Đề tài: Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh:
“ Đảng ta là một Đảng cầm quyền… phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng
đáng là người lãnh đạo, là đầy tớ trung thành của nhân dân”
Liên hệ thực tế?
Bài làm:
Hồ Chí Minh, sự nghiệp và tên tuổi của Người luôn gắn liền với sự nghiệp cách mạng vẻ
vang của Đảng và dân tộc ta. Suốt cuộc đời, Người đã hy sinh phấn đấu cho sự nghiệp
giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người đem lại cuộc sống ấm no
hạnh phúc cho nhân dân. Người là một trong những người đặt viên gạch đầu tiên cho việc
thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam, và cũng là người dẫn dắt đưa Đảng Cộng Sản Việt
Nam từ những bước đi đầu tiên đầy gian khó vất vả để đi tới những thành quả vô cùng to
lớn ngày nay. Người ra đi đã để lại cho dân tộc Việt Nam, nhân loại những tư tưởng vô
cùng quý giá được người đúc kết trong cả một quá trình đấu tranh giành độc lập cho dân
tộc, tài sản đó sẽ giúp cho thế hệ mai sau vận dụng để xây dựng Đảng, nhà nước ngày
càng vững mạnh, phát triển trường tồn sánh vai cùng các cường quốc, nhân dân được
hưởng ấm no, hạnh phúc. Trước lúc đi xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ kính yêu của
Đảng và dân tộc ta đã căn dặn: “ Đảng ta là Đảng cầm quyền…Phải giữ gìn Đảng ta
thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ trung thành của
nhân dân”. Để các thế hệ mai sau luôn ghi nhớ về vai trò, trách nhiệm của Đảng đối với
nhân dân, đất nước, để niềm tin của nhân dân dành cho Đảng là tuyệt đối và mãi mãi. Để
xây dựng Đảng vững mạnh, ngang tầm với đòi hỏi của dân tộc và thời đại, đặc biệt là
trong điều kiện Đảng cầm quyền, Đảng phải thật trong sạch. Sức sống, sự lớn mạnh của
Đảng phụ thuộc rất nhiều vào mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân. Lịch sử đấu tranh
cách mạng của Đảng, của dân tộc đã chứng minh: bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào, Đảng
liên hệ chặt chẽ với quần chúng, được quần chúng tin tưởng, ủng hộ thì Đảng vững mạnh,
lãnh đạo cách mạng thành công; còn nếu xa rời quần chúng, không được quần chúng tin
tưởng, ủng hộ thì sẽ suy yếu, giảm sút sức chiến đấu và có khi vấp phải thất bại. Muốn
vững mạnh, muốn được quần chúng tin tưởng, ủng hộ, Đảng phải luôn trong sạch, phải
xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ trung thành của nhân dân, “Dễ trăm lần,
không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”. (1)
Ghi chú: (1) . />tam-guong-dao-duc-ho-chi-minh-ve-xay-dung-dang-ta-thuc-su-trong-sach-vung-manh-la-dao-duc-la-van-minh-bai-
3#ixzz1cnfhbO4p
I. Phân tích luận điểm: “ Đảng ta là Đảng cầm quyền,… Phải giữ gìn Đảng ta thật trong
sạch, phải xứng đáng là người lạnh đạo, là đầy tớ trung thành của nhân dân”
Đảng cầm quyền là một vấn đề hết sức hệ trọng của cách mạng. Bởi lẽ, theo Hồ Chí
Minh cách mệnh “ trước hết phải có Đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức
dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có
vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy.
Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cố Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như
người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam.” (1) Chính vì lẽ đó, qua quá trình ra
đi tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh đã tiếp cận được chân lý của thời
đại – đó là ngọn cờ tư tưởng của Chủ nghĩa Mác – Lênin và Người đã đưa ánh sáng đó
trở về Việt Nam, quyết tâm lãnh đạo cách mạng Việt Nam theo ngọn cờ tư tưởng ấy. Bởi
theo Người “ bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính
nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”. Đảng Cộng sản Việt Nam ra
đời là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa Chủ nghĩa Mác – Lênin, phong trào công nhân và
phong trào yêu nước Việt Nam. Ngay từ khi ra đời, dưới ánh sáng tư tưởng Mác- Lênin,
Đảng Cộng sản Việt Nam đã giành được quyền lãnh đạo cách mạng Việt Nam, trở thành
nhân tố chủ yếu đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Sở dĩ Đảng có vinh dự giữ trọng trách to lớn đó là bởi mục đích của Đảng không có gì
khác là “ lãnh đạo quần chúng lao khổ làm giai cấp tranh đấu để tiêu trừ tư bản đế quốc
chủ nghĩa, làm cho thực hiện xã hội cộng sản” (2) Vì vậy, “ Đảng không phải là một tổ
chức để làm quan phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho tổ
quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng” (3) và “ Đảng ta chỉ có một điều là phục vụ Tổ
quốc, phục vụ nhân dân, phục vụ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Ngoài ra,
không còn có lợi ích nào khác”. Do đó Đảng được “dân tin, dân phục, dân yêu”.
