Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về nền văn hoá xó hội chủ nghĩa và thực hiện xây dựng nền văn hóa ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.78 KB, 32 trang )

Sinh viên: Bùi Vân Hoài Giang – MSSV: 0954025195

A. MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
Loài người được coi là kết tinh kì diệu của tạo hoá, của tự nhiên. thức
chính là nguồn gốc hình thành xã hội. Xã hội loài người trải qua nhiều giai đoạn
phát triển khác nhau, từ xã hội nguyên thuỷ cho đến xã hội xã hội chủ nghĩa, dù
ở châu Âu hay châu Á… thì mỗi nơi, mỗi vùng đất, mỗi thời điểm đều hình
thành nên những nền văn hoá đặc trưng riêng biệt. Xây dựng xã hội chính là xây
dựng con người, xây dựng nền văn hoá. Nền văn hoá phản ánh rõ nhất xã hội,
thể chế chính trị, đời sống nhân dân.
Đã có rất nhiều nhà khoa học tìm hiểu, đi sâu nghiên cứu và đưa ra các
quan điểm về văn hoá khác nhau. Mỗi người đều có những cơ sở lí luận và cơ sở
thực tiễn để đưa ra các học thuyết về văn hoá. Chủ nghĩa Mác – Lênin đã có
những đóng góp lớn vào kho tàng tri thức nhân loại về đề tài văn hoá. Đặc biệt,
chủ nghĩa Mác – Lênin đã nêu ra một khái niệm hoàn toàn mới về văn hoá đó là
văn hoá xã hội chủ nghĩa, đây có thể coi là một bước tiến quan trọng trong tiến
trình phát triển của loài người.
Đảng cộng sản Việt Nam lấy tư tưởng Hồ Chí Minh là nòng cốt, chủ
nghĩa Mác – Lênin là kim chỉ nam soi đường cho những đường lối, chủ trương
chỉ đạo đất nước. Để tìm hiểu kĩ về những chủ trương, chính sách của Đảng về
phát triển văn hoá em tìm hiểu đề tài “Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về
nền văn hoá xã hội chủ nghĩa và thực hiện xây dựng nền văn hóa ở nước ta
hiện nay” qua đó nhận thức rõ định hướng của Đảng cũng như các bước phát
triển của nước ta hiện nay.
II. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là nắm vững những quan điểm khoa học,
cách mạng, nhân văn của chủ nghĩa Mác – Lênin về văn hoá cũng như văn hoá
xã hội chủ nghĩa. Hiểu rõ hơn về đường lối của Đảng về xây dựng nền văn hoá
xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh nước ta hiện thời.
III. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu


- Đối tượng nghiên cứu: nền văn hoá xã hội chủ nghĩa

Người hướng dẫn: Ths Phan Văn Bình

1


Sinh viên: Bùi Vân Hoài Giang – MSSV: 0954025195

- Phạm vi nghiên cứu: từ sự hình thành và phát triển nền văn hoá xã hội
chủ nghĩa đến nay.
IV. Phương pháp nghiên cứu
Dùng phương pháp duy vật biện chứng cùng các luận điểm, luận cứ khoa
học. Đồng thời là cách làm một bài luận văn về nghiên cứu khoa học để trình
bày quan điểm của mình.
V. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Làm rõ quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin về văn hoá xã hội chủ
nghĩa, phân tích rõ cơ sở lí luận của đề tài. Đối với thực tiễn, đề tài góp phần
sáng tỏ những hướng đi đúng đắn của Đảng để từ đó luôn tin tưởng đi theo con
đường mà Đảng cộng sản Việt Nam đã lựa chọn.

Người hướng dẫn: Ths Phan Văn Bình

2


Sinh viên: Bùi Vân Hoài Giang – MSSV: 0954025195

B. NỘI DUNG


Chương 1: Quan điểm của chủ nghĩa Mác_Lênin về văn hoá xã
hội chủ nghĩa
1.1. Khái niệm văn hoá trong quan điểm chủ nghĩa Mác_Lênin
Văn hóa là khái niệm mang nội hàm rộng với rất nhiều cách hiểu khác
nhau, liên quan đến mọi mặt đời sống vật chất và tinh thần của con người.
Nghĩa ban đầu của văn hóa trong tiếng Hán là những nét xăm mình qua
đó người khác nhìn vào để nhận biết và phân biệt mình với người khác, biểu thị
sự quy nhập vào thần linh và các lực lượng bí ấn của thiên nhiên, chiếm lĩnh
quyền lực siêu nhiên. Theo bộ Từ Hải (bản năm 1989) thì văn hóa vốn là một
cách biểu thị chung của hai khái niệm văn trị và giáo hóa.
Theo ngôn ngữ của phương Tây, từ tương ứng với văn hóa của tiếng Việt
(culture trong tiếng Anh và tiếng Pháp, kultur trong tiếng Đức,...) có nguồn gốc
từ các dạng của động từ Latinh colere là colo, colui, cultus với hai nghĩa: (1) giữ
gìn, chăm sóc, tạo dựng trong trồng trọt; (2) cầu cúng.
Trong cuộc sống hàng ngày, văn hóa thường được hiểu là văn học, nghệ
thuật như thơ ca, mỹ thuật, sân khấu, điện ảnh...Các "trung tâm văn hóa" có ở
khắp nơi chính là cách hiểu này. Một cách hiểu thông thường khác: văn hóa là
cách sống bao gồm phong cách ẩm thực, trang phục, cư xử và cả đức tin, tri thức
được tiếp nhận...Vì thế chúng ta nói một người nào đó là văn hóa cao, có văn
hóa hoặc văn hóa thấp, vô văn hóa.
Trong nhân loại học và xã hội học, khái niệm văn hóa được đề cập đến
theo một nghĩa rộng nhất. Văn hóa bao gồm tất cả mọi thứ vốn là một bộ phận
trong đời sống con người. Văn hóa không chỉ là những gì liên quan đến tinh thần
mà bao gồm cả vật chất.
Văn hóa liên kết với sự tiến hóa sinh học của loài người và nó là sản phẩm
của người thông minh (homo sapiens). Trong quá trình phát triển, tác động sinh
học hay bản năng dần dần giảm bớt khi loài người đạt được trí thông minh để
định dạng môi trường tự nhiên cho chính mình. Đến lúc này, bản tính con người
không không còn mang tính bản năng mà là văn hóa. Khả năng sáng tạo của con
người trong việc định hình thế giới hơn hẳn bất kỳ loài động vật nào khác và chỉ

có con người dựa vào văn hóa hơn là bản năng để đảm bảo cho sự sống còn của
Người hướng dẫn: Ths Phan Văn Bình

3


Sinh viên: Bùi Vân Hoài Giang – MSSV: 0954025195

chủng loài mình. Con người có khả năng hình thành văn hóa và với tư cách là
thành viên của một xã hội, con người tiếp thu văn hóa, bảo tồn nó đồng thời
truyền đạt nó từ thế hệ này sang thế hệ khác. Việc cùng có chung một văn hóa
giúp xác định nhóm người hay xã hội mà các cá thể là thành viên.
1.1.1.Văn hoá từ xưa đến nay
Văn hóa là bao gồm tất cả những sản phẩm của con người, và như vậy,
văn hóa bao gồm cả hai khía cạnh: khía canh phi vật chất của xã hội như ngôn
ngữ, tư tưởng, giá trị và các khía cạnh vật chất như nhà cửa, quần áo, các
phương tiện, v.v... Cả hai khía cạnh cần thiết để làm ra sản phẩm và đó là một
phần của văn hóa.
Có nhiều định nghĩa khác nhau về văn hóa, mỗi định nghĩa phản ánh một
cách nhìn nhận và đánh giá khác nhau. Ngay từ năm 1952, hai nhà nhân loại học
Mỹ là Alfred Kroeber và Clyde Kluckhohn đã từng thống kê có tới 164 định
nghĩa khác nhau về văn hóa trong các công trình nổi tiếng thế giới.Văn hóa được
đề cập đến trong nhiều lĩnh vực nghiên cứu như dân tộc học, nhân loại học (theo
cách gọi của Mỹ hoặc dân tộc học hiện đại theo cách gọi của châu Âu), dân
gian học, địa văn hóa học, văn hóa học, xã hội học,...và trong mỗi lĩnh vực
nghiên cứu đó định nghĩa về văn hóa cũng khác nhau. Các định nghĩa về văn
hóa nhiều và cách tiếp cận khác nhau đến nỗi ngay cả cách phân loại các định
nghĩa về văn hóa cũng có nhiều.
- Về mặt thuật ngữ khoa học: Văn hóa được bắt nguồn từ chữ Latinh
"Cultus" mà nghĩa gốc là gieo trồng, được dùng theo nghĩa Cultus Agri là "gieo

trồng ruộng đất" và Cultus Animi là "gieo trồng tinh thần" tức là "sự giáo dục
bồi dưỡng tâm hồn con người". Theo nhà triết học Anh Thomas Hobbes (15881679): "Lao động giành cho đất gọi là sự gieo trồng và sự dạy dỗ trẻ em gọi là
gieo trồng tinh thần".
- Các định nghĩa miêu tả: định nghĩa văn hóa theo những gì mà văn hóa
bao hàm, chẳng hạn nhà nhân loại học người Anh Edward Burnett Tylor (1832 1917) đã định nghĩa văn hóa như sau: văn hóa hay văn minh hiểu theo nghĩa
rộng trong dân tộc học là một tổng thể phức hợp gồm kiến thức, đức tin, nghệ
thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục, và bất cứ những khả năng, tập quán nào
mà con người thu nhận được với tư cách là một thành viên của xã hội.
Người hướng dẫn: Ths Phan Văn Bình

