiến thức uyên bác, Michimi đã
vượt qua những trở ngại cả về không gian lẫn định kiến xã hội để làm người đàn
ông trong cuộc đời Song Cầm.
Song Cầm viết về những trải nghiệm cá nhân, phơi bày bản thân trên
trang giấy. Chị nói về những nghị lực của hai mẹ con một cách lặng lẽ, không


ồn ào, thoạt đầu cứ ngỡ như là cam chịu, một sự cam chịu ấm ức hoặc dửng
dưng. Song cái thoạt đầu đó, nhanh chóng bị đẩy lùi ngay trong ý nghĩ mọi
người bởi sự thản nhiên, chủ động hóa giải dần dần của họ, hóa giải từ dễ đến
khó, từ ít đến nhiều, từ trước mắt đến lâu dài. Người mẹ mới 19 tuổi đã một
mình nuôi con trai đầu lòng để chồng thoát ly theo cách mạng và chồng mẹ đã
một đi không trở lại. Để bảo vệ mình và bảo vệ con mình, mẹ phải tái giá. Thế là
bao nhiêu sự phiền nhiễu, rắc rối cạm bẫy của lính tráng, chính quyền phía quốc
gia kè kè bên cạnh “người có chồng theo Việt cộng” kể cả những si mê theo đuổi
của những chàng trai làng với cô “gái một con trông mòn con mắt” bị loại bỏ.
Song Cầm chỉ kể ra như lướt qua, lặng lẽ không đào sâu gì nỗi lòng giông bão
của mẹ trong tình thế đó. Song, đó là sự lặng thầm vang động của một nội lực

phi thường, vô song. Còn người con, càng lớn lên, đụng chạm với đời càng
ngấm sâu gen mẹ, càng thấm những nỗi ngang trái cuộc đời, chị cũng như mẹ đã
âm thầm lặng lẽ hóa giải những gieo neo, oan trái bên cạnh những thiếu thốn
nghèo nàn gần như là liên tiếp: không bao giờ chịu khuất phục. Mối hòa giải đó
muốn được thành công một cách cơ bản, trong hoàn cảnh tuyệt vọng không lối
thoát, ngoài chỗ dựa tinh thần là người mẹ, Song Cầm vẫn cố bám víu vào cứu
cánh duy nhất đó là việc học. Học đến nơi đến chốn. Học không ngừng. Học bất
cứ trong hoàn cảnh, tình thế nào. Ở nhà trường và ở cuộc sống. Cứ thử thống kê
một cách vật chất số tiền, gạo, áo quần, sách vở của năm năm đại học của Song
Cầm trong tình trạng không có nhà, không có của cải, không có thế lực … nghĩa
là tay trắng thì đủ biết tầm vóc của nghị lực mấy mẹ con ở mức nào…
Tác giả đã phơi bày tất cả những hạnh phúc cũng như những nỗi khổ đau
của đời mình một cách chân thực nhất. Trong con người ấy, dù đôi lúc cuộc đời
như muốn bẻ gãy đôi cánh của chị. Nhưng trong tâm hồn thanh cao và thánh
thiện ấy vẫn chưa vẩn lên chút ganh tỵ, phản bội nào, chị vẫn luôn sống trung
thực, gắn bó yêu thương như chính tấm lòng đầy nhân hậu của chị. Mọi sự việc,
toàn bộ diễn biến được nhìn từ điểm nhìn bên trong của chính tác giả và được
thuật lại bằng ngôi thứ nhất xưng “tôi”.



×