Theo Hồ Chí Minh, Đảng ta không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích nào khác ngời lợi ích
của Tổ quốc, của nhân dân, Đó là mục tiêu đích, lý tưởng cao cả không bao giờ thay đổi
trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Người chỉ rõ: “ những người cộng
sản chúng ta không một phút nào được quên lý tưởng cao cả của mình là phấn đấu ch cho
tổ quốc hoàn toàn độc lập, cho chủ nghĩa xã hội hoàn toàn thắng lợi trên đất nước và trên
toàn thế giới”. (4)
(1). Hồ Chí Minh Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1995, tập2, tr267-268
(2) Hồ Chí Minh Toàn tập, Nhà xuât bản Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995 tập 3, tr5.
(3) Hồ Chí Minh Toàn tập, Nhà xuât bản Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995 tập 5 tr249
(4) Hồ Chí Minh Toàn tập, Nhà xuât bản Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995 tập 11 tr 372
Khi đã trở thành Đảng cầm quyền, mục tiêu lý tưởng đó không những không thay đổi mà
còn có thêm những điều kiện sức và sức mạnh nhằm thực hiện hóa mục đích lý tưởng ấy.
Để hoàn thành được sứ mệnh cao cả đó, Đảng phải có được sức mạnh tương ứng. Như
chúng ta biết, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời ở một nước nông nghiệp lạc hậu, trong
bão táp của cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân và của cả dân tộc, nên sức mạnh của
Đảng không phải là sức mạnh của tiềm lực quân sự hùng mạnh hay tiềm năng kinh tế
giàu có mà sức mạnh của Đảng lúc này chỉ có thể là sức mạnh ý chí, tinh thần – sức
mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Hồ Chí minh chỉ rõ: “Cái sức mạnh vô địch mà ta có thể thắng quân địch giành độc lập
thống nhất là sự đoàn kết” (1) “ Bất kỳ khó khăn gì, bất kỳ công việc to mấy ta đoàn kết
đều làm được hết cả”, “ Đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành công”. Vì vậy,
Đảng phải trở thành trung tâm của khối đại đoàn kết để đoàn kết dân tộc, đoàn kết giai
cấp, đoàn kết quốc tế.
Trong Sách lược vắn tắt của Đảng Hồ chí Minh chỉ rõ: “Đảng là đội tiên phong của giai
cấp vô sản, phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp
mình lãnh đạo được dân chúng”.Để hiện thực hóa tư tưởng đó, làm cho nó có sức mạnh
vật chất, thành lực lượng vật chất có tổ chức – Mặt trận dân tộc thống nhất được thành
lập và Đảng Cộng sản vừa là thành viên của Mặt trận dân tộc thống nhất, vừa là lực
lượng lãnh đạo Mặt trận, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân ngày càng vững chắc.
Quyền lãnh đạo Mặt trận không phải Đảng tự phong cho mình, mà là được nhân dân tự
giác thừa nhận. Điều này đã được Hồ Chí Minh phân tích rất cặn kẽ: “Đảng không thể
đòi hỏi Mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo của mình, mà phải tỏ ra là một bộ phận trung
thành nhất, hoạt động nhất và chân thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hàng ngày,
khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng,
thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo” (2). Đương thời khi còn sống Hồ Chí Minh
luôn đề cao tới vấn đề đoàn kết dân tộc nó có vai trò vô cùng quan trọng trong việc lãnh
đạo của Đảng và nhà nước, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ : “ Đảng ta là một Đảng lãnh đạo. Tất
cả cán bộ và đảng viên dù ở cương vị khác nhau, cũng đều phải đoàn kết nhất trí để làm
tròn nhiệm vụ của Đảng giao cho” (3), Không chỉ dừng lại ở việc xây dựng và phát huy
sức mạnh bên trong của đoàn kết bằng việc xây dựng khối đoàn kết trong Đảng, đoàn kết
toàn dân mà còn phải tranh thủ và huy động sức mạnh bên ngoài của đoàn kết bằng chính
sách đại đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế. Nghĩa là, Đảng phải biết
(1) trích Bài viết: Tư tưởng về Đảng cầm quyền trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh Tác giả: Th.s Nguyễn Thị
Chiên - Gv Khoa Triết – CNXHKH.
(2) Hồ Chí Minh Toàn tập, Nhà xuât bản Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995 tập 3 trang 138
(3) Hồ Chí Minh Toàn tập, nhà xuất bản Chính Trị quốc gia, Hà Nội 1995, tập 11 tr154
Cách giải quyết các vấn đề dân tộc theo giá trị và chuẩn mực nhân loại; cách mạng Việt
Nam chỉ có thể giành thắng lợi khi đoàn kết chặt chẽ với phong trào cách mạng thế giới.
Khi đã trở thành Đảng cầm quyền – lãnh đạo chính quyền, Đảng có thêm sức mạnh vật
chất nữa đó là nhà nước. “Đảng Cộng sản cầm quyền, tổ chức ra Chính phủ công - nông -
binh, phát đất cho dân cày, giao công xưởng cho thợ thuyền… ra sức tổ chức kinh tế mới
để thực hành thế giới đại đồng” (1). Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nhắc nhở các tổ chức
đảng và đảng viên: Đảng cầm quyền chứ không phải đảng trị, mọi cán bộ đảng viên của
Đảng phải biết tôn trọng nhà nước dân chủ nhân dân, gương mẫu chấp hành Hiến pháp và
pháp luật của nhà nước.
