Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Tư tưởng biện chứng trong triết học phương Đông cổ Trung đại.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.09 KB, 16 trang )

BÀI TIỂU LUẬN MÔN TRIẾT HỌC
Đề bài: Tư tưởng biện chứng trong triết học phương Đông cổ- Trung đại.
Trong lịch sử triết học, phương pháp biện chứng đã trải qua nhiều giai
đoạn phát triển cao thấp khác nhau, từ phép biện chứng tự phát, ngây thơ thời
cổ đại, đến phép biện chứng duy tâm trong triết học cổ điển Đức, và hoàn
chỉnh ở phép biện chứng duy vật. Phép biện chứng cổ đại thể hiện rõ nét trong
ba nền triết học Ấn Độ, Trung Quốc và Hy Lạp cổ đại. Bên cạnh những đặc
điểm chung, do đặc điểm văn hóa cũng như hoàn cảnh lịch sử khác nhau nên
sự thể hiện tư tưởng biện chứng trong hệ thống triết học ở mỗi nền triết học
trên là không giống nhau. Trong phạm vi bài viết, em xin được phân tích và
làm rõ về “phép biện chứng trong triết học phương Đông cổ- Trung Quốc
đại”
1. Hoàn cảnh ra đời và đặc điểm của triết học Trung Hoa cổ, trung
đại.
1.1. Hoàn cảnh ra đời của triết học Trung Hoa cổ, trung đại :
Trung Hoa cổ đại là một quốc gia rộng lớn, có lịch sử lâu đời từ cuối
thiên niên kỷ III tr. CN kéo dài tới tận thế kỷ III tr. CN với sự kiện Tần Thủy
Hoàng thống nhất Trung Hoa mở đầu cho thời kỳ phong kiến. Trong hơn
2000 năm lịch sử ấy, lịch sử Trung Hoa được phân chia làm 2 thời kỳ lớn:
Thời kỳ từ thế kỷ IX tr. CN trở về trước và thời kỳ từ thế kỷ VIII tr. CN đến
cuối thế kỷ III tr. CN.
1.1.1. Thời kỳ thứ nhất: Có các triều đại nhà Hạ, nhà Thương và nhà
Tây Chu. Theo các văn bản cổ, nhà Hạ ra đời vào khoảng thế kỷ XXI tr. CN,
đánh dấu sự mở dầu cho chế độ chiếm hữu nô lệ ở Trung Hoa. Khoảng nửa
đầu thế kỷ XVII tr. CN, người đứng đầu bộ tộc Thương là Thành Thang đã lật
đổ nhà Hạ, lập ra nhà Thương, đóng đô ở đất Bạc( Hà Nam hiện nay). Đến thế
kỷ XVI tr. CN, Bàn Canh rời đô về đất Ân nên nhà Thương còn gọi là nhà Ân.
Vào khoảng thế kỷ XI tr. CN, Chu Vũ Vương đã giết vua Trụ nhà Ân lập ra
1



