Tải bản đầy đủ (.docx) (56 trang)

Giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài ở việt nam thực tiễn và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (264.3 KB, 56 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Cơ sở khoa học và thực tiễn của đề tài.
1.1. Lý do chọn đề tài.
Toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế và tự do thương mại đã và đang là xu thế nổi bật
của kinh tế thế giới hiện nay. Để phù hợp với xu thế đó, từ năm 1986 đến nay, Việt Nam
đã tiến hành cải cách, đổi mới đất nước và mở cửa nền kinh tế. Đảng và nhà nước ta chủ
trương thực hiện các chính sách đối ngoại, mở rộng quan hệ hợp tác và phát triển về kinh
tế với các quốc gia khác và hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu. Từ khi
chúng ta thực hiện chính sách mở cửa và đổi mới, nền kinh tế nước ta đã có những
chuyển biến tích cực, phát triển và hội nhập. Về quan hệ hợp tác song phương: Việt Nam
đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hơn 170 quốc gia trên thế giới, mở rộng quan hệ
thương mại, xuất khẩu hàng hóa tới trên 30 thị trường của các nước và vùng lãnh thổ, ký
kết trên 90 Hiệp định thương mại song phương, gần 60 Hiệp định khuyến khích và bảo hộ
đầu tư, 54 Hiệp định chống đánh thuế hai lần và nhiều Hiệp định hợp tác về văn hóa song
phương với các nước và các tổ chức quốc tế. Điều này mở ra rất nhiều triển vọng cho nền
kinh tế Việt Nam. Song trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế các mối quan hệ thương mại
sẽ trở nên đa dạng và phức tạp hơn rất nhiều và việc xảy ra các tranh chấp, mâu thuẫn là
điều không thể tránh khỏi. Các bên trong tranh chấp đều mong muốn tìm được biện
pháp giải quyết tranh chấp đảm bảo tốt nhất quyền lợi, ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa
các bên là thấp nhất, ít tốn kém về thời gian và tiền bạc. Do đó, việc lựa chọn phương
thức giải quyết tranh chấp là vô cùng quan trọng.
Hiện nay có rất nhiều phương thức giải quyết tranh chấp như thương lượng, hòa
giải, tòa án, trọng tài. Trong đó, phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng trọng tài
với các ưu điểm vượt trội như là tạo sự chủ động, linh hoạt, rút ngắn thời gian và tiết kiệm
chi phí, mang lại nhiều lợi ích cho các bên khi có tranh chấp trong hoạt động kinh doanh,
thương mại cho nên nó là một phương thức đang được nhiều nước lựa chọn và khá phổ
biến trên trường quốc tế. Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay thì việc áp dụng và lựa chọn
phương thức này chưa được phổ biến và chú trọng như các nước khác. Đây là vấn đề
đang được đặt ra và quan tâm đến. Từ những thực tiễn nêu trên, em đã chọn đề tài: “Giải
quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài ở Việt Nam. Thực tiễn và giải pháp”
làm đề tài cho khóa luận tốt nghiệp của mình.




1.2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong thực tiễn và trong khoa học pháp lý đã có một số bài viết và một số công trình
nghiên cứu ở cấp độ khác nhau về phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, có
thể nêu một số công trình như:
Về bài báo cáo khoa học có: PGS.TS Phạm Hữu Nghị, Về cơ chế giải quyết tranh
chấp kinh tế ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, Báo đời sống pháp luật, số ra ngày
23/8/2010; Luật sư Trần Hữu Huỳnh, Pháp luật trọng tài thương mại những thử thách
phía trước, Báo Tiền Phong, số ra ngày 20/7/2011; TS. Nguyễn Am Hiểu, Một số đặc
điểm của Trọng tài phi chính phủ của nước ta hiện nay, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật,
số 7, 1995; TS. Đoàn Năng, Một số ý kiến về thực trạng và phương hướng hoàn thiện
pháp luật về trọng tài kinh tế ở nước ta hiện nay, Tạp chí Luật học, số 1, 1995; TS.
Dương Đăng Huệ, Trọng tài kinh tế, cơ quan tài phán mới ở nước ta, Tạp chí Dân chủ và
Pháp luật, số 7, 1995.
Về sách có: Ths. Trần Thu Hòa, LG. Lương Hồng Quang, Hỏi đáp về Luật trọng
tài thương mại năm 2010, NXB Chính trị Quốc gia, 2012; Trung tâm Trọng tài Quốc tế
Việt Nam (VIAC), Giải quyết tranh chấp hợp đồng – những điều doanh nhân cần biết,
NXB Tri Thức, 2015; TS. Trần Hoàng Hải, TS. Đỗ Văn Đại, Pháp luật Việt Nam về Trọng
tài thương mại, NXB Chính trị Quốc gia, 2011; TS. Đỗ Văn Đại, TS Trần Hoàng Hải,
Tuyển tập các bản án, quyết định của tòa án Việt Nam về Trọng tài thương mại, NXB Lao
Động, 2010.
Về luận văn thạc sĩ có: Nguyễn Thị Thu Thủy, Về pháp luật Trọng tài thương mại ở
nước ta hiện nay, Luận văn Thạc sĩ, 2003, Đại học Quốc gia Hà Nội; Bùi Thị Thanh
Tuyết, Hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh tế bằng trọng tài, Luận văn
thạc sĩ, 1998; Tống Thị Lan Hương, Pháp luật Việt Nam về thỏa thuận trọng tài thương
mại, Luận văn thạc sĩ, 2011, Đại học Quốc gia Hà Nội; Tạ Thị Minh Loan, Những nguyên
tắc của trọng tài thương mại theo pháp luật Việt Nam, Luận văn thạc sĩ, 2007, Đại học
Quốc gia Hà Nội; Phạm Thị Hoa Lệ Diễm, Trọng tài vụ việc theo pháp luật Trọng tài ở
Việt Nam, 2010, Đại học Quốc gia Hà Nội; Tống Vân Huyền, Sự hỗ trợ của Tòa án đối

với giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài ở Việt Nam, 2011, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Về luận văn tiến sĩ có: Đào Văn Hội, Giải quyết tranh chấp kinh tế trong điều kiện kinh tế
ở Việt Nam, Luận văn tiến sĩ, 2003; Nguyễn Đình Thơ, Hoàn thiện pháp luật về trọng tài


thương mại của Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế, Luận án Tiến sĩ, 2007, Trường
Đại học Luật Hà Nội.
2. Mục đích, đối tượng, giới hạn phạm vi và phương pháp nghiên cứu.
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài đó chính là tiếp cận, tìm hiểu các quy định của
pháp luật về phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài ở Việt Nam. Từ
đó, phân tích làm rõ những quy định của pháp luật về phương thức giải quyết tranh chấp
thương mại bằng trọng tài. Đồng thời, tìm hiểu thực trạng xem xét tính hiệu quả của
những quy định pháp luật có liên quan, qua đó rút ra những đánh giá chung trong việc
thực thi pháp luật, nêu lên thực trạng, bất cập của pháp luật. Cuối cùng, trên cơ sở thực
trạng đã nêu, đề xuất một số kiến nghị, giải pháp phù hợp nhằm hoàn thiện và thực thi có
hiệu quả những quy định của pháp luật về phương thức giải quyết này.
2.2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng mà luận văn nghiên cứu chủ yếu là hoạt động giải quyết tranh chấp
thương mại ở Việt Nam hiện nay và những quy định pháp luật về trọng tài thương mại của
Việt Nam, các tổ chức trọng tài nhà nước cũng như là những quy định của pháp luật có
liên quan.
2.3. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu là các quy định của pháp luật hiện hành về vấn đề giải quyết
tranh chấp thương mại cụ thể là LTTTM 2010 và các quy định pháp luật có liên quan,
cũng như là thực trạng về giải quyết tranh chấp bằng trọng tài hiện nay.
2.4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu luận văn đã sử dụng một số phương pháp luận cụ thể
như sau: Phương pháp triết học Mác - Lênin mà chủ yếu là phép duy vật biện chứng và
phép duy vật lịch sử cũng như các quy luật, phạm trù cơ bản, nhất là quy luật cơ sở hạ

tầng quyết định kiến trúc thượng tầng, quy luật các quan hệ kinh tế quyết định các quan
hệ pháp luật. Đồng thời, luận văn cũng đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể
của khoa học xã hội như phương pháp phân tích, so sánh, đối chiếu, tư duy logic, tổng
hợp, chứng minh, phương pháp phân tích luật viết, phương pháp phân tích, đánh giá số
liệu trong quá trình giải quyết những vấn đề mà đề tài đặt ra.
3. Dự kiến đóng góp mới


