Tải bản đầy đủ (.doc) (150 trang)

Kế toán bán hàng và xác định kết quả bán hàng tại công ty TNHH sản xuất và thương mại ONC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (867.74 KB, 150 trang )

Học Viện Tài Chính

Luận văn cuối khóa

LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây, cơ chế quản lý kinh tế của nước ta có sự đổi
mới sâu sắc và toàn diện. Công cuộc đổi mới này tạo ra những chuyển biến tích
cực cho sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế. Nhiều chính sách kinh tế,
cách thức quản lý kinh tế, tài chính của Nhà nước đã và đang ngày càng hoàn
thiện. Hạch toán kế toán với tư cách là một bộ phận cấu thành quan trọng của hệ
thống quản lý kinh tế của nền kinh tế. Để phù hợp với cơ chế thị trường hạch
toán kế toán phải hết sức chặt chẽ và phát huy tối đa tác dụng của nó đối với nền
kinh tế, đồng thời hạn chế được các khe hở gây khó khăn cho quá trình quản lý
kinh tế - tài chính.
Ngày nay, khu vực hóa và quốc tế hóa nền kinh tế thế giới đã trở thành xu
thế tất yếu và có tác động mạnh mẽ đến kinh tế - văn hóa – chính trị - xã hội của
các nước. Trong điều kiện đó, Việt Nam đã tham gia nhiều tổ chức, diễn đàn kinh
tế khu vực, thế giới. Hội nhập với nền kinh tế thế giới đã mở ra nhiều thời cơ và
vận hội mới, tạo điều kiện cho nền kinh tế Việt Nam có những bước chuyển
mình to lớn. Song cũng chính điều đó lại đặt các doanh nghiệp phải đối mặt với
môi trường cạnh tranh gay gắt và quyết liệt hơn, buộc các doanh nghiệp phải
năng động, sáng tạo, luôn trong tư thế sẵn sàng và phải tự chủ về kết quả kinh
doanh, phải có cách thức tổ chức phối hợp nhịp nhàng và có hiệu quả các hoạt
động từ khâu sản xuất (thu mua) – lưu thông – tiêu thụ sản phẩm, hàng hóa của
doanh nghiệp mình. Trong đó, tiêu thụ hàng hóa với vai trò là khâu cuối cùng
của quá trình sản xuất kinh doanh giúp doanh nghiệp thực hiện giá trị hàng hóa.
Bảo toàn và phát triển vốn kinh doanh luôn được các doanh nghiệp quan tâm,
đặc biệt với doanh nghiệp thương mại thì đó là vấn đề quan trọng hàng

SV: Phạm Thị Hồng Chi


1

Lớp: K45/21.05


Học Viện Tài Chính

Luận văn cuối khóa

đầu. Hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận nên việc xác định đúng đắn kết quả kinh
doanh nói chung và xác định kết quả bán hàng nói riêng cũng là yêu cầu cơ bản
của nhà quản lý. Hạch toán tiêu thụ hàng hóa sau mỗi kỳ kinh doanh cung cấp
cho doanh nghiệp có được cái nhìn tổng quát về kết quả hoạt động sản xuất kinh
doanh của mình, cụ thể như các chỉ tiêu doanh thu, lợi nhuận…từ đó doanh
nghiệp có những biện pháp điều chỉnh cơ cấu hàng hóa, hình thức kinh doanh,
phương thức quản lý sao cho phù hợp với điều kiện thực tế để có hiệu quả hơn.
Qua quá trình học tập và thời gian thực tập tại Công ty TNHH sản xuất và
thương mại ONC, nhận thức được tầm quan trọng của công tác tổ chức kế toán
bán hàng và xác định kết quả bán hàng tại công ty, em đã chọn đề tài: “ Kế toán
bán hàng và xác định kết quả bán hàng tại Công ty TNHH sản xuất và
thương mại ONC”.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là tổ chức kế toán bán hàng và xác định kết
quả bán hàng ở một Doanh nghiệp thương mại, đi từ lý luận đến thực tiễn để từ
đó đưa ra những nhận xét, kiến nghị của bản thân nhằm hoàn thiện công tác kế
toán bán hàng và xác định kết quả của Công ty TNHH sản xuất và thương mại
ONC.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn của em gồm có 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về tổ chức công tác kế toán bán hàng và xác định kết
quả bán hàng trong doanh nghiệp thương mại.
Chương 2: Thực trạng tổ chức công tác kế toán bán hàng và xác định kết quả

bán hàng tại Công ty TNHH sản xuất và thương mại ONC.
Chương 3: Một số đề xuất nhằm hoàn thiện tổ chức công tác kế toán bán hàng
và xác định kết quả bán hàng tại Công ty TNHH sản xuất và thương mại ONC.

SV: Phạm Thị Hồng Chi

2

Lớp: K45/21.05


Học Viện Tài Chính

Luận văn cuối khóa

Trong quá trình thực tập và thực hiện luận văn, em đã nhận được sự
hướng dẫn tận tình của thầy giáo Nguyễn Tuấn Anh cùng với giúp đỡ nhiệt
thành của các anh chị thuộc phòng Kế toán tài chính của Công ty TNHH sản
xuất và thương mại ONC. Song, do trình độ bản thân còn hạn chế, quá trình tiếp
cận thực tế chưa sâu nên em cũng không thể tránh khỏi những sai sót trong quá
trình viết. Em mong nhận được sự góp ý, chỉ bảo của các thầy cô và của các anh
chị phụ trách phòng Kế toán Tài chính của Công ty TNHH sản xuất và thương
mại ONC để luận văn được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 29 tháng 3 năm 2011
Sinh viên
Phạm Thị Hồng Chi

SV: Phạm Thị Hồng Chi


3

Lớp: K45/21.05


Học Viện Tài Chính

Luận văn cuối khóa

CHƯƠNG 1:
LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỔ CHỨC CÔNG TÁC KẾ TOÁN BÁN HÀNG
VÀ XÁC ĐỊNH KẾT QUẢ BÁN HÀNG TRONG DOANH NGHIỆP
THƯƠNG MẠI
1.1. SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC HOÀN THIỆN CÔNG TÁC KẾ TOÁN
BÁN HÀNG VÀ XÁC ĐỊNH KẾT QUẢ