Đến trước khi vĩnh biệt đồng bào, đồng chí, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn căn dặn: “Đảng
ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức
cách mạng, thực sự cần kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong
sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”
(Di chúc).
“ Đảng cầm quyền vừa là người lãnh đạo vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân”
Quan điểm này của Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền là sự vận dụng, phát triển hết sức
sáng tạo lý luận Mác- Lenin về đảng vô sản kiểu mới. Đảng cộng sản Việt Nam “ là
người đầy tớ thật trung thành của nhân dân” là xác định quyền lãnh đạo duy nhất của
Đảng đối với toàn bộ xã hội và khi có chính quyền, Đảng lãnh đạo chính quyền nhà nước.
Đối tượng lãnh đạo là toàn thể quần chúng nhân dân trong toàn dân tộc, nhằm đem lại
độc lập cho dân tộc, tự do, ấm no hạnh phúc cho nhân dân lao động. là người lãnh đạo,
mọi đường lối, chính sách của Đảng phải thực sự đúng đắn, cách mạng và khoa học, phản
ánh đúng tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, thực sự dẫn đường chỉ lối cho nhân dân
hành động. Đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng phải thực sự tiên phong, gương mẫu đi
trước nhân dân, nói đi đôi với làm. Người cũng chỉ rõ: “Trước mặt quần chúng, không
phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến
những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước
cho người ta bắt chước”
( 2) . Theo Người, đội ngũ cán bộ, đảng viên phải có cái tâm, cái
đức, cái trí. Đảng chỉ thực sự làm tròn vai trò người lãnh đạo khi Đảng luôn tiêu biểu cho
trí tuệ, lương tâm, danh dự của dân tộc, đạo đức, văn minh của toàn xã hội. Đảng phải là
người lãnh đạo sáng suốt của nhân dân, không “theo đuôi” quần chúng. Nhưng muốn
lãnh đạo được nhân dân trước hết Đảng phải có tư cách phẩm chất, năng lực cần thiết.
(1) Hồ Chí Minh Toàn tập, Nhà xuât bản Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995 tập 6 tr162
(2) Hồ Chí Minh Toàn tập, Nhà xuât bản Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995 tập 5 tr 552
Vì “quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức” và “ chỉ trong đấu tranh
và công tác hằng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đảng đúng đắn và
năng lực lãnh đạo của Đảng thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo” (1)
“Là người lãnh đạo” theo Hồ Chí Minh, lãnh đạo phải bằng giáo dục, thuyết phục, nghĩa
là Đảng phải làm cho dân tin, dân phục để dân theo. Đảng là lãnh đạo nhưng quyền hành
và lực lượng đều ở nơi dân, cho nên Đảng “Phải đi đường lối quần chúng, không được
quan liêu, mệnh lệnh và gò ép nhân dân” ( 2) mà phải giáo dục tuyen truyền giác ngộ dân
chúng để thức tỉnh nhân dân đồng thời Đảng phải tổ chức, đoàn kết họ lại thành một khối
thống nhất để mọi sự lãnh đạo của Đảng luôn được sự đóng góp bổ xung từ những ý kiến
của họ. Chức năng lãnh đạo của Đảng phải đảm bảo trên tất cả các mặt, các lĩnh vực của
đời sống xã hội, phải quan tâm chăm lo tới đời sống nhân dân từ việc nhỏ tới việc lớn: “
Đảng vừa lo tính công việc lớn như đổi nền kinh tế văn hóa lạc hậu của nước ta thành
một nền kinh tế và văn hóa tiên tiến, đồng thời lại luôn quan tâm tới đến những việc nhỏ
như tương cà mắm muối cần thiết cho đời sống hằng ngày của nhân dân” ( 3)
Đảng là người lãnh đạo, nhưng Hồ Chí Minh cũng chỉ rất rõ: Đảng phải luôn sâu sát, gắn
bó mật thiết với nhân dân, lắng nghe ý kiến của dân, khiêm tốn học hỏi nhân dân, và chịu
sự kiểm soát nhân dân, bởi “ sự lãnh đạo trong mọi công tác thiết thực của Đảng, ắt phải
từ trong quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng” ( 4).Để thực hiện đầy đủ chức năng của
Đảng với tư cách là người lãnh đạo, Hồ Chí Minh còn đề cập một cách sâu sắc đến việc
Đảng phải thực hiện chế độ kiểm tra và phát huy vai trò tiên phong của đội ngũ đảng viên
và cán bộ của Đảng.
