Tải bản đầy đủ (.docx) (198 trang)

Hoàn thiện tổ chức kiểm toán nội bộ trong tổng công ty sông đà

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1019.82 KB, 198 trang )

1

1

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản Luận án là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
tài liệu, kết quả nghiên cứu nêu trong Luận án là trung thực. Những kết luận
khoa học của Luận án chưa từng được ai công bố ở bất kỳ công trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Đỗ Quốc Việt


2

LỜI CẢM ƠN
Tác giả xin bày tỏ sự biết ơn sâu sắc tới GS.TS. Nguyễn Đình Đỗ; PGS.TS.
Đỗ Minh Thành - người hướng dẫn khoa học, đã tận tình hướng dẫn tác giả
trong suốt quá trình thực hiện Luận án.
Tác giả xin bày tỏ sự cảm ơn tới Học viện Tài Chính, Khoa đào tạo Sau đại
học Học viện Tài chính đã giúp đỡ tác giả trong suốt quá trình học tập và nghiên
cứu Luận án.
Tác giả xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình và quý báu trong quá
trình thu thập số liệu, phiếu điều tra của các nhà quản lý tại các doanh nghiệp
thuộc Tổng công ty Sông Đà, các thành viên Ban Kiểm soát nội bộ, các cán bộ
các Ban: Tài chính - Kế toán, Tổ chức nhân sự, Kinh tế, Quản trị rủi ro… tại
Công ty mẹ và các doanh nghiệp thành viên thuộc Tổng công ty Sông Đà.
Cuối cùng, tác giả muốn bày tỏ sự cảm ơn tới những người thân trong gia
đình đã động viên, giúp đỡ tác giả trong suốt quá trình nghiên cứu Luận án.



3

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BBKT
BCKT
BCKS
BCTC
BKS
COSO
CTCP
DNNN
HĐQT
HĐTV
HTKSNB
IFAC
IIA
KQKD
KSCL
KSNB
KSVNB
KTĐL
KTNB
KTNN
KTVNB
KHKT
NĐD
OECD
QLDA
QTKD

QTRR
SDC
SOX
SXKD
TCT
TGĐ
TNHH MTV

Biên bản kiểm toán
Báo cáo kiểm toán
Báo cáo kiểm soát
Báo cáo tài chính
Ban kiểm soát
Ủy ban chống gian lận BCTC - Hội đồng quốc gia Hoa Kỳ
Công ty cổ phần
Doanh nghiệp nhà nước
Hội đồng quản trị
Hội đồng thành viên
Hệ thống kiểm soát nội bộ
Liên đoàn Kế toán quốc tế
Viện Kiểm toán nội bộ
Kết quả kinh doanh
Kiểm soát chất lượng
Kiểm soát nội bộ
Kiểm soát viên nội bộ
Kiểm toán độc lập
Kiểm toán nội bộ
Kiểm toán nhà nước
Kiểm toán viên nội bộ
Kế hoạch kiểm toán

Người đại diện
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế
Quản lý dự án
Quản trị kinh doanh
Quản trị rủi ro
Tổng công ty Sông Đà
Luật Sarbanes - Oxley
Sản xuất kinh doanh
Tổng công ty
Tổng giám đốc
Trách nhiệm hữu hạn một thành viên


4


5

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam đang trên con đường đổi mới và phát triển kinh tế, vì vậy nhu cầu
xây dựng cơ sở hạ tầng của nền kinh tế cũng như đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật
khác là rất lớn. TCT Sông Đà là một trong những đơn vị đầu tiên được thành lập
để thực hiện một trong những nhiệm vụ đó, với truyền thống hơn 50 năm xây
dựng và phát triển, là đơn vị đi tiên phong trong lĩnh vực xây lắp, đã và đang thi
công nhiều công trình trọng điểm phục vụ phát triển kinh tế, xã hội của đất nước
như: Thủy điện Thác Bà, Hòa Bình, Yali, Sê San, Sơn La, Lai Châu; Đường dây
truyền tải điện 500KV Bắc Nam; Đường Hồ Chí Minh... và sắp tới đây là nhà
máy điện hạt nhân đầu tiên của Việt Nam tại Ninh Thuận. Trải qua quá trình
phát triển, cùng với những thành tích đã đạt được thì trong cơ cấu tổ chức, mô

hình quản trị tại TCT Sông Đà còn bộc lộ một số điểm chưa bắt kịp với sự phát
triển của kinh tế thị trường; một số dự án do TCT làm chủ đầu tư chưa phát huy
được hiệu quả; hoạt động kiểm tra, kiểm soát tại Công ty mẹ và Công ty con còn
hạn chế.
Hiện tại, TCT đang trong quá trình triển khai thực hiện đề án tái cơ cấu với
mục tiêu: Xây dựng một Tổng công ty có cơ cấu hợp lý, tập trung vào ngành
nghề kinh doanh chính với quy trình quản lý, quản trị công ty theo thông lệ tốt
nhất; nâng cao sức cạnh tranh, tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu của Tổng
công ty. Để thực hiện được các mục tiêu đó một trong những giải pháp TCT
Sông Đà cần phải thực hiện đó là hoàn thiện bộ máy quản lý, thiết lập một hệ
thống KSNB hoạt động hiệu quả, phát huy tối đa hiệu quả trong việc huy động
và sử dụng tối ưu các nguồn lực. Hệ thống KSNB chỉ phát huy được hiệu quả
khi được thiết kế phù hợp với những đặc thù của doanh nghiệp và phải được
đánh giá thường xuyên nhằm phát hiện những điểm yếu để khắc phục. Vì vậy,
trong cơ cấu tổ chức của TCT Sông Đà cần phải có một bộ phận thực hiện chức
năng đánh giá hiệu quả hệ thống KSNB và đánh giá tính kinh tế, hiệu quả, hiệu
lực của tất cả các hoạt động nhằm đưa ra ý kiến tư vấn cho các cấp lãnh đạo
trong quá trình ra quyết định. Bộ phận đảm nhận trách nhiệm này chính là
KTNB.
Có thể thấy sự cần thiết phải hoàn thiện tổ chức KTNB tại TCT Sông Đà
theo hai khía cạnh cơ bản như sau:
a. Sự cần thiết khách quan phải hoàn thiện tổ chức KTNB tại Tổng công ty
Sông Đà
Quá trình hội nhập kinh tế thế giới cùng với sự phát triển mạnh mẽ của
nhiều thành phần kinh tế đã đặt các doanh nghiệp vào môi trường cạnh tranh
khốc liệt. Để giữ vững được sức cạnh tranh thì các doanh nghiệp cần phải duy trì
hệ thống KSNB tốt nhằm phòng ngừa rủi ro đồng thời phát huy tối đa hiệu quả


6


sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, để các nhà quản trị có
thông tin tin cậy phục vụ việc ra quyết định thì các thông tin này phải được đánh
giá đầy đủ theo nhiều khía cạnh khác nhau. Tất cả những yêu cầu này sẽ được
đáp ứng nếu doanh nghiệp thành lập một bộ phận KTNB hoạt động có hiệu quả.
Có thể thấy sự cần thiết phải thành lập bộ phận KTNB được thể hiện qua các
yếu tố sau:
Thứ nhất, KTNB cung cấp thông tin kịp thời, quan trọng phục vụ nhà quản
lý trong việc ra quyết định
Trong khi kiểm toán độc lập thường chỉ thực hiện kiểm toán tài chính và
hậu kiểm thì KTNB hiện đại lại hướng đến kiểm toán hoạt động và tiền kiểm,
kiểm toán hiện hành để phục vụ nhu cầu quản lý. Với chuyên môn cao và
phương pháp thích hợp, KTNB thực hiện tiền kiểm đánh giá về tính kinh tế, hiệu
quả, hiệu lực của các chương trình, dự án hay bất kỳ hoạt động nào của doanh
nghiệp sẽ đưa ra thông tin tư vấn cho nhà quản trị cấp cao quyết định có tiến
hành chương trình, dự án đó hay không, lợi ích kinh tế mà nó có thể mang lại
hoặc chấm dứt thực hiện ngay khi chương trình, dự án chưa được bắt đầu. Bên
cạnh đó, KTNB còn thể hiện được tính kịp thời khi thực hiện kiểm toán hiện
hành, kết quả kiểm toán sẽ giúp nhà quản trị có được thông tin về những gian
lận, sai sót ngay khi nó vừa xảy ra, quyết định sửa chữa, khắc phục, giảm thiểu
ảnh hưởng do chậm trễ về mặt thời gian.
Thứ hai, KTNB là công cụ phát hiện và cải tiến những yếu điểm trong hệ
thống KSNB của doanh nghiệp, đảm bảo sự phát triển bền vững.
Mục tiêu cơ bản trong hoạt động SXKD của doanh nghiệp đó là: bảo toàn
và phát triển được vốn chủ sở hữu, tức là doanh nghiệp phải phát triển một cách
bền vững. Biện pháp để thực hiện điều đó là cân bằng giữa tăng trưởng, hiệu quả
và kiểm soát. Để tăng trưởng tốt cần có chiến lược phát triển khả thi; để đảm
bảo hiệu quả cần sử dụng tối ưu các nguồn lực hiện có hoặc huy động và để
kiểm soát tốt, doanh nghiệp cần có một hệ thống KSNB đủ mạnh. Không có bất
cứ doanh nghiệp nào sở hữu một HTKSNB nào hoàn hảo, ít nhất thì HTKSNB

luôn tồn tại những hạn chế vốn có của nó và phát sinh thêm yếu điểm trong quá
trình vận hành. KTNB là một yếu tố cấu thành HTKSNB nhưng giữ chức năng
kiểm soát của kiểm soát, tức là chức năng đánh giá, phát hiện và khắc phục
những tồn tại, hạn chế của HTKSNB; duy trì một HTKSNB đủ mạnh để giảm
thiểu những gian lận, sai sót trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp. Vì vậy,
việc hoàn thiện KTNB không chỉ giúp SDC hoàn thiện HTKSNB của mình mà
còn đảm bảo sự phát triển bền vững theo cả ba khía cạnh như đã nêu trên.
Thứ ba, xuất phát từ nhiệm vụ tái cơ cấu quản trị doanh nghiệp theo hướng
hiện đại, phù hợp với thông lệ quốc tế
Quyết định số 929/QĐ-TTg ngày 17/7/2012 của Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt “Đề án tái cơ cấu DNNN, trọng tâm là tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà


7

nước giai đoạn 2011-2015” đã đưa ra nhiệm vụ tái cơ cấu quản trị doanh nghiệp:
Áp dụng các nguyên tắc quản trị theo thông lệ quản trị doanh nghiệp quốc
tế; hoàn thiện cơ chế kiểm soát, kiểm toán nội bộ, chú trọng kiểm soát rủi ro tài
chính để kịp thời có biện pháp phòng ngừa, hạn chế, khắc phục và điều chỉnh kế
hoạch sản xuất kinh doanh phù hợp; tăng cường năng lực, quyền hạn của ban
kiểm soát, kiểm soát viên và kiểm toán nội bộ;
Quyết định số 50/QĐ-BXD ngày 151/2/103 của Bộ Xây dựng về phê duyệt
Đề án “Tái cấu trúc Tổng công ty Sông Đà giai đoạn 2012-2015, tầm nhìn đến
2020” đã nêu rõ nhiệm vụ tái cấu trúc quản trị doanh nghiệp tập trung vào nội
dung: Áp dụng nguyên tắc quản trị doanh nghiệp theo thông lệ quốc tế hiện đại;
tăng cường công tác kiểm soát nội bộ; quản trị sự thay đổi; quản trị rủi ro, tài
chính, nhân sự, chiến lược, thương hiệu...”
Như vậy, việc tái cơ cấu quản trị doanh nghiệp là một trong những nội dung
bắt buộc TCT phải thực hiện trong quá trình tái cơ cấu. Một trong những thông
lệ tốt trong quản trị doanh nghiệp tại các quốc gia thuộc OECD đó là thành lập

bộ phận KTNB hoạt động hiệu quả, báo cáo trực tiếp với HĐQT hoặc tương
đương. Riêng đối với Việt Nam, OECD cũng đã đưa ra khuyến cáo: Doanh
nghiệp nhà nước cần xây dựng quy trình KTNB hiệu quả và thiết lập chức năng
kiểm toán nội bộ dưới sự giám sát và báo cáo trực tiếp cho HĐQT và Ủy ban
Kiểm toán hay bộ phận tương đương [24, tr18,45].
Qua các nội dung nêu trên có thể thấy, việc thành lập, vận hành bộ phận
KTNB tại TCT Sông Đà là tương đối phù hợp với thông lệ quản trị doanh
nghiệp quốc tế và nhiệm vụ tái cơ cấu quản trị doanh nghiệp đã được giao.
b. Sự cần thiết phải hoàn thiện tổ chức KTNB xuất phát từ nhu cầu nâng
cao hiệu quả quản trị của TCT Sông Đà
Thứ nhất, Xuất phát từ tình hình thực tế tại TCT Sông Đà.
Trong những năm qua, tình hình SXKD của TCT Sông Đà gặp nhiều khó
khăn, một số khoản đầu tư lớn không mang lại hiệu quả như kỳ vọng đã làm cho
tình hình tài chính của TCT rất xấu. Một số chỉ tiêu tài chính cơ bản của TCT
Sông Đà giai đoạn 2011-2014:
Bảng 1: Tình hình tài chính SDC giai đoạn 2012-2014
Đơn vị tính: tỷ đồng

STT
1
2
3
4

Chỉ tiêu
Nợ phải trả
Nợ ngắn hạn
Tiền và các khoản ĐTTC
Tiền và các khoản tương đương tiền


Năm
2012
38.134
17.938
1.969
1.605

2013
39.080
17.783
2,668
2.417

2014
38.244
16.682
1.970
1.664


8

STT
5
6
7
8
9
10
11

12

Chỉ tiêu

Năm
2012
-5.199
8.753

2013
-4.009
7.821

2014
-3.849
7.447

Hệ số nợ trên vốn CSH

4,35

4,99

5,14

Lãi tiền vay
Khả năng thanh toán hiện thời
Khả năng thanh toán nhanh
Khả năng thanh toán tức thời
Lợi nhuận trước thuế


1.845
0,71
0,11
0,09
95

2.235
0,77
0,15
0,14
95

2.100
0,78
0,14
0,12
156

VLĐ ròng
Nguồn VCSH

(Nguồn: Tác giả tính toán, tổng hợp từ BCTC hợp nhất đã kiểm toán của
TCT Sông Đà)
Có thể thấy, Hệ số nợ trên vốn chủ sở hữu đã vượt ngưỡng an toàn (là 3
theo quy định của Bộ Tài chính); tiền và các khoản tương đương tiền, tiền và
các khoản đầu tư tài chính không bù đắp được nợ ngắn hạn; khả năng thanh
toán rất thấp, tình trạng mất cân đối dòng tiền trả nợ diễn ra trong nhiều năm
và đặc biệt TCT Sông Đà đang mất cân bằng tài chính nghiêm trọng khi vốn
lưu động ròng âm 3.849 tỷ đồng, tiềm ẩn nguy cơ phá sản. Lợi nhuận, tỷ suất

lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) rất thấp; nguồn vốn chủ sở hữu đang có
xu hướng giảm, một số dự án được đầu tư vốn lớn nhưng hoạt động không
hiệu quả, không thu xếp được vốn trả nợ làm xếp hạng tín dụng ảnh hưởng
đến uy tín của TCT và Chính phủ Việt Nam (Dự án Xi măng Hạ Long do
Chính phủ bảo lãnh, hoạt động SXKD không hiệu quả, không có khả năng trả
nợ gốc và lãi vay; Dự án đầu tư trụ sở HH4 chậm tiến độ, không phát huy
hiệu quả như phương án ban đầu...).
Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình hình tài chính yếu kém như
phân tích đó là công tác quản lý chi phí chưa chặt chẽ; công tác đầu tư chưa
mang lại hiệu quả tương ứng với nguồn lực bỏ ra; hiệu quả sử dụng vốn không
cao: các đơn vị xây lắp có tỷ lệ lợi nhuận thấp không đủ bù đắp lỗ lũy kế của Xi
măng Hạ Long, vòng quay vốn dài (đặc thù xây lắp) nên thường phải bù đắp
bằng vốn tín dụng với chi phí cao.
Với những tồn tại trước mắt như vậy, việc xây dựng bộ phận KTNB hoạt
động thực sự hiệu quả sẽ giúp TCT Sông Đà giải quyết được một số vấn đề:
- Quản lý chi phí một cách chặt chẽ: trên cơ sở thực hiện các biện pháp
nghiệp vụ, KTNB sẽ đánh giá đúng thực trạng và đưa ra những biện pháp tiết
giảm chi phí trong quá trình thi công xây lắp, mua sắm vật tư, thiết bị; nâng cao
hiệu quả sử dụng tài sản...;
- Đối với các dự án đầu tư: Với việc thực hiện tiền kiểm và kiểm toán hoạt
động, KTNB sẽ có đánh giá chính xác về tính khả thi của dự án. KTNB sẽ đưa


9

ra biện pháp tối ưu trong việc sử dụng các nguồn lực hiện có và huy động các
nguồn tài trợ với chi phí thấp nhất. Giúp nhà quản lý có biện pháp phát huy hết
tất cả tiềm lực của TCT từ con người, máy móc thiết bị, tài chính đến các nguồn
lực huy động từ bên ngoài.
Thứ hai, Các ngành, nghề sản xuất kinh doanh chính của TCT đều tiềm ẩn

rất nhiều rủi ro.
Theo kế hoạch SXKD giai đoạn 2016-2020 của TCT Sông Đà thì ngành,
nghề sản xuất kinh doanh chính là: (1) Tổng thầu xây dựng và tổng thầu EPC;
(2) Đầu tư, sản xuất và kinh doanh điện; (3) Phát triển nhà ở và đô thị. Với ba
lĩnh vực này rủi ro có thể đến từ rất nhiều yếu tố như: chính trị, pháp luật, vốn,
nhân sự, tiến độ, trượt giá, thiên tai... mà mỗi yếu tố đều ảnh hưởng rất lớn đến
kết quả SXKD của TCT.
Hiện tại, Công ty mẹ và các đơn vị thành viên đã thành lập Phòng/Ban
QTRR tuy nhiên, theo nguyên tắc Ba vòng bảo vệ trong doanh nghiệp thì bộ
phận này vẫn đang ở cấp độ bảo vệ thứ hai: giám sát rủi ro, vẫn cần triển khai
cấp bảo vệ thứ ba: Bảo đảm độc lập. Với chức năng đưa ra những đánh giá độc
lập đối với tất cả các hoạt động của doanh nghiệp, KTNB sẽ đánh giá tính hiệu
quả, nhất quán của mô hình QTRR và hệ thống KSNB, quản trị doanh nghiệp
một cách độc lập.
Thứ ba, Tăng cường độ tin cậy của thông tin đối với các nhà đầu tư, cổ
đông trong và sau quá trình cổ phần hoá
Theo kế hoạch, TCT Sông Đà sẽ tiến hành cổ phần hoá trong năm 2016,
tuy nhiên với thực trạng tài chính như đã trình bày ở trên, nếu TCT không có các
biện pháp cải thiện hoặc nâng cao lòng tin của nhà đầu tư đối với các thông tin
tài chính thì nhiều khả năng quá trình IPO của TCT sẽ khó đạt được kết quả
mong muốn. Các nghiên cứu trên thế giới đã cho thấy: doanh nghiệp có bộ phận
KTNB thường cung cấp thông tin, BCTC đúng hạn và có mức độ minh bạch,
chính xác cao, khả năng gian lận thấp và trên hết là hoạt động SXKD đạt hiệu
quả cao hơn so với các doanh nghiệp không có phòng KTNB. Vì vậy, việc tổ
chức bộ phận KTNB hoạt động có hiệu quả không những sẽ mang lại lợi ích cao
cho TCT Sông Đà trong bối cảnh tình hình tài chính gặp nhiều khó khăn mà còn
giúp TCT tìm kiếm được nhiều nhà đầu tư chiến lược có thể hỗ trợ về vốn, về
kinh nghiệm và hoàn thành mục tiêu IPO đã được nhà nước giao.
Trong môi trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt với sự xuất hiện ngày càng
nhiều các Tập đoàn xây dựng lớn trong và ngoài nước thì việc tăng cường kiểm