nhà Chu ( giai đoạn đầu là Tây Chu), đưa chế độ nô lệ ở Trung Hoa lên đỉnh
cao. Nhà Chu đã thực hiện quốc hữu hóa về tư liệu sản xuất (gồm ruộng đất
và sức lao động) rất nghiêm ngặt, tất cả đều thuộc quyền quản lý của vua nhà
Chu . Đồng thời, thành lập những đô thị lớn tạo nên sự đối lập rất lớn giữa
thành thị và nông thôn.
Trong thời kỳ này, thế giới quan thần thoại, tôn giáo và chủ nghĩa duy
tâm thần bí thống trị trong đời sống tinh thần. Những tư tưởng triết học đã
xuất hiện, nhưng chưa đạt tới mức là một hệ thống. Nó đã gắn chặt thần
quyền với thế quyền, lý giải sự liên hệ mật thiết giữa đời sống chính trị - xã
hội với lĩnh vực đạo đức luân lý. Lúc này cũng đã xuất hiện những quan niệm
có tính chất duy vật mộc mạc,những tư tưởng vô thần tiến bộ.Về khoa học, họ
đã phát minh ra chữ viết và dựa vào sự quan sát vận hành của mặt trăng, các
vì sao, tính chất chu kỳ của nước sông và quy luật sinh trưởng của cây trồng
mà họ đã biết làm ra lịch (Âm lịch)
1.1.2. Thời kỳ thứ hai: là thời kỳ Đông Chu (còn gọi là thời kỳ Xuân
Thu - Chiến quốc), thời kỳ chuyển biến từ chế độ chiếm hữu nô lệ sang chế
độ phong kiến. Sự phát triển của sức sản xuất đã tác động mạnh mẽ đến hình
thức sở hữu ruộng đất và kết cấu giai tầng của xã hội. Nếu dưới thời Tây Chu,
đất đai thuộc sở hữu của nhà vua thì nay thuộc về tầng lớp địa chủ mới lên và
chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất hình thành.Từ đó, sự phân hóa sang hèn
dựa trên cơ sở tài sản xuất hiện. Xã hội lâm vào cảnh loạn lạc, rối ren và chiến
tranh xảy ra liên miên. Đây chính là điều kiện lịch sử đòi hỏi giải thể chế độ
nô lệ thị tộc nhà Chu, hình thành chế độ phong kiến; đòi hỏi giải thể nhà nước
của chế độ gia trưởng, xây dựng nhà nước phong kiến nhằm giải phóng lực
lượng sản xuất, mở đường cho xã hội phát triển.
Sự phát triển sôi động của xã hội đã đặt ra và làm xuất hiện những tụ
điểm, những trung tâm của những "kẻ sĩ" luôn tranh luận về trật tự xã hội cũ
và đề ra những mẫu hình của một xã hội trong tương lai. Lịch sử gọi đây là
thời kỳ "Bách gia chư tử" (trăm nhà trăm thầy), "Bách gia tranh minh" (trăm
2



nhà đua tiếng). Chính trong quá trình ấy đã sản sinh ra những nhà tư tưởng
lớn và hình thành nên các trường phái triết học khá hoàn chỉnh. Đặc điểm của
các trường phái này là lấy con người và xã hội làm trung tâm của sự nghiên
cứu, có xu hướng chung là giải quyết những vấn đề thực tiễn chính trị - đạo
đức của xã hội. Theo Lưu Hâm (đời Tây Hán), Trung Hoa thời kỳ này có chín
trường phái triết học chính (gọi là Cửu lưu hay Cửu gia) là: Nho gia, Mặc gia,
Đạo gia, Âm dương gia, Danh gia, Pháp gia, Nông gia, Tung hoành gia, Tạp
gia. Trừ Phật giáo được du nhập từ ấn Độ sau này, các trường phái triết học
được hình thành vào thời kỳ này được bổ sung và hoàn thiện qua nhiều giai
đoạn lịch sử và tồn tại cho tới thời kỳ cận đại.
2. Nội dung:
Cơ sở xuất hiện phép biện chứng tự phát trong triết học Trung Quốc cổ
đại Trung Quốc cổ đại là một quốc gia rộng lớn có lịch sử lâu đời. Những
biểu hiện tôn giáo, triết học cũng như tư tưởng biện chứng đã xuất hiện rất
sớm, đặc biệt là từ thời kỳ Xuân Thu - Chiến quốc trở đi. Nguyên nhân là do
xã hội Trung Hoa thời bấy giờ là xã hội đánh dấu sự tan rã của chế độ chiếm
hữu nô lệ, hình thành các quan hệ xã hội phong kiến hết sức phức tạp. Hơn
nữa, cũng là do các đặc điểm kinh tế có liên quan tới quá trình biến động xã
hội này là sự hình thành nhanh chóng các chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất.
Chính trong quá trình ấy đã sản sinh ra các tư tưởng lớn và hình thành nên các
trường phái triết học khá hoàn chỉnh để giải quyết các nhu cầu của xã hội.
Đặc điểm của các trường phái này là lấy con người và xã hội làm trung
tâm của sự nghiên cứu, có xu hướng chung là giải quyết những vấn đề thực
tiễn chính trị đạo đức của xã hội, trong đó tiêu biểu là những hệ thống tư
tưởng có ảnh hưởng tới mãi về sau này trong lịch sử phong kiến Trung Quốc
như Nho gia, Đạo gia, Pháp gia, Thuyết Âm Dương – Ngũ hành.
Các nhà triết học cổ đại nghiên cứu sự vận động, phát triển của sự vật,
hiện tượng trong bức tranh chung, chỉnh thế về thế giới, song do trình độ