Kết quả nghiên cứu đề tài cho thấy những đóng gớp mới của luận văn tập trung vào
một số vấn đề sau đây:
Về mặt lý luận, luận văn giải quyết những vấn đề lý luận về tranh chấp trong hoạt
động thương mại và các hình thức giải quyết tranh chấp, nghiên cứu một cách khái quát
về phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài với những phân tích về đặc điểm của
trọng tài, ưu và nhược điểm của trọng tài, cũng như là hai hình thức trọng tài là trọng tài
vụ việc và trọng tài quy chế, ưu và nhược điểm của từng hình thức và khi nào thì nên
dùng trọng tài vụ việc, khi nào thì nên dùng trọng tài quy chế để giải quyết tranh chấp.
Thứ hai, luận văn đã phân tích một cách sâu sắc những quy định pháp luật hiện
hành về trọng tài, bắt đầu từ việc đánh giá khái quát hiệu quả của pháp luật đối với hoạt
động trọng tài, các nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, thẩm quyền của trọng
tài và thủ tục của trọng tài.
Về mặt thực tiễn, luận văn đã phân tích chi tiết thực trạng sử dụng trọng tài trong
giải quyết tranh chấp tại Việt Nam, các bất cập và các nguyên nhân cụ thể của các nguyên
nhân cụ thể của các bất cập đó. Luận văn bước đầu đã đưa ra một số giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả sử dụng phương thức trọng tài nhằm giải quyết các tranh chấp phát sinh
trong lĩnh vực thương mại bao gồm những giải pháp về mặt cơ chế, chính sách, pháp luật;
các giải pháp từ phía các trọng tài viên, từ phía doanh nghiệp,...
4. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm có hai
chương như sau:
Chương 1: Khái quát về tranh chấp thương mại, trọng tài thương mại và giải

quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài.
Chương 2: Thực tiễn và giải pháp trong việc giải quyết tranh chấp thương
mại bằng trọng tài ở Việt Nam.


CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI, TRỌNG TÀI THƯƠNG
MẠI VÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI BẰNG TRỌNG TÀI
1.1. Khái quát về tranh chấp thương mại.

1.1.1. Khái niệm thương mại.
Ở Việt Nam, thuật ngữ “thương mại” được sử dụng khá rộng rãi trong đời sống xã
hội và trong nhiều các văn bản quy phạm pháp luật. LTM năm 1997 đã định nghĩa “Hoạt
động thương mại là việc thực hiện một hay nhiều hành vi thương mại của thương nhân,
bao gồm việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ thương mại và các hoạt động xúc tiến
thương mại nhằm mục đích lợi nhuận hoặc nhằm thực hiện các chính sách kinh tế - xã
hội”. (Khoản 2 Điều 5 Luật thương mại 1997). Trong Điều 45 LTM 1997 đã quy định các
loại hành vi thương mại bao gồm 14 hành vi: Mua bán hàng hoá; Đại diện cho thương
nhân; Môi giới thương mại; Uỷ thác mua bán hàng hoá; Đại lý mua bán hàng hoá; Gia
công trong thương mại; Đấu giá hàng hoá; Đấu thầu hàng hoá; Dịch vụ giao nhận hàng
hoá; Dịch vụ giám định hàng hoá; Khuyến mại; Quảng cáo thương mại; Trưng bày giới
thiệu hàng hoá; Hội chợ, triển lãm thương mại. Tuy nhiên có những hoạt động được xem
là hoạt động thương mại nhưng lại không được liệt kê trong LTM 1997 như xây dựng, bất
động sản...Định nghĩa về hoạt động thương mại trong LTM 1997 nó hẹp hơn so với nghĩa
rộng được cộng đồng kinh doanh và tài chính quốc tế sử dụng.
Luật thương mại 2005 đã có sự mở rộng khái niệm hoạt động thương mại hơn rất
nhiều so với Luật thương mại 1997. Đó là: “Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm
mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương
mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác”. Việc mở rộng khái niệm về các hành
vi được xem là hoạt động thương mại đã tạo nhiều thuận lợi cho các doanh nghiệp tham

gia vào hoạt động thương mại. Việc sửa đổi và ra đời của LTM 2005 để phù hợp hơn và
hội nhập hơn trong nền kinh tế thế giới.


Tóm lại,ta có thể hiểu: Thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi bao gồm:
mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm
mục đích sinh lợi khác.
1.1.2. Khái niệm tranh chấp thương mại.
Tranh chấp trong thương mại là thuật ngữ quen thuộc trong đời sống kinh tế xã hội
ở các nước trên thế giới. Khái niệm này được sử dụng rộng rãi và phổ biến ở nước ta
trong những năm gần đây. Hiện nay, tuy không có định nghĩa chính thức về tranh chấp
thương mại trong pháp luật Việt Nam nhưng hệ thống pháp nước ta cũng đã đưa ra những
khái niệm khác nhau để biểu đạt lĩnh vực tranh chấp này.
Theo Từ điển Tiếng Việt : “Tranh chấp là sự tranh đấu, giằng co khi có ý kiến bất
đồng thường là quyền lợi giữa hai bên.”
Dưới góc độ pháp lý: Tranh chấp là những xung đột, bất đồng về quyền, quyền lợi và
nghĩa vụ của các chủ thể khi tham gia vào các quan hệ pháp luật.
Tại Điều 238 LTM 1997 quy định: “Tranh chấp thương mại là tranh chấp phát sinh do
việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng trong hoạt động thương mại.”
Năm 2003, Pháp lệnh trọng tài thương mại được ban hành ngày 25/2/2003 tuy
không đưa ra định nghĩa về tranh chấp thương mại nhưng thông qua khái niệm về “hoạt
động thương mại” đã tạo được sự tương đồng trong quan niệm về “thương mại” và “tranh
chấp thương mại” của pháp luật Việt Nam với chuẩn mực chung của pháp luật và thông lệ
quốc tế; từ đó mở màn cho việc xem xét tiếp theo của các văn bản pháp luật khi đề cập
đến lĩnh vực thương mại, tranh chấp thương mại – một lĩnh vực đầy sôi nổi và phức tạp.
Tiếp đó, đến năm 2004, điều 29 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2004 đã đưa ra khái niệm “tranh
chấp về kinh doanh, thương mại” và liệt kê những nội dung của loại tranh chấp này.
LTM 2005 được Quốc hội thông qua ngày 14/6/2005 định nghĩa “Hoạt động
thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng
dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đich sinh lợi khác”

(điều 3 khoản 1 LTM 2005) mặc dù không đưa ra khái niệm về tranh chấp kinh doanh
thương mại nhưng đã đưa ra các hình thức giải quyết tranh chấp thương mại.
Ở phạm vi quốc tế, Tổ chức thương mại thế giới (WTO) quan niệm tranh chấp
thương mại là tranh chấp ở phạm vi quốc tế, trong khuôn khổ WTO có thể hiểu là bất
đồng giữa các thành viên WTO liên quan đến việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo


các Hiệp định và thỏa thuận của WTO và bất đồng này được thông báo chính thức cho
ban thư ký WTO.
Như vậy, có thể hiểu tranh chấp thương mại là những tranh chấp, mẫu thuẫn, bất
đồng hay xung đột về quyền lợi và nghĩa vụ giữa các bên phát sinh trong quá trình thực
hiện hoạt động thương mại.
1.1.3. Đặc điểm tranh chấp thương mại.
Có thể nói tranh chấp thương mại là một hiện tượng phổ biến và thường xuyên xảy
ra trong hoạt động của nền kinh tế thị trường.Tranh chấp thương mại được hiểu là những
tranh chấp, mâu thuẫn, bất đồng hay xung đột về quyền lợi và nghĩa vụ giữa các bên phát
sinh trong quá trình thực hiện hoạt động thương mại. Trong hoạt động thương mại, các
bên vừa hợp tác với nhau đồng thời vừa cạnh tranh nhau để đạt được những mục đích đề
ra. Do đó việc phát sinh những tranh chấp trong quá trình thực hiện quyền và nghĩa vụ
của các bên là điều không thể tránh khỏi. Căn cứ phát sinh tranh chấp thương mại là
những hành vi vi phạm hợp đồng hoặc vi phạm pháp luật. Trong nhiều trường hợp, tranh
chấp thương mại phát sinh do các bên có vi phạm hợp đồng và xâm hại lợi ích của nhau.
Tuy nhiên cũng có thể có những vi phạm xâm hại lợi ích của các bên nhưng không làm
phát sinh tranh chấp.
Các tranh chấp thương mại nhìn chung có những đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, Chủ thể chủ yếu của tranh chấp thương mại là thương nhân:
Quan hệ thương mại có thể được thiết lập giữa các thương nhân với nhau hoặc giữa
thương nhân với bên không phải là thương nhân. Một tranh chấp được coi là tranh chấp
thương mại khi có ít nhất một bên là thương nhân. Ngoài ra cũng có một số trường hợp,
các cá nhân tổ chức khác cũng có thể là chủ thể của tranh chấp thương mại: tranh chấp

giữa công ty – thành viên công ty; tranh chấp giữa các thành viên công ty với nhau liên
quan đến việc thành lập, hoạt động, hợp nhất, giải thể, chia, tách…công ty; …
Thứ hai, căn cứ phát sinh tranh chấp thương mại là hành vi vi phạm hợp đồng
hoặc vi phạm pháp luật:
Trong nhiều trường hợp, tranh chấp thương mại phát sinh do các bên có vi phạm
hợp đồng và xâm hại lợi ích của nhau, tuy nhiên cũng có thể có những vi phạm xâm hại


lợi ích của các bên nhưng không làm phát sinh tranh chấp. Nội dung của tranh chấp
thương mại là những xung đột về quyền, nghĩa vụ và lợi ích của các bên trong hoạt động
thương mại. Các quan hệ thương mại có bản chất là các quan hệ tài sản, nên nội dung
tranh chấp thương liên quan trực tiếp tới lợi ích kinh tế của các bên. Ngoài ra, tranh chấp
thương mại còn chịu chi phối của các yếu tố cơ bản của hoạt động này như: mục đích sinh
lợi, các yêu cầu về thời cơ kinh doanh và yêu cầu giữ bí mật thông tin liên quan đến hoạt
động kinh doanh.
Thứ ba, về các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại:
Tranh chấp thương mại đòi hỏi được giải quyết thỏa đáng nhằm bảo vệ quyền lợi
của các bên, giáo dục ý thức tôn trọng pháp luật của công dân, góp phần ngăn ngừa sự vi
phạm pháp luật trong hoạt động thương mại, bảo đảm trật tự pháp luật, kỷ cương xã hội.
Hiện nay tranh chấp thương mại được giải quyết bằng các phương thức chủ yếu đó là:
thương lượng, hòa giải, trọng tài thương mại và tòa án. Mỗi phương thức có sự khác nhau
về tính chất pháp lý, nội dung của thủ tục, trình tự tiến hành. Các bên có quyền tự do lựa
chọn phương thức phù hợp, phụ thuộc vào lợi thế mà mỗi phương thức có thể mang lại,
mức độ phù hợp của phương thức so với nội dung tính chất của tranh chấp và thiện chí
của các bên.
1.1.4. Hình thức giải quyết tranh chấp thương mại.
Điều 317 Luật thương mại 2005 quy định về các hình thức giải quyết tranh chấp
thương mại bao gồm:
+ Thương lượng giữa các bên.
+ Hoà giải giữa các bên do một cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân được các bên thỏa

thuận chọn làm trung gian hoà giải.
+ Giải quyết tại Trọng tài hoặc Toà án.
Thủ tục giải quyết tranh chấp trong thương mại tại Trọng tài, Toà án được tiến
hành theo các thủ tục tố tụng của Trọng tài, Toà án do pháp luật quy định.
1.1.4.1. Hình thức thương lượng.


Thương lượng là việc bàn bạc nhằm đi đến thỏa thuận giải quyết một vấn đề nào
đó giữa các bên. Thương lượng là hình thức giải quyết tranh chấp không có sự tham gia,
can thiệp của bất kì cơ quan nhà nước hay bên thứ ba nào. Thương lượng thể hiện quyền
tự do thỏa thuận và tự do định đoạt của các bên.
- Pháp luật về giải quyết tranh chấp không có quy định bắt buộc các bên phải tiến
hành thương lượng. Do đó, từ quy trình tổ chức, thực hiện, sự có mặt của các bên, quyền
lợi cũng như nghĩa vụ của các chủ thể, kết quả thương lượng không hề có sự điều chỉnh
của quy phạm pháp luật. Tất cả đều phụ thuộc vào thiện chí tự giải quyết của các bên.
Hình thức này không mang tính ràng buộc pháp lý, có ý nghĩa khuyến khích các bên tự
thực hiện.
- Ưu điểm: Thuận tiện, nhanh chóng, đơn giản, linh hoạt, hiệu quả và ít tốn kém.
Bảo vệ được uy tín của các bên và bí mật trong kinh doanh.
- Nhược điểm: Kết quả giải quyết phụ thuộc vào thiện chí của các bên, không được
đảm bảo thi hành do không chịu sự ràng buộc của cơ chế pháp lý nào.
1.1.4.2. Hình thức hòa giải.
Hòa giải là phương thức giải quyết tranh chấp có sự tham gia của bên thứ ba là hòa
giải viên làm trung gian hòa giải để hỗ trợ, thuyết phục các bên tìm kiếm các giải pháp
nhằm loại trừ tranh chấp đã phát sinh.
Phương thức hòa giải được hình thành dựa trên sự thỏa thuận, tự nguyện và có thủ
tục giải quyết tuân thủ quy định pháp luật; cụ thể là Nghị định 22/2017/NĐ-CP về hòa
giải thương mại. Điều kiện cần để các bên tiến hành giải quyết thông qua phương thức
này là phải có thỏa thuận hòa giải. Thỏa thuận thể hiện ý chí các bên đồng ý sử dụng các
phương thức này để giải quyết các tranh chấp phát sinh. Các bên có thể thỏa thuận giải

quyết tranh chấp bằng hòa giải trước, sau khi xảy ra tranh chấp hoặc tại bất cứ thời điểm
nào của quá trình giải quyết tranh chấp. Thỏa thuận hòa giải có thể được xác lập dưới
hình thức điều khoản hòa giải trong hợp đồng hoặc dưới hình thức thỏa thuận riêng. Thỏa
thuận hòa giải được xác lập bằng văn bản. Các bên có quyền lựa chọn ra một bên trung
gian, độc lập, có kiến thức, kinh nghiệm và kỹ năng giải quyết tranh chấp để đưa ra lời


khuyên về quyền lợi và nghĩa vụ của các bên. Ý kiến của hòa giải viên chỉ mang tính chất
tham khảo và kết quả hòa giải vẫn là sự thỏa thuận giữa các bên tranh chấp với nhau.
Kết quả hòa giải thành là trường hợp các bên đạt được thỏa thuận về việc giải
quyết một phần hoặc toàn bộ tranh chấp. Kết quả hòa giải thành có hiệu lực thi hành đối
với các bên theo quy định của pháp luật dân sự, được xem xét công nhận theo quy định
của pháp luật tố tụng dân sự. Ngoài ra, Nghị định 22 quy định trong trường hợp hòa giải
không thành các bên có quyền yêu cầu trọng tài hoặc tòa án giải quyết tranh chấp theo
quy định của pháp luật.
- Ưu điểm: Thuận tiện, nhanh chóng, đơn giản, linh hoạt, hiệu quả và ít tốn kém.
Hòa giải viên là người có chuyên môn, kinh nghiệm, am hiểu lĩnh vực và vấn đề đang
tranh chấp nên sẽ đưa ra lời khuyên phù hợp và hữu ích cho cả hai bên.
Hòa giải mang tính thân thiện nhằm tiếp tục giữ gìn và phát triển các mối quan hệ
kinh doanh vì lợi ích của cả hai bên nên nhìn chung ít gây hại đến quan hệ hợp tác vốn có
của các bên.
Giải quyết tranh chấp bằng hòa giải, các bên dễ dàng kiểm soát được việc
cung cấp chứng cứ và sử dụng chứng cứ qua đó giữ được bí quyết kinh doanh và uy tín
của các bên. Do xuất phát từ tinh thần tự nguyện và thiện chí của các bên. Vì vậy khi đạt
được phương án hòa giải, các bên thường nghiêm túc thực hiện.
- Nhược điểm: Việc hòa giải có được tiến hành hay không phụ thuộc vào sự nhất trí
của các bên, hòa giải viên không có quyền đưa ra một quyết định ràng buộc hay áp đặt bất
cứ vấn đề gì đối với các bên tranh chấp. Thỏa thuận hòa giải không có tính bắt buộc thi
hành như phán quyết của trọng tài hay của tòa án.
Bên tranh chấp không có thiện chí có thể lợi dụng việc hòa giải để trì hoãn việc