soát, phát huy tối đa hiệu quả sử dụng các nguồn lực để tăng tính cạnh tranh là
biện pháp vô cùng quan trọng, mang tính sống còn đối với TCT Sông Đà, đồng
thời hoàn thành nhiệm vụ được nhà nước giao. Vì vậy, việc xây dựng và vận hành
có hiệu quả bộ phận KTNB tại TCT Sông Đà là một yêu cầu cấp thiết trong quá
trình tái cơ cấu và hội nhập. Nhận thức được vấn đề đó, nghiên cứu sinh (NCS)
chọn đề tài “Hoàn thiện tổ chức kiểm toán nội bộ trong Tổng công ty Sông Đà”


10

để nghiên cứu luận án Tiến sĩ.
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan đến luận án
Trên thế giới nói chung và tại Việt Nam nói riêng đã có rất nhiều công trình
nghiên cứu về KTNB theo các khía cạnh và mục tiêu khác nhau, có thể khái quát
các công trình nghiên cứu như sau:
2.1. Về tổ chức bộ máy KTNB
Đặt nền móng đầu tiên cho lý luận về KTNB hiện đại phải kể đến cuốn
sách “Kiểm toán nội bộ hiện đại - Đánh giá các hoạt động và hệ thống kiểm
soát” của hai tác giả Victor Z. Brink và Herbert Witt xuất bản lần đầu năm 1941,
bản dịch tiếng Việt do Nhà xuất bản Tài chính phát hành năm 2000. Cuốn sách
đã làm rõ những vấn đề cơ bản về KTNB như: khái niệm, chức năng, nhiệm vụ,
mối quan hệ với các bộ phận trong doanh nghiệp, bố trí nhân viên và huấn
luyện… Ngoài ra, cũng đã đề cập đến vị trí của KTNB trong doanh nghiệp đó
là: chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Uỷ ban kiểm toán trực thuộc Ban giám đốc.
Cùng quan điểm trên với Victor Z. Brink và Herbert Witt về vị trí của KTNB
trong doanh nghiệp, tác giả Đặng Văn Thanh, Lê Thị Hoà trong cuốn sách
“Kiểm toán nội bộ - Lý luận và hướng dẫn nghiệp vụ” (Nhà xuất bản Tài chính,
1998) cũng đã nêu: Bộ phận KTNB được tổ chức độc lập với các bộ phận quản lý
và điều hành kinh doanh trong doanh nghiệp (kể cả phòng kế toán - tài chính);
chịu sự chỉ đạo và lãnh đạo trực tiếp của (Tổng) Giám đốc doanh nghiệp”.

Ngoài ra, có thể kể đến các nghiên cứu tương tự như: Tác giả Ann Neale
(1991) về "Hệ thống kiểm toán: Lý thuyết và thực hành"; Tác giả John A. Edds
(1980) về "Kiểm toán quản trị: Khái niệm và thực hiện"; Tác giả J.C. Shaw
(1980) về "Kiểm toán nội bộ - Một yếu tố cần thiết cho hoạt động quản lý hiệu
quả"; Tác giả Lawrence B. Sawyer, Mortimer Dittenhofe, James H. Scheiner
(2003) về "Thực hành kiểm toán nội bộ hiện đại"; Tác giả Robert Moeller
(2005) về "Kiểm toán nội bộ hiện đại theo quan điểm của Brink"... Về cơ bản,
những nghiên cứu này chưa đưa đề cập đến các mô hình tổ chức bộ máy KTNB,
xác định vị trí có thể có của KTNB trong cấu trúc doanh nghiệp từ đó đánh giá
ưu nhược điểm, tính độc lập, khách quan trong hoạt động tương ứng với từng
mô hình và chưa có phương án xác định số lượng nhân sự KTNB.
Tuy nhiên, cũng đã có một số nghiên cứu nêu tương đối đầy đủ về vấn đề
tổ chức bộ máy KTNB như: Sách chuyên khảo: “Kiểm toán nội bộ” (tác giả
Thịnh Văn Vinh và Phạm Tiến Hưng, NXB Tài chính, 2012); Luận án tiến sĩ kinh
tế của các tác giả: Phan Trung Kiên (2008) với đề tài “Hoàn thiện tổ chức KTNB
trong các doanh nghiệp xây dựng Việt Nam”, Nguyễn Thị Hồng Thuý (2010) với
đề tài “Tổ chức KTNB trong các Tập đoàn kinh tế Việt Nam”, Lê Thị Thu Hà
(2011) với đề tài “Tổ chức KTNB tại các công ty tài chính”; Vũ Thuý Hà (2017)
với đề tài “Hoàn thiện KTNB tại các TCT thuộc Tập đoàn Công nghiệp Than Khoáng sản Việt Nam”… xét theo khía cạnh tổ chức bộ máy KTNB, nội dung các


11

công trình nghiên cứu trên đã tập trung vào các nội dung:
- Nghiên cứu khái quát, hệ thống hoá và phát triển lý luận về KTNB, xác
định rõ nội dung cơ bản của tổ chức KTNB trong doanh nghiệp gồm tổ chức bộ
máy và tổ chức hoạt động, đưa ra một số điểm mới về vai trò, chức năng, nhiệm
vụ của KTNB trong đó chú trọng đến việc nâng cao hiệu quả công tác quản trị rủi
ro, hướng KTNB đến kiểm toán hoạt động, kiểm toán liên kết (luận án của tác giả
Phan Trung Kiên);

- Khái quát các mô hình tổ chức KTNB phổ biến hiện nay, phân tích ưu
nhược điểm và sự ảnh hưởng của mô hình tổ chức đến hoạt động KTNB… đồng
thời kiến nghị xây dựng mô hình KTNB;
- Đưa ra các yêu cầu cơ bản cần có khi thành lập bộ phận KTNB: tính độc
lập khách quan, yêu cầu đối với các KTVNB, mối quan hệ giữa bộ phận KTNB
với các bộ phận, đơn vị khác trong và ngoài doanh nghiệp;
- Bên cạnh đó, đối với nhóm các luận án tiến sỹ, các tác giả đã đưa ra các
kiến nghị, đề xuất về tổ chức bộ máy KTNB trong các doanh nghiệp để các đơn
vị này có thể triển khai ứng dụng ngay.
2.2. Về tổ chức hoạt động KTNB
Phần lớn các công trình nghiên cứu trên thế giới cũng như tại Việt Nam tập
trung chủ yếu vào việc hoàn thiện quy trình, phương pháp kiểm toán cũng như
định hướng phát triển nội dung, phương pháp tiếp cận và loại hình KTNB.
Đối với phương pháp tiếp cận KTNB, cuốn sách “Kiểm toán nội bộ trên cơ
sở rủi ro” của tác giả Phil Griffiiths (2005) đã nêu rõ sự cần thiết cũng như cơ
sở lý luận cho việc tiếp cận KTNB trên cơ sở phân tích, đánh giá rủi ro. Tác giả
chi cách thức tiếp cận KTNB theo bốn giai đoạn gồm: (1) Truyền thống; (2) Tiếp
cận hệ thống; (3) Định hướng rủi ro và (4) Hướng tới tương lai. Bên cạnh đó,
cuốn sách cũng đã xây dựng quy trình thực hiện KTNB theo phương pháp tiếp
cận trên cơ sở phân tích rủi ro (lập KHKT và thực hiện kiểm toán) và hướng dẫn
kiểm soát rủi ro trong quá trình kiểm toán. Cùng quan điểm tiếp cận KTNB trên
cơ sở phân tích rủi ro, luận án tiến sĩ của tác giả Lê Thị Thu Hà (2011) với đề tài
“Tổ chức KTNB tại các công ty tài chính” đã nêu: “Phương pháp tiếp cận theo
định hướng rủi ro có thể được áp dụng trong toàn bộ quá trình kiểm toán, không
chỉ đối với việc lập kế hoạch kiểm toán hàng năm, mà còn trong toàn bộ quy
trình kiểm toán” kèm theo đó là những nội dung hướng dẫn tương đối cụ thể,
chi tiết. Tác giả cũng đã có những định hướng, hướng dẫn cơ bản về đánh giá,
phân loại rủi ro và công tác quản lý chất lượng hoạt động kiểm toán.
Cuốn sách “Kiểm toán nội bộ hiện đại - Đánh giá các hoạt động và hệ
thống kiểm soát” của hai tác giả Victor Z. Brink và Herbert Witt đã đưa ra những

hướng dẫn cụ thể trong quá trình thực hiện kiểm toán đối với từng lĩnh vực hoạt
động mà KTNB quan tâm (sản xuất, kinh doanh, hành chính sự nghiệp) như:


12

kiểm toán quá trình mua hàng - vận chuyển - nhận hàng - lưu kho và phế liệu;
hoạt động sản xuất - bảo dưỡng; kiểm soát chất lượng - kỹ thuật… Ngoài ra, cuốn
sách còn đề cập đến KTNB trong các cơ quan chính phủ và các tổ chức phi lợi
nhuận. Mặc dù tác phẩm đã khẳng định tầm quan trọng của KTNB trong việc hỗ
trợ công tác quản lý, tuy nhiên cũng mới chỉ tập trung vào khía cạnh tài chính.
Cuốn sách “Sổ tay Kiểm toán nội bộ” của tác giả Martin Grimwood (bản
dịch của Đặng Kim Cương - NXB Giao thông vận tải - 2007) đã đưa ra hướng
dẫn xác định chỉ số rủi ro: “Kiểm toán viên phải kết hợp các thành tố với trọng số
của chúng trong một công thức có thể sử dụng để tính toán chỉ số rủi ro. Trong
việc chọn trọng số, KTV phải tránh đưa xu hướng không công bằng vào công
thức. Một ví dụ về công thức có thể sử dụng là:
Chỉ số rủi ro = Aa + Bb + Cc + Dd + Ee + Ff
A-F: là những thành tố
a-f: là trọng số”.
Luận án tiến sĩ kinh tế của các tác giả: Phan Trung Kiên (2008) với đề tài
“Hoàn thiện tổ chức KTNB trong các doanh nghiệp xây dựng Việt Nam”, Nguyễn
Thị Hồng Thuý (2010) với đề tài “Tổ chức KTNB trong các Tập đoàn kinh tế Việt
Nam”, Vũ Thuỳ Linh (2014) với đề tài “Hoàn thiện quá trình và tổ chức bộ máy
KTNB trong các ngân hàng thương mại nhà nước Việt Nam”: Mặc dù các tác giả
đã hướng KTNB tiếp cận trên cơ sở phân tích rủi ro tuy nhiên trong nội dung
nghiên cứu vẫn mang nhiều đặc điểm của phương pháp tiếp cận hệ thống, chú
trọng vào kiểm toán tài chính và chưa đưa ra mô hình đánh giá, phân tích, xếp
loại rủi ro.
Và nhiều công trình nghiên cứu khác tập trung vào các khía cạnh khác nhau

của tổ chức hoạt động KTNB trong doanh nghiệp.
2.3. Đánh giá kết quả nghiên cứu của các công trình có liên quan đến
luận án
2.3.1. Những kết quả đã đạt được
Có thể thấy, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu trên thế giới nói chung
và tại Việt Nam nói riêng. Xét một cách toàn diện, các công trình nghiên cứu có
nội dung phong phú, đa dạng bao gồm cả các nghiên cứu toàn diện về lý luận
như: “Kiểm toán nội bộ hiện đại - Đánh giá các hoạt động và hệ thống kiểm
soát” của hai tác giả Victor Z. Brink và Herbert Witt, “Sổ tay Kiểm toán nội bộ”
của tác giả Martin Grimwood, “Kiểm toán nội bộ trên cơ sở rủi ro” của tác giả
Phil Griffiiths... cũng có những nghiên cứu về một khía cạnh của KTNB như:
“Nghiên cứu xây dựng nội dung KTNB doanh nghiệp vận tải ô tô” của tác giả
Lê Thu Hằng (2007); “Hoàn thiện nội dung, quy trình, phương pháp KTNB
trong các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam hiện nay” của TS. Giang Thị Xuyến
và các cộng sự (2010); “Kiểm toán môi trường và quy tắc kiểm toán” của Nhóm


13

làm việc thuộc INTOSAI... và các công trình nghiên cứu ứng dụng đối với một
nhóm ngành, lĩnh vực kinh doanh cụ thể như: Xây lắp, tài chính ngân hàng,
doanh nghiệp nhà nước... Các kết quả đã đạt được có thể đánh giá theo các mặt
như sau:
* Về Tổ chức bộ máy KTNB
Các nghiên cứu đưa ra những yếu tố cơ bản của tổ chức bộ máy KTNB
gồm: Mô hình tổ chức và tổ chức nhân sự KTNB, cụ thể:
- Đã thực hiện nghiên cứu các mô hình, cơ cấu tổ chức của bộ phận KTNB
phổ biến trên thế giới, phù hợp với lý thuyết KTNB hiện đại. Đồng thời đã phân
tích những ảnh hưởng mang tính quyết định của mô hình tổ chức đến hoạt động
KTNB từ đó rút ra ưu, nhược điểm của từng mô hình và đề xuất khả năng áp

dụng trong thực tế đối với các tổ chức, doanh nghiệp;
- Xác định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ của KTNB với
các bộ phận khác. Đặt ra những yêu cầu cơ bản về tính độc lập khách quan trong
việc thực hiện nhiệm vụ của KTNB.
- Đưa ra những yêu cầu cơ bản về yêu cầu đối với các KTVNB như: trình
độ, kỹ năng, kinh nghiệm và nguồn bổ sung nhân sự cho bộ phận KTNB.
* Về tổ chức hoạt động KTNB
Các nghiên cứu đã đạt được những kết quả cụ thể như sau:
- Đã nghiên cứu và đề xuất phương pháp tiếp cận KTNB trên cơ sở phân
tích rủi ro áp dụng đối với toàn bộ quy trình kiểm toán; định hướng phát triển
loại hình kiểm toán hoạt động và kiểm toán tuân thủ;
- Xác định cụ thể quy trình kiểm toán gồm các bước: Chuẩn bị kiểm toán,
thực hiện kiểm toán, lập biên bản kiểm toán và kiểm tra thực hiện kiến nghị
kiểm toán;
- Bước đầu đã có những hướng dẫn đánh giá, phân tích và xếp loại rủi ro
làm cơ sở lập KHKT năm, đánh giá rủi ro khi thiết kế và thực hiện các thủ tục
kiểm toán;
- Đặt ra yêu cầu đối với việc kiểm soát chất lượng kiểm toán trong tất cả
các giai đoạn thực hiện kiểm toán: trong đó nêu rõ trách nhiệm của người đứng
đầu, trách nhiệm của các bộ phận có liên quan đến việc kiểm soát chất lượng
kiểm toán.
2.3.2. Xác định khoảng trống nghiên cứu
Ngoài các kết quả như đã nêu trên, các công trình nghiên cứu vẫn còn một
số vấn đề chưa được nghiên cứu, bao gồm:
Nghiên cứu về tổ chức KTNB trong TCT Sông Đà, là doanh nghiệp có mô
hình tổ chức nhiều cấp (bao gồm các công ty cấp I, II, III), hoạt động trong lĩnh
vực tiềm ẩn nhiều rủi ro và kết quả nghiên cứu hướng đến tính ứng dụng thực


14


tiễn cao.
Nghiên cứu việc xác định số lượng KTVNB - là bộ phận có đặc thù hoàn
toàn khác so với các bộ phận khác trong doanh nghiệp trên cơ sở phương pháp
tính định biên một cách khoa học, hợp lý.
Hướng dẫn cụ thể việc xây dựng bảng mô tả công việc, tiêu chuẩn chức
danh đối với từng chức danh KTNB.
Hướng dẫn xây dựng mô hình đánh giá, phân tích rủi ro để lựa chọn đơn vị,
hoạt động (nhóm hoạt động) được kiểm toán áp dụng đối với một đơn vị cụ thể
để nâng cao tính ứng dụng thực tế.
Phân tích, hướng dẫn cụ thể về xác định, lựa chọn chủ đề kiểm toán hoạt
động đối với các cuộc kiểm toán của KTNB, đồng thời hướng dẫn xây dựng bộ
tiêu chí đánh giá kiểm toán hoạt động.
Hướng dẫn hoàn thiện Sổ tay KTNB để hướng dẫn về nghiệp vụ, đồng thời
làm cơ sở nâng cao hiệu quả hoạt động KTNB; hoàn thiện hệ thống hồ sơ mẫu
biểu và kiểm soát chất lượng kiểm toán nhằm nâng cao tính chuyên nghiệp của
bộ phận KTNB.
2.3.3. Câu hỏi nghiên cứu
Nội dung nghiên cứu của luận án nhằm trả lời cho các câu hỏi sau:
- Các lý luận cơ bản về KTNB trong doanh nghiệp là gì, tổ chức KTNB
trong doanh nghiệp gồm những nội dung gì?
- Các phương pháp tiếp cận KTNB, ưu điểm của phương pháp tiếp cận trên
cơ sở phân tích rủi ro so với các phương pháp khác?
- Hoạt động sản xuất kinh doanh của TCT Sông Đà có những đặc thù gì, có
những loại rủi ro nào và ảnh hưởng của nó đến tổ chức KTNB?
- Thực trạng, ưu nhược điểm, nguyên nhân của những nhược điểm về tổ
chức KTNB trong TCT Sông Đà?
- Để hoàn thiện tổ chức KTNB trong TCT Sông Đà cần các giải pháp gì?
2.3.4. Những vấn đề luận án cần tập trung nghiên cứu
Để trả lời những câu hỏi nghiên cứu đã nêu trên, luận án tiếp tục nghiên

cứu, kế thừa, phát triển những mặt đã làm được cả về lý luận và thực tiễn của
các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước. Bên cạnh đó, luận án tập trung
nghiên cứu, phát triển một số vấn đề như sau:
Nghiên cứu, phân tích, lựa chọn mô hình tổ chức KTNB tối ưu, phù hợp
với đặc thù sở hữu vốn của các doanh nghiệp nói chung, doanh nghiệp có vốn
nhà nước chi phối nói riêng tại Việt Nam và thực tế tại TCT Sông Đà. Nghiên
cứu, đề xuất một số nội dung liên quan đến công tác tuyển dụng, bổ nhiệm cũng
như mối quan hệ của KTNB với các bộ phận khác nhằm tăng cường tính độc
lập, khách quan của bộ phận này;