Với tư cách là người lãnh đạo, theo tư tưởng của người, Đảng cũng có nghĩa bao hàm cả
trách nhiệm “ là đầy người đầy tớ” của dân. Song, “đầy tớ” ở đây không có nghĩa là “ tôi
tớ, tôi đòi hỏi hay theo đuôi quần chúng” mà là tận tâm, tận lực phụng sự nhân dân, đem
lại các quyền và lợi ích cho nhân dân. Người nhấn mạnh : “đã phụng sự nhân dân thì phải
phụng sự cho ra trò. Nghĩa là việc gì có lợi cho dân thì phải là cho kỳ được, việc gì có hại
cho dân thì phải hết sức tránh” (5). Người dùng từ “đầy tớ trung thành” là để luôn nhắc
nhở và chỉ rõ vai trò, trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên trong mọi hoạt động của
mình để phải quan tâm thực sự tới lợi ích của nhân dân: “ khổ trước thiên hạ, vui sau
thiên hạ”, tận tụy với công việc, gương mẫu trước nhân dân, phải thường xuyên “tự kiểm
(1) Hồ Chí Minh Toàn tập, Nhà xuât bản Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995 tập 3 tr 139
(2) (3) Hồ Chí Minh Toàn tập, Nhà xuât bản Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995 tập 10 tr 606
(4) Hồ Chí Minh Toàn tập, Nhà xuât bản Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995 tập 5 tr 290
(5) Hồ Chí Minh Toàn tập, Nhà xuât bản Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995 tập 6 tr 88
điểm và phê bình, tự sửa chữa như mỗi ngày phải rửa mặt”. Phải làm cho dân tin, dân
phục để dân hết lòng ủng hộ, hết lòng giúp đỡ. Mỗi cán bộ Đảng viên “ đều là công bộc
của dân, nghĩa là để gánh vác được chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như
trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật” (1). Mỗi cán bộ đảng viên đòi hỏi đều
phải có tri thức khoa học, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ giỏi, thực sự thấm nhuần đạo
đức cách mạng: “ Cần, kiệm, liêm, chính, chí, công, vô tư”. Không chỉ nắm vững và thực
hiện tốt quan điểm đường lối của Đảng, mà còn phải tuyên truyền vận động lôi cuốn quần
chúng đi theo Đảng, đưa sự nghiệp cách mạng đi đến thắng lợi cuối cùng.
Như vậy.Đảng vừa là “ là người lãnh đạo” và “ là đầy tớ trung thành” của nhân dân, cả
hai vai trò này đều vì mục đích cuối cùng là vì nhân dân, vì tổ quốc. khi đã làm tròn hai
chức năng “ lãnh đạo tốt” và “ đầy tớ trung thành” thì sẽ làm cơ sở vững chắc cho niềm
tin của nhân dân, ăn sâu và bám chắc vào trong lòng giai cấp công nhân, nông dân và
toàn thể dân tộc Việt Nam.
Ngoài làm tròn trách nhiệm của một “một người lãnh đạo”, một “ đầy tớ trung thành”
một tư tưởng nữa của Hồ Chí Minh luôn trú trọng và đề cao trong việc xây dựng Đảng đó
là “xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh” trong mọi điều kiện, đây là một nhân tố đặc
biệt quan trong góp phần vào việc giữ niềm tin ở nhân dân và sự phát triển bền vững của
Đảng.
Muốn xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh theo người trước tiên phải tuân thủ theo các
nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng. nguyên tắc đầu tiên là tập trung dân chủ. Theo Hồ
Chí Minh, Vấn đề tập trung dân chủ là : thiểu số phải phục tùng đa số, cấp dưới phải
phục tùng cấp trên tất cả các đảng viên phải phục tùng vô điều kiện các nghị quyết của
Đảng. Theo Bác nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng là sự thống nhất biện chứng giữa
dân chủ và tập trung, tập trung phải trên cơ sở dân chủ và dân chủ phải dưới sự chỉ đạo
của tập trung. Có dân chủ trong Đảng mới có dân chủ ở ngoài xã hội song dân chủ không
phải là vô chính phủ.
Về "nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách”, theo quan điểm của Người, chỉ có
tập thể lãnh đạo mới huy động được tất cả trí tuệ của đội tiên phong của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và của toàn dân tộc, vì " một người dù khôn ngoan tài giỏi đến
mấy, dù nhiều kinh nghiệm đến đâu cũng chỉ trông thấy, xem xét được một hoặc nhiều
mặt của một vấn đề, không thể trông thấy và xem xét tất cả mọi mặt của một vấn đề. Vì
vậy cần phải có nhiều người, nhiều người thì nhiều kinh nghiệm. Người thì thấy rõ mặt
này, người thì trông thấy rõ mặt khác của vấn đề đó, góp kinh nghiệm và xem xét của
nhiều người thì vấn đề đó được thấy rõ khắp mọi mặt và có thấy rõ khắp mọi mặt thì vấn
đề mới giải quyết chu đáo khỏi sai lầm”. Nhưng theo Người, “ tập thể lãnh đạo" mới chỉ
là một vế. Người cho rằng : " Tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách cần phải luôn luôn đi
đôi với nhau". Bởi lẽ " Nếu không có cá nhân phụ trách thì sẽ sinh ra cái tệ người này
uỷ cho người kia, người kia uỷ cho người nọ, kết quả là không ai thi hành. Như thế thì
việc gì cũng không xong.
Về nguyên tắc tự phê bình và phê bình, theo Hồ Chí Minh đây là vũ khí sắc bén nhất để
làm cho Đảng ta trong sạch vững mạnh và là quy luật phát triển của Đảng. Người nhận
thức sâu sắc rằng, tuy Đảng ta gồm những người có tài, có đức, phần đông là những
người hăng hái nhất, thông minh nhất, yêu nước nhất , nhưng " không phải là người
người đều tốt, việc việc đều hay”, do vậy trong Đảng phải luôn luôn tự phê bình và phê
bình, mà phê bình và tự phê bình " phải ráo riết", " triệt để, thật thà, không nể nang,
không thêm bớt". Cách phê bình cũng phải thành thật, giàu lòng nhân ái, khách quan.