BÁN HÀNG TRONG

DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI
1.1.1. Khái niệm về bán hàng và xác định kết quả bán hàng trong doanh
nghiệp thương mại
Xã hội ngày càng phát triển đồng nghĩa với sự phát triển của hoạt động
sản xuất nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao ở mọi lúc mọi nơi của con người.
Trên thực tế, việc cung ứng sản phẩm đến người tiêu dùng hoàn toàn có thể được
thực hiện bởi các Doanh nghiệp sản xuất. Tuy nhiên, để đảm bảo tính hiệu quả
cũng như sự tất yếu của quá trình phân công lao động trong xã hội, hoạt động
kinh doanh thương mại ra đời, phát triển và song hành cùng hoạt động sản xuất,
hỗ trợ nhau trên con đường tối đa hóa lợi nhuận.
Hoạt động kinh doanh thương mại là hoạt động lưu thông, phân phối hàng
hóa trên thị trường buôn bán của từng quốc gia riêng biệt hay giữa các quốc gia

với nhau; nó làm cho nền kinh tế sôi động hơn, tốc độ lưu chuyển hàng hóa, tiền
tệ nhanh hơn và đáp ứng nhu cầu của con người cũng kịp thời hơn.
Ngày nay, khi trào lưu hội nhập đang là cơ hội phát triển của mỗi Quốc gia
và Việt Nam cũng đã chính thức trở thành thành viên của tổ chức Thương mại
Quốc tế thì hoạt động kinh doanh thương mại lại càng khẳng định được vai trò

SV: Phạm Thị Hồng Chi

4

Lớp: K45/21.05


Học Viện Tài Chính

Luận văn cuối khóa

cực kỳ quan trọng của nó. Thông qua hoạt động Ngoại thương, quan hệ bằng hữu
giữa các quốc gia sẽ ngày càng thắt chặt không chỉ về Kinh tế mà cả về Chính
trị. Đó là nền tảng vững chắc cho một Thế giới hòa bình mà toàn nhân loại đều
mong mỏi.
Khác với hoạt động sản xuất, kinh doanh thương mại thực hiện lưu chuyển
hàng hóa qua hai giai đoạn: mua hàng và bán hàng không qua khâu chế biến làm
thay đổi hình thái vật chất của hàng. Trong đó, bán hàng là hoạt động chủ yếu
quyết định đến kết quả kinh doanh của một Doanh nghiệp thương mại.
1.1.1.1. Bán hàng
Theo chuẩn mực số 14 (Quyết định số 149/2001 QĐ/BTC ban hành ngày
31/12/2001) – Bán hàng là bán sản phẩm do doanh nghiệp sản xuất ra và bán
hàng hóa mua vào.
+ Về mặt kinh tế: bản chất của BH chính là sự thay đổi hình thái giá trị của

hàng hóa, hàng hóa của Doanh nghiệp (DN) chuyển từ hình thái hiện vật sang
hình thái tiền tệ. Lúc này, DN kết thúc một chu kỳ kinh doanh, tức là vòng chu
chuyển vốn của DN được hoàn thành.
+ Về mặt tổ chức kỹ thuật: BH là quá trình kinh tế, bao gồm từ việc tổ
chức đến thực hiện trao đổi mua bán thông qua các khâu nghiệp vụ kinh tế kỹ
thuật, các hành vi mua bán cụ thể nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ của
Doanh nghiệp Thương mại (DNTM), thể hiện khả năng và trình độ của DN trong
việc thực hiện mục tiêu của mình cũng như đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu
dùng của Xã hội.

SV: Phạm Thị Hồng Chi

5

Lớp: K45/21.05


Học Viện Tài Chính

Luận văn cuối khóa

Ngày nay, khi mức sống của Xã hội ngày càng nâng cao, cơ cấu ngành
trong nền Kinh tế cũng đang nghiêng về khu vực Thương mại - Dịch vụ thì Bán
hàng là một khâu hết sức quan trọng và có ý nghĩa sống còn không chỉ đối với
sự tồn tại của DN mà còn cả sự phát triển chung của toàn bộ nền Kinh tế Xã hội.
+Đối với DN: Hoạt động BH là điều kiện tiên quyết giúp DN tồn tại và
phát triển. Thông qua BH, DN vừa có thể khẳng định được vị thế của mình trên
thị trường vừa có Doanh thu (DT) để bù đắp các Chi phí (CP) và mang lại lợi
nhuận. Đồng thời, DN có điều kiện để thực hiện phân phối lợi ích vật chất giữa
DN với Nhà nước thông qua các khoản thuế, giữa DN với người lao động thông

qua tiền lương, các khoản ưu đãi và giữa DN với chủ DN thông qua lợi nhuận.
+Đối với nền Kinh tế Quốc dân: Việc thực hiện tốt khâu BH là điều kiện
để kết hợp chặt chẽ giữa lưu thông hàng hóa và lưu thông tiền tệ, giúp cho quá
trình chu chuyển tiền mặt, ổn định và củng cố giá trị đồng tiền. Bán hàng còn là
điều kiện để ổn định và nâng cao đời sống của người lao động nói riêng và của
toàn Xã hội nói chung.
Như vậy, bản chất của quá trình bán hàng được thể hiện bởi những đặc
điểm sau đây:
+ Có sự thỏa thuận trao đổi giữa người mua và người bán: thuận mua vừa
bán, người mua trả tiền ngay hoặc chấp nhận trả tiền (thanh toán chậm)
+ Có sự chuyển quyền sở hữu sản phẩm hàng hóa gắn với phần lớn lợi ích
hoặc rủi ro từ người bán chuyển sang người mua.
+ Trong quá trình bán hàng, các doanh nghiệp cung cấp cho khách hàng
một lượng hàng và nhận lại của khách hàng một khoản tiền gọi là doanh thu bán
hàng. Số doanh thu này là cơ sở để doanh nghiệp xác định kết quả kinh doanh.

SV: Phạm Thị Hồng Chi

6

Lớp: K45/21.05


Học Viện Tài Chính

Luận văn cuối khóa

Tóm lại, bán hàng giống như “sợi dây” gắn doanh nghiệp với thị trường,
giúp doanh nghiệp có thể phát hiện nắm bắt được nhu cầu thị trường, từ đó tìm
được cơ hội kinh doanh để mở rộng và phát triển.