15

Nghiên cứu phương pháp xác định định biên lao động, xây dựng mô hình
tính định biên lao động áp dụng cho bộ phận KTNB tại TCT Sông Đà;
Định hướng xây dựng và xây dựng mẫu bảng mô tả công việc, tiêu chuẩn
chức danh của một số KTVNB;
Nghiên cứu, xây dựng mô hình đánh giá, phân tích, xếp loại rủi ro hướng
đến hai nhóm hoạt động chính: (1) Đánh giá rủi ro trong quá trình lập KHKT
năm nhằm lựa chọn chủ đề, đơn vị, nhóm hoạt động được kiểm toán; (2) Đánh
giá rủi ro trong quá trình lập KHKT chi tiết nhằm lựa chọn cụ thể hoạt động
được kiểm toán đồng thời thiết kế chương trình kiểm toán, xây dựng tiêu chí
đánh giá kiểm toán hoạt động;
Nghiên cứu, đề xuất định hướng xây dựng Sổ tay KTNB; xây dựng hệ
thống hồ sơ, mẫu biểu áp dụng cho các cuộc KTNB;
Nghiên cứu lý thuyết, đề xuất phương án hoàn thiện tổ chức kiểm soát chất
lượng kiểm toán từ khâu lập kế hoạch đến khâu kiểm tra thực hiện kiến nghị
kiểm toán.
3. Mục tiêu nghiên cứu
3.1. Mục tiêu tổng quát

- Nghiên cứu, hệ thống hóa những vấn đề cơ sở lý luận và thực tiễn về tổ
chức KTNB, góp phần làm sáng tỏ hơn căn cứ, cơ sở khoa học và thực tiễn về tổ
chức KTNB trong các doanh nghiệp;
- Nghiên cứu kinh nghiệm tổ chức KTNB trên thế giới và rút ra các bài học
kinh nghiệm khi áp dụng để phù hợp với điều kiện của Việt Nam;
- Nghiên cứu và phát triển các vấn đề lý luận của KTNB, đặc biệt là
phương pháp tiếp cận KTNB trên cơ sở phân tích rủi ro.
3.2. Mục tiêu cụ thể
- Nghiên cứu các đặc trưng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của TCT
Sông Đà ảnh hưởng đến tổ chức KTNB, trong đó đi sâu vào nhóm các đặc trưng
tiềm ẩn rủi ro cao, khác biệt với các doanh nghiệp khác.
- Phân tích, đánh giá thực trạng tổ chức KTNB; nhận diện, đánh giá thực
trạng việc thực hiện chức năng KTNB (hoạt động KSNB, thanh, kiểm tra), so
sánh, đối chiếu với lý thuyết KTNB để thấy được: Những đặc điểm của KTNB
trong hoạt động KSNB, kiểm tra, kiểm soát; những điểm còn hạn chế trong công
tác kiểm tra, kiểm soát của TCT khi không thành lập bộ phận KTNB.
- Từ những nghiên cứu về thực trạng hoạt động KTNB, KSNB, thanh kiểm
tra, luận án chỉ rõ sự cần thiết phải thành lập bộ phận KTNB tại TCT Sông Đà,
đề xuất các giải pháp hoàn thiện tổ chức bộ máy và tổ chức hoạt động KTNB
phù hợp với đặc thù tổ chức sản xuất kinh doanh và tổ chức quản lý của TCT
Sông Đà. Trong đó chú trọng đến việc định hướng hoạt động KTNB dựa trên cơ


16

sở phương pháp tiếp cận, đánh giá rủi ro thông qua việc xây dựng mô hình đánh
giá rủi ro trong quá trình lập KHKT năm, lập KHKT chi tiết và tập trung chủ
yếu vào loại hình kiểm toán hoạt động.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu

- Đề tài nghiên cứu các lý luận cơ bản về KTNB và tổ chức KTNB trong
doanh nghiệp. Trong phạm vi luận án này, thuật ngữ “Tổ chức” được hiểu là bao
gồm hai nội dung: tổ chức bộ máy và tổ chức hoạt động.
- Đối tượng nghiên cứu cụ thể tại Công ty mẹ - TCT Sông Đà và các đơn vị
thành viên:
+ Tại Công ty mẹ: Nghiên cứu, đánh giá tổ chức bộ máy và tổ chức hoạt động
của Ban KSNB, các hoạt động thanh kiểm tra của các ban chuyên môn;
+ Tại các Công ty con: (1) Đối với đơn vị đã thành lập bộ phận KTNB:
Nghiên cứu, đánh giá tổ chức bộ máy và tổ chức hoạt động KTNB; (2) Đối với các
đơn vị chưa thành lập bộ phận KTNB: Nghiên cứu, đánh giá tổ chức bộ máy và tổ
chức hoạt động của Ban KSNB, các hoạt động thanh kiểm tra của các bộ phận
chuyên trách hoặc kiêm nhiệm.
- Nghiên cứu kết quả, kinh nghiệm về tổ chức KTNB theo thông lệ quốc tế và
một số tập đoàn lớn trên thế giới.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Đề tài đi sâu nghiên cứu tổ chức bộ máy và quy trình
KTNB và tại Công ty mẹ và các công ty con của TCT Sông Đà; nhận diện, đánh
giá thực trạng tổ chức, hoạt động thực hiện chức năng KTNB (KSNB, thanh,
kiểm tra) trong TCT Sông Đà, thông qua khảo sát thực tế tại Công ty mẹ và 14
Công ty con theo Đề án tái cơ cấu đã được Bộ Xây dựng phê duyệt tại Quyết
định số 50/QĐ-BXD ngày 15/1/2013. Đối với việc thực hiện quy trình KTNB,
KSNB, thanh, kiểm tra: luận án chỉ đánh giá việc xây dựng, ban hành và tình
hình thực hiện quy trình mà không đề cập đến những phát hiện, đánh giá, nhận
xét, kết luận, kiến nghị của các cuộc KTNB, KSNB, thanh kiểm tra.
- Về thời gian: Đề tài chủ yếu tập trung nghiên cứu khảo sát thực trạng tổ
chức KTNB, KSNB, thanh kiểm tra của các đơn vị nêu trên trong giai đoạn
2012 - 2015, có cập nhật tình hình cổ phần hoá đến hết 31/12/2018 và các nội
dung liên quan đến Nghị định số 05/2019/NĐ-CP ngày 22/01/2019 của Chính
phủ về Kiểm toán nội bộ.
5. Phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận chung
Đề tài dựa vào cơ sở của phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp
duy vật lịch sử để nghiên cứu các vấn đề một cách có hệ thống, toàn diện và


17

đảm bảo tính logic.
Kết hợp với phương pháp điều tra, khảo sát thực tế, đồng thời sử dụng các
phương pháp tổng hợp, phân loại, phân tích, so sánh... để hệ thống hóa, tổng kết
các vấn đề lý luận, đánh giá thực trạng KTNB trong mối quan hệ biện chứng
giữa các sự vật hiện tượng và tính lịch sử cụ thể.
5.2. Phương pháp cụ thể
Luận án sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu để thu thập thông tin
phục vụ cho quá trình nghiên cứu. Cụ thể:
a. Phương pháp thu thập dữ liệu
* Đối với tài liệu sơ cấp: Để có thể đưa ra các kết luận một cách khách
quan và mang tính điển hình về KTNB tại Công ty mẹ và các đơn vị thành viên
tại TCT Sông Đà, tác giả tiến hành phát phiếu điều tra thông qua hệ thống bảng
hỏi được thiết kế sẵn đối với 11 Ban tại Công ty mẹ (10 Ban trực thuộc Ban
Tổng Giám đốc, 01 Ban trực thuộc HĐTV) và 14 Công ty con đồng thời tiến
hành phỏng vấn trực tiếp đối với một số lãnh đạo, cán bộ một số Ban tại Công ty
mẹ như: Ban KSNB, Ban QTRR, Ban TCKT, Ban Kinh tế…; tại một số đơn vị
thành viên như: CTCP Sông Đà 11, Sông Đà 2, Sông Đà 5, Sông Đà 9... Những
mẫu lựa chọn theo định hướng tái cơ cấu SDC không những mang đến những
đánh giá tổng quát về hoạt động kiểm tra, kiểm soát, tư vấn... tại SDC mà còn là
cơ sở để đưa ra những định hướng xây dựng, vận hành hoạt động của KTNB tại
SDC cho giai đoạn tiếp theo.
Hoạt động khảo sát nhằm thu thập những thông tin về hoạt động KTNB,
KSNB, thanh kiểm tra tại Công ty mẹ và các Công ty con thuộc TCT Sông Đà

theo khía cạnh tổ chức bộ máy và tổ chức hoạt động.
Tại công ty mẹ: Câu hỏi phỏng vấn được thiết kế hướng đến nội dung
thực hiện chức năng kiểm tra, kiểm soát, đánh giá và tư vấn của các Ban để
có cơ sở nhận diện, đánh giá các hoạt động mang tính chất KTNB. Chi tiết
bảng câu hỏi điều tra tại Công ty mẹ và bảng tổng hợp được trình bày tại Phụ
lục số 02.
Tại công ty con: Với các câu hỏi điều tra về nội dung tổ chức bộ máy và tổ
chức hoạt động KTNB. Bảng khảo sát được gửi trực tiếp tới những người giữ
chức vụ quan trọng trong các đơn vị như Thành viên HĐQT/HĐTV, Phó TGĐ,
Kế toán trưởng, Trưởng Ban kiểm soát/Kiểm soát viên đến các chuyên viên tác
nghiệp trong doanh nghiệp như chuyên viên kế toán - tài chính, quản trị rủi ro,
tổ chức - hành chính, kinh tế - kế hoạch, dự án. Nội dung câu hỏi khảo sát được
chia thành 2 phần:
Phần 1: Thông tin chung về hoạt động của doanh nghiệp và đối tượng khảo sát.