Thái độ phê bình phải có văn hoá, mang tính chất xây dựng chứ không phải nói xấu nhau.
Những người bị phê bình thì phải vui vẻ nhìn nhận để sửa chữa. Được như vậy thì trong
Đảng sẽ không có bệnh mà Đảng sẽ khoẻ mạnh vô cùng.
Về vấn đề tư cách của người đảng viên, Hồ Chí Minh đề cập thường xuyên trên tất cả các
mặt, nhưng bao giờ Người cũng coi đạo đức là gốc của người cộng sản: Đạo đức đó
không phải là đạo đức thủ cựu. Nó là đạo đức mới, đạo đức vĩ đại, nó không phải vì danh
vọng cá nhân mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của loài người". Có thể nói cả
cuộc đời Hồ Chí Minh là tấm gương sáng ngời về phấn đấu, rèn luyện cho đạo đức của
người cộng sản - Đó là cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; Nhân, nghĩa, trí, dũng,
liêm mà bất cứ một người đảng viên nào cũng phải phấn đấu học tập và noi theo.
Còn về vấn đề cán bộ, Hồ Chí Minh coi “ cán bộ là cái gốc của mọi công việc", " muôn
việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém". Yêu cầu của Hồ Chí Minh đối
với cán bộ cách mạng là : Có đạo đức cách mạng - Đây là yêu cầu đầu tiên cần phải có
của người cán bộ; Có năng lực lãnh đạo, tổ chức thực hiện đường lối chủ trương của
Đảng, có trình độ chuyên môn và nghiệp vụ giỏi; Có mối liên hệ mật thiết với nhân dân;
Luôn luôn học hỏi lý luận Mác - Lênin, học tập nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật.
Phải có phong cách công tác tốt, chống bệnh chủ quan, tác phong quan liêu, đại khái Hồ
Chí Minh cũng nêu ra những yêu cầu đối với công tác cán bộ. Đó là phải " hiểu và đánh
giá đúng cán bộ". Muốn vậy phải có những chuẩn mực phù hợp với từng thời kỳ, từng
địa phương, từng lĩnh vực, hoàn toàn công minh, khách quan; Phải " khéo dùng cán bộ",
tức là đặt người đúng việc, kết hợp cán bộ trẻ với cán bộ già để phát huy tính sáng tạo
của lớp trẻ và kinh nghiệm của những lớp cán bộ đi trước.
Hồ Chí Minh cũng là người đã sáng lập và rèn luyện Đoàn TNCS Hồ Chí Minh. Đặc biệt
Người luôn quan tâm đến vấn đề xây dựng Đoàn, coi đó là một yếu tố khách quan, một
bộ phận quan trọng hàng đầu trong công tác xây dựng Đảng. Người căn dặn: “ Bồi dưỡng
thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết". Chính vì vậy,
"Đảng ta luôn coi trọng công tác thanh niên và vấn đề thanh niên, xác định chăm lo xây
dựng tổ chức Đoàn là làm trước một bước việc xây dựng Đảng”.
Ở trên chúng ta đã phân tích các luận điểm về “Đảng cầm quyền” về vai trò của Đảng
vừa là “ người lãnh đạo” vừa là “ đầy tớ trung thành” của nhân dân, phân tích về việc xây
dựng Đảng trong sạch vững mạnh để làm rõ được rằng: “Đảng ta là một Đảng cầm
quyền… phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là đầy
tớ trung thành của nhân dân” .
II. Liên hệ thực tế hiện nay.
Trong giai đoạn cách mạng mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa với mục tiêu dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh, dân tộc ta đang đứng trước không ít cơ hội cũng như thách thức vai trò
lãnh đạo của Đảng càng phải được khẳng định, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng cần được nâng cao hơn bao giờ hết để ngang tầm với các yêu cầu, nhiệm vụ mà lịch
sử dân tộc giao phó. Trong bối cảnh mới, Đảng ta xác định rõ nhiệm vụ xây dựng kinh tế
là trọng tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt gắn chặt với xây dựng nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, tạo nền tảng tinh thần cho sự phát triển xã
hội. Đảng luôn luôn được rà soát để thay đổi và phát triển cho kịp với sự phát triển của
thời đại. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được về nhiều mặt trong xã hội trong những
năm vừa qua cũng đã góp phần nào nói lên được sự nỗ lực phấn đấu của Đảng trong việc
đưa ra các đường lối, nghị quyết đúng đắn, sự đoàn kết, nỗ lực của các đảng viên cũng
như toàn nhân dân, đã tạo ra được động lực để đất nước bước qua thời kì khó khăn, đưa
đất nước phát triển, hội nhập với thé giới. Trong những năm gần đây nhiều phong trào,
nhiều chương trình được Đảng và nhà nước phát động và được rất nhiều đảng viên và
tầng lớp nhân dân ủng hộ đặc biệt là phong trào “ học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh” trong năm 2010, phong trào “xây dựng đảng trong sạch vững mạnh ở cơ
sở”…. Nhưng bên cạnh những thành tự đã đạt được vẫn còn nhiều yếu kém, khuyến
điểm còn tồn tại, bộ máy quản lý còn cồng kềnh, nhiều đường lối chưa thay đổi để phù
hợp với thực tiễn hiện tại, một bột phận đảng viên tham nhũng, tham ô, xa rời dân, xa rời
thực tiên, quan liêu, không chăm lo quan tâm nhiều tới đời sống nhân dân,…. Đó là
những yếu điểm mà cần phải khắc phục và chỉnh đốn nghiêm khắc để không làm ảnh
hưởng tới niềm tin của dân và Đảng.