1.1.1.2. Xác định kết quả bán hàng
Kết quả kinh doanh là kết quả cuối cùng về các hoạt động kinh tế đã được
thực hiện một thời kỳ nhất định, được xác định trên cơ sở tổng hợp tất cả các kết
quả của mọi hoạt động sản xuất kinh doanh trong DN.
Kết quả kinh doanh của DN được xác định theo từng kỳ kế toán (tháng,
quý, năm) là phần chênh lệch giữa tổng DT và tổng CP của các hoạt động sản
xuất kinh doanh trong kỳ kế toán đó. Trong một DN thuần về hoạt động thương
mại thì kết quả kinh doanh cũng đồng thời là kết quả bán hàng của DN đó.
Khi nền kinh tế thị trường đang ngày một phát triển, ngoại trừ một số DN
hoạt động vì mục đích chính trị như: tổ chức từ thiện, công tác xã hội… thì hầu
hết DN đều có mục tiêu lợi nhuận. Lợi nhuận là chỉ tiêu chất lượng để đánh giá
kết quả hoạt động và mức độ tích cực trên các mặt của DN. Có thể nói, lợi nhuận
là yếu tố mang tính chất quyết định đến sự tồn tại và phát triển của DN ở hiện tại
cũng như trong tương lai. Bởi lẽ:
+ Lợi nhuận là nguồn tích lũy nhằm đảm bảo cho DN tái sản xuất mở
rộng, cải thiện và từng bước nâng cao đời sống của người lao động cũng như các
cá nhân tham gia góp vốn cổ phần, góp vốn liên doanh liên kết.
+ Lợi nhuận cũng là nguồn để DN thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước thông
qua việc đóng thuế và các khoản đóng góp khác.
Nói tóm lại, việc xác định kết quả kinh doanh nói chung và kết quả bán
hàng nói riêng là việc làm vô cùng cần thiết, giúp DN có những nhìn nhận chính

SV: Phạm Thị Hồng Chi

7

Lớp: K45/21.05


Học Viện Tài Chính


Luận văn cuối khóa

xác hơn về năng lực của mình để có kế hoạch cụ thể đưa DN không những ngày
càng đứng vững mà còn vươn xa hơn trên thị trường trong nước và quốc tế.
1.1.2. Sự cần thiết quản lý và yêu cầu quản lý đối với quá trình bán hàng và
xác định kết quả bán hàng
1.1.2.1. Sự cần thiết quản lý quá trình Bán hàng và xác định Kết quả bán
hàng
Mục tiêu cuối cùng của doanh nghiệp là lợi nhuận nên việc xác định đúng
đắn kết quả kinh doanh nói chung và xác định kết quả bán hàng nói riêng là rất
quan trọng. Do vậy, việc tổ chức tốt hệ thống quản lý nói chung và công tác kế
toán bán hàng và xác định kết quả kinh doanh có ý nghĩa to lớn trong việc cung
cấp thông tin đầy đủ kịp thời giúp doanh nghiệp ra quyết định đúng đắn.
Trong một DNTM, kết quả kinh doanh của DN chủ yếu là kết quả của quá
trình bán hàng, chính vì vậy, đây có thể được coi là phần thu nhập lớn nhất của
DN nhằm bù đắp chi phí đã bỏ ra và đạt được mục tiêu lợi nhuận. Do đó, để có
được mức lợi nhuận tối đa, đáp ứng được yêu cầu, kế hoạch lợi nhuận đã vạch
sẵn thì quản lý quá trình bán hàng là một việc làm tất yếu phải thực hiện.
Quá trình phát triển của nhân loại đã chỉ rõ, phương pháp quản lý tốt nhất,
hiệu quả nhất và khoa học nhất đó là thu thập, xử lý và ghi chép những thông tin
về hoạt động kinh tế tài chính hay nói cách khác đó chính là phương pháp hạch
toán kế toán; vì “ Kế toán là một phương pháp cung cấp thông tin cần thiết cho
quản lý có hiệu quả và để đánh giá hoạt động của mọi tổ chức ”
(Ronald.J.Thacker).

SV: Phạm Thị Hồng Chi

8


Lớp: K45/21.05


Học Viện Tài Chính

Luận văn cuối khóa

1.1.2.2. Yêu cầu quản lý quá trình Bán hàng và xác định Kết quả bán hàng
Trong quá trình bán hàng, tài sản của DN chuyển từ hình thái hàng hóa
sang hình thái tiền tệ. Do đó, để quản lý nghiệp vụ bán hàng, các DNTM cần
phải quản lý cả hai mặt: tiền và hàng. Cụ thể là:
- Quản lý về số lượng hàng tiêu thụ: Cần nắm rõ số lượng từng loại hàng hóa tồn
kho đầu kỳ, nhập kho trong kỳ, lượng đã tiêu thụ và lượng dự trữ hợp lý.Thường
xuyên có sự đối chiếu giữa kỳ kế toán hàng hóa và thủ kho để quản lý chính xác
lượng hàng luân chuyển cũng như tồn kho.
- Quản lý về doanh thu bán hàng hóa: đây là cơ sở quan trọng để xác định nghĩa
vụ của DN đối với Nhà nước, đồng thời là cơ sở xác định chính xác kết quả kinh
doanh của DNTM. Việc quản lý về DT trong trường hợp này cũng tương đương
với việc quản lý về giá bán. DN cũng cần phải có những chính sách giá phù hợp
để vừa đảm bảo được tính cạnh tranh lại vừa tránh tình trạng ứ đọng vốn. Trong
nền Kinh tế thị trường, quản lý DT bao gồm:
+ Quản lý DT thực tế: DT thực tế là DT được tính theo giá bán ghi trên
hóa đơn hoặc ghi trên hợp đồng bán hàng.
+ Quản lý các khoản giảm trừ DT: là các khoản phát sinh trong quá trình
bán hàng, theo quy định cuối kỳ được trừ khỏi DT thực tế. Bao gồm: Khoản
giảm giá hàng bán; Khoản giá trị hàng bán bị trả lại; Chiết khấu thương mại.
+ Doanh thu thuần: Là DT thực tế về BH của DN trong kỳ kế toán, là cơ
sở để xác định kết quả bán hàng.
- Quản lý tình hình thu hồi tiền, tình hình công nợ và thanh toán công nợ phải
thu ở người mua. Bộ phận bán hàng phải tùy từng khách hàng để đưa ra phương

thức và thời hạn thanh toán phù hợp: thanh toán bằng tiền mặt, thanh toán bằng
sec, thanh toán hàng đổi hàng hay thanh toán bằng chuyển khoản. Kế toán phải

SV: Phạm Thị Hồng Chi

9

Lớp: K45/21.05


Học Viện Tài Chính

Luận văn cuối khóa

theo dõi chặt chẽ thời hạn thanh toán tiền hàng để thu hồi tiền ngay khi đến hạn
để tránh bị chiếm dụng vốn kinh doanh, từ đó tạo điều kiện cho DN rút ngắn chu
kỳ thanh toán, đáp ứng được nhu cầu vốn cho các hoạt động kinh doanh khác.
- Quản lý giá vốn hàng xuất bán: Đây là toàn bộ chi phí thực tế cấu thành nên
hàng hóa, là cơ sở quan trọng để xác định giá bán và kết quả bán hàng.
- Quản lý Chi phí BH và chi phí quản lý DN: Chi phí bán hàng và chi phí quản lý
doanh nghiệp cũng là một bộ phận cấu thành trong trị giá vốn thực tế hàng xuất
bán. Do đó, nếu chỉ quản lý về giá vốn, về doanh thu mà không quan tâm đến hai
chi phí này thì quá trình quản lý đó cũng sẽ trở nên vô nghĩa. Chính vì vậy, DN
cần phải quan tâm đến việc giảm bớt chi phí một cách có hiệu quả cũng như
phân bổ chi phí một cách hợp lý thì kết quả tổng hợp lại sẽ càng cao, lợi nhuận
mà DN thu được cũng tăng lên đáng kể.
Như vậy, quản lý công tác bán hàng và xác định kết quả bán hàng không
chỉ cần thiết mà là hết sức quan trọng đối với sự phát triển trong tương lai của
mỗi DN, có thể nói nó là điều kiện cần để DN đạt được tất cả những mục tiêu
mà mình mong muốn.

