Tải bản đầy đủ (.docx) (41 trang)

Pháp luật về đầu tư ra nước ngoài theo pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (276.44 KB, 41 trang )

1



Pháp luật về đầu tư ra nước ngoài theo pháp luật Việt Nam

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Trước bối cảnh thế giới đang toàn cầu hoá, nhiều biến chuyển với sự phát triển
nhanh chóng của nhiều công trình khoa học – công nghệ, vấn đề hội nhập hiện đang là
vấn đề của mỗi Quốc gia. Việt Nam cũng không loại trừ trong quá trình toàn cầu hoá
đó, để hội nhập với nền kinh tế thế giới, chúng ta cũng cần phải có những bước chuyển
mình. Theo xu hướng mở cửa để hội nhập và hợp tác kinh tế với các nước khác thì
hoạt động đầu tư ra nước ngoài là một xu hướng được xem là tất yếu trong chiến lược
mở cửa hội nhập của Việt Nam.
Tuy nhiên, dưới cái mác “Quốc gia đang phát triển” thì hẳn là ai cũng sẽ chỉ
nghĩ đến một chiều hướng Việt Nam là nước tiếp nhận đầu tư của các Quốc gia khác
nhưng con số sau đây sẽ chứng minh Việt Nam không chỉ tiếp nhận đầu tư vốn từ nước
ngoài mà còn là một Quốc gia có những bước nhảy vọt về việc đầu tư ra nước ngoài:
NĂM

SỐ DỰ ÁN

TỔNG VỐN ĐĂNG KÝ
(TRIỆU USD)

2005

36


367.5

2006

36

221

2007

80

977.9

2008

104

3147.5

2009

91

2597.6

2010

108


3503

2011

82

2531

2012

84

1546.7

2013

93

3107.1

2014

109

1786.8

2015

118


774.8

2016

139

970.7

Bảng số liệu thống kê số dự án và tổng vốn đăng ký đầu tư ra nước ngoài của
các doanh nghiệp Việt nam giai đoạn 2005-2006.1

1 Mục 18, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài được cấp giấy phép thời kì 1989-2016:
/>

Pháp luật về đầu tư ra nước ngoài theo pháp luật Việt Nam

Không chỉ đầu tư sang các nước đang và kém phát triển, Việt Nam còn đầu tư
sang các nước đang phát triển như Hoa Kỳ, Anh, Pháp, Nhật…điển hình không thể
không nhắc đến tập đoàn Viễn thông quân đội – Viettel, tính đến đầu năm 2016 tập
đoàn này đã có mặt ở 10 quốc gia tại châu Á, châu Mỹ, châu Phi và cung cấp dịch vụ
cho hơn 75 triệu khách hàng. Đầu tư ra nước ngoài mang lại cho ta không ít những khó
khăn, bên cạnh đó ta không thể phủ nhận các lợi ích từ việc đầu tư ra nước ngoài mang
lại, đó là sự tiếp cận các khoa học công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên tiến,
tiếp cận những nguồn tài chính dồi dào, khai thác được những lợi thế cạnh tranh để mở
rộng thị trường sản xuất…
Nhận thức được lợi ích to lớn từ hoạt động đầu tư ra nước ngoài, bên cạnh đó
công tác quản lý cũng như hệ thống pháp luật về lĩnh vực này đã được tăng cường trên
nhiều phương diện, từ việc xác định mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ đến công tác,
chính sách xúc tiến đầu tư,…qua đó thể hiện rõ sự thay đổi trong tư duy, quan điểm
của Nhà nước đối với hoạt động đầu tư ra nước ngoài, khuyến khích doanh nghiệp Việt

Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị sản xuất, kinh doanh toàn cầu, nâng cao vị thế
của Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Tuy nhiên ngoài các tác động tích cực của hoạt động đầu tư ra nước ngoài thì
còn rất nhiều những mặt hạn chế trong hệ thống pháp luật hỗ trợ doanh nghiệp Việt
Nam đầu tư ra nước ngoài đang trong quá trình hoàn thiện, còn thiếu sự thống nhất,
chưa phù hợp với thực tiễn trong nước và thông lệ quốc tế nhất là trong bối cảnh hội
nhập kinh tế như hiện nay, cần có những giải pháp và kiến nghị cụ thể để hoàn thiện hệ
thống pháp luật về hoạt động đầu tư ra nước ngoài, từ đó thúc đẩy hoạt động đầu tư ra
nước ngoài, phát triển toàn diện kinh tế - xã hội, đưa kinh tế nước ta lên một tầm cao
mới.
Trong bối cảnh tình hình trên, đã có nhiều công trình, đề tài nghiên cứu khoa
học tại Việt Nam về pháp luật đầu tư ra nước ngoài theo pháp luật Việt Nam. Tuy
nhiên, để làm rõ thêm nhiều khía cạnh và phân tích pháp luật hiện hành nên tiểu luận
“Pháp luật về đầu tư ra nước ngoài thep pháp luật Việt Nam” là cần thiết để đóng góp
những kiến nghị, cũng như tìm ra những mặt hạn chế của pháp luật về đầu tư ra nước
ngoài theo pháp luật Việt Nam.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Nghiên cứu và làm rõ một cách cơ bản về các vấn đề lý luận và pháp lý về pháp
luật đầu tư ra nước ngoài theo pháp luật Việt Nam.


Pháp luật về đầu tư ra nước ngoài theo pháp luật Việt Nam

Phân tích những vấn đề rào cản pháp lý của pháp luật Việt Nam về lĩnh vực đầu
tư ra nước ngoài.
Phân tích, đánh giá thực trạng về tình hình đầu tư nước ngoài của nước ta.
Đưa ra kiến nghị nhằm khắc phục và hoàn thiện cơ sở pháp lý về đầu tư ra nước
ngoài.
3. Phương pháp nghiên cứu


Tiểu luận sử dụng một số phương pháp nghiên cứu đặc thù như: phương pháp
so sánh luật học; phương pháp thu thập số liệu, thống kê; phương pháp phân tích, tổng
hợp; phương pháp đánh giá kết quả, để thực hiện mục đích nghiên cứu và làm rõ các
vấn đề lý luận, pháp lý về đầu tư ra nước ngoài.

CHƯƠNG 1.


Pháp luật về đầu tư ra nước ngoài theo pháp luật Việt Nam

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẦU TƯ RA NƯỚC NGOÀI
1.1. Tổng quan về đầu tư ra nước ngoài
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm về đầu tư ra nước ngoài
1.1.1.1. Khái niệm về đầu tư ra nước ngoài
Đầu tư kinh doanh là việc nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư để thực hiện hoạt động kinh
doanh thông qua việc thành lập tổ chức kinh tế; đầu tư góp vốn, mua cổ phần, phần
vốn góp của tổ chức kinh tế; đầu tư theo hình thức hợp đồng hoặc thực hiện dự án đầu
tư.2
Đầu tư ra nước ngoài là việc nhà đầu tư chuyển vốn; hoặc thanh toán một phần
hoặc toàn bộ cơ sở kinh doanh; hoặc xác lập quyền sở hữu để thực hiện hoạt động đầu
tư kinh doanh ngoài lãnh thổ Việt Nam; đồng thời trực tiếp tham gia quản lý hoạt động
đầu tư đó.3
Đầu tư ra nước ngoài còn gọi là đầu tư quốc tế. Được hiểu là một quá trình
trong đó có sự di chuyển vốn từ quốc gia này sang quốc gia khác để thực hiện các dự
án đầu tư nhằm đưa lại lợi ích cho các bên tham gia.4
Luật đầu tư 2014 đã không còn hai khái niệm “Đầu tư trực tiếp” và “Đầu tư
gián tiếp” mà thay vào đó là khái niệm “Đầu tư kinh doanh”. Tuy nhiên trên thực tế
việc đầu tư ra nước ngoài được thực hiện dựa trên hai hình thức là đầu tư trực tiếp và
đầu tư gián tiếp:

Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là việc nhà đầu tư bỏ vốn, tài sản vào nước tiếp
nhận đầu tư và thiết lập các dự án đầu tư tại đó, đồng thời trực tiếp tham gia vào việc
điều hành, quản lý dự án đầu tư.5
Bên cạnh đó còn có một số định nghĩa về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài như:
Theo Tổ chức thương mại thế giới (WTO): “Đầu tư trực tiếp nước ngoài xảy ra khi
một nhà đầu tư từ một nước (nước chủ đầu tư) có được một tài sản ở một nước khác
(nước thu hút đầu tư) cùng với quyền quản lý tài sản đó.”; Theo Quỹ tiền tệ quốc tế
(IMF): “Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là một hoạt động đầu tư được thực hiện nhằm
đạt được những lợi ích lâu dài trong một doanh nghiệp hoạt động trên lãnh thổ của một
2 Khoản 5 Điều 3 Luật đầu tư 2014 .
3 Khoản 1 Điều 3 Nghị Định 83/2015/NĐ-CP ngày 25 tháng 09 năm 2015 của Chính Phủ quy định về
đầu tư ra nước ngoài.
4 Thạc sĩ Nguyễn Hồng Chi và Thạc sĩ Võ Hồng Lĩnh, Những vấn đề cần biết về Luật đầu tư năm
2014, Nhà xuất bản Phương Đông, trang 229.
5 Thạc sĩ Nguyễn Hồng Chi và Thạc sĩ Võ Hồng Lĩnh, Những vấn đề cần biết về Luật đầu tư năm
2014, Nhà xuất bản Phương Đông, trang 230.