*Về Thực tiễn trong việc Cầm quyền của Đảng trong thời kỳ mới:
Rút kinh nghiệm trong hơn 20 năm đổi mới thì thấy rõ một vấn đề đáng chú ý: đó là
nhiều quan điểm trong đường lối rất đúng nhưng tổ chức thực hiện gặp rất nhiều khó
khăn và hạn chế. Nói và làm đi đôi đang là nhu cầu bức thiết của đảng cầm quyền. Chính
vì thế Đang và Nhà nước không ngừng đi sâu nghiên cứu để thay đổi điều chỉnh phương
pháp lãnh đạo, phương thức cầm quyền để đáp ứng nhu cầu trong thời kỳ mới.
a. Đổi mới hệ thống chính trị ngang tầm đòi hỏi của thực tiễn
Trước đây Đảng đã xác định hệ thống này gồm ba bộ phận: Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, nhân dân làm chủ. Sự xác định này có nhiều hạn chế đối với phát huy hiệu quả
phương thức cầm quyền của Đảng.
Thứ nhất, không làm rõ mối quan hệ giữa ba bộ phận bằng thể chế, nên không phát huy
được sức mạnh của mỗi bộ phận và không tạo được sức mạnh tổng hợp của hệ thống.
Thứ hai, không cụ thể hoá, luật hoá về quyền hạn và trách nhiệm của mỗi bộ phận trong
hệ thống.
Thứ ba, chưa nhận thức được phương thức vận động của hệ thống trong điều kiện kinh tế
thị trường và hội nhập quốc tế.
Hiện nay, đổi mới hệ thống chính trị phải nhằm khắc phục những hạn chế nói trên.
Từ Đại hội IX, Đảng đã xác định xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì
dân là một bước tiến nhưng lại chưa xây dựng thể chế Nhà nước pháp quyền, do đó
những hạn chế nói trên khó khắc phục được.
Thực ra, đảng cầm quyền bằng thể chế Nhà nước pháp quyền mới biểu hiện và phát huy
đầy đủ sức mạnh của hệ thống chính trị, rất phù hợp với những thay đổi trong kinh tế thị
trường và hội nhập quốc tế. Chỉ trong thể chế ấy, Đảng mới thể hiện mình là đảng cầm
quyền trong chế độ dân chủ; nhân dân mới thực hiện quyền làm chủ của mình bằng thể
chế (khác hẳn cơ chế xin - cho trước đây). Nhà nước mới là công cụ của Đảng và nhân
dân xây dựng nền kinh tế mới, xã hội mới, nền văn hoá mới. Chỉ có thể chế như thế mới
phản ánh đúng tư tưởng Hồ Chí Minh "Trăm điều phải có thần linh pháp quyền " mà Bộ
trưởng Bộ Tư pháp đầu tiên của Nhà nước ta (Luật sư Vũ Đình Hoè) gọi là Pháp quyền
nhân nghĩa Hồ Chí Minh.
b. Những vấn đề đặt ra khi xây dựng thể chế Nhà nước pháp quyền
Thứ nhất, thể chế hoá mối quan hệ giữa tổ chức đảng với tổ chức nhà nước và tổ chức xã
hội nhằm phát huy vai trò và hiệu quả của mỗi tổ chức trong mối quan hệ với nhau của hệ
thống. Nhờ đó, đảng cầm quyền bằng một hệ thống gồm các bộ phận không tách rời
nhau, mà hỗ trợ nhau cùng phát triển. Tổ chức đảng nằm trong hệ thống đó để phát huy
vai trò và trách nhiệm của mình.
Thứ hai, nên thay đổi quan niệm và phương pháp trong hoạch định đường lối, chính sách.
Hoạch định chính sách kinh tế phải xuất phát từ nhu cầu phát triển của doanh nghiệp, chứ
không phải chỉ căn cứ vào yêu cầu quản lý của các bộ, ngành. Hoạch định chính sách xã
hội phải xuất phát từ nhu cầu an sinh xã hội có lợi cho phát triển bền vững. Hoạch định
chính sách giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ phải xuất phát từ nhu cầu xây
dựng lực lượng sản xuất hiện đại và tổ chức, quản lý có hiệu quả. Phương pháp hoạch
định đường lối, chính sách nên chuyển mạnh sang nghiên cứu dựa trên số liệu chính xác
về kinh tế - xã hội và xu thế phát triển của thế giới, phân tích rõ những tác động tích cực
và tiêu cực rồi mới hình thành đường lối, chính sách.
Thứ ba, xây dựng hệ thống kiểm soát, kiểm tra có hiệu lực, đảm bảo hiệu quả của thể
chế pháp quyền, mới khắc phục được "tính tự phát tiểu tư hữu" phổ biến trong nhân dân
và công chức. Đối với một nước nông nghiệp phát triển theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, theo Lênin, thì đây là một cuộc đấu tranh gay go mà đảng cầm quyền phải giải
quyết.