4


Sinh viên: Bùi Vân Hoài Giang – MSSV: 0954025195

- Các định nghĩa lịch sử: nhấn mạnh các quá trình kế thừa xã hội, truyền
thống dựa trên quan điểm về tính ổn định của văn hóa. Một trong những định
nghĩa đó là của Edward Sapir (1884 - 1939), nhà nhân loại học, ngôn ngữ học
người Mỹ: văn hóa chính là bản thân con ngưii, cho dù là những người hoang
dã nhất sống trong một xã hội tiêu biểu cho một hệ thống phức hợp của tập
quán, cách ứng xử và quan điểm được bảo tồn theo truyền thống.
- Các định nghĩa chuẩn mực: nhấn mạnh đến các quan niệm về giá trị,
chẳng hạn William Isaac Thomas (1863 - 1947), nhà xã hội học người Mỹ coi
văn hóa là các giá trị vật chất và xã hội của bất kỳ nhóm người nào (các thiết
chế, tập tục, phản ứng cư xử,...).
- Các định nghĩa tâm lý học: nhấn mạnh vào quá trình thích nghi với môi
trường, quá trình học hỏi, hình thành thói quen, lối ứng xử của con người. Một
trong những cách định nghĩa như vậy của William Graham Sumner (1840 1910), viện sỹ Mỹ, giáo sư Đại học Yale và Albert Galloway Keller, học trò và
cộng sự của ông là: Tổng thể những thích nghi của con người với các điều kiện
sinh sống của họ chính là văn hóa, hay văn minh...Những sự thích nghi này

được bảo đảm bằng con đường kết hợp những thủ thuật như biến đổi, chọn lọc
và truyền đạt bằng kế thừa.
- Các định nghĩa cấu trúc: chú trọng khía cạnh tổ chức cấu trúc của văn
hóa, ví dụ Ralph Linton (1893 - 1953), nhà nhân loại học người Mỹ định nghĩa:
a.Văn hóa suy cho cùng là các phản ứng lặp lại ít nhiều có tổ chức của các
thành viên xã hội; b. Văn hóa là sự kết hợp giữa lối ứng xử mà các thành tố của
nó được các thành viên của xã hội đó tán thành và truyền lại nhờ kế thừa.
- Các định nghĩa nguồn gốc: định nghĩa văn hóa từ góc độ nguồn gốc của
nó, ví dụ định nghĩa của Pitirim Alexandrovich Sorokin (1889 - 1968), nhà xã
hội học người Mỹ gốc Nga, người sáng lập khoa Xã hội học của Đại học
Harvard: Với nghĩa rộng nhất, văn hóa chỉ tổng thể những gì được tạo ra, hay
được cải biến bởi hoạt động có ý thức hay vô thức của hai hay nhiều cá nhân
tương tác với nhau và tác động đến lối ứng xử của nhau.
- Năm 2002, UNESCO đã đưa ra định nghĩa về văn hóa như sau: “Văn
hóa nên được đề cập đến như là một tập hợp của những đặc trưng về tâm hồn,
vật chất, tri thức và xúc cảm của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội
Người hướng dẫn: Ths Phan Văn Bình

5


Sinh viên: Bùi Vân Hoài Giang – MSSV: 0954025195

và nó chứa đựng, ngoài văn học và nghệ thuật, cả cách sống, phương thức chung
sống, hệ thống giá trị, truyền thống và đức tin.”
Tóm lại: văn hóa là sản phẩm của loài người, văn hóa được tạo ra và phát
triển trong quan hệ qua lại giữa con người và xã hội. Song, chính văn hóa lại
tham gia vào việc tạo nên con người, và duy trì sự bền vững và trật tự xã hội.
Văn hóa được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua quá trình xã hội
hóa. Văn hóa được tái tạo và phát triển trong quá trình hành động và tương tác

xã hội của con người. Văn hóa là trình độ phát triển của con người và của xã hội
được biểu hiện trong các kiểu và hình thức tổ chức đời sống và hành động của
con người cũng như trong giá trị vật chất và tinh thần mà do con người tạo ra.
1.1.2.Các loại hình văn hóa
a) Văn hóa tinh thần
Văn hóa tinh thần hay còn gọi là văn hóa phi vật chất là những ý niệm, tín
ngưỡng, phong tục, tập quán, giá trị, chuẩn mực,... tạo nên một hệ thống. Hệ
thống đó bị chi phối bởi trình độ của các giá trị, đôi khi có thể phân biệt một giá
trị bản chất. Chính giá trị này mang lại cho văn hóa sự thống nhất và khả năng
tiến hóa nội tại của nó.
b) Văn hóa vật chất
Ngoài các yếu tố phi vật chất như giá trị, tiêu chuẩn,... nền văn hóa còn
bao gồm tất cả những sáng tạo hữu hình của con người mà trong xã hội học gọi
chung là đồ tạo tác. Những con đường, tòa cao ốc, đền đài, phương tiện giao
thông, máy móc thiết bị...đều là đồ tạo tác. Văn hóa vật chất và phi vật chất liên
quan chặt chẽ với nhau. Khảo sát một nền văn hóa có thể thấy văn hóa vật chất
phản ánh những giá trị văn hóa mà nền văn hóa đó coi là quan trọng. Ở các nước
Hồi giáo, công trình kiến trúc đẹp nhất và hoành tráng nhất thường là thánh
đường trong khi ở Mỹ, nó lại là trung tâm thương mại. Văn hóa vật chất còn
phản ánh công nghệ hiểu theo khái niệm xã hội học là sự áp dụng kiến thức văn
hóa vào sinh hoạt trong môi trường tự nhiên. Tháp Eiffel phản ánh công nghệ
cao hơn tháp truyền hình Hà Nội. Ngược lại, văn hóa vật chất cũng làm thay đổi
những thành phần văn hóa phi vật chất. Việc phát minh ra các biện pháp tránh
thai đã góp phần làm hình thành nên tiêu chuẩn quan hệ tình dục không phải để
sinh đẻ.
Người hướng dẫn: Ths Phan Văn Bình

6



Sinh viên: Bùi Vân Hoài Giang – MSSV: 0954025195

Khi nghiên cứu nền văn hóa, người ta thường chia thành ba phạm vi khác
nhau
- Phạm vi tinh thần
- Phạm vi kỹ thuật
- Phạm vi của các tác phẩm: phạm vi này có một vị trí đặc biệt dành cho
nghệ thuật và các tác phẩm nghệ thuật, nhất là ngôn ngữ. Ngôn ngữ là biểu
tượng của nền văn hóa, nó có mối liên hệ mật thiết với văn hóa. Đối với con
người, biết một thứ ngôn ngữ không chỉ đơn giản là có thêm được một công cụ
giao tiếp cần thiết trong đời sống hàng ngày, mà còn là một bước để bước vào
một nền văn hóa và bắt đầu hiểu biết nền văn hóa đó.
1.2. Khái niệm nền văn hoá xã hội chủ nghĩa
1.2.1. Khái niệm văn hoá và nền văn hoá xã hội chủ nghĩa theo quan
điểm chủ nghĩa Mác_Lênin
Văn hoá là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng
tạo ra bằng lao động và hoạt động thực tiễn trong quá trình lịch sử của mình;
biểu hiện trình độ phát triển xã hội trong từng thời kì lịch sử nhất định.
Khi nghiên cứu quy luật vận động và phát triển của xã hội loài người,
C.Mác và Ph.Ăngghen đã khái quát các loại hình hoạt động của xã hội thành hai
loại hình cơ bản là sản xuất vật chất và sản xuất tinh thần. Do đó, văn hoá gồm
hai loại là văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần. Văn hoá vật chất là năng lực
sáng tạo của con người được thể hiện và kết tinh trong sản phẩm vật chất. Văn
hoá tinh thần là tổng thể các tư tưởng,lý luận và giá trị được sáng tạo ra trong
đời sống tinh thần và hoạt động tinh thần của con người.
Nền văn hóa là biểu hiện cho toàn bộ nội dung ,tính chất của văn hoá
được hình thành và phát triển trên cơ sơ kinh tế - chính trị của mỗi thời kì lịch
sử, trong đó ý thức hệ của giai cấp thống trị chi phối phương hướng phát triển và
quyết định hệ thống các chính sách, pháp luật quản lí các hoạt động văn hoá.
Mọi nền văn hoá trong nền xã hội có giai cấp bao giờ cũng có tính giai

cấp và gắn với bản chất của giai cấp cầm quyền. Văn hoá luôn có tính kế thừa,
sự kế thừa trong văn hoá luôn mang tính giai cấp và được biểu hiện ở nền văn
hoá của mỗi thời kỳ lịch sử nhất định trên cơ sở kinh tế, chính trị của nó.