Pháp luật về đầu tư ra nước ngoài theo pháp luật Việt Nam

nền kinh tế khác nền kinh tế nước chủ đầu tư, mục đích của chủ đầu tư là giành quyền
quản lý thực sự của doanh nghiệp.”6
Đầu tư gián tiếp ra nước ngoài là hoạt động đầu tư ra nước ngoài dưới hình thức
mua, bán chứng khoán, các giấy tờ có giá khác hoặc đầu tư thông qua các quỹ đầu tư
chứng khoán, các định chế tài chính trung gian khác nước ngoài.7
Theo tác giả, hiểu cách đơn giản hơn là hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài là hoạt động đầu tư kinh doanh có sự tham gia trực tiếp của nhà đầu tư vào việc
điều hành, quản lý dự án đầu tư; hoạt động đầu tư gián tiếp ra nước ngoài là hoạt
động đầu tư kinh doanh trong đó nhà đầu tư không trực tiếp tham gia vào việc quản lý
và điều hành dự án đầu tư.

1.1.1.2. Đặc điểm về đầu tư ra nước ngoài
Đầu tư ra nước ngoài mang đặc điểm của hoạt động đầu tư nói chung như:
Thứ nhất, về nguồn vốn: Vốn có thể bằng tiền, bằng các loại tài sản khác như
máy móc thiết bị, nhà xưởng, công trình xây dựng khác, giá trị quyền xã hội công
nghiệp, bí quyết kỹ thuật, quy trình công khai, dịch vụ kĩ thuật, giá trị quyền sử dụng
đất, mặt nước, mặt biển, các nguồn tài nguyên khác. Vốn có thể là nguồn vốn nhà
nước, vốn tư nhân, vốn góp, vốn cổ phần, vốn dài hạn, trung hạn hoặc ngắn hạn.
Thứ hai, lợi ích do dự án mang lại: Lợi ích tài chính (biểu hiện qua lợi nhuận)
và lợi ích kinh tế xã hội (biểu hiện qua các chỉ tiêu kinh tế xã hội). Lợi ích kinh tế xã
hội thường được gọi tắt là lợi ích kinh tế. Lợi ích tài chính ảnh hưởng trực tiếp đến
quyền lợi của chủ đầu tư, còn lợi ích kinh tế ảnh hưởng đến quyền lợi của cộng đồng.
Thứ ba, tính rủi ro: Bất kì hoạt động nào cũng có tính rủi ro, hoạt động đầu tư
cũng không thể tránh khỏi. Rủi ro kinh doanh hiểu đơn giản là một công ty có kết quả
kinh doanh thực tế trái với dự kiến. Rủi ro trong kinh doanh có thể làm cho công ty
không đạt được mức lợi nhuận như các nhà đầu tư yêu cầu. Có nhiều loại rủi ro trong
kinh doanh do nhiều yếu tố gây ra như doanh thu, chi phí, mức độ cạnh tranh,.. Rủi ro
chính trị như tình hình chính trị một quốc gia sẽ ảnh hưởng đến thị trường và các nhân
tố như hệ thống luật, quy định, thuế, tính ổn định,..đều góp phần vào rủi ro chính trị,
mối quan hệ chính trị của các quốc gia ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động đầu tư ra nước
ngoài (chính sách mở cửa thu hút vốn đầu tư, mua bán hàng hoá,..). Bên cạnh đó còn
rất nhiều những rủi ro như: Rủi ro lạm phát, rủi ro về thị trường, rủi ro về lãi suất, rủi
ro tái đầu tư, rủi ro tín dụng,…
6 />7 Khoản 1 Điều 3 Nghị Định 135/2015/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Chính Phủ quy định
về đầu tư gián tiếp ra nước ngoài.


Pháp luật về đầu tư ra nước ngoài theo pháp luật Việt Nam

Ngoài mang những đặc điểm chung của hoạt động đầu tư, đầu tư ra nước ngoài
còn mang những đặc điểm như: Chủ sở hữu đầu tư là người/tổ chức nước ngoài hoặc

công ty đa quốc gia; Các yếu tố đầu tư có sự di chuyển ra khỏi biên giới.
Bên cạnh những đặc điểm chung nêu trên, dựa vào hai hình thức đầu tư ra nước
ngoài là đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp, cụ thể còn có những đặc điểm sau:
Đặc điểm về hình thức đầu tư có sự tham gia trực tiếp quản lý, điều hành dự
án (Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, gọi tắt là FDI)
Thu nhập mà chủ đầu tư thu được phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của doanh
nghiệp mà họ bỏ vốn đầu tư, mang tính chất thu nhập kinh doanh chứ không phải lợi
tức.
Nhà đầu tư nước ngoài là chủ sở hữu hoàn toàn 100% vốn đầu tư hoặc cùng sở
hữu vốn đầu tư với số tỷ lệ phần trăm nhất định đủ mức tham gia hoạt động quản lý
trực tiếp của doanh nghiệp (tuỳ theo pháp luật của nước tiếp nhận đầu tư). Đối với
pháp luật nước ta để trực tiếp tham gia vào hoạt động quản lý, điều hành dự án đầu tư
thì chủ đầu tư phải chiếm trên 51% trên tổng số vốn điều lệ.
Chủ đầu tư tự quyết định đầu tư, quyết định sản xuất kinh doanh và tự chịu
trách nhiệm về lỗ lãi. Nhà đầu tư được quyền chọn lựa lĩnh vực đầu tư, hình thức đầu
tư, thị trường đầu tư, quy mô đầu tư. Tuy nhiên không được đầu tư vào các lĩnh vực
trái với quy định pháp luật của nước ta và cả nước tiếp nhận đầu tư.
FDI là hình thức mang tính khả thi và hiệu quả kinh tế cao, không để lại gánh
nặng nợ nần cho nước tiếp nhận đầu tư.
FDI gắn liền với chuyển giao công nghệ cho các nước tiếp nhận đầu tư. Thông
qua hoạt động FDI, nước chủ nhà có thể tiếp nhận được công nghệ, kĩ thuật tiên tiến,
học hỏi kinh nghiệm quản lí. Đồng thời, qua sự tiếp nhận đó các nhà đầu tư cũng thấy
được những hạn chế và thiếu sót của mình.
Đặc điểm về hình thức đầu tư không có sự tham gia trực tiếp quản lý, điều
hành dự án (Đầu tư gián tiếp ra nước ngoài, gọi tắt là FPI)
Nhà đầu tư không trực tiếp tham gia vào hoạt động điều hành, quản lý dự án
đầu tư. Hình thức này chủ yếu được thực hiện bằng cách nhà đầu tư mua lại một số
lượng cổ phần nhất định hoặc chứng khoán của các công ty nước ngoài, qua đó hưởng
cổ tức.
FPI mang tính chất bất ổn định. Thông qua việc mua, bán chứng khoán diễn ra

đơn giản hơn nhiều so với việc huỷ một dự án đầu tư trong đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài. Do đó, tốc dộ luân chuyển vốn của FPI cao hơn nhiều so với FDI.


Pháp luật về đầu tư ra nước ngoài theo pháp luật Việt Nam

FPI không có sự chuyển giao công nghệ, không tiếp cận được những khoa học
kỹ thuật tiên tiến hay những kinh nghiệm quản lý của nước đầu tư, nhưng bù lại hình
thức FPI có nguồn vốn khá nhàn rỗi, và hơn nữa là doanh nghiệp tiếp nhận đầu tư theo
hình thức FPI sẽ chia sẻ rủi ro kinh doanh với nhà đầu tư.
1.2. Vai trò của đầu tư ra nước ngoài
Thứ nhất, đối vối quốc gia:
Giúp cũng cố vai trò chính trị và vị thế kinh tế của Việt Nam trong khu vực và
trên thế giới. Giúp nền kinh tế Việt Nam thâm nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới,
thúc đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam.
Đầu tư ra nước ngoài mang về cho đất nước một lượng ngoại tệ đáng kể góp
phần vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Thông qua hoạt động đầu tư ra
nước ngoài, Việt Nam có thêm nguồn nguyên liệu, nhiên liệu… phục vụ cho sự phát
triển kinh tế trong nước. Đầu tư ra nước ngoài góp phần tạo một đội ngũ thương nhân
năng động, có kinh nghiệm kinh doanh quốc tế, góp phần làm tăng năng lực quốc gia.
Đầu tư ra nước ngoài tạo tiền đề cho hoạt động kinh tế đối ngoại của Việt Nam
đa dạng và phong phú, hoạt động ngoại giao đi vào chiều sâu. Đầu tư ra nước ngoài
thành công sẽ tác động ngược lại nền kinh tế trong nước theo hướng thúc đẩy công
cuộc cải tổ nền kinh tế: Về thể chế chính sách, về thuế, về thủ tục hành chính, về hệ
thống thông tin đối ngoại, về chính sách điều hành vĩ mô. Đầu tư ra nước ngoài góp
phần thúc đẩy hoạt động thương mại quốc tế của Việt Nam theo hướng ổn định và có
hiệu quả hơn vì chính cơ sở sản xuất và dịch vụ ở nước ngoài là điểm đến của hàng
hóa, thiết bị, bí quyết công nghệ (Y khoa, chế biến thực phẩm…), nhân công của Việt
Nam.
Thứ hai, đối với doanh nghiệp Việt Nam:

Đầu tư ra nước ngoài giúp các doanh nghiệp thâm nhập sâu vào thị trường thế
giới, tìm kiếm các cơ hội đầu tư tốt hơn, nhờ đó mà nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Bên cạnh đó, đầu tư ra nước ngoài giúp nhà đầu tư Việt Nam tận dụng được chi phí
sản xuất thấp của nước tiếp nhận đầu tư (giá nhân công, chi phí khai thác nguyên vật
liệu thấp…) từ đó sản phẩm tạo ra sẽ có giá thành thấp hơn so với giá trong nước của
sản phẩm cùng loại, góp phần làm giảm bớt chi phí vận chuyển, tăng cường lợi nhuận
thu được, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Đồng thời, giúp các nhà đầu tư xây
dựng được thị trường cung cấp nguyên liệu vật liệu ổn định với giá rẻ.
Đầu tư ra nước ngoài giúp các doanh nghiệp tăng nội lực kinh doanh: tích lũy
kinh nghiệm trên thị trường quốc tế; học hỏi tiếp thu công nghệ và bí quyết công nghệ;


Pháp luật về đầu tư ra nước ngoài theo pháp luật Việt Nam

sử dụng đội ngũ quản lý và khoa học kĩ thuật bản xứ… và áp dụng những thành công
ở nước ngoài vào hoạt động kinh doanh của công ty mẹ trong nước.
Đầu tư ra nước ngoài tạo ra khả năng cho doanh nghiệp thực hiện “chuyển giá”
để giảm thiểu mức thuế đóng góp cho toàn bộ hệ thống công ty đóng ở các nước khác
nhau. Nhờ đó mà tối đa hóa lợi nhuận thu được. Hiện nay nhiều công ty Việt Nam mở
công ty con của mình tại Singapore để thực hiện mục tiêu “chuyển giá”, vì Singapore
có môi trường kinh doanh tốt với hệ thống thuế thấp. Mặt khác, đầu tư ra nước ngoài
giúp các nhà đầu tư tránh được hàng rào thuế quan và phi thế quan qua nước tiếp nhận
đầu tư.
Đầu tư ra nước ngoài giúp các công ty phát triển vốn vô hình của mình (thương
hiệu, công nghệ, bí quyết công nghệ), giúp các nhà đầu tư Việt Nam mở rộng thị
trường tiêu thụ sản phẩm.
Đầu tư ra nước ngoài giúp doanh nghiệp có điều kiện phân tán rủi ro kinh
doanh, điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong thế giới đầy biến động về kinh tế
- chính trị như hiện nay.8
1.3. Quá trình phát triển của pháp luật về đầu tư ra nước

ngoài
Điều lệ đầu tư năm 1977
Năm 1975 đất nước ta hoàn toàn độc lập và thống nhất và bắt đầu bước vào giai
đoạn củng cố và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Do chịu ảnh hưởng bởi sự tàn phá của
chiến tranh kéo dài nên nền kinh tế nước nhà vẫn ở trong tình trạng kém phát triển, sản
xuất nhỏ là phổ biến và mang nặng tính chất tự cấp tự túc. Trình độ trang bị kỹ thuật
trong sản xuất cũng như kết cấu hạ tầng, văn hoá-xã hội lạc hậu; năng suất lao động xã
hội rất thấp. Cơ cấu kinh tế vẫn mang đặc trưng một nước nông nghiệp lạc hậu, mất
cân đối nặng nề trên nhiều mặt, chưa tạo được tích luỹ trong nước và lệ thuộc nhiều
vào bên ngoài, chủ yếu là các nước XHCN, đặc biệt là Liên xô.
Trong bối cảnh đó, để thực hiện được nhiệm vụ và khôi phục và phát triển nền
kinh tế xã hội Đại hội Đảng lần thứ 4 năm 1976 khẳng định: “việc đẩy mạnh quan hệ
phân chia và hợp tác song phương trong lĩnh vực kinh tế và phát triển các quan hệ
kinh tế với các nước khác có một vai trò vô cùng quan trọng” (trích: Báo cáo chính trị
của Đại hội Đảng lần thứ 4 năm 1976)
Thực hiện đúng Chủ trương của Đảng ngày 18 tháng 4 năm 1977 Chính phủ đã
ban hành Nghị định 115/CP kèm theo Điều lệ đầu tư nước ngoài (sau đây gọi là Điều
8 Thạc sĩ Nguyễn Hồng Chi và Thạc sĩ Võ Hồng Lĩnh, Những vấn đề cần biết về Luật đầu tư năm
2014, Nhà xuất bản Phương Đông, trang 236.


Pháp luật về đầu tư ra nước ngoài theo pháp luật Việt Nam

lệ đầu tư năm 1977) nhằm khuyến khích và điều chỉnh hoạt động đầu tư nước ngoài ở
Việt Nam, đã thể hiện đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước. Văn bản này được
các nhà đầu tư thời đó đón nhận như một tín hiệu mở cửa hội nhập của Việt Nam.
Điều lệ đầu tư năm 1977 gồm 7 chương và 27 điều. Trong đó nêu lên các vấn
đề cơ bản của đầu tư như: hình thức đầu tư; quyền lợi và nghĩa vụ của bên nước ngoài;
thủ tục đầu tư; giải thể và thanh lý các xí nghiệp, công ty có vốn đầu tư của nước
ngoài; xử lý các vụ tranh chấp.

Do đây là điều lệ đầu tiên của Việt Nam quy định về vấn đề đầu tư nước ngoài
nên còn vô số những điều bất cập, điển hình như về vấn đề giải thể, xử lí tranh chấp
Điều lệ đầu tư 1977 chỉ đưa ra những nguyên lý chung mang tính khái quát, chưa quy
định cụ thể, ví dụ Điều 21 quy định: “Các xí nghiệp, công ty có vốn đầu tư của nước
ngoài, khi giải thể do hết thời hạn hợp đồng đầu tư hoặc do bất cứ lý do nào khác, đều
phải thanh lý theo luật pháp Việt Nam, hợp đồng đầu tư và điều lệ xí nghiệp.” tuy
nhiên trên thực tế lại không có văn bản pháp luật nào quy định cụ thể về việc giải
quyết thanh lý. Bên cạnh đó Điều lệ đầu tư 1977 còn thiếu các quy định cụ thể cho
việc thi hành Nghị định như các quy định về quản lý ngoại hối, đất đai, lao động, tài
nguyên... chưa tạo được một cơ sở pháp lý đầy đủ, có hiệu lực pháp lý cao và làm hấp
dẫn cho các nhà đầu tư nước ngoài, chưa tạo nên một môi trường pháp lý đồng bộ cho
hoạt động đầu tư.
Tuy Điều lệ đầu tư 1977 còn vô số những bất cập nhưng bên cạnh đó ta không
thể phủ nhận rằng Điều lệ này đã tạo tiền đề cho những ý tưởng thu hút đầu tư là cơ sở
cho việc phát triển từng bước pháp luật về đầu tư và cải cách luật pháp trong quan hệ
thu hút vốn đầu tư.
Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 1987
Bước qua những năm 80 nước ta lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế trầm
trọng do đã tiềm ẩn cuộc khủng hoảng thứ nhất từ những năm 70. Sự vận hành của cơ
chế tập trung, quan liêu, bao cấp đã cản trở sự phát triển của nền kinh tế nước ta, siêu
lạm phát xuất hiện và kéo dài, từ năm 1985 kéo dài đến 1988 với mức làm phát từ
500% đến 800%. Nguyên nhân chính dẫn đến siêu làm phát là do thâm hụt ngân sách
của các doanh nghiệp nhà nước. Nhiều xí nghiệp quốc doanh, hợp tác xã tiểu thủ công
nghiệp sản xuất cầm chừng, thậm chí đóng cửa hoặc giải thể, hàng chục vạn công nhân
rời bỏ dây chuyền sản xuất. Bên cạnh đó một số ngành có ưu thế như công nghiệp chế
biến, công nghiệp tiêu dùng, gia công lắp ráp... lại không được Nhà nước quan tâm
đúng mức, cơ sở kỹ thuật lạc hậu và tất cả đều ở trong tình trạng thiếu vốn trầm trọng.