1.1.3. Vai trò của tổ chức công tác kế toán bán hàng và xác định kết quả bán
hàng
Như đã nói ở trên, để thực hiện tốt bất kỳ công việc nào cũng cần thiết có
sự quản lý. Tuy nhiên, việc lựa chọn công cụ quản lý thích hợp cũng là một vấn
đề đặt ra đối với bất kỳ cá nhân, tổ chức nào mong muốn đạt được kết quả cao
trong công việc. Hiện nay, cùng với sự phát triển của xã hội loài người nói chung
và của kinh tế nói riêng thì kế toán là một tất yếu khách quan và là một công cụ
quản lý đắc lực các hoạt động kinh tế tài chính của doanh nghiệp. Trong các

SV: Phạm Thị Hồng Chi

10

Lớp: K45/21.05


Học Viện Tài Chính

Luận văn cuối khóa

doanh nghiệp thương mại thì việc tổ chức kế toán bán hàng và xác định kết quả
bán hàng có một ý nghĩa to lớn:
- Doanh nghiệp tổ chức tốt công tác kế toán bán hàng và xác định kết quả bán
hàng sẽ tạo điều kiện để sản xuất phát triển, đẩy nhanh quá trình bán hàng
tức là sẽ rút ngắn chu kỳ sản xuất kinh doanh, tăng nhanh vòng quay vốn, tăng
lợi nhuận cho doanh nghiệp.
- Thông qua số liệu của kế toán bán hàng và xác định kết quả bán hàng cung
cấp, doanh nghiệp có thể đánh giá được mức độ hoàn thành tiêu thụ hàng hóa.
Dựa vào đó, doanh nghiệp có thể tìm ra các biện pháp tối ưu đảm bảo thiết lập
được sự cân đối giữa mua hàng và bán hàng, tìm kiếm và lựa chọn phương án

tiêu thụ có hiệu quả.
- Các cơ quan quản lý Nhà nước dựa vào số liệu báo cáo của kế toán bán
hàng và xác định kết quả bán hàng có thể nắm bắt được tình hình tài chính của
doanh nghiệp từ đó kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật về kế toán, tài
chính, về nghĩa vụ với Nhà nước và quan hệ kinh tế với các bên có liên quan.
Trong nền kinh tế mở, kế toán không chỉ là công cụ của nhà quản lý doanh
nghiệp mà còn là phương tiện kiểm tra, giám sát của những người có quan hệ
kinh tế gắn liền với doanh nghiệp.
1.1.4. Nhiệm vụ của công tác kế toán bán hàng và xác định kết quả bán
hàng
Để đảm bảo phát huy vai trò quan trọng nói trên, kế toán Bán hàng và xác
định kết quả bán hàng phải thực hiện các nhiệm vụ sau:

SV: Phạm Thị Hồng Chi

11

Lớp: K45/21.05


Học Viện Tài Chính

Luận văn cuối khóa

* Nhiệm vụ kế toán bán hàng:
- Phản ánh và ghi chép đầy đủ, kịp thời, chính xác tình hình hiện có và sự biến
động của từng loại hàng hóa theo chỉ tiêu số lượng, chất lượng, chủng loại và giá
trị.
- Phản ánh và giám đốc chính xác tình hình thu hồi tiền, tình hình công nợ và
thanh toán công nợ phải thu ở người mua.

- Tính toán chính xác giá vốn của hàng hóa tiêu thụ, từ đó xác định kết quả bán
hàng.
- Cung cấp những thông tin kinh tế cần thiết cho các bộ phận có liên quan, trên
cơ sở đó có những biện pháp kiến nghị nhằm hoàn thiện hoạt động kinh doanh
giúp cho ban giám đốc nắm được thực trạng, tình hình tiêu thụ hàng hóa của
mình và kịp thời có những chính sách điều chỉnh thích hợp với thị trường.
- Định kỳ tiến hành hoạt động phân tích kinh tế đối với hoạt động bán hàng thu
nhập và phân phối kết quả của DN.
* Nhiệm vụ của kế toán xác định kết quả bán hàng:
- Phản ánh và ghi chép đầy đủ, kịp thời, chính xác các khoản DT, các khoản
giảm trừ DT và các chi phí phát sinh trong kỳ.
- Phản ánh và tính toán chính xác kết quả bán hàng, giám sát tình hình thực hiện
nghĩa vụ với Nhà nước và tình hình phân phối kết quả bán hàng trong DN.
- Cung cấp các thông tin kế toán phục vụ cho việc lập Báo cáo tài chính và định
kỳ phân tích hoạt động kinh tế liên quan đến quá trình bán hàng và phân phối kết
quả.
Kế toán Bán hàng và xác định kết quả bán hàng thực hiện tốt những nhiệm
vụ nêu trên sẽ giúp nhà quản trị DN nắm vững hơn tình hình chung của DN, từ