Người hướng dẫn: Ths Phan Văn Bình

7


Sinh viên: Bùi Vân Hoài Giang – MSSV: 0954025195

Nếu kinh tế là cơ sở vật chất của nền văn hoá, thì chính trị là yếu tố quy
định khuynh hướng phát triển của một nền văn hoá, tạo nên nội dung ý thức hệ
của văn hoá. Chính vì vậy một nền chính trị phản động không thể tạo ra nền văn
hoá tiến bộ, mặc dù trong các chế độ chính trị lỗi thời, phản động vẫn xuất hiện
những tác phẩm tiến bộ. Do đó, nền văn hoá của bất kì thời kì nào của lịch sử
cũng đồng thời có sự kế thừa, sử dụng những di sản của quá khứ và sáng tạo ra
những giá trị văn hoá mới.
Trong xã hội có giai cấp và quan hệ giai cấp, các giai cấp thống trị của
mỗi thời kì lịch sử đều in dấu ấn của mình trong lịch sử phát triển của văn hoá
và tạo ra nền văn hoá của xã hội đó, tạo ra những giai đoạn khác nhau trong lịch
sử phát triển văn hoá.
1.2.2.Nền văn hoá xã hội chủ nghĩa
Theo V.I.Lênin: “Văn hoá vô sản không phải bỗng nhiên mà có, nó không
phải do những người tự cho mình là chuyên gia văn hoá vô sản, phát minh ra…
Văn hoá vô sản phải là sự phát triển hợp quy luật của tổng số những kiến thức
mà loài người đã tích luỹ được dưới ách thống trị của xã hội tư bản, xã hội của
bọn địa chủ và xã hội của bọn quan liêu”.
Nền văn hoá xã hội chủ nghĩa là nền văn hoá được xây dựng và phát triển
trên nền tảng hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, do đảng cộng sản lãnh đạo

nhằm thoả mãn nhu cầu không ngừng tăng lên về đời sống văn hoá tinh thần của
nhân dân, đưa nhân dân lao động thực sự trở thành chủ thể sáng tạo và hưởng
thụ văn hoá.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng toàn diện, triệt để trên tất
cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá,…Chính vì vậy, Lênin khẳng định sự
thay thế nền văn hoá tư sản bằng nền văn hoá vô sản là một sự thay đổi lớn về
mặt tư tưởng, “ lịch sử tư tưởng chính là lịch sử của quá trình thay thế của tư
tưởng, do đó là lịch sử đấu tranh tư tưởng”.
1.2.3 Đặc trưng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa
Nền văn hoá xã hội chủ nghĩa có những đặc trưng cơ bản sau đây:
Thứ nhất, Chủ nghĩa Mác-Lênin giữ vai trò chủ đạo và là nền tảng tư
tưởng, quyết định phương hướng phát triển nội dung của nền văn hóa xã hội chủ
nghĩa.
Người hướng dẫn: Ths Phan Văn Bình

8


Sinh viên: Bùi Vân Hoài Giang – MSSV: 0954025195

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, trong xã hội có giai cấp , ý
thức hệ giai cấp là nội dung cốt lõi của mọi nền văn hoá. Trong mọi thời đại , tư
tưởng của giai cấp thống trị trở thành tư tưởng thống trị của thời đại đó. Chính vì
vậy sau khi giai cấp công nhân trở thành giai cấp cầm quyền thì ý thức hệ của nó
trở thành nhân tố giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội.
Đặc trưng nói trên phản ánh bản chất giai cấp công nhân của nền văn hoá
xã hội chủ nghĩa.Mọi sự coi nhẹ, xa rời nội dung khoa học, cách mạng của ý
thức hệ giai cấp công nhân đều nhất định dẫn đến kết cục là không thể xây dựng
được nền văn hoá xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, là nền văn hóa có tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc

thể hiện mục đích và động lực nội tại của quá trình xây dựng xã hội mới và nền
văn hóa mới xã hội chủ nghĩa.
Trong các xã hội cũ, giai cấp thống trị bóc lột độc quyền chiếm hữu tư
liệu sản xuất và trên cơ sở đó cũng độc quyền chi phối đời sống tinh thần, nền
văn hoá của xã hội. Chúng độc quyền mọi phương tiện sáng tạo và sản phẩm của
hoạt động tinh thần nhằm một mặt tạo ra cái gọi là “văn hoá thượng lưu” phục
vụ giai cấp thống trị, áp bức bóc lột; mặt khác nhằm nô dịch tinh thần, ý thức
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, giam hãm họ trong tình trạng ngu
tối và nô lệ.
Trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, xây dựng chủ nghĩa xã hội,
hoạt động sáng tạo và hưởng thụ văn hoá không còn là đặc quyền đặc lợi của
thiểu số giai cấp bóc lột. Giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân
tộc là chủ thể sáng tạo và hưởng thụ văn hoá. Công cuộc cải biến cách mạng
toàn diện trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội từng bước tạo ra
tiền đề vật chất, tinh thần để đông đảo nhân dân tham gia xây dựng nền văn hoá
mới. Chính trong quá trình đó, văn hoá hướng tới nhân dân,dân tộc và mọi thành
tựu văn hoá trở thành tài sản của nhân dân.
Văn hoá luôn có sự kế thừa. Trơng bất kì thời kì nào của lịch sử, văn hoá
đều đồng thời bao gồm việc thừa kế, sử dụng di sản quá khứ và sáng tạo ra
những giá trị mới. Sự kế thừa và sáng tạo của nền văn hoá xã hội chủ nghĩa luôn
mang tính giai cấp công nhân với tư tưởng chính trị tiên tiến của thời đại và
hướng tới nhân dân, dân tộc. Đông đảo nhân dân và cả dân tộc là chủ thể của
Người hướng dẫn: Ths Phan Văn Bình

9


Sinh viên: Bùi Vân Hoài Giang – MSSV: 0954025195

văn hoá. Do đó, nền văn hoá xã hội chủ nghĩa là nền văn hoá mang tính nhân

dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc.
Thứ ba, là nền văn hóa được hình thành, phát triển một cách tự giác,dưới
sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua chính Đảng Cộng sản, có sự quản
lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nền văn hoá xã hội chủ nghĩa không hình
thành một cách tự phát. Trái lại, nó phải được hình thành và phát triển một cách
tự giác, có sự quản lý của nhà nước và có sự lãnh đạo của chính đảng của giai
cấp công nhân. Mọi sự coi nhẹ hoặc phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng
sản và vai trò quản lý của nhà nước đối với đời sống tinh thần của xã hội, với
nền văn hoá xã hội chủ nghĩa đều nhất định sẽ làm cho đời sống văn hoá tinh
thần của xã hội phát triển lệch lạc, mất phương hướng.
1.2.4.Vai trò và ý nghĩa của nền văn hoá xã hội chủ nghĩa
Văn hóa là mục tiêu của sự phát triển bởi lẽ, văn hóa do con người sáng
tạo ra, chi phối toàn bộ hoạt động của con người, là hoạt động sản xuất nhằm
cung cấp năng lượng tinh thần cho con người, làm cho con người ngày càng
hoàn thiện, xa rời trạng thái nguyên sơ ban đầu khi từ con vật phát triển thành
con người. Con người tồn tại, không chỉ cần những sản phẩm vật chất mà còn có
nhu cầu hưởng thụ sản phẩm văn hóa tinh thần, con người và xã hội loài người
càng phát triển thì nhu cầu văn hóa tinh thần đòi hỏi ngày càng cao. Đáp ứng
nhu cầu văn hóa tinh thần đó chính là đảm bảo sự phát triển ngày càng nhiều của
cải vật chất cho con người và xã hội.
Trên ý nghĩa đó, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, đồng thời là
mục tiêu của sự phát triển. Vì xét cho cùng, mọi sự phát triển đều do con người
quyết định mà văn hóa thể hiện trình độ vun trồng ngày càng cao, càng toàn diện
con người và xã hội, làm cho con người và xã hội ngày càng phát triển, tiến bộ;
điều đó nghĩa là ngày một xa rời trạng thái nguyên sơ, mông muội để tiến tới
một cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc và văn minh. Trong đó, bản chất nhân
văn, nhân đạo của mỗi cá nhân cũng như của cả cộng đồng được bồi dưỡng;
phát huy trở thành giá trị cao quý và chuẩn mực tốt đẹp của toàn xã hội. Mục
tiêu này phù hợp với khát vọng lâu đời của nhân loại và là mục đích phát triển
bền vững, tiến bộ của các quốc gia, dân tộc. Đây là một nội dung quan trọng của