18

Phần 2: Câu hỏi khảo sát chia làm 05 nhóm chính:
- Nhóm câu hỏi về KTNB (áp dụng đối với các đơn vị đã thành lập bộ phận
KTNB): các câu hỏi được chia thành Tổ chức bộ máy KTNB (15 câu) và Tổ
chức hoạt động KTNB (40 câu);
- Nhóm câu hỏi về KSNB (áp dụng đối với các đơn vị chưa thành lập bộ
phận KTNB nhưng đã có Ban KSNB): các câu hỏi được chia thành Tổ chức bộ
máy KSNB (16 câu) và Tổ chức hoạt động KSNB (41 câu);
- Nhóm câu hỏi về bộ phận thanh, kiểm tra chuyên trách (áp dụng đối với
các đơn vị chưa thành lập bộ phận KTNB, KSNB nhưng đã thành lập bộ phận
thanh, kiểm tra chuyên trách): các câu hỏi được chia thành Tổ chức bộ máy
thanh, kiểm tra (17 câu) và Tổ chức hoạt động thanh, kiểm tra (42 câu);
- Nhóm câu hỏi về hoạt động thanh, kiểm tra (10 câu, áp dụng đối với các

đơn vị chưa thành lập KTNB, KSNB và không có bộ phận thanh, kiểm tra
chuyên trách);
- Nhóm câu hỏi về quan điểm đối với hoạt động KTNB 05 câu.
Chi tiết bảng câu hỏi điều tra tại các đơn vị thành viên và bảng tổng hợp kết
quả điều tra được trình bày tại Phụ lục số 03.
Các câu hỏi trong phiếu khảo sát bao gồm hai loại mở và đóng, câu hỏi tại
các công ty con được thiết kế căn cứ vào tổ chức bộ máy và tổ chức hoạt động
KTNB. Phần trả lời các câu hỏi là có, không, không áp dụng, kết hợp với phỏng
vấn, quan sát để đánh giá mức độ phù hợp trong tổ chức KTNB, KSNB, thanh
kiểm tra so với lý thuyết KTNB. Trên cơ sở tổng hợp tình hình chung và kết quả
thu được của 14 phiếu điều tra tại các công ty con của SDC, Tác giả, đưa ra một
số nhận định, đánh giá về thực trạng hoạt động KTNB, KSNB, thanh kiểm tra
trong các đơn vị được điều tra. Tiêu chí để đánh giá: bám sát lý luận về KTNB
so sánh, đối chiếu với việc thực hiện trong thực tế tại SDC.
* Đối với các tài liệu thứ cấp: các tài liệu thứ cấp như các Thông tư, Nghị
định của Chính phủ, hệ thống quy trình quy chế quy định nội bộ của Công ty mẹ
và một số công ty thành viên, các kết quả kiểm tra, giám sát của các đoàn kiểm
tra trong và ngoài TCT tại các đơn vị, các báo cáo phân tích, tổng hợp của Ban
KSNB, các công trình nghiên cứu, các bài báo, các website của các đơn vị thành
viên TCT, vì vậy đảm bảo độ tin cậy cao. Tác giả sử dụng phương pháp thống
kê, phân tích và tổng hợp để hệ thống hóa thông tin phục vụ cho mục đích
nghiên cứu của Luận án. Các tài liệu thứ cấp được sử dụng để tham khảo trong
Luận án được trích dẫn rõ ràng theo đúng quy định và trình bày tại phần Tài liệu


19

tham khảo của Luận án.
b. Phương pháp xử lý, tổng hợp dữ liệu
Đối với các kết quả từ điều tra khảo sát thông qua hệ thống bảng câu hỏi

được thiết kế sẵn, tác giả đã sử dụng phần mềm Excel để tổng hợp số liệu. Trên
cơ sở nhận diện, phân tích, đánh giá thực trạng tổ chức KTNB tại Công ty mẹ
TCT Sông Đà và các công ty thành viên, tác giả sử dụng phương pháp chuyên
gia, tổng hợp và phân tích, tư duy độc lập trong việc vận dụng các quan điểm,
định hướng chiến lược phát triển của TCT Sông Đà, tiếp cận các kết quả nghiên
cứu của các tác giả trong và ngoài nước, vận dụng các kiến thức có được trong
công tác kiểm toán tại Kiểm toán nhà nước cũng như trong quá trình khảo sát
thực tế các Tập đoàn kinh tế trong và ngoài nước để đề xuất các giải pháp nhằm
hoàn thiện tổ chức KTNB trong TCT Sông Đà.
6. Những đóng góp mới của luận án
Những đóng góp của Luận án thể hiện ở cả hai mặt lý luận và thực tiễn:
6.1. Về lý luận
Luận án đã cụ thể hóa để làm rõ các vấn đề lý luận cơ bản về KTNB trong
doanh nghiệp. Phân tích các quan điểm khác nhau về KTNB, từ đưa ra các ưu,
nhược điểm của từng mô hình tổ chức KTNB khác nhau; vai trò, chức năng,
nhiệm vụ của KTNB.
Luận án đã phân tích được các nhân tố ảnh hưởng đến việc thiết kế và vận
hành KTNB trong các doanh nghiệp bao gồm: hành lang pháp lý, sự phát triển
của hội nghề nghiệp; quan điểm của nhà quản trị; đặc điểm tổ chức, hoạt động
(địa vị pháp lý, cơ cấu tổ chức, quy mô và phạm vi hoạt động, ngành nghề lĩnh
vực kinh doanh, chế độ sở hữu).
Luận án đã đi sâu nghiên cứu tổ chức KTNB theo thông lệ quản trị quốc tế
và cụ thể tại hai tập đoàn kinh tế lớn trên thế giới là General Motor và Poste
Italiane. Từ đó, rút ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam nói chung và
TCT Sông Đà nói riêng.
6.2. Về thực tiễn
Luận án đã khảo sát, nghiên cứu, phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động
KTNB và các hoạt động thực hiện chức năng KTNB tại TCT Sông Đà. Kết quả
đánh giá chỉ ra những mặt đạt được, đặc biệt là những tồn tại và nguyên nhân
của những tồn tại, từ đó đề xuất phương án hoàn thiện tổ chức KTNB tại TCT

Sông Đà trên các khía cạnh:
- Về tổ chức bộ máy KTNB: Tác giả đề xuất thành lập bộ phận KTNB trực
thuộc HĐTV tại Công ty mẹ dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Ủy ban kiểm toán; bộ
phận KTNB trực thuộc HĐQT tại các đơn vị thành viên dưới sự chỉ đạo trực tiếp
của Ủy ban kiểm toán (hoặc thành viên HĐQT độc lập). Đồng thời, tác giả cũng
đưa ra định hướng hoàn thiện quy chế KTNB với các nội dung về: chức năng;


20

nhiệm vụ; quyền hạn; tính độc lập khách quan, quy tắc đạo đức, ứng xử và mối
quan hệ của KTNB. Xây dựng mô hình tính định biên lao động của bộ phận
KTNB; xây dựng mẫu bản mô tả công việc, tiêu chuẩn chức danh đối với một số
vị trí của bộ phận KTNB....
- Về tổ chức hoạt động KTNB: xây dựng giải pháp tiếp cận KTNB trên cơ
sở phân tích rủi ro và tập trung vào thực hiện kiểm toán hoạt động. Tác giả đã
xây dựng mô hình đánh giá rủi ro trong quá trình lập KHKT năm (xác định đơn
vị được kiểm toán) và KHKT chi tiết (xác định nội dung kiểm toán). Trên cơ sở đó,
thiết kế chương trình kiểm toán với các phương pháp, thủ tục kiểm toán cụ thể.
Đồng thời, để hướng KTNB tập trung vào kiểm toán hoạt động, tác giả đã đưa ra
những định hướng trong việc lựa chọn chủ đề; xác định mục tiêu, nội dung; xây
dựng bộ tiêu chí đánh giá và các phương pháp kiểm toán cơ bản của kiểm toán hoạt
động. Đưa ra định hướng hoàn thiện Sổ tay KTNB theo hướng chi tiết, dễ tiếp cận
đối với tất cả các KTVNB.
- Về kiểm soát chất lượng kiểm toán: tác giả đưa ra phương án tổ chức và
định hướng một số hoạt động KSCL kiểm toán từ giai đoạn chuẩn bị kiểm toán,
thực hiện kiểm toán đến giai đoạn kết thúc kiểm toán. Cùng với đó, luận án cũng
đã thiết kế, hoàn thiện hệ thống hồ sơ mẫu biểu để hướng đến tính nhất quán,
chuyên nghiệp trong hoạt động của bộ phận KTNB.
- Các kiến nghị đối với các cơ quan chức năng hoàn thiện hành lang pháp

lý tạo điều kiện cho sự phát triển của KTNB trong doanh nghiệp nói chung và
KTNB tại TCT Sông Đà nói riêng.
Kết quả nghiên cứu này rất hữu ích đối với:
- TCT Sông Đà: với giải pháp hoàn thiện tổ chức KTNB tại Công ty mẹ và
các đơn vị thành viên.
- Đối với Chính phủ và các cơ quan quản lý nhà nước: hoàn thiện hệ thống
các văn bản pháp lý điều chỉnh hoạt động KTNB tại các doanh nghiệp nói chung
và doanh nghiệp nhà nước nói riêng.
7. Kết cấu của Luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, các công trình của tác giả đã công bố liên
quan đến luận án, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung chính của
luận án được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về tổ chức kiểm toán nội bộ trong doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng tổ chức kiểm toán nội bộ trong Tổng công ty Sông Đà
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện tổ chức kiểm toán nội bộ trong Tổng công
ty Sông Đà.