SV: Phạm Thị Hồng Chi

12

Lớp: K45/21.05


Học Viện Tài Chính

Luận văn cuối khóa


đó đưa ra những phương án Bán hàng, kinh doanh có hiệu quả, nâng cao kết quả
hoạt động của DN.
1.2. LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾ TOÁN BÁN HÀNG VÀ XÁC ĐỊNH KẾT
QUẢ BÁN HÀNG CỦA DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI
1.2.1. Các phương thức Bán hàng và thời điểm ghi nhận hàng bán
Bán hàng trong DNTM khác bán hàng trong DNSX ở chỗ : DNSX tự xuất
kho những thành phẩm do mình làm ra để bán còn DNTM lại phải mua hàng hóa
về bán hay nói cách khác, DNTM chỉ làm giúp phần tiêu thụ cho DNSX, chỉ
tham gia vào quá trình lưu thông chứ không tham gia vào quá trình sản xuất.
Trong thời buổi hội nhập ngày nay, tiêu thụ hàng hóa không chỉ là tiêu thụ trong
nước mà bên cạnh đó, xuất khẩu hàng hóa cũng đóng góp một phần quan trọng
trong tổng thu nhập Quốc nội và nó cũng đang là mục tiêu chiến lược trong phát
triển kinh tế của các Quốc gia trên thế giới.
1.2.1.1. Hàng bán trong nước
Có rất nhiều phương thức bán hàng khác nhau, song hoạt động mua, bán
hàng hóa của các doanh nghiệp thương mại có thể thực hiện theo hai phương
thức bán hàng chủ yếu là: Bán buôn và bán lẻ. Trong đó, hàng hóa bán buôn và
bán lẻ có thể thực hiện theo nhiều phương thức khác nhau.
* Đối với bán buôn:
Bán buôn là phương thức bán hàng cho các đơn vị Thương mại, các
doanh nghiệp sản xuất…để thực hiện bán ra hoặc gia công chế biến rồi bán ra.

SV: Phạm Thị Hồng Chi

13

Lớp: K45/21.05


Học Viện Tài Chính


Luận văn cuối khóa

Đặc điểm của bán buôn là hàng hóa vẫn nằm trong lĩnh vực lưu thông,
chưa đi vào lĩnh vực tiêu dùng, do vậy giá trị và giá trị sử dụng của hàng hóa
chưa được thực hiện. Hàng thường được bán theo lô hàng hoặc bán với số lượng
lớn, giá bán biến động tùy thuộc vào khối lượng hàng bán và phương thức thanh
toán theo sự thỏa thuận của doanh nghiệp và khách hàng.
Bán buôn gồm hai phương thức: Bán buôn qua kho và Bán buôn chuyển
thẳng.
-> Bán buôn qua kho: Là phương thức bán buôn hàng hóa mà trong đó
hàng bán phải được xuất ra từ kho của các Xí nghiệp bán buôn, được thực hiện
dưới hai hình thức: Giao hàng trực tiếp tại kho và chuyển hàng cho bên mua.
- Theo hình thức giao hàng trực tiếp tại kho: Khách hàng cử người mang
giấy ủy nhiệm đến kho của DN trực tiếp nhận hàng và áp tải hàng về. Hàng được
ghi nhận là bán khi bên mua đã nhận hàng và ký xác nhận trên hóa đơn bán
hàng.
- Theo hình thức chuyển hàng : Bên bán căn cứ vào hợp đồng Kinh tế đã
ký kết hoặc theo đơn đặt hàng của người mua, xuất kho gửi hàng cho người mua
theo thời gian và địa điểm đã ghi trong hợp đồng bằng phương tiện vận tải của
mình hoặc thuê ngoài. Chi phí vận chuyển gửi hàng có thể do bên bán hoặc bên
mua chịu theo Hợp đồng đã ký. Hàng được ghi nhận là bán khi bên mua đã nhận
được hàng và đã trả tiền hoặc chấp nhận trả tiền về số hàng đã nhận.
-> Bán buôn vận chuyển thẳng: Là phương thức bán buôn hàng hóa mà
hàng hóa đó khi mua về từ nhà cung cấp không đem về nhập kho của DN mà
giao bán ngay hoặc chuyển bán ngay cho khách hàng, được thực hiện dưới hai
hình thức : Bán buôn vận chuyển thẳng theo hình thức giao hàng trực tiếp và bán
buôn vận chuyển thẳng theo hình thức gửi hàng.

SV: Phạm Thị Hồng Chi


14

Lớp: K45/21.05


Học Viện Tài Chính

Luận văn cuối khóa

- Bán buôn vận chuyển thẳng theo hình thức giao hàng trực tiếp (còn gọi
là giao hàng tay ba) : DNTM bán buôn sau khi nhận hàng từ nhà cung cấp thì
giao bán trực tiếp cho Khách hàng của mình tại địa điểm do hai bên thỏa thuận.
Hàng được ghi nhận là bán khi bên mua nhận đủ hàng và ký nhận trên hóa đơn
bán hàng. Việc thanh toán tiền hàng tùy thuộc vào hợp đồng đã ký giũa hai bên.
- Bán buôn vận chuyển thẳng theo hình thức gửi hàng: DNTM sau khi
mua hàng, nhận hàng mua, dùng phương tiện vận tải của mình hoặc thuê ngoài
để vận chuyển hàng đến giao cho bên mua tại địa điểm đã được thỏa thuận. Hàng
được ghi nhận là bán khi đã đến tay khách hàng, được khách hàng kiểm nhận và
trả tiền hoặc chấp nhận trả tiền cho số hàng đã nhận. Chi phí vận chuyển do bên
mua hoặc bên bán chịu tùy thuộc vào hợp đồng đã ký kết.
* Đối với bán lẻ:
Bán lẻ là phương thức bán hàng trực tiếp cho người tiêu dùng hoặc các tổ
chức kinh tế, đơn vị kinh tế, tập thể mua về mang tính chất tiêu dùng nội bộ.
Đặc điểm của bán lẻ là hàng hóa đã ra khỏi lĩnh vực lưu thông và đi vào
lĩnh vực tiêu dùng. Giá trị và giá trị sử dụng đã được thực hiện. Bán lẻ hàng hóa
thường bán đơn chiếc hoặc với số lượng nhỏ, giá bán thường ổn định.
Bán lẻ gồm hai phương thức: Bán lẻ thu tiền tập trung và Bán lẻ thu tiền
trực tiếp
-> Bán lẻ thu tiền tập trung: Là hình thức bán hàng mà trong đó việc thu

tiền ở người mua và giao hàng cho người mua tách rời nhau.
Theo hình thức này, mỗi quầy hàng có một nhân viên thu ngân làm nhiệm
vụ thu tiền của khách hàng rồi viết hóa đơn giao cho khách hàng để họ đến nhận
hàng ở quầy hàng do nhân viên bán hàng giao. Hết ca hoặc ngày bán hàng, nhân
viên bán hàng căn cứ hóa đơn giao hàng cho khách và kết quả kiểm kê hàng tồn