Chủ nghĩa xã hội mà chúng ta đang xây dựng
Người hướng dẫn: Ths Phan Văn Bình

10


Sinh viên: Bùi Vân Hoài Giang – MSSV: 0954025195

Trong sự phát triển của xã hội, kinh tế và văn hoá luôn luôn có mối quan
hệ hữu cơ và tác động qua lại chặt chẽ. Tuy nhiên, tới các thập kỷ gần đây, vấn
đề phát triển kinh tế phải dựa trên nền tảng của phát triển văn hoá mới được đặt
ra, được khẳng định là một quy luật tất yếu khách quan của phát triển. Vì thế, sự
phát triển của mỗi quốc gia - dân tộc chỉ có thể trở nên năng động, hiệu quả, bền
vững chừng nào quốc gia đó đạt được sự kết hợp hài hoà giữa kinh tế với văn
hoá trong tiến trình phát triển.
Ngày nay, không ai có thể phủ nhận vai trò quan trọng của văn hoá với tư
cách là nhân tố trực tiếp tham gia vào quá trình phát triển kinh tế. Lịch sử phát
triển của loài người cho thấy, ở bất kỳ thời kỳ nào, với bất kỳ quốc gia nào, con
người cũng đều đóng vai trò quyết định với quá trình sản xuất, mà trước hết, họ
là một thực thể văn hoá. Tố chất con người (tinh thần yêu nước, trình độ khoa
học công nghệ, tinh thần tổ chức xã hội, tính nhân văn...) có ý nghĩa quyết định
làm nên sức mạnh của văn hoá ở mỗi quốc gia - dân tộc. Và do đó ở thời kỳ hiện
đại, nói đến tiềm năng phát triển của mỗi quốc gia, người ta không chỉ nói tới tài
nguyên thiên nhiên, mà phải nói tới yếu tố quyết định là văn hoá, được thể hiện
qua năng lực sáng tạo, trí tuệ, tài năng, đạo đức của con người ở quốc gia đó...
Với chức năng định hướng, đào tạo con người theo các giá trị chân - thiện
- mỹ, văn hoá có khả năng xây dựng, làm hình thành trong phẩm chất của mọi
thành viên xã hội ý thức phát huy các tiềm năng về thể lực, trí lực và nhân cách
để đóng góp vào sự nghiệp phát triển của dân tộc. Thời hiện đại, sự phát triển
của một số quốc gia ở Đông Á, đã đưa tới một số bài học cần tham khảo. Như

Nhật Bản và Hàn Quốc chẳng hạn, một trong các yếu tố cơ bản trực tiếp góp
phần làm nên nhịp độ phát triển nhanh chóng của hai quốc gia này là đã biết
phát huy các đặc điểm ưu việt của nền văn hoá truyền thống vào quá trình phát
triển, thông qua hệ thống giáo dục và hoạt động văn hoá có đầu tư thích đáng về
con người và phương tiện vật chất. Họ không để cho làn sóng của văn minh hiện
đại và giao lưu văn hoá ồ ạt lấn át các cơ sở văn hoá truyền thống được xây
dựng qua hàng nghìn năm lịch sử của dân tộc, như tinh thần lao động có kỷ
cương, tính hợp lý trong điều hành xã hội và mối quan hệ gia đình, thân tộc...
Cho nên không ngẫu nhiên, UNESCO khẳng định rằng, nước nào tự đặt cho
mình mục tiêu phát triển kinh tế mà tách rời khỏi môi trường văn hoá thì nhất
Người hướng dẫn: Ths Phan Văn Bình

11


Sinh viên: Bùi Vân Hoài Giang – MSSV: 0954025195

định sẽ xảy ra mất cân đối nghiêm trọng cả về kinh tế lẫn văn hoá, và tiềm năng
sáng tạo của những dân tộc ấy sẽ bị suy yếu rất nhiều.
Văn hóa là động lực của sự phát triển, bởi lẽ mọi sự phát triển đều do con
người quyết định chi phối. Văn hóa khơi dậy và nhân lên mọi tiềm năng sáng tạo
của con người, huy động sức mạnh nội sinh to lớn trong con người đóng góp
vào sự phát triển xã hội. Văn hoá xã hội chủ nghĩa là nền văn hoá mà xã hội loài
người đang hướng tới. Đây là nền văn hoá được coi là lí tưởng khi ở đó mọi
người đều có quyền bình đẳng, quyền mưu cầu hạnh phúc. Nó hướng con người
đến một xã hội tươi sáng, tốt đẹp hơn và ngay càng hoàn thiện mình. Nền văn
hoá xã hội chủ nghĩa có vai trò và ý nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy sự
phát triển, đi lên của toàn xã hội giúp kinh tế, chính trị…cùng các mặt khác của
xã hội xây dựng một xã hội văn minh lí tưởng.
1.3. Phương thức xây dựng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa

1.3.1. Những nội dung cơ bản của nền văn hoá xã hội chủ nghĩa
- Nâng cao trình độ dân trí, hình thành đội ngũ trí thức của xã hội mới.
Xây dựng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa trên cái nền của văn hoá tư sản, dựa vào
vật liệu của chủ nghĩa tư bản đem lại mà yếu tố quan trọng nhất là con người.
Chủ nhân của xã hội mới là công nhân và nông dân. Trong các chế độ cũ, họ
không được hưởng thụ những giá trị văn hoá, không được chăm lo về giáo dục.
Vì vậy, mặc dù họ là những người hăng hái đấu tranh cho chủ nghĩa xã hội,
muốn nhanh chóng xây dựng xã hội mới tốt đẹp nhưng họ lại chưa có đủ học
thức, không có trình độ văn hoá cần thiết để làm việc đó, V.I.Lênin cho rằng
người mù chữ đứng ngoài chính trị. Do đó, nâng cao dân trí là điều kiện không
thể thiếu để xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, để quần chúng có nhận thức
đúng và tham gia trực tiếp vào quản lí nhà nước.
- Xây dựng con người mới phát triển toàn diện. Con người là sản phẩm
của lịch sử nhưng đồng thời con người cũng chính là chủ thể quá trình phát triển
lịch sử. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin xem việc đào tạo con
người mới với tư cách là chủ thể sáng tạo có ý thức của xã hội mới – xã hội chủ
nghĩa và cộng sản chủ nghĩa, là một yêu cầu tất yếu. Do đó, xây dựng con người
mới là một trong những nội dung cơ bản của việc xây dựng nền văn hoá xã hội
chủ nghĩa.
Người hướng dẫn: Ths Phan Văn Bình