Pháp luật về đầu tư ra nước ngoài theo pháp luật Việt Nam


Trong bối cảnh đó, tại Đại hội Đảng lần thứ IV tháng 12 năm 1986 đã đề ra chủ
trương và chính sách vô cùng đúng đắn, mở ra cuộc đổi mới toàn diện và đặc biệt là
lĩnh vực kinh tế, cụ thể là thông qua Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (sau đây gọi
là Luật đầu tư nước ngoài năm 1987) mục đích để mở rộng ngoại giao nhằm thu hút
vốn đầu tư vào Việt Nam để phát triển nền kinh tế nước nhà. Cụ thể phần mở đầu của
Luật này nêu rõ nguyên nhân ra đời như sau: “Để mở rộng kinh tế với nước ngoài,
phát triển kinh tế quốc dân, đẩy mạnh xuất khẩu trên cơ sở khai thác có hiệu quả tài
nguyên, lao động và các tiềm năng khác của đất nước”.
Dựa trên các vấn đề thực tiễn và nội dung cơ bản của Điều lệ đầu tư năm 1977,
Luật đầu tư nước ngoài năm 1987 mang cho mình những nội dung tương đối hấp dẫn,
đầy đủ, cấu trúc đơn giản và phù hợp với tập quán pháp luật Quốc tế,
Luật đầu tư nước ngoài năm 1987 gồm 6 chương với 42 điều. Trong đó bao
gồm những điều luật từ cơ bản đến cụ thể, sửa đổi và bổ sung những thiếu sót trong
Điều lệ đầu tư năm 1977.
Điều lệ đầu tư năm 1977 được xem là những chế định pháp lý đầu tiên về đầu
tư nước ngoài, còn Luật đầu tư nước ngoài năm 1987 là đạo luật đầu tiên về đầu tư
nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam. Luật đầu tư nước ngoài năm 1987 đã mở đường
cho sự thu hút vốn đầu tư nước ngoài, đánh dấu mốc quan trọng trong sự chuyển mình
về kinh tế trong giai đoạn khó khăn.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
1990
Tại kì họp thứ 7 Quốc hội khoá 8 ngày 30 tháng 6 năm 1990 đã thông qua Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (sau đây gọi là
Luật đầu tư nước ngoài sửa đổi năm 1990) theo đó đã sửa đổi 2 điều và bổ sung 15
điều, một vài sửa đổi, bổ sung như sau:
Về vấn đề tư nhân tham gia hợp tác với nước ngoài: Luật đầu tư nước ngoài
1987 quy định: “Các tư nhân Việt Nam có thể chung vốn với tổ chức kinh tế Việt Nam
để hợp tác kinh doanh với bên nước ngoài”; Luật đầu tư nước ngoài sửa đổi 1990 đã
cho phép các tổ chức kinh tế Việt Nam có tư cách pháp nhân thuộc các thành phần

kinh tế được hợp tác đầu tư nước ngoài. Đồng thời hạn chế các tổ chức kinh tế tư nhân
Việt Nam chỉ được hợp tác kinh doanh với tổ chức, cá nhân nước ngoài trong những
lĩnh vực và điều kiện do Hội đồng Bộ trưởng quy định.
Vấn đề về liên doanh nhiều bên: Đối với xí nghiệp liên doanh nhiều bên: Luật
đầu tư nước ngoài năm 1987 mới chỉ cho phép liên doanh hai bên, bao gồm bên nước
ngoài và bên Việt Nam. Ngoài hình thức liên doanh hai bên, Luật đầu tư nước ngoài


Pháp luật về đầu tư ra nước ngoài theo pháp luật Việt Nam

sửa đổi năm 1990 đã bổ sung hình thức liên doanh nhiều bên dẫn tới sửa đổi, bổ sung
một số khái niệm liên quan tại Khoản 4, Khoản 5 và Khoản 6 Điều 2, Khoản 10 Điều 2
và sửa đổi, bổ sung vấn đề liên quan đến Hội đồng quản trị tại ĐIều 12; đối với xí
nghiệp liên doanh mới: Luật đầu tư nước ngoài sửa đổi năm 1990 đã cho phép xí
nghiệp liên doanh được hợp tác với các tổ chức, cá nhân nước ngoài để thành lập xí
nghiệp liên doanh mới tại Việt Nam (Điều 6), đồng thời bổ sung vào khái niệm “Xí
nghiệp liên doanh” ngoài liên doanh thông thường còn có them liên doanh mới do xí
nghiệp liên doanh cũ hợp tác với tổ chức, cá nhân nước ngoài trên cơ sở hợp đồng liên
doanh (Khoản 10 Điều 2).
Với những sửa đổi, bổ sung của Luật đầu tư nước ngoài sửa đổi năm 1990 đã
làm cho môi trường đầu tư nước ngoài của Việt Nam trong những năm 1990 càng
thêm hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài. Đồng thời thể hiện chính sách mở cửa của
Việt Nam trên cơ sở tạo hành lang pháp lý ngày càng rõ ràng và hoàn thiện.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
năm 1992
Sau hai năm thực hiện Luật đầu tư nước ngoài sửa đổi năm 1990 số dự án đầu
tư vào Việt Nam đã lên đến 459 dự án với tổng số vốn đầu tư là 5.28 tỷ USD, con số
này ngầm chứng tỏ Luật sửa đổi này đã tác động tích cực đến các nhà đầu tư, làm cho
các nhà đầu tư yên tâm hơn khi đầu tư vào Việt Nam và thu hút nhiều nhà đầu tư khác
đến với thị trường nước ta. Nhận thấy những lợi ích mà Luật đầu tư nước ngoài sửa

đổi năm 1990 mang lại bên cạnh đó còn đòi hỏi phải hoàn thiện để trở thành một hành
lang pháp lý hoàn chỉnh hơn. Theo đó ngày 23 tháng 12 năm 1992 Quốc hội đã thông
qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đầu tư nước ngoài (sau đây gọi là Luật
đầu tư nước ngoài sửa đổi năm 1992).
Luật đầu tư nước ngoài sửa đổi năm 1992 gồm 2 Điều trong đó đã sửa đổi, bổ
sung 9 Điều, bổ sung thêm 3 Điều mới, tập trung chủ yếu vào 9 vấn đề sau: Doanh
nghiệp tư nhân được tham gia hợp tác với nước ngoài; việc góp vốn của bên Việt Nam
(bằng các nguồn tài nguyên; quyền sử dụng đất, mặt nước, mặt biển; tiền nước ngoài);
tăng dần tỷ trọng vốn góp bên Việt Nam; thời hạn hoạt động của xí nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài; mở tài khoản tại ngân hàng nước ngoài; về khu chế xuất; “Xây dựng –
Kinh doanh – Chuyển giao” (BOT); bảo đảm quyền lợi của nhà đầu tư khi có thay đổi
pháp luật; cho xí nghiệp 100% vốn nước ngoài được hưởng các khuyến khích về thuế
như xí nghiệp liên doanh
Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996


Pháp luật về đầu tư ra nước ngoài theo pháp luật Việt Nam

Ngày 12 tháng 11 năm 1996 tại Quốc hội khoá 9 kỳ họp thứ 10 đã thông qua
Luật đầu tư nước ngoài mới (sau đây gọi là Luật đầu tư nước ngoài 1996) được soạn
thảo trên cơ sở gộp các Luật đầu tư nước ngoài năm 1987, Luật đầu tư nước ngoài sửa
đổi năm 1990, Luật đầu tư nước ngoài sửa đổi năm 1992. Luật đầu tư nước ngoài 1996
gồm 6 chương và 68 điều, trong đó có 28 điều được sửa đổi, bổ sung và bổ sung thêm
22 điều mới. Luật đầu tư nước ngoài 1996 đã tạo dựng được một khung pháp lý về đầu
tư nước ngoài hoàn chỉnh hơn, giúp tăng cường sự quản lý Nhà nước, hạn chế những
sơ hở.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
năm 2000
Ngày 9 tháng 6 năm 2000, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (sau đây gọi là Luật đầu tư nước ngoài

sửa đổi năm 2000), đã bổ sung thêm 2 điều mới và sửa đổi, bổ sung 20 điều của Luật
đầu tư nước ngoài năm 1996.
Luật đầu tư nước ngoài sửa đổi năm 2000 tập trung vào 3 nhóm vấn đề:
Thứ nhất, tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc và giảm thiểu rủi ro
trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
Thứ hai, mở rộng quyền tự chủ trong tổ chức quản lý, kinh doanh của doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; xoá bỏ sự can thiệp không cần thiết của cơ quan Nhà
nước vào hoạt động bình thường của doanh nghiệp
Thứ ba, bổ sung một số ưu đãi về thuế đối với dự án đầu tư nước ngoài nhằm
tăng cường tính hấp dẫn và cạnh tranh của môi trường đầu tư Việt Nam.
Với những sửa đổi, bổ sung tập trung vào ba vấn đề trên đã mang đến cho hoạt
động đầu tư ra nước ngoài ngày một ổn định và thông thoáng hơn so với nhiều quy
định đã có trước đây. Bên cạnh đó vẫn còn những hạn chế xoay quanh vấn đề thủ tục
hành chính còn rườm rà tuy đã cải cách nhiều.
Luật đầu tư năm 2005
Năm 2005 Quốc hội đã ban hành Luật đầu tư và có hiệu lực từ ngày 1 tháng 7
năm 2006. Luật đầu tư 2005 thay thế cho Luật đầu tư nước ngoài và Luật khuyến
khích đầu tư trương nước. Tiếp đó, Chính phủ đã ban hành Nghị định số
108/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 9 năm 2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành một số điều của Luật đầu tư.
Luật đầu tư 2005 gồm có 10 chương, trong đó có 89 điều. Một số ưu điểm nổi
trội của Luật đầu tư 2005 như: Mở rộng quyền tự chủ trong hoạt động đầu tư; cải cách