Thứ tư, rút kinh nghiệm hoạt động của nhà nước trong thời kỳ đổi mới và tham khảo kinh
nghiệm các nước, đảng cầm quyền mạnh, có hiệu quả là: biết tổ chức các bộ phận của
Nhà nước pháp quyền; xác định đúng mối quan hệ giữa lập pháp, hành pháp, tư pháp
trong giai đoạn hiện nay, không trùng lặp, không dựa dẫm, chỉ căn cứ vào luật pháp để
hoạt động. Trong đó, quan trọng nhất là phân định rành mạch chức năng lập pháp và
hành pháp. Trên thế giới, những nhà nước mạnh nhờ bộ phận lập pháp kiểm soát bộ
phận hành pháp theo pháp luật bằng tổ chức cơ quan kiểm soát một cách độc lập những
hoạt động tài chính của hành pháp, nên đã tiết kiệm được rất nhiều cho ngân sách nhà
nước, đã giảm thiểu nhiều nạn lãng phí, tham nhũng.
c. Đổi mới công tác tổ chức cán bộ phù hợp với yêu cầu đổi mới phương thức cầm quyền
của Đảng
Đây là công việc trước tiên để giải quyết những vấn đề đặt ra nói trên. Kinh nghiệm lịch
sử cho thấy, một tổ chức mạnh trước hết là cấp trưởng của tổ chức đó tài giỏi. Đó là
những người được lựa chọn từ thể chế dân chủ, chứ không phải từ quan hệ thân quen,
tiền bạc, cơ hội. Chỉ những thủ trưởng tài giỏi mới có sức hút và sử dụng nhân tài tạo ra
chất lượng ngày càng cao của tổ chức, còn những thủ trưởng kém thì chỉ tạo ra tổ chức
với những con người yếu kém tài đức rơi vào tình trạng quan liêu, tham nhũng.
Để có những cấp trưởng giỏi trong hệ thống nhà nước, cần công khai những tiêu chí lựa
chọn từng cấp và được Đảng cùng nhân dân kiểm soát, đánh giá theo những tiêu chí ấy
khi họ đảm đương chức vụ và thay đổi kịp thời khi họ không làm tròn nhiệm vụ, khắc
phục cho được tệ nạn "ô dù" trong công tác tổ chức.
Đổi mới công tác tổ chức theo hướng nói trên không chỉ do nhu cầu phát triển kinh tế, xã
hội trong giai đoạn hiện nay, mà còn do nhu cầu xây dựng đảng cầm quyền và xây dựng
nền văn hoá mới, bắt đầu từ văn hoá chính trị. (*)
Từ thực tiễn đổi mới 20 năm bên cạnh việc thay đổi trong phương pháp lãnh đạo, cầm
quyền của Đảng, Đảng còn có sự đổi mới quan trọng và chủ yếu cả về nhận thức, tư duy
lý luận và cả về lãnh đạo, chỉ đạo.
Trước hết đó là đổi mới tư duy lý luận mà thực chất là nắm vững và vận dụng đúng đắn
quy luật khách quan, khắc phục căn bệnh nóng vội, chủ quan, duy ý chí. Đảng ta đã nhận
thức rằng, từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội phải trải qua một thời kỳ quá độ là
một tất yếu khách quan và độ dài của thời kỳ đó phụ thuộc vào điều kiện chính trị, kinh tế
xã hội của mỗi nước. “Thời kỳ quá độ ở nước ta, do tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội từ
một nền sản xuất nhỏ, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, đương nhiên phải lâu
dài và rất khó khăn”1. Đại hội IX (4-2001) tổng kết 15 năm đổi mới, khẳng định: “Xây
dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất của xã
hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, cho nên phải trải qua một
thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có
tính chất quá độ. Trong các lĩnh vực của đời sống xã hội diễn ra sự đan xen và đấu tranh
giữa cái mới và cái cũ”2. Trong hàng loạt các quy luật khách quan, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã nhận thức rõ hơn quy luật về quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình
độ của lực lượng sản xuất, sửa chữa sai lầm trước đó là là đã đưa quan hệ sản xuất đi quá
nhanh, quá xa trong khi lực lượng sản xuất còn rất lạc hậu, tập trung phát triển mạnh mẽ
lực lượng sản xuất thông qua thực hiện cách mạng khoa học - công nghệ, đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hóa, từ đó điều chỉnh quan hệ sản xuất cho phù hợp. Các quy luật
vận động trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhất là các quy luật kinh tế đã từng
bước nhận thức và vận dụng đúng đắn và có hiệu quả hơn.
Thứ hai, từ nhận thức đúng đắn về thời kỳ quá độ, Đảng quyết định đổi mới cơ cấu kinh
tế, coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ. Đại
hội VI đã vận dụng đúng đắn quan điểm của Lênin về kinh tế nhiều thành phần. Chính
Lênin cũng cho rằng tên nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa là để khẳng định hướng tiến lên
chứ điều đó chưa có nghĩa là nền kinh tế của ta đã hoàn toàn là kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Vì vậy, ở nước ta cần thiết phải có nhiều thành phần kinh tế phát triển bình đẳng trước
pháp luật, đó là yêu cầu khách quan. Đại hội VI khẳng định nước ta có các thành phần:
kinh tế xã hội chủ nghĩa bao gồm khu vực quốc doanh và khu vực tập thể; kinh tế tiểu sản
xuất hàng hóa; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế tự nhiên, tự túc tự
cấp. Đại hội IX bổ sung thêm một thành phần nữa là kinh tế 100% vốn nước ngoài.