12


Sinh viên: Bùi Vân Hoài Giang – MSSV: 0954025195

Con người mới xã hội chủ nghĩa là con người phát triển toàn diện. Những
con người ấy thể hiện một mẫu nhân cách sống lí tưởng, sống có trách nhiệm
với công việc, với xã hội, với mọi người và với chính mình. Họ phải là những
người có học thức, có niềm tin khoa học, có năng lực hoạt động sáng tạo, làm

việc với tính tổ chức, tính kỉ luật cao, đấu tranh cho lẽ phải, chân lí, cho sự công
bằng, bình đẳng, dân chủ. Đó là những con người có sự phát triển lành mạnh về
thể chất, trí tuệ, đạo đức, sự phong phú về đời sống tinh thần.
- Xây dựng lối sống mới xã hội chủ nghĩa. Lối sống là dấu hiệu biểu thị
sự khác biệt giữa những cộng đồng người khác nhau; là tổng thể các hình thái
hoạt động con người, phản ánh điều kiện vật chất, tinh thần và xã hội của con
người; là sản phẩm tất yếu của một hình thái kinh tế - xã hội và có tác động đến
hình thái kinh tế - xã hội đó. Lối sống mới xã hội chủ nghĩa là một đặc trưng có
tính nguyên tắc của xã hội xã hội chủ nghĩa và việc xây dựng lối sống mới tất
yếu trở thành một nội dung của nền văn hoá xã hội chủ nghĩa. Lối sống mới xã
hội chủ nghĩa được xây dựng, hình thành trên những điều kiện cơ bản của nó, đó
là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, trong đó sở hữu toàn dân giữ vai trò chủ
đạo; nguyên tắc phân phối theo lao động; quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân; chủ nghĩa Mác – Lênin giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã
hội..v..v..
- Xây dựng gia đình văn hoá xã hội chủ nghĩa. Nếu văn hoá là toàn bộ
những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra nhằm thoả mãn
những nhu cầu của mình, thì gia đình là một giá trị văn hoá của xã hội. Văn hoá
gia đình luôn gắn bó, tương tác với văn hoá cộng đồng, dân tộc, giai cấp và tầng
lớp xã hội trong mỗi thời kì nhất định của một quốc gia dân tộc nhất định. Do
đó, có thể quan niệm gia đình là một hình thức tổ chức cơ bản trong đời sống
cộng đồng con người, một thiết chế văn hoá – xã hội đặc thù được hình thành,
tồn tại và phát triển quan hệ hôn nhân, huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng, giáo
dục giữa các thành viên.
Gia đình văn hoá xã hội chủ nghĩa được từng bước xây dựng cùng với
tiến trình phát triển của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Xuất phát từ mối quan
hệ biện chứng giữa gia đình và xã hội, gia đình được xem là tế bào của xã hội,

Người hướng dẫn: Ths Phan Văn Bình


13


Sinh viên: Bùi Vân Hoài Giang – MSSV: 0954025195

có thể nói, thực chất của việc xây dựng gia đình văn hoá là nhằm góp phần xây
dựng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa.
Gia đình văn hoá là gia đình được xây dựng, tồn tại và phát triển trên cơ
sở giữ gìn và phát huy giá trị văn hoá tốt đẹp của dân tộc, xoá bỏ những yếu tố
lạc hậu, những tàn tích của chế độ hôn nhân và gia đình kiểu cũ, đồng thời tiếp
thu những giá trị tiến bộ của nhân loại về gia đình.
Gia đình văn hoá mới xã hội chủ nghĩa là gia đình tiến bộ, đánh dấu bước
phát triển của các hình thức gia đình trong lịch sử nhân loại. Xây dựng gia đình
văn hoá mới xã hội chủ nghĩa đem lại lợi ích cho cả cá nhân và xã hội.Con
người mới của xã hội mới khi tạo dựng cho hạnh phúc gia đình cũng góp phần
cho sự phát triển của xã hội. Với ý nghĩa đó, xây dựng gia đình văn hoá mới trở
thành nội dung quan trọng của việc xây dựng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa, là
sự thể hiện tính ưu việt của nền văn hoá ấy so với các nền văn hoá trước đó.
1.3.2. Phương thức xây dựng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa
- Giữ vững và tăng cường vai trò chủ đạo của hệ tư tưởng của giai cấp
công nhân trong đời sống tinh thần của xã hội. Trong quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội, giai cấp công nhân với tư cách là giai cấp cầm quyền, phải bằng
mọi biện pháp thông qua các nhà tư tưởng và các thiết chế tư tưởng của mình để
tác động, chi phối các quan hệ tư tưởng của mình trong đời sống tinh thần xã hội
bởi vì, như chủ nghĩa Mác đã khẳng định, những tư tưởng thống tri của một thời
đại bao giờ cũng chỉ là những tư tưởng của giai cấp thống trị.
Xây dựng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa là hoạt động có mục đích của giai
cấp công nhân thông qua Đảng cộng sản và Nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhằm
xây dựng và phát triển hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa – hệ tư tưởng của giai cấp
công nhân thành hệ tư tưởng chủ đạo trong xã hội. Do đó, giữ vững và tăng

cường vai trò chủ đạo của hệ tư tưởng của giai cấp công nhân trong đời sống
tinh thần xã hội là phương thức quan trọng để xây dựng nền văn hoá xã hội chủ
nghĩa. Đây là phương thức cơ bản để giữ vững đặc trưng, bản chất của nền văn
hoá đó.
- Không ngừng tăng cường sự lãnh đạo của Đảng cộng sản và vai trò quản
lí của Nhà nước đối với hoạt động văn hoá. Sự lãnh đạo của Đảng cộng sản và
quản lí của Nhà nước đối với mọi hoạt động văn hoá là vấn đề có tính nguyên
Người hướng dẫn: Ths Phan Văn Bình

14


Sinh viên: Bùi Vân Hoài Giang – MSSV: 0954025195

tắc, là nhân tố quyết định thắng lợi sự nghiệp xây dựng nền văn hoá xã hội chủ
nghĩa. Đây là sự đảm bảo về chính trị, tư tưởng để nền văn hoá xây dựng trên
nền tảng của hệ tư tưởng của giai cấp công nhân đi đúng quỹ đạo và mục tiêu
xác định. Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin thực chất đây là sự
tăng cường chuyên chính vô sản trong hoạt động văn hoá.
Đảng lãnh dạo xây dựng nền văn hoá bằng cương lĩnh, đường lối, chính
sách văn hoá của mình và sự lãnh đạo của Đảng phải được thể chế hoá trong
hiến pháp, pháp luật, chính sách. Nhà nước thực hiện quản lí văn hoá theo đúng
nguyên tắc, quan điểm, chủ trương Đảng cộng sản.
- Xây dựng nên văn hoá xã hội chủ nghĩa theo phương thức kết hợp việc
thừa kế những giá trị trong di sản văn hoá dân tộc với tiếp thu có chọn lọc những
tinh hoa văn hoá của nhân loại. Trong tư tưởng của các nhà kinh điển nền văn
hoá xã hội chủ nghĩa phải được xây dựng trên cơ sở kế thừa, tiếp thu có chọn lọc
những giá trị văn hoá dân tộc cũng như của nhân loại, đặc biệt là những thành
quả mà chủ nghĩa tư bản đã tạo ra. Nhiệm vụ mà các nhà kinh điển đặt ra cho
giai cấp vô sản là tiếp thu và cải biến toàn bộ di sản văn hoá truyền thống và

thành tựu của văn minh nhân loại. Đó là điều kiện tiên quyết để tạo nên những
giá trị văn hoá mới trong nền văn hoá xã hội chủ nghĩa.
Sự gắn kết giữa giữ gìn, kế thừa văn hoá dân tộc, tiếp thu giá trị văn hoá
nhân loại với quá trình sản sinh giá trị mới, tạo nên sự thống nhất biệnc chứng
của hai mặt giữ gìn và sáng tạo văn hoá. Đây được coi là phương thức nhằm xây
dựng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa phong phú, đa dạng.
- Tổ chức và lôi cuốn quần chúng nhân dân vào các hoạt động và sáng tạo
văn hoá. Trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa nhân dân lao động đã trở
thành chủ thể sáng tạo và hưởng thụ văn hoá. Tuy nhiên, để phát huy tối đa tính
chủ động , sáng tạo của quần chúng, Đảng và Nhà nước xã hội chủ nghĩa cần
phải tổ chức nhiều phong trào nhằm lôi cuốn đông đảo nhân dân tham gia vào
các hoạt động và sáng tạo văn hoá.