phải thực hiện nghĩa vụ. Nhiều trường hợp do muốn tìm mọi cách mà bên có quyền lợi bị
vi phạm mất quyền khởi kiện tại tòa án hoặc trọng tài do hết thời hiệu khởi kiện.
Ngoài ra, trong quá trình hòa giải các bên phải trao đổi, cung cấp thông tin với người thứ
ba về hoạt động kinh doanh của mỗi bên liên quan đến vụ tranh chấp nên uy tín cũng như
bí quyết khinh doanh của mỗi bên dễ bị ảnh hưởng hơn so với phương thức thương lượng.
Bên cạnh đó, việc chi phí cho quá trình giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải
cũng tốn kém hơn so với thương lượng, bởi một hoặc các bên phải trả khoản dịch vụ phí
cho người thứ ba làm trung gian hòa giải.


1.1.4.3. Hình thức trọng tài.
Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp thông qua hoạt động
của Hội đồng trọng tài hoặc trọng tài viên với tư cách là bên thứ ba độc lập nhằm giải
quyết mâu thuẫn tranh chấp bằng việc đưa ra phán quyết có giá trị bắt buộc các bên phải
thi hành.
Phương thức trọng tài do chính các bên trong tranh chấp thỏa thuận lựa chọn,
nhưng sẽ được tiến hành theo quy định của pháp luật cụ thể là Luật Trọng tài thương mại
năm 2010. Điều kiện cần để các bên tiến hành giải quyết thông qua phương thức này là
phải có thỏa thuận về việc giải quyết bằng trọng tài thương mại và tranh chấp thuộc thẩm
quyền giải quyết của trọng tài thương mại. Phán quyết của trọng tài mang tính chất chung
thẩm, có sự ràng buộc, bắt buộc các bên phải thi hành. Khi giải quyết tranh chấp bằng
trọng tài, người ra quyết định cuối cùng là trọng tài viên. Họ ra phán quyết dựa trên quy
định pháp luật và các sự việc đã xảy ra làm phát sinh tranh chấp. Các bên không thể biết
trước được kết quả giải quyết tranh chấp cho đến khi nhận được phán quyết do hội đồng
trọng tài ban hành.
- Ưu điểm: có tính linh hoạt, tạo quyền chủ động cho các bên, tính nhanh chóng,
tiết kiệm được thời gian có thể rút ngắn thủ tục tố tụng trọng tài và đảm bảo bí mật. Trọng
tài tiến hành giải quyết tranh chấp tuân theo một trình tự nhất định, quyết định trọng tài
không được công bố công khai rộng rãi, do đó bảo vệ được uy tín và giữ bí mật kinh
doanh cho các bên. Phán quyết của trọng tài có tính chung thẩm, đây là ưu thế vượt trội so

với hình thức giải quyết tranh chấp bằng thương lượng, hòa giải. Sau khi trọng tài đưa ra
phán quyết thì các bên không có quyền kháng cáo trước bất kỳ một tổ chức hay tòa án
nào. Đồng thời, phán quyết của trọng tài có tính bắt buộc thi hành với các bên. Khi đã hết
thời hạn tự nguyện thi hành nhưng có một trong các bên không thực hiện, bên còn lại có
quyền gửi đơn yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự cưỡng chế thi hành phán quyết của
trọng tài.
- Nhược điểm: Thời gian tranh chấp càng kéo dài thì phí trọng tài càng cao. Việc
thi hành quyết định trọng tài không phải lúc nào cũng trôi chảy và thuận lợi.
1.1.4.4. Hình thức tòa án.
Tòa án là hình thức giải quyết tranh chấp thông qua hoạt động của cơ quan tài phán
nhà nước tiến hành theo một thủ tục chặt chẽ theo luật định, nhân danh quyền lực nhà


nước để ra phán quyết buộc các bên có nghĩa vụ thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế nhà
nước.
Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại bằng Tòa án là phương thức giải
quyết tranh chấp trên cơ sở đơn khởi kiện của một bên bên tranh chấp yêu cầu Tòa án có
thẩm quyền giải quyết vụ án theo Bộ luật tố tụng dân sự 2015. Tòa án là cơ quan tài phán
nhân danh quyền lực nhà nước để giải quyết tranh chấp. Do đó, phán quyết của Tòa án
(bản án hay quyết định) có giá trị bắt buộc thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà
nước.
Việc giải quyết tranh chấp tại Tòa án phải tuân thủ triệt để trình tự, thủ tục tố tụng theo
luật định. Thủ tục tố tụng được áp dụng cho việc giải quyết tranh chấp thương mại dựa
trên nền thủ tục tố tụng dân sự thông qua quy định tại Bộ Luật Tố tụng dân sự 2015. Giải
quyết tranh chấp thương mại có thể qua hai cấp xét xử là sơ thẩm và phúc thẩm. trong
nhiều trường hợp, bản án hoặc quyết định của Tòa án có thể bị giám đốc thẩm, tái thẩm
khi có các căn cứ theo pháp luật hợp lý để đảm bảo cho phán quyết của Tòa án được
chính xác, khách quan và đúng pháp luật.
Tòa án giải quyết theo nguyên tắc xét xử tập thể và quyết định theo đa số; xét xử
theo nguyên tắc công khai trừ trường hợp giữ bí mật nghề nghiệp bí mật kinh doanh theo

yêu cầu chính đáng của các bên thì Tòa sẽ xét xử kín nhưng tuyên án công khai.
- Ưu điểm: Trình tự, thủ tục tố tụng chặt chẽ và hiệu lực phán quyết có tính khả thi
cao hơn so với trọng tài. Do là cơ quan xét xử của Nhà nước nên phán quyết của Tòa án
có tính cưỡng chế cao. Nếu không chấp hành sẽ bị cưỡng chế, do đó khi đã đưa ra Tòa án
thì quyền lợi của người thắng kiện sẽ được đảm bảo nếu như bên thua kiện có tài sản để
thi hành.
Các Tòa án, đại diện cho chủ quyền quốc gia có điều kiện tốt trong việc tiến hành
điều tra, có quyền cưỡng chế, triệu tập bên thứ ba đến tòa. Nguyên tắc xét xử công khai,
có tính răn đe.
- Nhược điểm: Chính vì trình tự thủ tục chặt chẽ cho nên các bên thường tốn nhiều
chi phí, thời gian cho việc theo kiện. Thủ tục giải quyết tranh chấp thương mại tại Tòa án
không linh hoạt thuận tiện. Phán quyết của tòa án thường bị kháng cáo. Quá trình tố tụng
có thể bị trì hoãn và kéo dài, có thể phải qua nhiều cấp xét xử, ảnh hưởng đến quá


trình sản xuất, kinh doanh. Nguyên tắc xét xử công khai khó có thể bảo vệ được những bí
mật kinh doanh và có thể làm uy tín của các bên trên thương trường bị giảm sút.
1.2. Khái quát về trọng tài thương mại
1.2.1

Khái niệm trọng tài thương mại.