Trong quá trình đổi mới, 20 năm qua, Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất
quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Thực tiễn
đổi mới cũng cho thấy nhiều thành phần kinh tế đương nhiên là có nhiều hình thức sở
hữu, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập
thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc.
Cùng với đổi mới cơ cấu kinh tế, Đảng chủ trương đổi mới cơ chế quản lý dứt khoát bỏ
cơ chế quản lý tập trung quan liêu, hành chính, bao cấp chuyển sang hạch toán, kinh
doanh và từng bước đưa nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của
Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó chính là nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ
thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất
hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt sở hữu, quản
lý, phân phối.
Thứ ba, đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng và vai trò, chức năng quản lý
điều hành của Nhà nước. Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Xây
dựng và hoàn thiện Nhà nước theo hướng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Củng
cố sức mạnh của hệ thống chính trị. Đại hội VI của Đảng đặt ra yêu cầu xây dựng Đảng
ngang tầm nhiệm vụ chính trị của một Đảng cầm quyền, tăng cường sức chiến đấu, năng
lực lãnh đạo và năng lực tổ chức thực tiễn, đổi mới phong cách làm việc, đi sâu, đi sát
thực tế, sát cơ sở, gắn bó với nhân dân. Nâng cao trình độ trí tuệ, nắm bắt và vận dụng
đúng đắn quy luật khách quan, hiểu biết sâu sắc những vấn đề kinh tế, xã hội.
hứ tư, thật sự phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thực hiện “dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra”, tăng cường và đổi mới công tác vận động quần chúng nhân dân và
thực hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đại hội VI của Đảng đã rút ra bài học là trong
toàn bộ hoạt động, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát
huy quyền làm chủ của nhân dân lao động. Chính lợi ích sáng kiến của nhân dân là nguồn
gốc hình thành đường lối đổi mới Một trong những nguyên tắc chỉ đạo công cuộc đổi
mới mà HNTW6 (khoá VI) 3-1989 nêu ra là phải thực hiện tốt hơn dân chủ xã hội chủ
nghĩa, nhưng dân chủ luôn luôn gắn liền với tập trung, gắn liền với nghĩa vụ, trách nhiệm
công dân, với kỷ cương, kỷ luật pháp luật, dân chủ phải có lãnh đạo và lãnh đạo bằng
phương pháp dân chủ. Nghị quyết Trung ương 8B (khoá VI) 3-1990 về đổi mới công tác
quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân. Đảng nhấn
mạnh các quan điểm: Cách mạng là sự nghiệp của dân, do dân và vì dân; động lực thúc
đẩy phong trào quần chúng là đáp ứng lợi ích thiết thực của nhân dân và kết hợp hài hòa
các lợi ích, thống nhất quyền lợi với nghĩa vụ công dân; các hình thức tập hợp nhân dân
phải đa dạng; công tác vận động quần chúng là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và các
đoàn thể. Đảng cũng chủ trương đổi mới tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và các đoàn thể nhân dân. Mặt trận và các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của
chính quyền nhân dân. Cùng với Đảng, Nhà nước, tổ chức Mặt trận và đoàn thể nhân dân
như Tổng liên đoàn lao động, Hội nông dân, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội
liên hiệp Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh hợp thành hệ thống chính trị. Công tác vận động
quần chúng là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị ở tất cả các cấp.
Đảng chú trọng xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất, tăng cường sức mạnh của khối đại
đoàn kết toàn dân trong công cuộc đổi mới. Đoàn kết các giai cấp, các thành phần kinh tế,
đoàn kết các dân tộc, các tôn giáo, mọi tầng lớp, cá nhân yêu nước, đoàn kết người Việt
Nam ở trong nước và người Việt Nam ở nước ngoài nhằm phát huy nội lực của dân tộc
Việt Nam.
Thứ năm, đổi mới chính sách đối ngoại, thực hiện đa phương hóa, đa dạng hoá, Việt
Nam muốn là bạn và là đối tác tin cậy của các nước trên thế giới trên cơ sở giữ vững độc
lập chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi. Xây dựng chiến lược bảo vệ Tổ quốc phù hợp
với tình hình mới.
Từ những thành tựu, những thay đổi mà Đảng và nhà nước đã làm cho đất nước trong
những năm vừa qua chúng ta càng thấy rõ trong những thành tựu đó tư tưởng HCM luôn
đóng vai trò là nền tảng, xuyên suốt,soi sáng và tạo động lực để nhân dân cố gắng phấn
đấu theo những mục tiêu lý tưởng của người, của nhân dân và đất nước, đưa đất nước hội
nhập thành công và sánh vai với các cường quốc năm châu.Từ việc nghiên cứu quan
điểm Mac-Lê nin và tình hình của Cách mạng VN lúc bấy giờ,HCM nhận ra rằng VN cằn
phải quá độ lên CNXH-Đây là một quy luật tất yếu,khách quan và hoàn toàn đúng quy
luật.Trước tình hình đổi mới của đất nước hiên nay,Đảng và nhân dân cần học tập và phát
huy tư tưởng HCM để đưa đất nước đổi mới,phát triển và hội nhập cùng thế giới.