Người hướng dẫn: Ths Phan Văn Bình

15


Sinh viên: Bùi Vân Hoài Giang – MSSV: 0954025195

Chương 2: Xây dựng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
2.1. Tính tất yếu của việc xây dựng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa
Xuất phát từ tính triệt để, toàn diện của cách mạng xã hội chủ nghĩa đòi
hỏi phải thay đổi phương thức sản xuất tinh thần, làm cho phương thức sản xuất
tinh thần phù hợp với phương thức sản xuất mới của xã hội chủ nghĩa. Tồn tại xã
hội quyết định ý thức xã hội, phương thức sản xuất vật chất quyết định phương
thức sản xuất tinh thần. Do đó, khi phương thức xã hội tư bản chủ nghĩa bị xoá
bỏ, phương thức xã hội chủ nghĩa mới ra đời thì việc xây dựng nền văn hoá xã
hội chủ nghĩa cũng đồng thời diễn ra nhằm thay đổi bản chất ý thức xã hội, xây
dựng ý thức xã hội mới phù hợp với sự thay đổi về chất đã tạo ra với việc xác

lập quyền lực kinh tế và quyền lực chính trị của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động.
Xây dựng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa là tất yếu trong quá trình cải tạo
tâm lí, ý thức và đời sống tinh thần của chế độ cũ để lại nhằm giải phóng nhân
dân lao động thoát khỏi ảnh hưởng tư tưởng, ý thức của xã hội cũ lạc hậu. Mặt
khác, xây dựng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa còn là một yêu cầu cần thiết trong
việc đưa quần chúng nhân dân thực sự trở thành chủ thể sản xuất và tiêu dùng,
sáng tạo và hưởng thụ văn hoá tinh thần. Đó là nhiệm vụ cơ bản, phức tạp và lâu
dài của quá trình xây dựng nền văn hoá mới xã hội chủ nghĩa. Về thực chất đây
chính là cuộc đấu tranh trên lĩnh vực văn hoá, đấu tranh giữa hai hệ tư tưởng tư
sản và hệ tư tưởng vô sản trong quá trình phát triển xã hội.
Xây dựng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa là tất yếu trong quá trình nâng
cao trình độ văn hoá cho quần chúng nhân dân lao động, khắc phục tình trạng
thiếu hụt văn hoá. Đây là điều kiện cần thiết để đông đảo nhân dân lao động
chiến thắng nghèo nàn, lạc hậu, nâng cao trình độ và nhu cầu văn hoá của quần
chúng. Trong quá trình chỉ đạo thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực ở
nước Nga, V.I.Lênin chỉ ra ba kẻ thù của chủ nghĩa xã hội, đó là bệnh kiêu ngạo
cộng sản, nạn mù chữ, nạn hối lộ và đồng thời ông cũng khẳng định rằng chỉ có
làm cho tất cả mọi người đều phải có văn hoá, phải nâng cao trình độ văn hoá
của quần chúng nhân dân thì mới có thể chiến thắng được kẻ thù đó một cách
căn bản.

Người hướng dẫn: Ths Phan Văn Bình

16


Sinh viên: Bùi Vân Hoài Giang – MSSV: 0954025195

Xây dựng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa là tất yếu xuất phát từ yêu cầu

khách quan, văn hoá vừa là mục tiêu, vừa là động lực của quá trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội trong xã hội xã hội chủ
nghĩa phải nằhm mục tiêu văn hoá, vì một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh,
vì sự phát triển tự do, toàn diện của con người. Điều đó cho thấy văn hoá là kết
quả của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, nhưng đồng thời các nhân tố văn hoá cũng
luôn gắn bó với đời sống kinh tế - xã hội và trở thành động lực của sự phát triển
kinh tế - xã hội. Nền văn hoá mới xã hội chủ nghĩa tạo những tiền đề quan trọng
nâng cao phẩm chất, năng lực, học vấn, giác ngộ chính trị cho quần chúng nhân
dân lao động, tạo cơ sở nâng cao năng suất lao động..v..v..Văn hoá xã hội chủ
nghĩa với nền tảng là hệ tư tưởng của giai cấp công nhân trở thành điều kiện tinh
thần của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, là động lực và mục tiêu của chủ
nghĩa xã hội.
2.2. Sự vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin trong công
cuộc xây dựng nền văn hoá nước ta hiện nay
2.2.1. Quan điểm của Đảng trong việc xây dựng nền văn hoá xã hội chủ
nghĩa
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa
VIII) ngày 16-7-1998 về “xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, đã giải thích: Tiên tiến là yêu nước và tiến bộ mà
nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa
Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhằm mục tiêu tất cả vì con người, vì hạnh
phúc và sự phát triển phong phú, tự do, toàn diện của con người trong mối quan
hệ hài hòa giữa cá nhân và cộng đồng, giữa xã hội và tự nhiên.
Tiên tiến không chỉ về nội dung tư tưởng mà cả trong hình thức biểu hiện,
trong các phương tiện chuyển tải nội dung. Bản sắc dân tộc bao gồm những giá
trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp
nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là lòng
yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng
gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc; lòng nhân ái khoan dung, trọng
nghĩa tình đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động, sự tinh tế trong ứng

xử, tính giản dị trong lối sống...
Người hướng dẫn: Ths Phan Văn Bình

17


Sinh viên: Bùi Vân Hoài Giang – MSSV: 0954025195

Toàn bộ tinh thần của Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về xây dựng
và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đã làm
sáng lên bức tranh của nền văn hóa đất nước trong tương lai. Đó là nền văn hóa
với vai trò là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực thúc đẩy kinh
tế- xã hội phát triển, gắn với sự nghiệp CNH- HĐH đất nước, gắn với những vấn
đề nảy sinh trong xu thế toàn cầu hóa và nền kinh tế thị trường. Đối với công tác
lãnh đạo văn hóa, Nghị quyết khẳng định: . Đây là vấn đề cực kỳ quan trọng, cơ
bản và chiến lược không chỉ đối với công tác lãnh đạo mà cả công tác quản lý
văn hóa, với mỗi cán bộ, đảng viên.
Có thể nói Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) đã thể hiện sự phát triển
cả nhận thức và tư duy lý luận về văn hóa, lãnh đạo văn hóa của Đảng. Đó cũng
chính là kết tinh của sự kế thừa và phát triển Chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh về văn hóa, về xây dựng và phát triển sự nghiệp văn hóa, về
phương pháp lãnh đạo văn hóa, quản lý văn hóa; là sản phẩm từ tổng kết lý luận
và thực tiễn trong quá trình hơn 70 năm lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo văn hóa
của Đảng.
Nhà nước thực hiện chức năng quản lý về văn hóa thông qua việc thể chế
hóa các chủ trương, chính sách của Đảng bằng luật pháp, pháp lệnh, nghị định,
quy định, các chính sách văn hóa... Thông qua các chương trình hành động,
phong trào thi đua yêu nước, qua hệ thống các thiết chế văn hóa để vận động
quần chúng nhân dân thực hiện; biến chủ trương, chính sách, nghị quyết của
Đảng thành lực lượng vật chất, thành phong trào cách mạng; tạo ra những kết

quả cụ thể nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần cho nhân dân, thúc đẩy phát
triển kinh tế- xã hội, trực tiếp xây dựng nền tảng tinh thần cho xã hội.
Đến Đại hội IX, những tư tưởng chủ yếu của Đảng về phát triển văn hóa
được thể hiện trên cơ sở thực tiễn thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa
VIII), Nghị quyết Đại hội IX tiếp tục nhấn mạnh vị trí của văn hóa trong lịch sử
phát triển của dân tộc ta; khẳng định sức sống lâu bền của những quan điểm, tư
tưởng nêu trong Nghị quyết Trung ương V (khóa VIII) trong đời sống xã hội,
trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta; về ý nghĩa , Nghị quyết nhấn mạnh đó là tầm cao, chiều

Người hướng dẫn: Ths Phan Văn Bình

18


Sinh viên: Bùi Vân Hoài Giang – MSSV: 0954025195

sâu của sự phát triển của dân tộc, khẳng định và làm rõ vị trí của văn hóa trong
đời sống dân tộc, trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Hội nghị Trung ương 10 (khóa IX) kiểm điểm 5 năm thực hiện Nghị
quyết Trung ương 5 (khóa VIII) và ra kết luận tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp xây
dựng và phát triển văn hóa làm nền tảng tinh thần xã hội, gắn kết và đồng bộ với
phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt.
Đại hội X, Đảng xác định tiếp tục phát triển sâu rộng, nâng cao chất lượng
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Gắn kết chặt chẽ hơn
với phát triển kinh tế xã hội; Làm cho văn hóa thấm sâu và mọi lĩnh vực đời
sống xã hội; Xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam; Bảo
vệ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, hội nhập kinh tế quốc tế; Bồi dưỡng các giá trị văn hóa trong thanh niên,
sinh viên, học sinh, đặc biệt là lý tưởng sống, lối sống, năng lực trí tuệ, đạo đức

và bản lĩnh văn hóa Việt Nam; Đầu tư cho việc bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch
sử cách mạng, kháng chiến, di sản văn hóa vật thể, phi vật thể; Kết hợp hài hòa
giữa bảo tồn, phát huy với kế thừa và phát triển, giữ gìn di tích với phát triển
kinh tế du lịch. tinh thần tự nguyện, tính tự quản của nhân dân trong xây dựng
văn hóa; Đa dạng hóa các hoạt động của phong trào “Toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hóa”.
2.2.2. Tổ chức thực hiện việc xây dựng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa ở
nước ta hiện nay
a) Định hướng đối với các chính sách văn hoá
Quá trình tiến hành sự nghiệp đổi mới, vấn đề định hướng phát triển đất
nước là cực kỳ quan trọng. Định hướng đúng để đạt tới mục tiêu mà cương lĩnh
năm 1991 về xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã đề
ra, được Đại hội VII của Đảng thông qua. Theo đó, phát triển kinh tế theo định
hướng xã hội chủ nghĩa để phấn đấu đến năm 2020 cơ bản nước ta trở thành
nước công nghiệp. Nhưng điều cốt lõi là chất lượng phát triển, phát triển muốn
đạt chất lượng nhất thiết phải có nội dung văn hóa- xã hội. Phát triển văn hóa- xã
hội và xây dựng con người luôn luôn gắn bó với định hướng chính trị, định
hướng phát triển kinh tế đất nước. Và cũng như phát triển kinh tế, phát triển văn
hóa cũng phải coi trọng chất lượng, phải đúng hướng. Bác Hồ từng nói . Những
Người hướng dẫn: Ths Phan Văn Bình