khoa học còn thấp kém, phép biện chứng cổ đại mới chỉ là những quan điểm
3


biện chứng mộc mạc, mang tính suy luận, phỏng đoán, tự phát, sơ khai trên cơ
sở những kinh nghiệm trực giác mà chưa được minh chứng bằng các tri thức
khoa học. Bởi lẽ đây chính là sự phản ánh điều kiện kinh tế xã hội và yêu cầu
của hiện thực xã hội Trung Quốc lúc bấy giờ nên không thể đưa ra đòi hỏi cao
hơn đối với các nhà triết học. Tư tưởng biện chứng trong triết học Trung Quốc
cổ đại đã được xây dựng trên cơ sở của những cảm nhận trực quan về sự vận
động và liên hệ của các sự vật, hiện tượng của thế giới thông qua các khái
niệm âm dương giao cảm; ngũ hành sinh, khắc; dịch, biến, hóa, thời,...
Nội dung của phép biện chứng tự phát trong Triết học Trung Quốc cổ
đại Phép biện chứng tự phát trong triết học Trung Quốc cổ đại được thể hiện
chủ yếu trong các khái niệm “giao cảm” của Âm – Dương, “sinh – khắc” của
Ngũ Hành và “dịch, biến, hóa, thời” trong Đạo gia. Mặc gia và Pháp gia.
2.1: Phép biện chứng xuất hiện trong thuyết Âm dương – Ngũ
hành
Triết lý âm dương đi sâu vào sự suy tư về nguyên lý vận hành đầu tiên
và phổ biến của vạn hữu. Âm dương và Ngũ hành là hai học thuyết khác
nhau, sau đó được kết hợp với nhau thành thuyết Âm dương – Ngũ hành vào
cuối thời Chiến quốc. Theo thuyết này, các sự vật, hiện tượng trong thế giới
có hai yếu tố âm và dương đối trọi nhau, nhưng lại thống nhất với nhau; âm
và dương là nguồn gốc, động lực của mọi sự vận động và phát triển, của quá
trình sinh thành, biến hóa; là điều kiện tồn tại của nhau và của mọi sự vật,
hiện tượng. Biểu hiện cụ thể của Âm dương là Ngũ hành: Mộc-Hỏa-ThổKim-Thủy. Ngũ hành có quá trình tương sinh và tương khắc. Đó là quá trình
sinh – diệt của vạn vật. Ngũ hành có tính chất ngũ sắc như mặn, ngọt, đắng,
cay, chua - chát. Trong đời sống, âm dương được quan niệm là các cặp đối lập
như mặt trăng - mặt trời; sáng - tối; nam - nữ; quân tử - tiểu nhân; đẹp - xấu;
thịnh - suy,... không có yếu tố thuần âm hoặc dương, mà trong âm có dương

và trong dương có âm luôn tương tác, chuyển hóa cho nhau. Mọi sự thái quá
về âm hoặc dương đều có hại, nên cần đạt được sự cân bằng âm - dương. Tuy
4