Pháp luật về đầu tư ra nước ngoài theo pháp luật Việt Nam

đáng kể về thủ tục hành chính đối với đầu tư; mở rộng loại hình doanh nghiệp cho các
nhà đầu tư nước ngoài; bổ sung, mở rộng các hình thức đầu tư trực tiếp và gián tiếp
như sáp nhập và mua lại doanh nghiệp (M&A), hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC),
góp vốn, mua cổ phần; những khuyến khích, ưu đãi đầu tư được được áp dụng thống

nhất cho nhà đầu tư nước ngoài và nhà đầu tư trong nước.
Ở giai đoạn này có Nghị định 78/2006/NĐ-CP ngày 09 tháng 8 năm 2006 của
Chính phủ quy định về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
Đối với hoạt động đầu tư ra nước ngoài được quy định tại chương VIII của Luật
này. Có thể nói Luật đầu tư 2005 là một bước tiến quan trọng trong công cuộc đổi mới
và hoàn thiện hệ thống pháp luật nước ta. Luật đầu tư 2005 là một hệ thống luật chung
áp dụng cho cả nhà đầu tư nước ngoài và nhà đầu tư trong nước
Luật đầu tư 2014
Sau hơn 8 năm thi hành Luật đầu tư 2005 bên cạnh những mặt tích cực mà Luật
này đem lại còn có những hạn chế cần phải nghiên cứu sửa đổi. Do đó, ngày 26 tháng
11 năm 2014, tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khoá XIII đã thông qua Luật đầu tư 2014 thay
thế cho Luật đầu tư 2005.
Luật đầu tư 2014 có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2015 cho đến nay, Luật
đầu tư 2014 gồm 7 chương, trong đó có 76 điều. Trong đó đối với lĩnh vực đầu tư ra
nước ngoài được quy định cụ thể ở chương V gồm có từ điều 51 đến hết điều 66.
Tính từ Luật đầu tư 2005 thì các quy định về đầu tư nói chung đều được điều
chỉnh dưới một hệ thống luật chung và có những văn bản hướng dẫn cụ thể kèm theo
khác với các luật đầu tư nước ngoài điều chỉnh những lĩnh vực riêng lẻ như trước đây.
Điều này cho thấy hệ thống pháp luật nước ta ngày càng thống nhất và dần tạo được
hành lang pháp lý vững chắc.
Một điểm nổi bật ở lĩnh vực đầu tư ra nước ngoài của Luật Đầu tư 2014 so với
Luật Đầu tư 2005 là Luật Đầu tư 2014 đã không còn khái niệm đầu tư trực tiếp và đầu
tư gián tiếp ra nước ngoài. Tuy nhiên, trên thực tế đầu tư ra nước ngoài vẫn thông qua
hai hình thức đó là trực tiếp và gián tiếp. Do đó Chính phủ đã ban hành kèm theo hai
Nghị định là Nghị định 83/2015/NĐ-CP ngày 25 tháng 09 năm 2015 của Chính phủ
quy định về đầu tư ra nước ngoài; Nghị định 135/2015/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm
2015 của Chính phủ quy định về đầu tư gián tiếp ra nước ngoài.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Trên cơ sở phân tích Chương 1 Những lý luận chung về đầu tư ra nước ngoài,
tác giả đã khái quát các khái niệm từ nhiều nguồn khác nhau về đầu tư ra nước ngoài,



Pháp luật về đầu tư ra nước ngoài theo pháp luật Việt Nam

thông qua đó tự nêu lên khái niệm của bản thân về lĩnh vực này. Tác giả đã nêu và
phân tích từng đặc điểm chung và đặc điểm riêng lẻ của hoạt động đầu tư ra nước
ngoài cũng như phân tích từng hình thức đầu tư của hoạt động này. Tác giả đã khái
quát những vai trò của đầu tư ra nước ngoài đối với Việt Nam nói chung và doanh
nghiệp Việt Nam nói riêng. Bên cạnh đó, tác giả đã tổng hợp, phân tích quá trình hình
thành của một số đạo luật về đầu tư ra nước ngoài từ những giai đoạn đầu sau khi
thống nhất đất nước cũng như nêu ra các nguồn của pháp luật về đầu tư ra nước ngoài
theo pháp luật Việt Nam.

CHƯƠNG 2.
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ RA NƯỚC
NGOÀI CỦA VIỆT NAM
2.1. Quy định của pháp luật về đầu tư ra nước ngoài của Việt
Nam
2.1.1. Về nguyên tắc thực hiện hoạt động đầu tư ra nước ngoài
Thứ nhất, nhà đầu tư thực hiện hoạt động đầu tư ra nước ngoài nhằm khai thác,
phát triển, mở rộng thị trường; Tăng khả năng xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ, thu ngoại


Pháp luật về đầu tư ra nước ngoài theo pháp luật Việt Nam

tệ; tiếp cận công nghệ hiện đại, nâng cao năng lực quản lý và bổ sung nguồn lực phát
triển kinh tế - xã hội đất nước.
Thứ hai, nhà đầu tư thực hiện hoạt động đầu tư ở nước ngoài phải tuân thủ quy
định của Luật này, quy định khác của pháp luật có liên quan, pháp luật của quốc gia,
vùng lãnh thổ tiếp nhận đầu tư (sau đây gọi là nước tiếp nhận đầu tư) và điều ước quốc

tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; tự chịu trách nhiệm về hiệu
quả hoạt động đầu tư nước ngoài.”9. Nhà đầu tư được đầu tư ra nước ngoài theo quy
định của pháp luật Việt Nam và của nước tiếp nhận đầu tư. Trước tiên, đầu tư ra nước
ngoài phải là lĩnh vực mà nước ta không cấm và pháp luật của nước tiếp nhận đầu tư
cũng không cấm. Cụ thể ở Phụ lục 4 Luật Đầu tư 2014 đã liệt kê 267 ngành nghề đầu
tư kinh doanh có điều kiện. Theo đó, tuỳ thuộc vào pháp luật của nước tiếp nhận đầu
tư mà nhà đầu tư có thể chọn trong 267 ngành nghề đã được liệt kê.
Thứ ba, nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư ra nước ngoài
và bảo vệ lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư Việt Nam ở nước ngoài theo điều ước quốc
tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Trong đó có các Điều ước,
Hiệp định lớn về kinh tế mà nước ta là thành viên như: Tổ chức Thương mại thế giới
(WTO); Hiệp hội Các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN); Hiệp định Thương mại tự do
(VCUFTA); Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP)… và rất nhiều các hiệp
định đa phương, song phương và các điều ước quốc tế khác. Nhà nước còn có rất
nhiều những chủ trương cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư khi đầu tư
ra nước ngoài như tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận các nguồn vốn tín
dụng, hỗ trợ bão lãnh vay vốn… Bên cạnh đó, Nhà nước Việt Nam không cấp phép
đầu tư ra nước ngoài đối với những dự án gây thương hại đến bí mật, an ninh quốc gia,
quốc phòng, lịch sử, văn hoá, thuần phong mỹ tục của Việt Nam.