SV: Phạm Thị Hồng Chi

15

Lớp: K45/21.05


Học Viện Tài Chính

Luận văn cuối khóa

quầy, xác định lượng hàng đã bán trong ngày hoặc trong ca để lập báo cáo bán
hàng; còn nhân viên thu ngân làm giấy nộp tiền và nộp tiền cho thủ quỹ. Việc
thừa, thiếu tiền bán hàng thuộc trách nhiệm nhân viên thu ngân, việc thừa, thiếu
hàng ở quầy thuộc trách nhiệm nhân viên bán hàng.
- Ưu điểm: Do sự tách rời việc mua hàng và thanh toán sẽ tránh được
những sai sót, mất mát hàng và tiền, tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý và
phân bổ trách nhiệm đến từng cá nhân cụ thể.
- Nhược điểm: Gây phiền hà cho khách hàng về thời gian, thủ tục nên
hình thức này chỉ được áp dụng chủ yếu cho việc bán những mặt hàng có giá trị
cao.
-> Bán lẻ thu tiền trực tiếp: Là hình thức bán hàng mà nhân viên bán hàng
trực tiếp thu tiền của khách hàng và giao hàng cho khách hàng.
Theo hình thức này, mỗi quầy hàng có một nhân viên bán hàng kiêm thu

ngân. Cuối ngày hoặc ca bán, nhân viên bán hàng phải kiểm kê hàng hóa tôn
quầy, xác định số lượng hàng đã bán trong ca, trong ngày để lập báo cáo bán
hàng đồng thời lập giấy nộp tiền và nộp tiền cho thủ quỹ.
Hình thức này khá phổ biến vì tiết kiệm được thời gian mua hàng của
khách đồng thời tiết kiệm được lao động quầy hàng.
* Một số phương thức bán hàng khác:
-> Bán hàng trả góp: Theo hình thức này, người mua được trả tiền mua hàng
thành nhiều lần. Ngoài số tiền thu được theo giá bán thông thường, doanh nghiệp
còn thu được một khoản lãi do trả chậm. Về thực chất, người bán chỉ mất quyền
sở hữu khi người mua thanh toán hết tiền hàng. Tuy nhiên, về mặt hạch toán, khi
giao hàng cho người mua hàng hóa bán trả góp được coi là tiêu thụ, bên bán
được ghi nhận doanh thu.

SV: Phạm Thị Hồng Chi

16

Lớp: K45/21.05


Học Viện Tài Chính

Luận văn cuối khóa

-> Bán hàng tự động: Là hình thức bán hàng mà trong đó các doanh nghiệp
thương mại sử dụng các máy bán hàng tự động chuyên dùng cho một hoặc một
vài loại hàng hóa nào đó đặt ở nơi công cộng. Khách hàng sau khi bỏ tiền vào
máy, máy sẽ tự động đẩy hàng ra cho người mua.
-> Bán hàng theo phương thức gửi đại lý: Phương thức gửi hàng đại lý
hay ký gửi hàng hóa là phương thức mà trong đó doanh nghiệp thương mại giao

hàng cho cơ sở đại lý ký gửi để các cơ sở này trực tiếp bán hàng. Bên nhận đại
lý sẽ trực tiếp thanh toán tiền hàng và được hưởng hoa hồng đại lý bán hàng. Số
hàng chuyển giao cho các đại lý vẫn thuộc quyền sở hữu của DNTM cho đến khi
DNTM được cơ sở đại lý ký gửi thanh toán tiền hàng hay chấp nhận thanh toán
hoặc thông báo về số hàng đã bán được, doanh nghiệp mới mất quyền sở hữu số
hàng hóa đó.
-> Bá hàng theo phương thức đổi hàng: Theo phương thức này, người
mua hàng không trả bằng tiền mà trả bằng hàng, hai bên trao đổi trực tiếp với
nhau những hàng hóa có giá trị tương đương. Việc giao hàng diễn ra hầu như
đồng thời. Phương thức này có đặc điểm là:
- Người bán đồng thời là người mua, người mua đồng thời là người bán,
- Việc mua và bán liên kết với nhau,
- Đồng tiền hoặc không được sử dụng hoặc chỉ được sử dụng hạn chế,
- Mục đích của việc trao đổi hàng trong phương thức này là giá trị sử
dụng.
Trong phương thức hàng đổi hàng cả hai bên đều cố gắng thực hiện cân
bằng thương mại: cân bằng về mặt hàng, cân bằng về tổng giá trị, cân bằng về
mặt giá cả và điều kiện giao hàng. Việc trao đổi thường có lợi cho cả hai bên vì

SV: Phạm Thị Hồng Chi

17

Lớp: K45/21.05


Học Viện Tài Chính

Luận văn cuối khóa


nó tranh được việc thanh toán bằng tiền, tiết kiệm được vốn lưu động đồng thời
vẫn tiêu thụ được hành hóa.
-> Hàng hóa xuất trả lương thưởng cho công nhân viên, thanh toán thu
nhập cho các thành viên.
-> Hàng hóa xuất làm quà biếu tặng, quảng cáo, chào hàng…
-> Hàng hóa xuất dùng nội bộ, phục vụ hoạt động kinh doanh của DN.
-> Khoán bán hàng:
+ Khoán doanh thu: Theo phương thức này, đơn vị nhận khoán không
mở sổ riêng mà toàn bộ công tác kế toán bán hàng được thực hiện ở đơn vị giao
khoán. Quan hệ thanh toán giữa đơn vị giao khoán với đơn vị nhận khoán được
theo dõi trên tài khoản 1388.
+ Khoán bán cho các đơn vị trực thuộc: Theo phương thức này, đơn
vị nhận khoán là đơn vị trực thuộc của DN và mở hệ thống sổ riêng. Do đó, quan
hệ thanh toán giữa đơn vị giao khoán và đơn vị nhận khoán được thực hiện theo
nguyên tắc thanh toán nội bộ.
1.2.1.2. Hàng xuất khẩu:
Với mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận, các DNTM không chỉ tiêu thụ hàng hóa
trong nước mà còn phải hướng tới thị trường khu vực và thế giới thông qua hoạt
động xuất khẩu hàng hóa. Hiện nay, các DNTM xuất khẩu hàng hóa chủ yếu
theo hai phương thức: Xuất khẩu trực tiếp và Xuất khẩu ủy thác.
+ Xuất khẩu trực tiếp: Là phương thức xuất khẩu mà đơn vị tham gia xuất
khẩu trực tiếp đàm phán, ký kết hợp đồng xuất khẩu với nước ngoài, trực tiếp
giao hàng và thanh toán tiền hàng với người mua.