21

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TỔ CHỨC KIỂM TOÁN NỘI BỘ TRONG
DOANH NGHIỆP
1.1. Khái quát về KTNB.
1.1.1. Sự hình thành và phát triển lý thuyết KTNB.
a. Giai đoạn sơ khai của KTNB
Theo các tài liệu nghiên cứu về kiểm toán thì từ thời Ai Cập, La Mã và Hy
Lạp cổ đại đã có những hoạt động KTNB đơn giản; tại Trung Quốc, các nhà
nghiên cứu cũng cho rằng KTNB sơ khai đã hình thành từ hàng nghìn năm trước
Công nguyên. Lúc này, hoạt động kiểm tra được các vị Vua giao cho một cận

thần trung thực, tin cậy tiến hành kiểm tra toàn bộ các khoản thu, chi của ngân
khố trong năm để báo cáo cho Nhà Vua biết. Như vậy, chức năng kiểm tra việc
quản lý và sử dụng ngân khố đã được giao cho một người độc lập (không phải là
người sở hữu ngân khố - Nhà Vua; không phải là người trực tiếp quản lý ngân
khố - Quan coi giữ ngân khố) trung thực tiến hành kiểm tra. Hình thái sơ khai
của kiểm toán đã xuất hiện và chủ thể kiểm toán chính là các Quan do Nhà Vua
bổ nhiệm để thực hiện kiểm toán việc quản lý và sử dụng ngân khố. Đây là hình
thái kiểm tra đầu tiên mang những đặc tính của kiểm toán. Hình thái sơ khai của
KTNB này tiếp tục tồn tại hàng nghìn năm trong các triều đình phong kiến với
những hình thức, tên gọi cụ thế có thể khác nhau.
b. Giai đoạn KTNB tách riêng thành hoạt động độc lập
Mặc dù hình thái sơ khai của KTNB xuất hiện từ rất lâu, tuy nhiên sự phát
triển đầy đủ của nó lại chỉ thể hiện rõ khi nền sản xuất xã hội đã tạo nên những
chuyển biến lớn trong việc hình thành và phát triển hệ thống công cụ quản lý
kinh tế. Các hoạt động quản lý ngày càng nhiều và phức tạp, “người chủ sở hữu
và các nhà quản lý cấp cao không dễ dàng tiếp xúc với từng nghiệp vụ để kiểm
tra hiệu quả mọi hoạt động của đơn vị, để khẳng định những vấn đề cụ thể, trực
tiếp như: Những quy tắc đã định ra có được tuân thủ không? Công nhân viên là
việc có thực sự hiệu năng và phục vụ lợi ích của đơn vị? Tài sản của đơn vị có
được đảm bảo an toàn?... [34, tr11]. Không thể có đủ thời gian, sức lực cũng như
khả năng chuyên môn để trả lời tất cả các câu hỏi này, người chủ sở hữu và các
nhà quản lý cần có một bộ phận thực hiện việc kiểm tra, đánh giá các hoạt động
và báo cáo kết quả. Cuộc Cách mạng công nghiệp ở Châu Âu vào thế kỷ 18 đánh
dấu sự ra đời của các công ty cổ phần, các tập đoàn kinh tế đa quốc gia. Những
người đứng đầu các công ty này cần có một bộ phận thực hiện công việc kiểm tra,
giám sát bao gồm: kết quả hoạt động, tình hình tài chính, các mục tiêu, chính sách
kinh doanh, hiệu lực công việc, tình hình thực thi các quyết định… sau đó báo cáo
kết quả trực tiếp cho họ. Hoạt động này không chỉ tập trung ở công ty mẹ mà còn



22

được thực hiện ở các công ty con, các chi nhánh đặt trên toàn thế giới. Bộ phận
thực hiện công việc kiểm tra, giám sát đó chính là bộ phận KTNB và các cá nhân
thuộc bộ phận đó là các KTVNB.
Trong giai đoạn này, cuộc đại suy thoái kinh tế 1929-1933 đã làm hoạt
động sản xuất kinh doanh trên toàn cầu bị ảnh hưởng nghiêm trọng, việc phục
hồi sản xuất sau khủng hoảng cũng đặt ra yêu cầu cho các nhà quản lý như: kiểm
tra, giám sát, đánh giá tính hiệu lực, hiệu quả của các hoạt động, tối ưu hóa việc
sử dụng các nguồn lực… Một trong những phương án được các nhà quản lý lựa
chọn là tăng cường các hoạt động nội kiểm, tuy nhiên đây chỉ là hoạt động tự
phát bên trong các doanh nghiệp mà chưa có cơ sở lý luận, các quy tắc nghề
nghiệp chưa được ban hành cũng như chưa có một hiệp hội nghề nghiệp.
Năm 1941, sự ra đời của IIA và cuốn sách: “KTNB hiện đại” đã đánh dấu
KTNB đã chính thức có hệ thống cơ sở lý luận đầu tiên và được công nhận như
một nghề nghiệp.
Giai đoạn này, hoạt động KTNB được chi phối bởi các nguyên tắc nghề
nghiệp do IIA soạn thảo và công bố năm 1941. Sự mở rộng phạm vi hoạt động
của IIA thể hiện tính chuyên nghiệp ngày càng tăng của KTNB. Theo đó, năm
1952, Hiệp hội KTVNB ở Úc được thành lập tại Sydney. Để tiêu chuẩn hóa, vào
năm 1972 IIA bắt đầu thực hiện việc kiểm tra và cấp chứng chỉ KTVNB (CIA).
c. Giai đoạn KTNB phát triển mạnh mẽ
Tuy đã có lịch sử hình thành và hệ thống lý luận từ những năm 40 của thế kỷ
20, nhưng KTNB chỉ thực sự phát triển mạnh mẽ từ sau các vụ gian lận tài chính
ở các công ty lớn tại Mỹ (Công ty Worldcom và Enron) vào những năm 2000 2001 và sự sụp đổ của Tập đoàn bách hoá Hà Lan Royal Ahold vào năm 2003.
Đạo Luật Sarbanes - Oxley ra đời tại Mỹ ngày 30/7/2002 được coi là cải
cách quan trọng nhất trong luật pháp về chứng khoán Mỹ kể từ sau chương trình
kinh tế New Deal do Tổng thống Franklin D. Roosevelt khởi xướng những năm
1930 với quy định: các Công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Mỹ phải
báo cáo về hiệu quả của hệ thống KSNB trong công ty. Theo đó, KTNB đã được

coi trọng và trở thành một bộ phận độc lập chịu sự điều hành trực tiếp của lãnh
đạo cấp cao nhất trong doanh nghiệp, góp phần quan trọng trong hoạt động kiểm
tra, giám sát, đánh giá tính hiệu lực, hiệu quả việc sử dụng các nguồn lực, hoạt
động cũng như việc tuân thủ luật pháp, các quy định của Nhà nước, quy chế nội
bộ của đơn vị, làm tăng sự tin tưởng đối với các đối tượng bên ngoài sử dụng
các thông tin như: Ngân hàng, chủ đầu tư, nhà cung cấp, đối tác liên doanh.
Trong giai đoạn này, KTNB đã được xem xét dưới một góc độ chuyên
nghiệp hơn bằng sự lớn mạnh về quy mô của các Hiệp hội KTVNB. Để phù hợp
với điều kiện thực tế, IIA đã ban hành bộ chuẩn mực KTNB mới có hiệu lực từ


23

ngày 01/01/2002 thay thế bộ chuẩn mực ban hành tháng 6 năm 1978. Bộ chuẩn
mực mới đã phác họa các quy tắc cơ bản trong thực hành nghiệp vụ KTNB,
cung cấp một khuôn khổ cho việc thực hiện các hoạt động kiểm toán cũng như
tạo lập những cơ sở để đánh giá chất lượng kiểm toán và thúc đẩy việc cải tiến
quá trình vận hành của tổ chức. So với hệ thống chuẩn mực cũ, điểm khác biệt
quan trọng, cơ bản của chuẩn mực mới là sự khẳng định KTNB không chỉ là
một hoạt động kiểm tra mà còn là một hoạt động tư vấn. Đặc biệt Chuẩn mực
mới đã nhấn mạnh rằng KTNB chính là một hoạt động góp phần làm tăng giá
trị doanh nghiệp.
Đến giai đoạn này, KTNB đã đạt đến những tầm cao mới với đội ngũ KTV
giỏi hơn, được tổ chức ở trình độ cao hơn, có vị trí độc lập hơn.
1.1.2. Khái niệm và phân loại KTNB
1.1.2.1. Khái niệm KTNB
Trải qua nhiều giai đoạn phát triển, đã có những khái niệm khác nhau về
KTNB. Năm 1941, IIA được thành lập đánh dấu bước phát triển của hoạt động
KTNB, đây được coi là sự xác lập chính thức hoạt động KTNB. Tuy nhiên tại
thời điểm đó IIA chưa đưa ra định nghĩa về KTNB làm cơ sở phát triển hoạt