2.1.2. Về hình thức đầu tư ra nước ngoài
Nhà đầu tư thực hiện hoạt động đầu tư ra nước ngoài theo các hình thức sau
đây: Thành lập tổ chức kinh tế theo quy định của pháp luật nước tiếp nhận đầu tư; thực
hiện hợp đồng BCC ở nước ngoài; mua lại một phần hoặc toàn bộ vốn điều lệ của tổ
chức kinh tế ở nước ngoài để tham gia quản lý và thực hiện hoạt động đầu tư kinh
doanh tại nước ngoài; mua, bán chứng khoán, giấy tờ có giá khác hoặc đầu tư thông
9 Điều 51 Luật Đầu tư 2014


Pháp luật về đầu tư ra nước ngoài theo pháp luật Việt Nam


qua các quỹ đầu tư chứng khoán, các định chế tài chính trung gian khác ở nước ngoài;
các hình thức đầu tư khác theo quy định của pháp luật nước tiếp nhận đầu tư.” 10
Theo đó, các hình thức thuộc Điểm a,b,c Khoản 1 của Điều 52 Luật Đầu tư
2014 là hình thức đầu tư trực tiếp; Điểm d Khoản 1 của điều này là hình thức đầu tư
gián tiếp. Và còn một số hình thức đầu tư ra nước ngoài khác, tuỳ thuộc vào pháp luật
của nước tiếp nhận đầu tư. Cụ thể như sau:
Hình thức thành lập tổ chức kinh tế theo quy định của nước tiếp nhận đầu

Tuỳ thuộc vào pháp luật nước tiếp nhận đầu tư mà nhà đầu tư có thể thành lập
tổ chức kinh tế phù hợp và đúng quy định. Đối với pháp luật nước ta hình thức này so
với thực tế có hai dạng để áp dụng cho các nhà đầu tư nước ngoài đẩu tư sang, thứ
nhất là thành lập tổ chức kinh tế có 100% vốn của nhà đầu tư nước ngoài, thứ hai là
thành lập doanh nghiệp liên doanh giữa các nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước
ngoài.
Đối với hình thức thành lập tổ chức kinh tế có 100% vốn của nhà đầu tư nước
ngoài có những đặc điểm như: hoàn toàn thuộc quyền sở hữu của nhà đầu tư nước
ngoài, do nhà đầu tư nước ngoài thành lập, tự quản lý và chịu trách nhiệm về kinh
doanh, chịu sự quản lý nhà nước của nước sở tại. Các công ty xuyên quốc gia thường
đầu tư theo hình thức này và họ thường thành lập một công ty con của công ty mẹ
xuyên quốc gia. Đối với hình thức thành lập doanh nghiệp liên doanh giữa các nhà đầu
tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài. Hình thức này thường được thành lập chủ yếu
dưới dạng công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, mỗi bên liên doanh chịu
trách nhiệm tương ứng với phần vốn góp vào vốn pháp định của doanh nghiệp. Cụ thể
được quy định: Nhà đầu tư được thành lập tổ chức kinh tế theo quy định của pháp luật.
Trước khi thành lập tổ chức kinh tế, nhà đầu tư nước ngoài phải có dự án đầu tư, thực
hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư theo quy định tại Điều 37 của Luật
Đầu tư 2014 và phải đáp ứng các điều kiện: Tỷ lệ sở hữu vốn điều lệ; hình thức đầu tư,
phạm vi hoạt động, đối tác Việt Nam tham gia thực hiện hoạt động đầu tư và điều kiện
khác theo quy định của điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là

thành viên11.
Về phần tỉ lệ góp vốn Luật Đầu tư 2014 cũng quy định rõ là Nhà đầu tư nước
ngoài được sở hữu vốn điều lệ không hạn chế trong tổ chức kinh tế, trừ các trường
hợp: Tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài tại công ty niêm yết, công ty đại chúng,
10 Khoản 1 Điều 52 Luật Đầu tư 2014
11 Khoản 1 Điều 22 Luật Đầu tư 2014


Pháp luật về đầu tư ra nước ngoài theo pháp luật Việt Nam

tổ chức kinh doanh chứng khoán và các quỹ đầu tư chứng khoán theo quy định của
pháp luật về chứng khoán; tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài trong các doanh
nghiệp nhà nước cổ phần hóa hoặc chuyển đổi sở hữu theo hình thức khác thực hiện
theo quy định của pháp luật về cổ phần hóa và chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước; tỷ
lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài không thuộc quy định tại điểm a và điểm b khoản
này thực hiện theo quy định khác của pháp luật có liên quan và điều ước quốc tế mà
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.12
Hình Thức thực hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh (Business Co-operation
Contract viết tắt là BCC)
Khoản 9 Điều 3 Luật đầu tư 2014 quy định hợp đồng hợp tác kinh doanh

(BCC) là hợp đồng được ký giữa các nhà đầu tư nhằm hợp tác kinh doanh phân
chia lợi nhuận, phân chia sản phẩm mà không thành lập tổ chức kinh tế.
Chủ thể của hợp đồng BCC là các nhà đầu tư bao gồm nhà đầu tư trong nước và
nhà đầu tư nước ngoài.
Điểm nổi bật của Hợp đồng BCC này là có thể các nhà đầu tư tiết kiệm được
nhiều thời gian, công sức và tiền bạc do không phải thành lập tổ chức kinh tế. Dưới
hình thức đầu tư này, các bên có thể hỗ trợ lẫn nhau những thiếu sót, yếu điểm của
nhau trong quá trình sản xuất kinh doanh. Một điểm nổi bật nữa là trong quá trình thực
hiện hợp đồng, nhà đầu tư nhân danh tư cách pháp lý độc lập của mình để chủ động

thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ. Tư cách pháp lý độc lập giúp các bên không
phụ thuộc vào nhau, tạo sự linh hoạt chủ động trong hoạt động kinh doanh trên cơ sở
bình đẳng, không ràng buộc.
Tuy nhiên dưới hình thức của hợp đồng này còn có những nhược điểm như:
Đầu tư theo hình thức hợp đồng BCC thì nhà đầu tư không phải thành lập một cuộc tổ
chức kinh tế mới do không thành lập tổ chức kinh tế chung còn đồng nghĩa với việc
các bên không có một con dấu chung, trong thực tế ở Việt Nam thì việc sử dụng con
dấu trong nhiều trường hợp là bắt buộc. Do đó, hai bên phải tiến hành thỏa thuận sử
dụng con dấu của một bên để phục vụ hoạt động đầu tư kinh doanh, qua đó làm tăng
trách nhiệm của một bên so với bên còn lại; nhược điểm nữa là hình thức đầu tư theo
hợp đồng BCC dễ tiến hành, thủ tục đầu tư không quá phức tạp, do vậy chỉ phù hợp
với những dự án cần triển khai nhanh và có thời gian ngắn.
Hình Thức mua lại một phần hoặc toàn bộ vốn điều lệ của tổ chức kinh tế ở
nước ngoài.
12 Khoản 3 Điều 22 Luật Đầu tư 2014


Pháp luật về đầu tư ra nước ngoài theo pháp luật Việt Nam

Hình thức này là hình thức truyền thống và khá phổ biến của FDI. Với hình
thức này, các nhà đầu tư, cùng với việc chú trọng khai thác những lợi thế của địa điểm
đầu tư mới, đã nỗ lực tìm cách áp dụng các tiến bộ khoa học công nghệ, kinh nghiệm
quản lý trong hoạt động kinh doanh để đạt hiệu quả cao nhất.
Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước
ngoài nhưng phải chịu sự kiểm soát của pháp luật nước sở tại (nước nhận đầu tư). Là
một pháp nhân kinh tế của nước sở tại, doanh nghiệp phải được đầu tư, thành lập và
chịu sự quản lý nhà nước của nước sở tại. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là
doanh nghiệp thuộc quyền sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài tại nước chủ nhà, nhà
đầu tư phải tự quản lý, tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh.
Hình thức mua lại 100% vốn điều lệ của công ty nước ngoài có ưu điểm là nước

chủ nhà không cần bỏ vốn, tránh được những rủi ro trong kinh doanh, thu ngay được
tiền thuê đất, thuế, giải quyết việc làm cho người lao động. Mặt khác, do độc lập về
quyền sở hữu nên các nhà đầu tư nước ngoài chủ động đầu tư và để cạnh tranh, họ
thường đầu tư công nghệ mới, phương tiện kỹ thuật tiên tiến nhằm đạt hiệu quả kinh
doanh cao, góp phần nâng cao trình độ tay nghề người lao động. Tuy nhiên, nó có
nhược điểm là nước chủ nhà khó tiếp nhận được kinh nghiệm quản lý và công nghệ,
khó kiểm soát được đối tác đầu tư nước ngoài và không có lợi nhuận.
Hình thức trực tiếp mua, bán chứng khoán, các giấy tờ có giá khác ở nước
ngoài; đầu tư thông qua việc mua, bán chứng chỉ quỹ đầu tư chứng khoán ở nước
ngoài, ủy thác đầu tư cho các định chế tài chính trung gian khác ở nước ngoài.
Chủ thể được phép đầu tư theo hình thức này gồm: Tổ chức kinh tế là tổ chức
được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật Việt Nam (gồm doanh
nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã và các tổ chức thực hiện hoạt động đầu tư kinh
doanh13) đáp ứng điều kiện kinh doanh có lãi trong 05 năm liên tục; cá nhân có quốc
tịch Việt Nam thuộc đối tượng được tham gia chương trình thưởng cổ phiếu phát hành
ở nước ngoài; tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài không được thực hiện đầu tư
gián tiếp ra nước ngoài (nếu thuộc các trường hợp: có nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ
từ 51% vốn điều lệ trở lên hoặc có đa số thành viên hợp danh là cá nhân nước ngoài
đối với tổ chức kinh tế là công ty hợp danh; có tổ chức kinh tế quy định tại điểm a
khoản này nắm giữ từ 51% vốn điều lệ trở lên; có nhà đầu tư nước ngoài và tổ chức
kinh tế quy định tại điểm a khoản này nắm giữ từ 51% vốn điều lệ trở lên 14)15.
13 Khoản 16 Điều 3 Luật Đầu tư 2014.
14 Khoản 1 Điều 23 Luật Đầu tư 2014.
15 Khoản 1 và Khoản 4 Điều 2 Nghị Định 135/2015/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Chính
Phủ quy định về đầu tư gián tiếp ra nước ngoài.