Thời kỳ hội nhập kinh tế, hoạt động thương mại phát triển nhưng luôn ẩn chứa
những mâu thuẫn trong quá trình mua bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ. Để đảm bảo cho
sự phát triển và ổn định của môi trường kinh doanh thì sẽ cần có những giải pháp giải
quyết tranh chấp ngoài tòa án thích hợp, và trọng tài thương mại, với tư cách là một cơ
chế giải quyết tranh chấp ngoài tòa án, đã và đang góp phần không nhỏ vào sự ổn định và
phát triển của hoạt động thương mại trên thế giới. Và hai từ “trọng tài” cũng đã không quá
xa lạ đối với chúng ta, về mặt ngữ nghĩa trọng tài có thể hiểu một cách đơn giản là người
thứ ba được cử ra làm trung gian phân xử bất đồng giữa hai bên. Với ý nghĩa này thì trọng

tài đã xuất hiện và hình thành từ lâu. Khi xảy ra vấn đề mà hai bên không thể tự giải quyết
được thì hai bên sẽ tìm đến người thứ ba với vai trò trung gian, đứng ra lắng nghe và tìm
hiểu vấn đề, đưa ra các lời khuyên và phương hướng giải quyết vấn đề để các bên tham
khảo, trong thời kì đầu này thì vai trò của người thứ ba chỉ đơn giản như vậy. Về sau, nhu
cầu giải quyết các tranh chấp ngày càng cao, đòi hỏi sự nhanh chóng, dứt điểm và linh
hoạt nên các bên đã thỏa thuận ý kiến của người thứ ba là ý kiến quyết định giải quyết vấn
đề đó. Đây là tiền thân của phương thức giải quyết tranh chấp thương mại hiện nay.
Hiện nay, nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển, trọng tài thương mại đã trở
thành phương thức giải quyết tranh chấp phổ biến, được nhiều nước lựa chọn và ngày
càng khẳng định được vai trò của mình trong việc giải quyết các tranh chấp phát sinh
trong hoạt động thương mại nhờ các ưu thế xuất phát từ bản chất của trọng tài.
Định nghĩa về trọng tài, Từ điển Kinh tế thị trường giải thích trọng tài với tư cách là một
phương thức giải quyết tranh chấp: “Trọng tài là một phương pháp giải quyết hòa bình
các vụ tranh chấp, chỉ là đôi bên đương sự tự nguyện đem những sự việc, những vấn đề
tranh chấp giao cho người thứ ba có tư cách công bằng xét xử, lời phán quyết do người
này đưa ra có hiệu lực ràng buộc đối với cả hai bên. Người thứ ba này là người trọng tài
hay cơ quan trọng tài.”
Theo Hiệp hội trọng tài tại Hoa Kỳ: “Trọng tài là cách thức giải quyết tranh chấp
bằng cách đệ trình vụ tranh chấp cho một hoặc một số người khách quan xem xét, giải


quyết và họ sẽ đưa ra quyết định cuối cùng có giá trị bắt buộc các bên tranh chấp phải
thi hành”.
Cùng quan điểm coi trọng tài là một phương thức giải quyết tranh chấp, cuốn “
Đạo đức và kĩ năng hành nghề của Luật sư trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa” đã định nghĩa về trọng tài như sau: “Trọng tài là phương thức giải quyết tranh
chấp, theo đó, hai hoặc nhiều bên đưa vụ tranh chấp của họ ra trước bên thứ ba trung
lập để chủ thể này tiến hành giải quyết tranh chấp theo những thủ tục đặc trưng của quá
trình đó”.
Giáo trình Luật kinh tế trường đại học Luật Hà Nội đưa ra định nghĩa: “Trọng tài

là hình thức giải quyết tranh chấp thông qua hoạt động của trọng tài viên với tư cách là
bên thứ ba độc lập, nhằm chấm dứt xung đột bằng việc đưa ra một phán quyết trên cơ sở
sự thỏa thuận của các bên tranh chấp và có hiệu lực bắt buộc đối với mỗi bên”.
Luật Mẫu UNCITRAL quy định: “Trọng tài nghĩa là mọi hình thức trọng tài có
hoặc không có sự giám sát của một tổ chức thường trực”.
Pháp lệnh TTTM năm 2003 quy định tại Điều 2: “Trọng tài là phương thức giải
quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại được các bên thỏa thuận và được
tiến hành theo trình tự, thủ tục do Pháp lệnh quy định”.
Theo giáo trình” Pháp luật trong hoạt động kinh tế đối ngoại” của Trường đại học
Ngoại thương: “Trọng tài thương mại là cơ quan trung gian được các bên đương sự giao
tranh chấp cho để xét xử”.
Ngoài ra, từ điển luật học Anh – Mỹ của Black đã đưa ra khái niệm về trọng tài
dưới góc độ tố tụng, theo đó, trọng tài được nhìn nhận như một quá trình: “Trọng tài là
một quá trình giải quyết tranh chấp do các bên tự nguyện lựa chọn, trong đó bên thứ bat
rung lập (Trọng tài viên) sau khi nghe các bên trình bày, sẽ ra quyết định có tính chất bắt
buộc đối với các bên trong tranh chấp ấy”.
Theo Hội đồng trọng tài Mỹ (AAA): “Trọng tài là cách thức giải quyết tranh chấp
bằng cách đệ trình vụ tranh chấp cho một số người khách quan xem xét giải quyết và họ
sẽ đưa ra quyết định cuối cùng, có giá trị bắt buộc các bên tranh chấp phải thi hành”.


Tại Việt Nam,theo quy định tại Khoản 1 Điều 3 Luật trọng tài thương mại năm
2010: “Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thoả thuận
và được tiến hành theo quy định của Luật trọng tài thương mại”.
Qua các định nghĩa về trọng tài nêu trên, có thể thấy rằng: Quan điểm coi trọng tài
là một thiết chế để giải quyết tranh chấp gần như thiên về mặt hình thức nhiều hơn, nhìn
nhận sự tồn tại thực tế của tổ chức trọng tài dưới dạng các Trung tâm Trọng tài- cơ quan
tài phán độc lập, tồn tại song song với Tòa án. Quan điểm coi trọng tài là phương thức
giải quyết tranh chấp thiên về mặt bản chất nhiều hơn, khái quát các đặc trưng của trọng
tài khác với các hình thức giải quyết tranh chấp khác. Các định nghĩa về trọng tài nêu trên

đều có cơ sở lý luận và thực tiễn, chỉ khác nhau ở mức độ khái quát và góc độ xem xét.
Tất cả đều có điểm chung là Trọng tài chính là công cụ để giải quyết tranh chấp theo thủ
tục đặc trưng của nó: do các bên thỏa thuận, vai trò trung lập, đưa ra quyết định bắt buộc
các bên phải thực hiện… Những đặc trưng này thể hiện bản chất của trọng tài là một
phương thức tài phán tư, kết hợp được hai mặt thỏa thuận và tài phán.
Qua những phân tích trên, ta có thể đưa ra định nghĩa Trọng tài thương mại như
sau: Trọng tài thương mại là một phương thức giải quyết tranh chấp, theo đó các bên thỏa
thuận đưa vụ việc ra trước một bên thứ ba trung lập để xem xét và ra phán quyết, bên thứ
ba này có thể là một trọng tài viên hoặc một hội đồng trọng tài; phán quyết của bên thứ ba
có giá trị bắt buộc thi hành đối với các bên.
1.2.2. Đặc điểm của trọng tài thương mại.
Theo Khoản 1, Điều 3, Luật trọng tài thương mại 2010: “Trọng tài thương mại là
phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thoả thuận và được tiến hành theo quy định
của Luật này”
Trọng tài thương mại là một phương pháp pháp lý để giải quyết tranh chấp ngoài
Tòa án, theo đó các bên tranh chấp thỏa thuận đưa tranh chấp của mình đến một trọng tài
viên hay một hội đồng trọng tài để giải quyết theo quy định của Luật trọng tài thương mại
và chấp nhận chịu sự ràng buộc về mặt pháp lý, tuân thủ phán quyết của trọng tài viên hay
của hội đồng trọng tài. Trọng tài thường được sử dụng để giải quyết các bất đồng thương
mại.