động KTNB. Đến tháng 6 năm 1978, Chuẩn mực thực hành kiểm toán chuyên
nghiệp cho KTNB (Standards for professional practice of internal auditing) mới
được IIA ban hành, chuẩn mực này đưa ra định nghĩa về KTNB: “KTNB là một
chức năng thẩm định độc lập được thiết lập bên trong một tổ chức để kiểm tra
và đánh giá các hoạt động của tổ chức đó, với tư cách là một sự trợ giúp đối với
tổ chức đó. Đó là một loại hình kiểm soát được thực hiện bằng cách kiểm tra và
đánh giá sự đầy đủ và tính hiệu lực của các loại hình kiểm soát khác. Mục tiêu
của KTNB là giúp đỡ cho các thành viên của tổ chức thực hiện một cách có hiệu
quả nhiệm vụ; để đạt được mục tiêu này, KTNB cung cấp cho các thành viên
của tổ chức các phân tích, thẩm định, kiến nghị, tư vấn và các thông tin liên
quan tới các hoạt động đang được xem xét, mục tiêu kiểm toán bao gồm việc đề
xuất khung kiểm soát hiệu quả ở mức chi phí hợp lý” [58, tr6]. Từ định nghĩa
này có thể đưa ra 04 điểm chủ yếu: Thứ nhất, KTNB là quá trình đánh giá một
cách có hệ thống và khách quan các hoạt động và các thủ tục kiểm soát trong tổ
chức; Thứ hai, hoạt động của KTNB là độc lập; Thứ ba, hoạt động của KTNB là
hoạt động phục vụ cho tổ chức với mục tiêu giúp đỡ các thành viên của tổ chức
hoàn thành nhiệm vụ hiệu quả; Thứ tư, đề xuất các thủ tục kiểm soát hiệu quả ở
mức chi phí hợp lý.
Như vậy, có thể thấy rằng IIA đã đưa ra một khái niệm khá đầy đủ về chức
năng, nhiệm vụ của KTNB, phù hợp với sự phát triển của KTNB tại thời điểm
đó. Theo đó, KTNB không chỉ đơn thuần là việc kiểm tra độ tin cậy của các
thông tin tài chính và hỗ trợ cho các KTV bên ngoài mà đã trở thành một công


24

cụ của các nhà quản lý. Bên cạnh đó, định nghĩa của IIA đã phần nào chỉ ra ba
chức năng cơ bản của KTNB đó là: kiểm tra, đánh giá và đề xuất.
Theo Liên đoàn kế toán quốc tế (IFAC) thì: “KTNB là một hoạt động đánh
giá được lập ra trong doanh nghiệp như là một dịch vụ cho doanh nghiệp đó, có

chức năng kiểm tra, đánh giá và giám sát tính phù hợp và hiệu quả của hệ thống
kế toán và kiểm soát nội bộ” [51, tr20]. Quan điểm này có thể được xem xét trên
ba khía cạnh: Thứ nhất, KTNB có chức năng đánh giá, kiểm tra, kiểm soát; Thứ
hai, KTNB có vai trò như một dịch vụ trợ giúp cho doanh nghiệp; Thứ ba, đối
tượng của KTNB là tính phù hợp và hiệu quả của hệ thống kế toán, KSNB.
Năm 1992, trong bản báo cáo của COSO về gian lận tài chính thì phạm vi
của KTNB không chỉ bao gồm kiểm toán kế toán truyền thống mà còn bao gồm
những vấn đề như năng lực của các nhân viên, các nhà quản lý, những mục tiêu
của doanh nghiệp đã đạt được ở mức độ nào và các rủi ro phát sinh được giám
sát như thế nào. Kết quả là các KTVNB bắt đầu trở thành đối tác của các nhà
quản lý nhằm đảm bảo đạt được các mục tiêu của tổ chức.
Với sự phát triển không ngừng của hoạt động kiểm toán nói chung và
KTNB nói riêng và yêu cầu quản lý trong môi trường kinh doanh luôn thay đổi,
tháng 6 năm 1999, IIA đã đưa ra một định nghĩa toàn diện hơn về KTNB được
sử dụng phổ biến trong các tài liệu của IIA cho tới hiện nay: “KTNB là hoạt
động đánh giá tư vấn độc lập trong nội bộ tổ chức, được thiết kế nhằm cải tiến
và làm tăng giá trị cho các hoạt động của tổ chức đó. KTNB giúp tổ chức đạt
được các mục tiêu bằng việc đánh giá một cách có hệ thống và cải tiến tính hiệu
lực của quy trình quản trị, kiểm soát và quản lý rủi ro” [52, tr1]. Có thể xem xét
định nghĩa này trên các khía cạnh sau: Thứ nhất, KTNB hoạt động với ba chức
năng đánh giá, tư vấn và kiến nghị (là những đề xuất cải tiến tính hiệu lực của
quy trình quản trị, kiểm soát và quản lý rủi ro); Thứ hai, KTNB là hoạt động nội
kiểm nhưng phải đảm bảo tính độc lập; Thứ ba, mục tiêu của KTNB là cải tiến
và làm tăng giá trị cho các hoạt động của tổ chức đó; Thứ tư, phương pháp thực
hiện KTNB là đánh giá hoạt động và kiến nghị nhằm cải thiện tính hiệu lực của
hoạt động quản trị, kiểm soát rủi ro.
Trong bài phát biểu của Đồng chí Nguyễn Sinh Hùng - Bộ trưởng Bộ Tài
chính tại hội thảo về KTNB trong doanh nghiệp ngày 24/6/1997 đưa ra khái
niệm về KTNB như sau: “Là công cụ quản lý của các nhà lãnh đạo doanh
nghiệp để kiểm soát, đánh giá, phân tích tình hình hoạt động của doanh nghiệp,

đánh giá và điều chỉnh chiến lược kinh doanh sao cho có hiệu quả nhất. KTNB
cũng là công cụ để phân tích, đánh giá chất lượng của hệ thống kế toán và hệ
thống KSNB” [4, tr13]. Quan điểm này có thể xét trên các khía cạnh: Thứ nhất,
KTNB hoạt động với chức năng kiểm soát, đánh giá và tư vấn. Như vậy, nếu
KTVNB chỉ có năng lực chuyên môn về kiểm toán là chưa đủ mà phải am hiểu


25

sâu sắc về hoạt động được kiểm toán mới có thể đưa ra tư vấn cho khách thể
kiểm toán về tình hình hoạt động của doanh nghiệp và chiến lược kinh doanh;
Thứ hai, hoạt động của KTNB không nhất thiết phải do một bộ phận độc lập của
doanh nghiệp thực hiện, theo xu hướng hiện đại, hoạt động này có thể được thực
hiện bởi các chuyên gia bên ngoài; Thứ ba, đối tượng của KTNB là toàn bộ các
hoạt động trong doanh nghiệp từ hoạt động sản xuất kinh doanh, chiến lược kinh
doanh cho đến hệ thống kế toán và hệ thống KSNB.
Như vậy, mỗi tổ chức khác nhau đều có các khái niệm của riêng mình về
KTNB, các khái niệm trên có cách diễn đạt khác nhau nhưng nhìn chung đều chỉ
rõ những điểm sau:
Thứ nhất: KTNB là một loại hình kiểm toán được hình thành từ yêu cầu quản
lý và phục vụ cho yêu cầu này, do đó đối tượng phục vụ của KTNB có thể là Giám
đốc, HĐQT với các yêu cầu khác nhau. Về bản chất, KTNB cũng là một loại kiểm
soát trong số nhiều các hoạt động kiểm soát được nhà quản lý sử dụng với nhiệm
vụ đo lường, đánh giá các hoạt động của doanh nghiệp kể cả hệ thống KSNB.
Thứ hai: Chức năng của KTNB là kiểm tra, đánh giá và tư vấn. Chức năng
này được cụ thể hóa trong từng loại hình kiểm toán khác nhau, với từng tổ chức
khác nhau. Quá trình thực hiện chức năng của mình, đối tượng của KTNB có thể
là toàn bộ các hoạt động trong doanh nghiệp.
Thứ ba: KTNB là một hoạt động nội kiểm có tính độc lập trong một tổ
chức. Mặc dù là hoạt động nội kiểm nhưng ngày nay hoạt động này có thể được

thực hiện bởi các chuyên gia bên ngoài. Khi thực hiện kiểm toán các KTVNB
phải đáp ứng được các yêu cầu chung về tính độc lập.
Thứ tư: Để thực hiện được chức năng tư vấn, các KTVNB phải có trình độ
chuyên môn cao không chỉ về kiểm toán mà còn phải am hiểu về các lĩnh vực
chuyên môn nghiệp vụ để đưa ra được những đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả
đối với các hoạt động được kiểm toán.
Thứ năm: Cách thức tiếp cận của KTNB là cách thức tiếp cận có hệ thống,
phương pháp thực hiện công việc theo đúng các quy định về đạo đức, các chuẩn
mực thực hành và ứng dụng đã được ban hành và áp dụng trên toàn thế giới.
Từ những phân tích trên, Tác giả đưa ra định nghĩa về KTNB như sau:
KTNB là một bộ phận được xây dựng độc lập trực thuộc cấp lãnh đạo cao nhất,
với chức năng kiểm tra, đánh giá toàn bộ các hoạt động của doanh nghiệp. Từ
đó đưa ra các ý kiến tư vấn nhằm nâng cao chất lượng hệ thống kiểm soát nội
bộ và hiệu quả trong việc sử dụng các nguồn lực để đạt được các mục tiêu
doanh nghiệp đã đề ra.


×