SV: Phạm Thị Hồng Chi

18

Lớp: K45/21.05



Học Viện Tài Chính

Luận văn cuối khóa

+ Xuất khẩu ủy thác: Là phương thức xuất khẩu mà đơn vì tham gia xuất
khẩu không trực tiếp đàm phán, ký kết hợp đồng xuất khẩu với nước ngoài mà
thực hiện hoạt động xuất khẩu hàng hóa của mình thông qua một đơn vị xuất
nhập khẩu khác.
• Phạm vi hàng hóa được coi là xuất khẩu:
- Hàng bán cho thương nhân nước ngoài theo hợp đồng đã ký.
- Hàng hóa gửi đi triển lãm ở nước ngoài sau đó bán, thu ngoại tệ.
- Hàng hóa bán cho khách nước ngoài, cho Việt kiều thu ngoại tệ.
- Hàng viện trợ cho nước ngoài thông qua các Hiệp định, Nghị định thư do
Nhà nước ký kết với nước ngoài nhưng được thực hiện qua các DN Xuất
nhập khẩu.
- Hàng hóa chuyển bán cho các khu chế xuất.
- Các dịch vụ sửa chữa, Bảo hiểm tàu biển, máy bay cho nước ngoài, thanh
toán bằng ngoại tệ.
• Thời điểm ghi nhận hàng xuất khẩu:
Theo quy định hiện hành, hàng hóa được ghi nhận là hàng xuất khẩu khi
hàng hóa đã hoàn thành các thủ tục Hải quan, được sắp xếp lên các phương tiện
vận tải và rời khỏi hải phận, cửa khẩu hoặc sân bay cuối cùng của nước ta. Tùy
phương thức giao nhận hàng hóa, thời điểm tính hàng xuất khẩu như sau:
+ Nếu hàng vận chuyển bằng đường biển: Thời điểm xuất khẩu tính từ
ngày thuyền trưởng ký vào vận đơn và Hải quan cảng biển đã xác nhận hoàn
thành thủ tục Hải quan.
+Nếu hàng vận chuyển bằng đường sắt, đường bộ: Thời điểm xuất khẩu
được tính từ ngày hàng được giao tại ga, cửa khẩu theo xác nhận của Hải quan
cửa khẩu.


SV: Phạm Thị Hồng Chi

19

Lớp: K45/21.05


Học Viện Tài Chính

Luận văn cuối khóa

+ Nếu hàng vận chuyển bằng đường hàng không: Thời điểm xuất khẩu
được tính từ khi cơ trưởng máy bay ký vào vận đơn và Hải quan sân bay ký xác
nhận hoàn thành thủ tục Hải quan.
+ Hàng đưa đi hội chợ, triển lãm tính là hàng xuất khẩu khi hoàn thành thủ
tục bán hàng, thu ngoại tệ.
Việc xác định đúng thời điểm xuất khẩu có ý nghĩa quan trọng trong ghi
nhận doanh thu hàng xuất khẩu, thanh toán thuế, giải quyết các tranh chấp, khiếu
nại về xuất khẩu.
1.2.2. Kế toán doanh thu bán hàng và các khoản giảm trừ doanh thu bán
hàng
1.2.2.1. Kế toán doanh thu bán hàng
*Khái niệm: Theo chuẩn mực số 14 ( QĐ 149/2001/QĐ-BTC ) ban hành ngày
31/12/2001: Doanh thu là tổng giá trị các lợi ích kinh tế DN thu được trong kỳ
kế toán, phát sinh từ hoạt động sản xuất, kinh doanh thông thường của DN, góp
phần làm tăng vốn chủ sở hữu.
Tùy loại hình sản xuất kinh doanh mà doanh thu được chia thành:
- Doanh thu bán hàng
- Doanh thu cung cấp dịch vụ

- Doanh thu từ tiền lãi, tiền bản quyền, cổ tức và lợi tức được chia
- Ngoài ra còn các khoản thu nhập khác
Theo thông tư số 76/TC/TCDN của Bộ Tài Chính quy định: Doanh thu
bán hàng là số thu về hàng hóa, lao vụ, dịch vụ mà doanh nghiệp đã bán ra, đã
cung cấp cho khách hàng và được khách hàng trả tiền hoặc chấp nhận thanh toán
gồm cả các khoản phụ thu và phí thu thêm ngoài giá bán ( nếu có).

SV: Phạm Thị Hồng Chi

20

Lớp: K45/21.05


Học Viện Tài Chính

Luận văn cuối khóa

Doanh thu bán hàng của DN còn bao gồm các khoản sau:
- Các khoản trợ giá, phụ giá theo quy định của Nhà nước để sử dụng cho DN
đối với hàng hóa, dịch vụ của DN đã bán ra trong kỳ.
- Giá trị các sản phẩm, hàng hóa đem biếu tặng hoặc sử dụng trong nội bộ
DN.
* Điều kiện ghi nhận Doanh thu:
Doanh thu bán hàng được ghi nhận khi đồng thời thỏa mãn tất cả năm
(5) điều kiện sau:
1. Doanh nghiệp đã chuyển giao phần lớn rủi ro và lợi ích gắn liền với
quyền sở hữu sản phẩm hay hàng hóa cho người mua;
2. Doanh nghiệp không còn nắm giữ quyền quản lý hàng hóa như người
sở hữu hàng hóa hoặc quyền kiểm soát hàng hóa;

3. Doanh thu được xác định tương đối chắc chắn;
4. Doanh nghiệp đã thu được hoặc sẽ thu được lợi ích kinh tế từ giao dịch
bán hàng;
5. Xác định được chi phí liên quan đến giao dịch bán hàng.
*Nguyên tắc hạch toán Doanh thu bán hàng:
Kế toán Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ cần tôn trọng những quy
định có tính nguyên tắc sau:
1. TK 511 – Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ chỉ phản ánh doanh
thu của số lượng hàng hóa, dịch vụ đã cung cấp được xác định là tiêu thụ trong
kỳ không phân biệt là đã thu tiền hay sẽ thu được tiền.
2. Kế toán bán hàng và cung cấp dịch vụ của doanh nghiệp được thực hiện
theo nguyên tắc sau:

SV: Phạm Thị Hồng Chi

21

Lớp: K45/21.05


Học Viện Tài Chính

Luận văn cuối khóa

• Đối với sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ của DN thuộc diện chịu thuế GTGT
theo phương pháp khấu trừ, doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ là giá bán
chưa bao gồm thuế GTGT.
• Đối với sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ không thuộc diện chịu thuế GTGT
hoặc chịu thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp thì doanh thu bán hàng và
cung cấp dịch vụ là tổng giá thanh toán.