Đặc điểm của phương thức trọng tài thương mại hiện hành được quy định như sau:
- Trọng tài chỉ có thẩm quyền giải quyết một tranh chấp cụ thể nào đó khi các bên
tranh chấp tự nguyện thỏa thuận lựa chọn trọng tài để giải quyết.
- Trọng tài là hình thức giải quyết tranh chấp với sự tham gia của bên thứ ba khách
quan để giúp các bên giải quyết bất đồng. Tuy nhiên, quyết định của trọng tài viên hoặc
hội đồng trọng tài có tính chất ràng buộc pháp lý đối với các bên tranh chấp như một bản
án của Tòa án.
- Trọng tài là một phương thức giải quyết tranh chấp không mang tính quyền lực

Nhà nước như Tòa án, tuy nhiên vẫn được điều chỉnh bằng pháp luật cụ thể.
- Trọng tài thường nhận được sự hỗ trợ của các cơ quan quyền lực Nhà nước trong
quá trình tố tụng như sự hỗ trợ của Tòa án khi ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời.
1.2.3. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài.
Theo quy định của pháp luật, khi giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài
thương mại phải tuân thủ những nguyên tắc chung sau:
Một là, nguyên tắc về thỏa thuận trọng tài. Khoản 1 Điều 5 Luật TTTM 2010.
Thỏa thuận Trọng tài là thỏa thuận các bên về việc giải quyết bằng trọng tài các vụ tranh
chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh trong hoạt động thương mại. Như vậy các bên có
thể thỏa thuận Trọng tài trước khi có tranh chấp hoặc sau khi có tranh chấp. Khác với việc
giải quyết tranh chấp tại Tòa án, cơ quan tài phán nhà nước, khi có tranh chấp phát sinh,
bên có quyền và lợi ích hợp pháp bị vi phạm có quyền đệ đơn yêu cầu Tòa án có thẩm
quyền giải quyết mà không cần có sự thỏa thuận với người bị kiện, việc giải quyết tranh
chấp bằng trọng tài đòi hỏi có sự thỏa thuận của các bên. Nguyên tắc chung là “không có
thỏa thuận giải quyết bằng phương thức trọng tài, không có tố tụng trọng tài”.
Hai là, Trọng tài viên phải tôn trọng thỏa thuận của các bên nếu thỏa thuận đó
không vi phạm điều cấm và trái đạo đức xã hội – khoản 1 Điều 4 Luật TTTM. Một trong
những ưu điểm của việc giải quyết tranh chấp theo thủ tục trọng tài là các bên có tranh


chấp được đảm bảo tối đa quyền tự do định đoạt trên nhiều phương diện trong quá trình
giải quyết. Các bên tranh chấp có quyền thỏa thuận với nhau về nhiều vấn đề liên quan
đến thủ tục giải quyết mà Trọng tài viên phải tôn trọng, nếu không sẽ dẫn đến hậu quả là
quyết định của Hội đồng Trọng tài sẽ bị Tòa án hủy theo yêu cầu của các bên.
Quyền hạn của hội đồng trọng tài trong việc giải quyết tranh chấp là do các bên giao cho
họ. Các bên thỏa thuận chọn Trung tâm Trọng tài nào và hình thức trọng tài nào thì chỉ có
Trung tâm trọng tài và hình thức trọng tài đó được giải quyết. Các bên lựa chọn Trọng tài
viên nào thì Trọng tài viên đó có quyền giải quyết. Trọng tài thương mại là hình thức giải
quyết tranh chấp lựa chọn, nên khi giải quyết tranh chấp, trọng tài viên phải tôn trọng sự

thỏa thuận của các bên về thời gian, địa điểm giải quyết tranh chấp; về thời hạn thực hiện
các thủ tục tố tụng; về giới hạn nội dung vụ tranh chấp nhờ trọng tài phán quyết.
Ba là , trọng tài viên phải độc lập, khách quan, vô tư và tuân theo quy định của
pháp luật – khoản 2 Điều 4 Luật TTTM. Trọng tài viên là người được các bên tranh chấp
lựa chọn để giúp họ giải quyết tranh chấp . Điều 20 Luật trọng tài thương mại 2010 quy
định rõ tiêu chuẩn làm Trọng tài viên và những điều kiện không được làm Trọng tài viên.
Do đó để đảm bảo lợi ích của các bên tranh chấp , trọng tài viên phải độc lập, vô tư, khách
quan và căn cứ vào pháp luật.
Bốn là, các tranh chấp đều bình đản về quyền và nghĩa vụ. Hội đồng trọng tài có
trách nhiệm tạo điều kiện để họ thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình – khoản 3 Điều
4 Luật TTTM 2010.
Năm là, giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại phải được tiến hành
không công khai, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác – khoản 4 Điều 4 Luật
TTTM 2010. Nguyên tắc trọng tài thương mại không giải quyết công khai, theo đó, hội
đồng trọng tài hoặc Trọng tài viên duy nhất chỉ thực hiện hành vi tố tụng trước những
người đại diện cho các bên tranh chấp hoặc có liên quan đến vụ tranh chấp. Những người
khác chỉ được dự phiên họp giải quyết tranh chấp nếu được sự đồng ý của các bên tranh
chấp.
Sáu là, phán quyết trọng tài là chung thẩm – khoản 5 Điều 4 Luật TTTM 2010.
Yêu cầu của việc giải quyết tranh chấp thương mại là nhanh chóng, dứt điểm, tránh kéo
dài, làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh. Nguyên tắc trọng tài thương mại chỉ giải


quyết một lần, nghĩa là quyết định trọng tài là chung thẩm và có hiệu lực kể từ ngày công
bố. Sở dĩ như vậy vì, trọng tài thương mại là tổ chức phi chính phủ, các trung tâm trọng
tài thương mại thường trực hay các hội đồng trọng tài vụ việc đều độc lập với nhau về tổ
chức, đều ngang bằng nhau về thẩm quyền nên không có tổ chức trọng tài nào có thẩm
quyền xem xét lại phán quyết của trọng tài khác.
1.3. Những quy định của pháp luật về trọng tài thương mạị.
1.3.1. Hình thức của trọng tài.

Trọng tài thương mại tồn tại dưới hai dạng cơ bản là trọng tài vụ việc (hay còn gọi
là trọng tài ad học) và trọng tài thường trực (hay còn gọi là trọng tài quy chế).
1.3.1.1. Trọng tài vụ việc
Theo khoản 7, Điều 3, Luật trọng tài thương mại 2010: “Trọng tài vụ việc là hình
thức giải quyết tranh chấp theo quy định của Luật này và trình tự, thủ tục do các bên thoả
thuận.”
Trọng tài vụ việc là hình thức trọng tài theo đó các bên tranh chấp thỏa thuận thành
lập để giải quyết vụ việc và sẽ chấm dứt tồn tại khi giải quyết xong vụ việc đó. Bản chất
của trọng tài vụ việc được thể hiện qua các đặc trưng cơ bản sau:
- Được thành lập khi phát sinh tranh chấp và tự chấm dứt hoạt động khi giải quyết
xong tranh chấp.
- Không có cơ sở thường trực, không có bộ máy điều hành, không có danh sách
trọng tài viên
- Quy tắc tố tụng của trọng tài vụ việc để giải quyết tranh chấp có thể do các bên
thỏa thuận xây dựng hoặc lựa chọn bất kỳ một quy tắc tố tụng nào của các trung tâm trọng
tài.
Ưu điểm của hình thức trọng tài vụ việc là khá đơn giản, nhanh chóng và tiết kiệm
được chi phí do không phải trả phí cho bộ máy hành chính. Đây là biện pháp giải quyết
tranh chấp mềm dẻo, linh hoạt, phán quyết của trọng tài vụ việc vẫn được công nhận có
giá trị chung thẩm và được thi hành.