Pháp luật về đầu tư ra nước ngoài theo pháp luật Việt Nam

Về phương thức và hình thức đầu tư của hoạt động đầu tư gián tiếp ra nước

ngoài đối với cá nhân là công dân Việt Nam chỉ được thực hiện đầu tư gián tiếp ra
nước ngoài dưới hình thức tham gia chương trình thưởng cổ phiếu phát hành ở nước
ngoài; đối với tổ chức kinh tế có hai phương thức lựa chọn là tự doanh đầu tư gián tiếp
ra nước ngoài hoặc uỷ thác đầu tư gián tiếp ra nước ngoài; đối với tổ chức tự doanh và
tổ chức nhận uỷ thác được đầu tư gián tiếp ra nước ngoài dưới hai hình thức là trực
tiếp mua, bán chứng khoán, các giấy tờ có giá khác ở nước ngoài và hình thức đầu tư
thông qua việc mua, bán chứng chỉ quỹ đầu tư chứng khoán ở nước ngoài, uỷ thác cho
các định chế tài chính trung gian khác ở nước ngoài 16. Theo đó các tổ chức được phép
tự doanh đầu tư gián tiếp ra nước ngoài bao gồm: công ty chứng khoán, công ty quản
lý quỹ; quỹ đầu tư chứng khoán thông qua công ty quản lý quỹ, công ty đầu tư chứng
khoán; doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm; ngân hàng thương mại; công ty tài chính
tổng hợp; tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước17.
Để thực hiện đầu tư theo hình thức này phải tuân thủ theo quy
định pháp luật của nước ta, tuy nhiên ở bất kì hình thức đầu tư nào
có liên quan đến hoạt động đầu tư ra nước ngoài cũng đều phải tuân
thủ nghiêm ngặt các quy định pháp luật của nước tiếp nhận đầu tư.
2.1.3. Về nguồn vốn đầu tư ra nước ngoài
Vốn đầu tư ra nước ngoài thể hiện dưới các hình thức sau: Ngoại tệ trên tài
khoản tại tổ chức tín dụng được phép hoặc mua tại tổ chức tín dụng được phép hoặc
ngoại hối từ nguồn vốn hợp pháp khác theo quy định của pháp luật; Đồng Việt Nam
phù hợp với pháp luật về quản lý ngoại hối của Việt Nam; Máy móc, thiết bị; vật tư,
nguyên liệu, nhiên liệu, hàng hóa thành phẩm, hàng hóa bán thành phẩm; Giá trị quyền
sở hữu công nghiệp, bí quyết kỹ thuật, quy trình công nghệ, dịch vụ kỹ thuật, quyền sở
hữu trí tuệ, thương hiệu; Các tài sản hợp pháp khác18.
Theo đó về nguồn vốn bằng ngoại tệ khi đầu tư gián tiếp ra nước ngoài được
quy định cụ thể như sau:
Đối với tổ chức tự doanh (trừ ngân hàng thương mại và công ty tài chính tổng
hợp) được sử dụng ngoại tệ tự có trên tài khoản và ngoại tệ mua từ tổ chức tín dụng,
chi nhánh ngân hàng nước ngoài được phép cung ứng dịch vụ ngoại hối tại Việt Nam
16 Điều 7 Nghị Định 135/2015/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Chính Phủ quy định về đầu tư

gián tiếp ra nước ngoài.
17 Điều 13 Nghị Định 135/2015/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Chính Phủ quy định về đầu
tư gián tiếp ra nước ngoài.
18 Điều 4 Nghị Định 83/2015/NĐ-CP ngày 25 tháng 09 năm 2015 của Chính Phủ quy định về đầu tư
ra nước ngoài.


Pháp luật về đầu tư ra nước ngoài theo pháp luật Việt Nam

theo hạn mức tự doanh được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam xác nhận đăng ký để thực
hiện đầu tư gián tiếp ra nước ngoài. Đối với tổ chức ủy thác (trừ ngân hàng thương mại
và công ty tài chính tổng hợp) chỉ được sử dụng ngoại tệ tự có trên tài khoản để thực
hiện đầu tư gián tiếp ra nước ngoài thông qua hình thức ủy thác cho tổ chức nhận ủy
thác.19
Riêng đối với ngân hàng thương mại, công ty tài chính tổng hợp tự cân đối
nguồn ngoại tệ để thực hiện đầu tư gián tiếp ra nước ngoài trên cơ sở đảm bảo tuân thủ
quy định về trạng thái ngoại tệ, các giới hạn, tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động
ngân hàng.20
Tuy nhiên theo Khoản 4 và Khoản 5 Điều 10 Nghi Định 135/2015/NĐ-CP ngày
31 tháng 12 năm 2015 của Chính Phủ quy định về đầu tư gián tiếp ra nước ngoài quy
định khi đầu tư gián tiếp ra nước ngoài nhà đầu tư không được sử dụng nguồn vốn vay
bằng đồng Việt Nam từ tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài để mua
ngoại tệ; Nhà đầu tư không được sử dụng nguồn vốn vay ngoại tệ trong nước và nước
ngoài để đầu tư gián tiếp ra nước ngoài. Điều này cho thấy khi đầu tư dưới dạng đầu tư
gián tiếp nguồn vốn nhất thiết phải là ngoại tệ và có sẵn trong tài khoản của nhà đầu
tư.
2.1.4. Quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư khi đầu tư ra nước ngoài
Luật Đầu tư 2014 chưa quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư khi
đầu tư ra nước ngoài. Tuy nhiên đối với Nghị định 83/2015/NĐ-CP quy định về đầu tư
ra nước ngoài có quy định những quyền và nghĩa vụ đặc thù sau:

Quyền của nhà đầu tư khi đầu tư ra nước ngoài:
Thứ nhất, nhà đầu tư có quyền chuyển vốn đầu tư bằng tiền và các tài sản hợp
pháp khác ra nước ngoài để thực hiện đầu tư theo quy định của pháp luật về quản lý
ngoại hối sau khi dự án đầu tư được cơ quan có thẩm quyền của nước, vùng lãnh thổ
đầu tư chấp thuận. Cụ thể là “Nhà đầu tư được chuyển ngoại tệ hoặc hàng hóa, máy
móc, thiết bị ra nước ngoài để phục vụ cho hoạt động khảo sát, nghiên cứu, thăm dò
thị trường và thực hiện hoạt động chuẩn bị đầu tư khác theo quy định của Chính phủ” 21
Kèm theo quyền được chuyển vốn ra nước ngoài của nhà đầu tư còn kèm theo một số
19 Khoản 1, Khoản 2 Điều 10 Nghi Định 135/2015/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Chính
Phủ quy định về đầu tư gián tiếp ra nước ngoài.
20 Khoản 3 Điều 10 Nghi Định 135/2015/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Chính Phủ quy
định về đầu tư gián tiếp ra nước ngoài.
21 Khoản 3 Điều 64 Luật Đầu tư 2014


Pháp luật về đầu tư ra nước ngoài theo pháp luật Việt Nam

điều kiện, cụ thể được quy định như sau: Nhà đầu tư được chuyển vốn đầu tư ra nước
ngoài để thực hiện hoạt động đầu tư khi đáp ứng các điều kiện sau: Đã được cấp Giấy
chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài, trừ trường hợp nhà đầu tư được chuyển
ngoại tệ hoặc hàng hóa, máy móc, thiết bị ra nước ngoài để phục vụ cho hoạt động
khảo sát, nghiên cứu, thăm dò thị trường và thực hiện hoạt động chuẩn bị đầu tư khác
theo quy định của Chính phủ; Hoạt động đầu tư đã được cơ quan có thẩm quyền của
nước tiếp nhận đầu tư chấp thuận hoặc cấp phép. Trường hợp pháp luật của nước tiếp
nhận đầu tư không quy định về việc cấp phép đầu tư hoặc chấp thuận đầu tư, nhà đầu
tư phải có tài liệu chứng minh quyền hoạt động đầu tư tại nước tiếp nhận đầu tư; Có tài
khoản vốn theo quy định tại Điều 63 của Luật này22.
Thứ hai, nhà đầu tư được hưởng các ưu đãi về đầu tư theo quy định của pháp
luật. Đối với từng lĩnh vực mà pháp luật nước ta có những ưu đãi, khuyến khích đầu tư
riêng, trong đó nổi bật là ưu đãi tối đa về thuế trong lĩnh vực dầu khí được quy định cụ