• Đối với sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ thuộc diện chịu thuế TTĐB hoặc
thuế xuất khẩu thì doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ là tổng giá thanh toán
( bao gồm cả thuế TTĐB và thuế xuất khẩu ).
• Những DN nhận gia công vật tue, hàng hóa thì chỉ phản ánh vào doanh thu
bán hàng và cung cấp dịch vụ số tiền gia công thực tế được hưởng, không bao
gồm giá vật tư, hàng hóa nhận gia công.
• Đối với hàng hóa nhận bán ký gửi theo phương thức bán đúng giá hưởng
hoa hồng thì hạch toán vào doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ phần hoa
hồng bán hàng mà DN được hưởng.
• Trường hợp bán hàng theo phương thức trả chậm trả góp thì DN ghi nhận
DTBH theo giá bán trả ngay và ghi nhận doanh thu chưa thực hiện phần lãi tính
trên khoản lãi vay phải trả nhưng trả chậm, hàng kỳ kết chuyển sang tài khoản
doanh thu hoạt động tài chính.
• Những sản phẩm được xác định là tiêu thụ nhưng vì lý do về chất lượng,
về quy cách kỹ thuật… người mua từ chối thanh toán, gửi trả lại người bán hoặc
yêu cầu giảm giá và được DN chấp thuận; hoặc khách hàng mua hàng với khối
lượng hàng hóa lớn được hưởng chiết khấu thương mại thì các khoản giảm trừ
DTBH này được theo dõi riêng trên các TK 521 – Chiết khấu thương mại, TK
531 – Giảm giá hàng bán.

SV: Phạm Thị Hồng Chi

22

Lớp: K45/21.05


Học Viện Tài Chính

Luận văn cuối khóa


• Trường hợp DN đã viết hóa đơn bán hàng và thu tiền bán hàng nhưng đến
cuối kỳ vẫn chưa giao hàng cho người mua, thì trị giá số hàng này không được
coi là tiêu thụ và không được ghi vào TK 511 – Doanh thu bán hàng và cung cấp
dịch vụ, mà chỉ được hạch toán vào bên có TK 131 – Phải thu của khách hàng.
Khi thực hiện giao hàng cho người mua, sẽ hạch toán vào TK 511 – Doanh thu
bán hàng và cung cấp vụ về giá trị hàng hóa đã giao, đã thu trước tiền bán hàng,
phù hợp với các điều kiện ghi nhận doanh thu.
• Đối với trường hợp DN thực hiện cung cấp hàng hóa, dịch vụ theo yêu cầu
của Nhà nước và được hưởng trợ cấp, trợ giá theo quy định thì doanh thu trợ cấp,
trợ giá là số tiền được Nhà nước chính thức thông báo, hoặc thực tế trợ cấp, trợ
giá. Doanh thu trợ cấp, trợ giá được phản ánh trên TK 5114 – Doanh thu trợ cấp,
trợ giá.
3. Không được hạch toán vào TK 511 trong những trường hợp sau:
• Trị giá sản phẩm, hàng hóa, vật tư, bán thành phẩm xuất giao cho bên
ngoài gia công chế biến.
• Trị giá sản phẩm, bán thành phẩm cung cấp giữa các đơn vị thành viên
trong một công ty, tổng công ty hạch toán toàn ngành.
• Số tiền thu được từ nhượng bán, thanh lý tài sản cố định.
• Trị giá sản phẩm, hàng hóa đang gửi đi bán, dịch vụ hoàn thành đã cung
cấp cho khách hàng nhưng chưa được người mua chấp nhận thanh toán.
• Tri giá hàng gửi bán theo phương thức gửi bán đại lý, ký gửi (chưa được
xác định là tiêu thụ).
• Các khoản thu nhập khác không được coi là doanh thu bán hàng và cung
cấp dịch vụ.

SV: Phạm Thị Hồng Chi

23


Lớp: K45/21.05


Học Viện Tài Chính

Luận văn cuối khóa

*Chứng từ sử dụng:
- Hóa đơn GTGT (Mẫu số 01GTKL-3LL).
- Hóa đơn bán hàng thông thường (Mẫu số 02GTGT-3LL)
- Bảng thanh toán hàng đại lý, ký gửi (Mẫu số 01-BH)
- Thẻ quầy hàng (Mẫu số 02-BH)
- Các chứng từ thanh toán (phiếu thu, séc chuyển khoản, séc thanh toán, ủy
nhiệm thu, giấy báo có Ngân hàng, bảng sao kê của Ngân hàng,…)
- Chứng từ kế toán liên quan như: phiếu nhập kho hàng bán bị trả lại,…)
* Tài khoản sử dụng:
- TK 511 : Doanh thu Bán hàng và cung cấp dịch vụ.
Nội dung: Phản ánh doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ của doanh
nghiệp trong một kỳ hạch toán của hoạt động SXKD từ các giao dịch và nghiệp
vụ bán hàng và cung cấp dịch vụ.
Kết cấu:
TK511
-Thuế tiêu thụ đặc biệt,thuế xuất

- Doanh thu bán sản phẩm và

khẩu và thuế GTGT tính theo pp
trực tiếp phải nộp tính trên doanh
thu bán hàng thực tế của doanh
nghiệp trong kỳ.

- Các khoản giảm trừ doanh thu
- Kết chuyển sang TK 911 để xác
định kết quả kinh doanh

hàng hóa thực hiện trong kỳ

TK 511 không có số dư cuối kỳ

SV: Phạm Thị Hồng Chi

24

Lớp: K45/21.05


Học Viện Tài Chính

Luận văn cuối khóa

TK 511 có 5 TK cấp 2:
 TK 5111: Doanh thu bán hàng hóa
 TK 5112: Doanh thu bán các thành phẩm
 TK 5113: Doanh thu cung cấp dịch vụ
 TK 5114: Doanh thu trợ cấp, trợ giá
 TK 5117 : Doanh thu kinh doanh BĐSĐT
 TK 5118 : Doanh thu khác
- TK 512: Doanh thu nội bộ.
Nội dung: TK này dùng để phản ánh doanh thu của số sản phẩm, hàng hóa,
dịch vụ, lao vụ tiêu thụ trong nội bộ giữa các đơn vị trực thuộc trong cùng một
công ty, tổng công ty hạch toán toàn ngành.

Kết cấu: TK này có kết cấu tương tự như TK 511.
TK 512 có 3 TK cấp 2:
 Tk 5121: Doanh thu bán hàng hóa
 TK 5122: Doanh thu bán các thành phẩm.
 TK 5123: Doanh thu cung cấp dịch vụ.
- TK 3331: Thuế GTGT phải nộp: áp dụng chung cho đối tượng nộp thuế
GTGT theo phương pháp khấu trừ và đối tượng nộp thuế GTGT theo phương
pháp trực tiếp.
- TK 3387 : Doanh thu chưa thực hiện.
Nội dung: Phản ánh số hiện có và tình hình tăng, giảm doanh thu chưa thực
hiện trong kỳ kế toán.

SV: Phạm Thị Hồng Chi

25

Lớp: K45/21.05


×