Để thuận lợi hơn trong quá trình giải quyết tranh chấp thì khi lựa chọn trọng tài vụ việc,
các bên nên thoả thuận quy tắc tố tụng trong hợp đồng để khi muốn áp dụng thì chỉ cần
dẫn chiếu. Trong trường hợp cần thiết, các bên có thể sửa đổi, bổ sung một số chi tiết cho
phù hợp với tính chất từng vụ việc. Việc áp dụng các quy tắc này không đòi hỏi các bên
phải trả thêm bất kỳ một khoản lệ phí nào mà lại có thể mang lại cho các bên một cách
thức giải quyết nhanh.
Tuy nhiên trọng tài vụ việc có nhược điểm là tính hiệu quả của nó phụ thuộc vào
tinh thần hợp tác toàn diện của các bên tranh chấp và cần có sự hỗ trợ của một hệ thống

pháp luật kinh tế hoàn chỉnh. Nguyên tắc “tự do lựa chọn” sẽ chỉ là hình thức nếu các bên
không có thiện chí với nhau. Trình tự xét xử dễ bị trì hoãn nếu các bên không thống nhất
được thủ tục giải quyết hoặc trở ngại trong việc lựa chọn trong tài viên.
1.3.1.2. Trọng tài quy chế.
Theo Khoản 6, Điều 3, Luật trọng tài thương mại 2010: “Trọng tài quy chế là hình
thức giải quyết tranh chấp tại một Trung tâm trọng tài theo quy định của Luật này và quy
tắc tố tụng của Trung tâm trọng tài đó.”
Là hình thức giải quyết tranh chấp tại một Trung tâm trọng tài theo quy định của
Luật trọng tài thương mại 2010 và quy tắc tố tụng của Trung tâm trọng tài đó. Trung tâm
trọng tài được tổ chức chặt chẽ, có bộ máy, trụ sở làm việc thường xuyên, thường có danh
sách trọng tài viên hoạt động theo điều lệ và nguyên tắc riêng.
Đặc điểm:
- Trung tâm trọng tài là tổ chức phi chính phủ, không nằm trong hệ thống các cơ
quan Nhà nước.
- Cơ cấu tổ chức của trung tâm trọng tài bao gồm có ban điều hành, ban thư ký và
các trọng tài viên của trung tâm. Tổ chức và quản lý của các trung tâm trọng tài nói chung
đơn giản, gọn nhẹ. Ban điều hành của trung tâm trọng tài bao gồm có chủ tịch, một hoặc
các phó chủ tịch và có thể có tổng thư ký trung. Bên cạnh ban điều hành, trung tâm trọng
tài còn có các trọng tài viên trong danh sách trọng tài viên của Trung tâm trọng tài


- Trung tâm trọng tài có thể tự quyết định về lĩnh vực hoạt động và có quy tắc tố
tụng riêng. Trong quá trình hoạt động, các trung tâm trọng tài có quyền mở rộng và thu
hẹp lĩnh vực hoạt động, nhưng phải tiến hành đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm
quyền.
Ưu điểm lớn nhất của trọng tài thường trực là có sẵn các bộ quy tắc tố tụng trọng
tài và các bên đương sự chỉ cần thoả thuận áp dụng quy tắc là đủ mà không cần phải tốn
công tạo ra một bộ quy tắc mới. Các bản quy tắc trọng tài cũng được bổ sung thường
xuyên, điều chỉnh cho phù hợp với sự thay đổi của môi trường kinh doanh. Những điều
này rất thuận lợi cho các doanh nghiệp mới bước vào nghề, hoặc không am hiểu nhiều về

luật pháp, về thủ tục kiện tụng. Nếu họ không muốn có điều gì bất lợi cho mình thì họ
chọn trọng tài thường trực với bộ quy tắc có sẵn để giải quyết tranh chấp. Hơn nữa trọng
tài quy chế hoạt động thường xuyên, có tổ chức chặt chẽ tạo điều kiện cho các bên dễ
dàng quy định một thoả thuận trọng tài riêng.
Một ưu điểm khác của trọng tài quy chế là vấn đề lựa chọn trọng tài viên. Trong trường
hợp vụ việc tranh chấp bị một bên gây căng thẳng làm cản trở việc lựa chọn trọng tài viên
thì sự chỉ định của Chủ tịch Trung tâm trọng tài là hết sức cần thiết. Các trọng tài Trung
tâm là những người được tuyển chọn kỹ càng, và các bên hoàn toàn có thể đặt niềm tin
vào trình độ chuyền môn cũng như sự khách quan của họ.
Nhược điểm của trọng tài quy chế là tốn kém nhiều chi phí. Giải quyết tranh chấp
tại trọng tài quy chế, ngoài việc phải chi trả chi phí thù lao cho các Trọng tài viên, các bên
còn phải chi trả các chi phí hành chính để nhận được sự hỗ trợ của các trung tâm trọng tài.
Và cũng do bộ máy hành chính nên đôi khi quá trình tố tụng trọng tài quy chế kéo dài vì
phải tuân thủ những thủ tục trong quy tắc tố tụng một cách tuần tự và nghiêm chỉnh.
1.3.2. Thỏa thuận trọng tài.
Theo Khoản 1 Điều 5 Luật Trọng tài thương mại 2010, tranh chấp được giải quyết
bằng Trọng tài nếu các bên có thỏa thuận trọng tài. Thỏa thuận trọng tài có thể được lập
trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp. Như vậy, điều kiện để giải quyết tranh chấp bằng
Trọng tài là phải có thỏa thuận trọng tài.


Thỏa thuận trọng tài có thể là điều khoản về giải quyết tranh chấp đã được ghi
trong hợp đồng hoặc thỏa thuận riêng, có thể là một Phụ lục đính kèm tại thời điểm ký
Hợp đồng hoặc được các bên ký kết sau khi phát sinh tranh chấp với hình thức theo quy
định tại Điều 16 Luật Trọng tài thương mại 2010.
Như vậy, khi tranh chấp đã xảy ra và các bên muốn đưa ra giải quyết thông qua
phương thức trọng tài thương mại thì lúc này các có thể lập thỏa thuận trọng tài với hình
thức luật định và đáp ứng đầy đủ các điều kiện có hiệu lực của một thỏa thuận trọng tài.
Không nhất thiết phải có thỏa thuận trước trong hợp đồng thì thương nhân mới có thể giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại.

Trọng tài không có thẩm quyền đương nhiên mà chỉ được giải quyết tranh chấp khi
các bên có quyền và nghĩa vụ liên quan thỏa thuận chỉ định. Khi các bên thiết lập một
thỏa thuận trọng tài thì nghĩa là họ đã trao thẩm quyền giải quyết tranh chấp cho trọng tài
và tòa án không có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đó trừ khi thỏa thuận trọng tài vô
hiệu hoặc bị hủy bỏ bởi chính các bên. Như vậy, thẩm quyền của trọng tài được xác lập
trên cơ sở thỏa thuận trọng tài.
Luật Mẫu UNCITRAL về Trọng tài thương mại quốc tế năm 1985 định nghĩa thỏa
thuận trọng tài tại Khoản 1, Điều 7 như sau: “Thỏa thuận trọng tài là thỏa thuận mà các
bên đưa ra trọng tài mọi hoặc các tranh chấp nhất định phát sinh hoặc có thể phát sinh
giữa các bên về quan hệ pháp lý xác định, dù là quan hệ hợp đồng hay không phải là
quan hệ hợp đồng. Thoả thuận trọng tài có thể dưới hình thức điều khoản trọng tài trong
hợp đồng hoặc dưới hình thức thoả thuận riêng”.
Từ quy định trên, có thể thấy thỏa thuận trọng tài là sự thống nhất ý chí của các
bên về việc giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng hoặc ngoài hợp đồng bằng
phương thức trọng tài. Thỏa thuận này có thể được lập trước hoặc sau khi xảy ra tranh
chấp và có thể dưới hình thức một điều khoản trong hợp đồng hoặc một thỏa thuận trọng
tài riêng biệt.
Hay Công ước châu Âu về Trọng tài thương mại quốc tế năm 1961 có đưa ra định
nghĩa tương tự: “Thỏa thuận trọng tài là một điều khoản trọng tài trong hợp đồng hoặc
thỏa thuận trọng tài, hợp đồng hoặc thoả thuận trọng tài được ký kết giữa các bên, hoặc
được trao đổi qua thư từ, điện tín, hoặc các hình thức liên lạc bằng điện toán khác, và


trong mối quan hệ giữa các quốc gia mà pháp luật không yêu cầu rằng một thoả thuận
trọng tài phải được lập thành văn bản, bất kỳ thỏa thuận trọng tài nào cũng phải được ký
kết theo đúng hình thức mà luật các nước này quy định”
Theo Luật Trọng tài thương mại Việt Nam 2010 tại Khoản 2 điều 3 đưa ra: “ Thoả
thuận trọng tài là thoả thuận giữa các bên về việc giải quyết bằng Trọng tài tranh chấp
có thể phát sinh hoặc đã phát sinh.”
Đây là một định nghĩa tương đối đơn giản, khái quát, từ đây có thể hiểu đơn giản :