19


Sinh viên: Bùi Vân Hoài Giang – MSSV: 0954025195

con người đó phải được chăm lo cả về bản lĩnh chính trị tư tưởng, học vấn, sức
khỏe, trí tuệ, tình cảm và đạo đức, đó chính là văn hóa.
Nền văn hóa định hướng xã hội chủ nghĩa thông qua các chính sách văn
hóa mang tính nhân văn, vì con người; phát huy tiềm năng, trí tuệ con người để

đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của sự nghiệp đổi mới, của nền kinh tế tri thức trong xu
thế hội nhập quốc tế. Nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng, ý nghĩa, vai trò, vị trí
của văn hóa trong đời sống dân tộc và trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, nghị
quyết Trung ương 5 (khóa VIII) của Đảng đã đề cập đến chính sách văn hóa
trong nhiệm vụ thứ 10 đó là . Nhiệm vụ chỉ rõ việc phải hoàn chỉnh các văn bản
luật pháp về văn hóa, nghệ thuật, thông tin trong điều kiện của cơ chế thị trường;
ban hành các chính sách khuyến khích sáng tạo văn hóa và nâng mức đáp ứng
nhu cầu hưởng thụ văn hóa của nhân dân. Do tầm quan trọng, tính cấp thiết của
nhiệm vụ này nến Nghị quyết đã ghi nội dung đó vào giải pháp thứ II trong cụm
các giải pháp
Đến Hội nghị Trung ương 10 (khóa IX), Trung ương Đảng khẳng định cần
tiếp tục thực hiện đầy đủ 5 quan điểm chỉ đạo đã được Nghị quyết Trung ương 5
(khóa VIII) đề ra. Trong kết luận của Hội nghị Trung ương 10, mục tiêu đầu tiên
xây dựng và phát triển văn hóa trong những năm tiếp theo nêu
Như vậy, trong suốt quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng đánh đuổi
giặc ngoại xâm, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ tổ quốc, Đảng ta luôn
quan tâm đến văn hóa và càng coi trọng hơn trong thời kỳ đổi mới, trong điều
kiện xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nghị quyết
Đại hội Đảng các kỳ VIII, IX, X; các kết luận, chỉ thị của Hội nghị Trung ương
các khóa trên đều thể hiện quan điểm nhất quán của Đảng trong nhìn nhận, đánh
giá, chỉ đạo xây dựng và phát triển văn hóa, gắn chặt với chiến lược xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Theo hướng đó, văn hóa
phải thực sự trở thành động lực và mục tiêu của sự phát triển, đồng thời đòi hỏi
một cơ chế chính sách đảm bảo cho văn hóa và kinh tế cùng phát triển.
b) Yêu cầu chính trị tư tưởng với các chính sách văn hoá
Các chính sách văn hóa phải phản ánh những giá trị nhân văn của văn hóa
Việt Nam. Muốn vậy phải xác định được những giá trị nhân văn của Việt Nam
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Tập trung làm nổi bật hệ thống giá trị
Người hướng dẫn: Ths Phan Văn Bình


20


Sinh viên: Bùi Vân Hoài Giang – MSSV: 0954025195

nhân văn đó ở tinh thần Đồng thời phải kết hợp hài hòa 3 lợi ích: lợi ích cá nhân,
lợi ích tập thể, lợi ích toàn xã hội. Đây cũng chính là một trong những động lực
của sự nghiệp đổi mới.
Các chính sách văn hóa đều theo tinh thần xã hội hóa. Hiện nay còn
không ít người hiểu vấn đề xã hội hóa chưa đầy đủ. Điều đó trở thành lực cản
cho sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa. Công tác giáo dục, tuyên truyền
cần phải làm cho mọi người nhận thức được xã hội hóa là vấn đề hết sức cần
thiết, nhất là đối với hoàn cảnh kinh tế của nước ta còn nhiều khó khăn, Nhà
nước không thể “bao” toàn bộ. Xã hội hóa là nhằm tạo sự quan tâm của toàn xã
hội; thu hút trí tuệ, nhân lực, vật lực của toàn xã hội; gây nhân tố thúc đẩy các
hoạt động văn hóa phát triển theo hướng biến đổi về chất, đổi mới về hình thức
và nội dung. Xã hội hóa cũng là một nội dung quan trọng của giải pháp xây
dựng, ban hành các chính sách văn hóa trong Nghị quyết Trung ương 5 (khóa
VIII). Trong quá trình đất nước thực hiện chủ trương đổi mới, nền kinh tế phát
triển theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì xã hội hóa hoạt
động văn hóa được coi như một động lực thúc đẩy các hoạt động văn hóa phát
triển.
Chính sách văn hóa đúng định hướng của Đảng, bám sát yêu cầu về tư
tưởng chính trị còn góp phần tạo nên sự ổn định và lành mạnh hóa xã hội. Ở đâu
không ổn định thì ở đó không thể phát triển. Một gia đình, tập thể, cộng đồng và
lớn hơn là toàn xã hội nếu có đời sống văn hóa phong phú, chất lượng cao, bình
đẳng… tức là có chính sách văn hóa nhân văn.
Xây dựng đời sống văn hóa được coi như bước đi ban đầu của sự nghiệp
xây dựng và phát triển văn hóa, là nhiệm vụ quan trọng của việc xây dựng môi
trường văn hóa lành mạnh. Đồng thời xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh

cũng chính là góp phần tạo ra môi trường chính trị- xã hội ổn định, an toàn và
bền vững trên cơ sở đời sống kinh tế được đảm bảo.
c) Những quan điểm chỉ đạo cơ bản và nhiệm vụ xây dựng nền văn
hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc
+ Những quan điểm chỉ đạo cơ bản
- Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động
lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội
Người hướng dẫn: Ths Phan Văn Bình

21


Sinh viên: Bùi Vân Hoài Giang – MSSV: 0954025195

- Nền văn hoá mà chúng ta xây dựng là nền văn hoá Việt Nam tiên tiến
đậm đà bản sắc dân tộc
- Nền văn hoá Việt Nam là nền văn hoá thống nhất mà đa dạng trong cộng
đồng các dân tộc Việt Nam
- Xây dựng và phát triển văn hoá là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh
đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.
- Văn hoá là một mặt trận, xây dựng và phát triển văn hoá là một sự
nghiệp lâu dài đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận trọng.
+ Nhiệm vụ cụ thể
- Xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới
"Nghị quyết đại hội VIII và nghị quyết đại hội IX của Đảng đã khẳng
định: Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người
Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá theo định hướng XHCN, là yếu tố cơ bản để phát triển xã hội,
tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững thực hiện dân giàu nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh" (tr 552, 553,phát triển con người trong quan

niệm của C.Mac và Ăngghen con người cho sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam).
"Phát triển con người Việt Nam - đó chính là động lực, là mục tiêu nhân
văn, là nền tảng, là cơ sở lâu bền, tạo đà cho bước phát triển tiếp theo của sự
nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá xã hội mà Đảng ta đang lãnh
đạo nhân dân ta từng bước thực hiện".
"Sau hơn 15 năm thực hiện đường lối đổi mới toàn diện đất nước theo
định hướng XHCN được đề ra từ đại hội VI của Đảng, giờ đây chúng ta đang
bước vào thời kỳ phát triển mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước. Định hướng phát triển như văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX của Đảng đã một lần nữa nhấn mạnh, nhằm mục tiêu xây dựng nước ta
thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, có cơ sở vật chất - kỹ thuật
hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất; phát huy cao độ nội lực; đồng thời tranh thủ
nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh,
có hiệu quả và bền vững; nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ,
Người hướng dẫn: Ths Phan Văn Bình