thể ở Quyết định số 116/2001/QĐ-TTg ngày 02 tháng 8 năm 2001 của Thủ tướng
Chính phủ về một số ưu đãi, khuyến khích đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực hoạt
động dầu khí.
Thứ ba, nhà đầu tư được tuyển dụng lao động Việt Nam sang làm việc tại cơ sở
sản xuất, kinh doanh do nhà đầu tư thành lập ở nước ngoài. Cụ thể ở Khoản 1 Điều 22
Nghị định 83/2015/NĐ-CP quy định về đầu tư ra nước ngoài quy định: Nhà đầu tư
được tuyển dụng lao động Việt Nam đi làm việc cho dự án đầu tư của mình ở nước
ngoài theo quy định của pháp luật lao động của Việt Nam và của quốc gia, vùng lãnh
thổ tiếp nhận đầu tư.
Thứ tư, nhà đầu tư có quyền sử dụng lợi nhuận thu được từ hoạt động đầu tư ở
nước ngoài để tái đầu tư dự án khác ở nước ngoài, đây là quy định hoàn toàn mới về
quyền của nhà đầu tư ra nước ngoài cụ thể là: Nhà đầu tư sử dụng lợi nhuận thu được
từ hoạt động đầu tư ở nước ngoài để tăng vốn, mở rộng hoạt động đầu tư ở nước ngoài
phải thực hiện thủ tục điều chỉnh Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài và
báo cáo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; Trường hợp dùng lợi nhuận thu được từ dự án
đầu tư ở nước ngoài để thực hiện dự án đầu tư khác ở nước ngoài thì nhà đầu tư phải
thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài cho dự án đầu tư
đó và phải đăng ký tài khoản vốn, tiến độ chuyển vốn đầu tư bằng tiền với Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam23.
22 Khoản 1 Điều 64 Luật Đầu tư 2014
23 Điều 66 Luật Đầu tư 2014


Pháp luật về đầu tư ra nước ngoài theo pháp luật Việt Nam

Nghĩa vụ của nhà đầu tư khi đầu tư ra nước ngoài
Thứ nhất, nhà đầu tư phải tuân thủ pháp luật Việt Nam và cả pháp luật của nước
tiếp nhận đầu tư.
Thứ hai, nhà đầu tư phải chuyển lợi nhuận và các khoản thu nhập từ việc đầu tư
ra nước ngoài về nước trừ trường hợp sử dụng lợi nhuận từ việc đầu tư ra nước ngoài

theo quy định tại Điều 66 Luật đầu tư 2014. Cụ thể “Trừ trường hợp sử dụng lợi nhuận
để đầu tư ở nước ngoài theo quy định tại Điều 66 của Luật này, trong thời hạn 06 tháng
kể từ ngày có báo cáo quyết toán thuế hoặc văn bản có giá trị pháp lý tương đương
theo quy định của pháp luật nước tiếp nhận đầu tư, nhà đầu tư phải chuyển toàn bộ lợi
nhuận thu được và các khoản thu nhập khác từ đầu tư ở nước ngoài về Việt Nam;
Trong thời hạn quy định tại khoản 1 Điều này mà chưa chuyển lợi nhuận và các khoản
thu nhập khác về Việt Nam, nhà đầu tư phải có văn bản báo cáo Bộ Kế hoạch và Đầu
tư và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Thời hạn chuyển lợi nhuận về nước được gia
hạn không quá hai lần, mỗi lần không quá 06 tháng và phải được Bộ Kế hoạch và Đầu
tư chấp thuận bằng văn bản”24. Cũng cùng với mục đích chuyển lợi nhuận về nước,
Điều 24 Nghị Định 83/2015/NĐ-CP quy định về đầu tư ra nước ngoài cũng quy định
cụ thể về việc thanh lý dự án đầu tư cụ thể là: Ngay sau khi kết thúc dự án đầu tư, nhà
đầu tư phải thanh lý dự án đầu tư theo quy định của pháp luật quốc gia, vùng lãnh thổ
tiếp nhận đầu tư. Trong thời hạn 06 tháng, kể từ ngày có báo cáo quyết toán thuế hoặc
văn bản có giá trị pháp lý tương đương theo quy định của pháp luật quốc gia, vùng
lãnh thổ tiếp nhận đầu tư liên quan đến kết thúc việc thanh lý dự án đầu tư, nhà đầu tư
phải chuyển về nước toàn bộ các khoản thu còn lại từ việc thanh lý dự án đầu tư.
Trường hợp có nhu cầu kéo dài thời hạn quy định tại Khoản 2 Điều này, chậm nhất
trước ngày hết hạn nhà đầu tư phải có văn bản đề nghị và nêu rõ lý do gửi Bộ Kế
hoạch và Đầu tư xem xét, quyết định. Việc gia hạn được thực hiện không quá một lần
và không quá 06 tháng. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị
của nhà đầu tư, Bộ Kế hoạch và Đầu tư có văn bản trả lời nhà đầu tư về việc gia hạn
thời hạn chuyển về nước toàn bộ các khoản thu còn lại từ việc thanh lý dự án đầu tư.
Trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày hoàn tất việc thanh lý dự án đầu tư tại nước ngoài
và chuyển về nước toàn bộ các khoản thu còn lại từ việc thanh lý dự án đầu tư (nếu
có), nhà đầu tư làm thủ tục chấm dứt dự án đầu tư ra nước ngoài theo quy định tại
Điều 25 của Nghị định này.”25.
24 Điều 65 Luật Đầu tư 2014
25 Điều 24 Nghị Định 83/2015/NĐ-CP ngày 25 tháng 09 năm 2015 của Chính Phủ quy định về đầu tư
ra nước ngoài.



Pháp luật về đầu tư ra nước ngoài theo pháp luật Việt Nam

Thứ ba, nhà đầu tư phải thực hiện chế độ báo cáo định kỳ về tài chính và hoạt
động đầu tư ở nước ngoài. Nghĩa vụ này được quy định cụ thể tại Điều 20 Nghị định
83/2015/NĐ-CP quy định về đầu tư ra nước ngoài, theo đó, hàng năm, trong thời hạn 6
tháng, kể từ ngày có báo cáo quyết toán thuế hoặc văn bản có giá trị pháp lý tương
đương theo quy định của pháp luật nước tiếp nhận đầu tư, nhà đầu tư có văn bản báo
cáo tình hình hoạt động của dự án đầu tư kèm theo quy định của pháp luật nước tiếp
nhận đầu tư gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam, cơ quan đại diện Việt Nam tại nước tiếp nhận đầu tư và cơ quan quản lý Nhà
nước có thẩm quyền theo quy định của luật này và quy định khác của pháp luật có liên
quan26.
Thứ tư, nhà đầu tư phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ tài chính đối với Nhà
nước Việt Nam. Cụ thể “Nhà đầu tư có trách nhiệm thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ tài
chính phát sinh liên quan đến dự án đầu tư ra nước ngoài đối với nhà nước Việt Nam
theo quy định của pháp luật về thuế; Việc miễn thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đối với
phần vốn bằng hàng hóa, máy móc, thiết bị chuyển ra nước ngoài để thực hiện hoạt
động đầu tư và chuyển từ nước ngoài về Việt Nam thực hiện theo quy định của pháp
luật về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu”27.
2.1.5. Về điều kiện cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài
Điều kiện cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài được quy định cụ
thể tại Điều 58 Luật Đầu tư 2014 như sau: “Hoạt động đầu tư ra nước ngoài phù hợp
với nguyên tắc quy định tại Điều 51 của Luật này; Hoạt động đầu tư ra nước ngoài
không thuộc ngành, nghề cấm đầu tư kinh doanh quy định tại Điều 6 của Luật này;
Nhà đầu tư có cam kết tự thu xếp ngoại tệ hoặc được tổ chức tín dụng được phép cam
kết thu xếp ngoại tệ để thực hiện hoạt động đầu tư ra nước ngoài; trường hợp khoản
vốn bằng ngoại tệ chuyển ra nước ngoài tương đương 20 tỷ đồng trở lên và không
thuộc dự án quy định tại Điều 54 của Luật này thì Bộ Kế hoạch và Đầu tư lấy ý kiến

bằng văn bản của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; Có quyết định đầu tư ra nước ngoài
theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 57 của Luật này; Có văn bản của cơ quan
thuế xác nhận việc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế của nhà đầu tư tính đến thời điểm nộp
hồ sơ dự án đầu tư.” Đối với quy định mới này đã phần nào xoá bỏ những điều kiện
khắc khe, gò bó và kém khả thi của luật cũ về hoạt động đầu tư ra nước ngoài.
26 Thạc sĩ Nguyễn Hồng Chi và Thạc sĩ Võ Hồng Lĩnh, Những vấn đề cần biết về Luật đầu tư năm
2014, Nhà xuất bản Phương Đông, trang 270
27 Điều 21 Nghị định 83/2015/NĐ-CP ngày 25 tháng 09 năm 2015 của Chính Phủ quy định về đầu tư
ra nước ngoài.


×