Thỏa thuận trọng tài là sự thỏa thuận của các bên về một phương thức giải quyết các tranh
chấp, có thể có trước hoặc sau khi tranh chấp xảy ra.
Theo Điều 19 LTTTM 2010 quy định về tính độc lập của trọng tài như sau: “Thoả
thuận trọng tài hoàn toàn độc lập với hợp đồng. Việc thay đổi, gia hạn, hủy bỏ hợp đồng,
hợp đồng vô hiệu hoặc không thể thực hiện được không làm mất hiệu lực của thoả thuận
trọng tài.”
Tuy nhiên, thỏa thuận trọng tài vẫn có thể bị vô hiệu trong một số trường hợp được
quy định tại Điều 18 Luật TTTM 2010 :
Thứ nhất, tranh chấp phát sinh trong các lĩnh vực không thuộc thẩm quyền của
Trọng tài quy định tại Điều 2 của Luật này, đó là trường hợp thỏa thuận trọng tài được
xác lập để giải quyết tranh chấp không thuộc các trường hợp: Tranh chấp giữa các bên
phát sinh từ hoạt động thương mại; Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một
bên có hoạt động thương mại; Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được
giải quyết bằng Trọng tài (Điều 2 LTTTM 2010).
Thứ hai, người xác lập thỏa thuận trọng tài không có thẩm quyền theo quy định
của pháp luật, tức là người xác lập thỏa thuận trọng tài khi không phải là người đại diện
theo pháp luật hoặc không phải là người được ủy quyền hợp pháp hoặc là người được ủy
quyền hợp pháp nhưng vượt quá phạm vi được ủy quyền.
Về nguyên tắc thỏa thuận trọng tài do người không có thẩm quyền xác lập thì thỏa
thuận trọng tài đó vô hiệu. Trường hợp thỏa thuận trọng tài do người không có thẩm
quyền xác lập nhưng trong quá trình xác lập, thực hiện thỏa thuận trọng tài hoặc trong tố


tụng trọng tài mà người có thẩm quyền xác lập thỏa thuận trọng tài đã chấp nhận hoặc đã
biết mà không phản đối thì thỏa thuận trọng tài không vô hiệu.
Thứ ba, người xác lập thỏa thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự theo
quy định của Bộ luật dân sự, tức là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi
dân sự hoặc người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
Trong trường hợp này thì Tòa án cần thu thập chứng cứ để chứng minh người xác
lập thoả thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự thì phải có giấy tờ tài liệu

chứng minh ngày tháng năm sinh hoặc kết luận của cơ quan có thẩm quyền hoặc quyết
định của Tòa án xác định, tuyên bố người đó mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế
năng lực hành vi dân sự.
Thứ tư, hình thức thỏa thuận trọng tài không phù hợp với quy định tại Điều 16 của
Luật này.
Thứ năm, một trong các bên bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép trong quá trình xác lập
thoả thuận trọng tài và có yêu cầu tuyên bố thỏa thuận trọng tài đó là vô hiệu, là trường
hợp một trong các bên bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép theo quy định tại Điều 4 và Điều 127
của Bộ luật dân sự 2015.
Thứ sáu, thỏa thuận trọng tài vi phạm điều cấm của pháp luật, là thỏa thuận thuộc
trường hợp quy định tại Điều 123 của Bộ luật dân sự 2015.
Căn cứ quy định trên điều kiện có hiệu lực thỏa thuận trọng tài là 2 bên phải có
thỏa thuận trọng tài, hình thức đúng quy định pháp luật và không thuộc các trường hợp
thỏa thuận trọng tài vô hiệu.
Trường hợp các bên đã có thỏa thuận trọng tài mà 1 bên khởi kiện tại Tòa án thì
Tòa án phải từ chối thụ lý trừ trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu hoặc thỏa thuận
trọng tài không thể thực hiện được.
Điều 6 Luật trọng tài thương mại 2010 quy định: "Trong trường hợp các bên tranh
chấp đã có thoả thuận trọng tài mà một bên khởi kiện tại Toà án thì Toà án phải từ chối


thụ lý, trừ trường hợp thoả thuận trọng tài vô hiệu hoặc thoả thuận trọng tài không thể
thực hiện được.
1.3.3. Tố tụng trọng tài.
Tố tụng trọng tài được quy định cụ thể trong Luật Trọng tài thương mại, cụ thể như
sau:
Thứ nhất, nguyên đơn nộp đơn kiện.
- Bước đầu của quá trình tố tụng trọng tài, nguyên đơn phải làm đơn kiện gửi đến
Trung tâm trọng tài trong trường hợp giải quyết tranh chấp tại Trung tâm trọng tài.
- Trường hợp vụ tranh chấp được giải quyết bằng Trọng tài vụ việc, nguyên đơn

phải làm đơn kiện và gửi cho bị đơn.
Đơn kiện phải đáp ứng đầy đủ các thông tin quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều
30 LTTTM 2010 như sau:
Đơn khởi kiện gồm có các nội dung:
a) Ngày, tháng, năm làm đơn khởi kiện;
b) Tên, địa chỉ của các bên; tên, địa chỉ của người làm chứng, nếu có;
c) Tóm tắt nội dung vụ tranh chấp;
d) Cơ sở và chứng cứ khởi kiện, nếu có;
đ) Các yêu cầu cụ thể của nguyên đơn và giá trị vụ tranh chấp;
e) Tên, địa chỉ người được nguyên đơn chọn làm Trọng tài viên hoặc đề nghị chỉ
định Trọng tài viên.
Kèm theo đơn khởi kiện, phải có thỏa thuận trọng tài, bản chính hoặc bản sao các
tài liệu có liên quan.
Một trong những nội dung quan trọng của đơn kiện là nguyên đơn chỉ ra cụ thể
thông tin về người được nguyên đơn chọn làm trọng tài viên. Cùng theo đơn kiện các bên
cần gửi theo bản thỏa thuận trọng tài, đây là tài liệu quan trọng để trung tâm trọng tài
đánh giá tranh chấp có được thụ lí hay không.


Nếu các bên không có thỏa thuận khác, thời điểm bắt đầu tố tụng trọng tài được
tính từ khi Trung tâm trọng tài nhận được đơn khởi kiện của nguyên đơn trong trường hợp
tranh chấp được giải quyết tại Trung tâm trọng tài. Còn đối với trường hợp tranh chấp
được giải quyết bằng Trọng tài vụ việc, thì thời điểm bắt đầu tố tụng trọng tài được tính từ
khi bị đơn nhận được đơn khởi kiện của nguyên đơn (Điều 31 LTTTM 2010).
Nếu giải quyết tại Trung tâm trọng tài, thì trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ
ngày nhận được đơn khởi kiện, các tài liệu kèm theo và chứng từ nộp tạm ứng phí trọng
tài, Trung tâm trọng tài phải gửi cho bị đơn bản sao đơn kiện của nguyên đơn và những
chứng cớ tài liệu mà nguyên đơn đã gửi (Điều 32 LTTTM 2010).
Trừ trường hợp luật chuyên ngành có quy định khác, thời hiệu khởi kiện theo thủ
tục trọng tài là 02 năm, kể từ thời điểm quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm (Điều 33

LTTTM 2010).
Phí trọng tài thì được quy định tại Điều 34 LTTTM 2010 như sau:
1. Phí trọng tài là khoản thu từ việc cung cấp dịch vụ giải quyết tranh chấp bằng
Trọng tài. Phí trọng tài gồm:
a) Thù lao Trọng tài viên, chi phí đi lại và các chi phí khác cho Trọng tài viên;
b) Phí tham vấn chuyên gia và các trợ giúp khác theo yêu cầu của Hội đồng trọng
tài;
c) Phí hành chính;
d) Phí chỉ định Trọng tài viên vụ việc của Trung tâm trọng tài theo yêu cầu của các
bên tranh chấp;
đ) Phí sử dụng các dịch vụ tiện ích khác được cung cấp bởi Trung tâm trọng tài.
2. Phí trọng tài do Trung tâm trọng tài ấn định. Trường hợp vụ tranh chấp được giải
quyết bởi Trọng tài vụ việc, phí trọng tài do Hội đồng trọng tài ấn định.


×