22


Sinh viên: Bùi Vân Hoài Giang – MSSV: 0954025195

kết cấu hạ tầng...ngày càng được tăng cường, tăng trưởng kinh tế đi liền với phát
triển văn hoá, từng bước cải triện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân,
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường; kết hợp
phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng an ninh; thực hiện dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, về thực chất là phát triển
con người, vì cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho quần chúng nhân dân lao động.
Mọi sự phát triển của xã hội trong các lĩnh vưc chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội

đều do con người quyết định và đều hướng về con người, và cuộc sống ngày
một tốt đẹp hơn của mỗi người, mỗi gia đình trong cộng đồng dân tộc Việt nam.
Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng XHCN vì mục tiêu
con người đó phải lấy sự phát triến con người Việt Nam làm thước đo chung.
Không phải cho đến nay chúng ta mới nhận thấy điều đó, mà ngay từ những
buổi đầu tiên, tiến hành sự nghiệp cách mạng của mình, Đảng ta đã nhiều lần lần
khẳng định: "Con người là vốn quý nhất, chăm lo hạnh phúc của con người là
mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta", chăm lo cho hạnh phúc của mọi
người, mọi nhà đã được Đảng ta đặt lên vị trí hàng đầu và coi đó là nhiệm vụ
trung tâm. Quán triệt quan điểm đó, cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên CNXH của Đảng ta đã khẳng định: "Phương hướng lớn của chính
sách xã hội là: phát huy nhân tố con người trên cơ sở đảm bảo công bằng, bình
đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi công dân, kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến
bộ xã hội, giữa đời sống vật chất và đới sống tinh thần, giữa đáp ứng các nhu
cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài, giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng
xã hội" (Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Nxb.Sự
thật Hà Nội 1991, tr 13).
- Xây dựng môi trường văn hoá
Để con người xã hội chủ nghĩa có thể phát triển toàn diện về mọi mặt,
điều thiết yếu là cần xây dựng một môi trưởng văn hoá. Môi trường xã hội là
yếu tố rất quan trọng ảnh hưởng đến nhân cách, nhân sinh quan của mỗi cá nhân,
hình thành nên ý thức hệ và luồng tư tưởng của mỗi cá nhân. Một môi trường
với nếp sống lành mạnh, được chú trọng và quan tâm trong mọi lĩnh vực đời
sống sẽ góp phần sản sinh ra con người lí tưởng của chủ nghĩa xã hội.
- Phát triển văn học, nghệ thuật
Người hướng dẫn: Ths Phan Văn Bình

23



Sinh viên: Bùi Vân Hoài Giang – MSSV: 0954025195

Nhằm phát huy vai trò, sứ mệnh cao quý của văn học, nghệ thuật và của
đội ngũ văn nghệ sĩ, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết về xây dựng và phát triển
văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới.
Ngày 16/6/2008, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 23-NQ/T.Ư về
"Tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới".
VnMedia điểm lại một số nét chính của Nghị quyết để bạn đọ Ðể thực hiện mục
tiêu phát triển văn học nghệ thuật đến năm 2020 thì trước tiên cần phải xây
dựng, phát triển đội ngũ văn nghệ sĩ Việt Nam một cách toàn diện cả về số
lượng, chất lượng và cơ cấu loại hình, có các thế hệ nối tiếp nhau vững
chắc. Phấn đấu sáng tạo nhiều tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị tư tưởng
và nghệ thuật cao, có tác dụng to lớn xây dựng con người; vừa có tác dụng định
hướng, vừa đáp ứng nhu cầu văn hóa - tinh thần ngày càng cao của nhân dân.
Trên cơ sở tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ thì giải pháp phát triển văn
học, nghệ thuật trong thời kỳ mới cũng là điểm cần nhấn mạnh. Trước tiên phải
tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển mạnh mẽ, đa dạng của văn học, nghệ
thuật về đề tài, nội dung, loại hình, phương pháp sáng tác, sự tìm tòi, thể
nghiệm, nâng cao chất lượng toàn diện nền văn học, nghệ thuật nước nhà. Xây
dựng quy hoạch và kế hoạch phát triển dài hạn các lĩnh vực văn học, nghệ thuật;
rà soát, bổ sung và xây dựng mới các chế độ, chính sách đối với hoạt động văn
học, nghệ thuật, như chế độ lương, nhuận bút, đãi ngộ tài năng, bồi dưỡng lao
động nghề nghiệp, chế độ hưu. Tăng mức đầu tư cho văn học, nghệ thuật; bảo
đảm kinh phí cho các chương trình mục tiêu lớn, cho hoạt động sáng tạo của các
hội văn học, nghệ thuật, xác định việc đầu tư này là đầu tư cho phát triển. Xây
dựng đề án và cơ chế bảo tồn, truyền bá các loại hình văn học, nghệ thuật cổ
truyền; có chính sách đặc biệt hỗ trợ sự phát triển của ngôn ngữ, chữ viết và văn
học, nghệ thuật các dân tộc thiểu số.
Có kế hoạch đầu tư nâng cấp, cải tạo và xây mới một số nhà hát, rạp chiếu
phim, trung tâm triển lãm văn học, nghệ thuật có chất lượng cao, tầm cỡ lớn,

tính chất hiện đại ở các thành phố, trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa của đất
nước. Các cơ quan quản lý nhà nước về xuất bản, báo chí, phát thanh, truyền
hình phối hợp chặt chẽ với các hội văn học, nghệ thuật nhằm công bố, giới thiệu,
quảng bá các tác phẩm văn học, nghệ thuật có chất lượng tốt, định hướng thẩm
Người hướng dẫn: Ths Phan Văn Bình

24


Sinh viên: Bùi Vân Hoài Giang – MSSV: 0954025195

mỹ cho công chúng. Nâng cao chất lượng các trường đào tạo văn học, nghệ
thuật; hoàn thiện chương trình, nội dung, giáo trình trong các trường cao đẳng,
đại học, giảng dạy các ngành đào tạo văn học, nghệ thuật (sáng tác, nghiên cứu,
lý luận, phê bình, biểu diễn, chỉ huy, đạo diễn.)
- Bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc

Bản sắc văn hoá dân tộc được coi là tấm giấy thông hành để mỗi con
người bước ra với cộng đồng nhân loại mà không bị trộn lẫn. Điều này càng có ý
nghĩa quan trọng khi chúng ta xây dựng nền kinh tế thị trường, giao lưu và hội
nhập với thế giới trong xu thế toàn cầu hoá.
Cùng với sự giao lưu khu vực và quốc tế, hiện nay trên thế giới đang diễn
ra xu hướng toàn cầu hoá và kinh tế. Từ sự phát triển của lực lượng sản xuất,
của các mối quan hệ tài chính, thương mại, với những tổ chức mangtính toàn
cầu như tổ chức thương mại thế giới (WTO), ngân hàng thế giới (WB), quỹ tiền
tệ quốc tế (IMF )..., toàn cầu hoá không chỉ phát huy ảnh hưởng trong lĩnh vực
kinh tế mà còn tác động mạnh mẽ tới các mặt chính trị, văn hoá, xã hội, đặt các
dân tộc, các quốc gia những những cơ hội và thách thức lớn.
Toàn cầu hoá một mặt tạo cho các quốc gia học tập lẫn nhau, vận dụng
các tiến bộ của khoa học, công nghệ để thúc đẩy kinh tế, mặt khácquá trình toàn

cầu hoá có thể làm triệt tiêu sự khác biệt về văn hoá các dân tộc, đồng nhất các
giá trị truyền thống của mỗi quốc gia, làm xói mòn ý thức dân tộc, dẫn đến nguy
cơ đồng hoá. Không phải ngẫu nhiên mà ở nơi này , nơi khác trên thế giới người
ta đã lớn tiếng cảnh báo “ sự xâm lăng về văn hoá là sự xâm lăng cuối cùng và
triệt để nhất “. Vì lẽ đó vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá có ý nghĩa
sống còn đối với các dân tộc. Đây là nhiệm vụ của mọi người, mọi ngành.
- Phát triển sự nghiệp giáo dục – đào tạo

Ngày 15/4, Bộ Chính trị ban hành kết luận về phương hướng phát triển
giáo dục và đào tạo đến năm 2020. Theo đó, ngành giáo dục cần sớm khắc phục
tình trạng quá tải, nặng về lý thuyết, nhẹ về thực hành, không duy trì các trường
ĐH, CĐ có chất lượng kém...
Các nhiệm vụ, giải pháp cần thực hiện tốt để phát triển giáo dục đến năm
2020 bao gồm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, coi trọng giáo dục nhân
cách, đạo đức, lối sống cho học sinh, sinh viên, mở rộng quy mô giáo dục hợp
Người hướng dẫn: Ths Phan Văn Bình

25


×