vậy những quan điểm trên chưa được hệ thống, còn nằm rải rác trong những
công trình và giai đoạn lịch sử khác nhau. Theo thuyết âm dương thì mọi sự
biến hoá vô cùng, vô tận, thường xuyên của vạn hữu đều có thể quy về
nguyên nhân của sự tương tác giữa hai thế lực đối lập vốn có của Âm
và Dương. Các nhà biện chứng thuộc phái này cho rằng trời đất luôn luôn
biến đổi không ngừng và có tính quy luật. Nguyên nhân của mọi biến hoá là
do sự giao cảm của hai mặt đối lập như âm dương, nước và lửa, đất và trời.
Chính trị-xã hội cũng theo đó mà biến đổi theo quy luật tự nhiên đó. Tuy
nhiên hạn chế của phép biện chứng này là ở chỗ coi sự biến hoá chỉ có tính
chất tuần hoàn theo chu kỳ khép kín, không có sự phát triển..
2.2. Nho gia (thường gọi là Nho giáo)
Nho gia xuất hiện vào khoảng thế kỷ VI tr. CN dưới thời Xuân Thu,
người sáng lập là Khổng Tử (551 - 479 tr. CN). Đến thời Chiến Quốc, Nho
gia đã được Mạnh Tử và Tuân Tử hoàn thiện và phát triển theo hai xu hướng
khác nhau: duy vật và duy tâm, trong đó dòng Nho gia Khổng - Mạnh có ảnh
hưởng rộng và lâu dài nhất trong lịch sử Trung Hoa và một số nước lân cận.
Kinh điển chủ yếu của Nho gia gồm Tứ Thư (Luận ngữ, Đại học, Trung
Dung, Mạnh Tử) và Ngũ Kinh (Thi, Thư, Lễ, Dịch và Xuân Thu). Các kinh
sách này hầu hết đều viết về xã hội, về kinh nghiệm lịch sử Trung Hoa. Điều
này cho thấy rõ xu hướng biện luận về xã hội, về chính trị - đạo đức là những
tư tưởng cốt lõi của Nho gia. Những quan niệm đó được thể hiện ở những tư
tưởng chủ yếu sau:
Thứ nhất, Nho gia coi những quan hệ chính trị - đạo đức là những quan
hệ nền tảng của xã hội, trong đó quan trọng nhất là quan hệ vua - tôi, cha con, chồng - vợ (gọi là Tam cương). Nếu xếp theo tôn ty trật tự, trên dưới thì
vua ở vị trí cao nhất, còn nếu xếp theo chiều ngang của quan hệ thì vua - cha chồng xếp ở hàng làm chủ. Điều này phản ánh tư tưởng chính trị quân quyền

và phụ quyền của Nho gia.

5


Thứ hai, xuất hiện trong bối cảnh lịch sử quá độ sang xã hội phong
kiến, một xã hội đầy những biến động loạn lạc và chiến tranh nên lý tưởng
của Nho gia là xây dựng một "xã hội đại đồng". Đó là một xã hội có trật tự
trên - dưới, có vua sáng - tôi hiền, cha từ - con thảo, trong ấm - ngoài êm trên
cơ sở địa vị và thân phận của mỗi thành viên từ vua chúa, quan lại đến thứ
dân. Có thể nói đó là lý tưởng của tầng lớp quý tộc cũ cũng như của giai cấp
địa chủ phong kiến đang lên.
Thứ ba, Nho gia lấy giáo dục làm phương thức chủ yếu để đạt tới xã
hội lý tưởng "đại đồng". Do không coi trọng cơ sở kinh tế và kỹ thuật của xã
hội nên nền giáo dục của Nho gia chủ yếu hướng vào việc rèn luyện đạo đức
con người. Trong bảng giá trị đạo đức của Nho gia thì chuẩn mực gốc là
"Nhân". Những chuẩn mực khác như Lễ, Nghĩa, Trí, Tín, Trung, Hiếu.v .v.
đều là những biểu hiện cụ thể của Nhân.
Thứ tư, Nho gia quan tâm đến vấn đề bản tính con người. Việc giải
quyết những vấn đề chính trị -xã hội đòi hỏi Nho gia cũng như nhiều học
thuyết khác của Trung Hoa thời cổ phải đặt ra và giải quyết vấn đề bản tính
con người. Trong học thuyết Nho gia không có sự thống nhất quan điểm về
vấn đề này, nhưng nổi bật là quan điểm của Mạnh Tử. Theo ông, "bản tính
con người vốn là thiện" (Nhân chi sơ, tính bản thiện). Thiện là tổng hợp
những đức tính vốn có của con người từ khi mới sinh ra như: Nhân, Nghĩa, Lễ
.v.v.
Mạnh Tử đã thần bí hóa những giá trị chính trị - đạo đức đến mức coi
chúng là tiên thiên, bẩm sinh. Do quan niệm tính thiện nên Nho gia (dòng
Khổng - Mạnh) đề cao sự giáo dục con người để con người trở về đường thiện
với những chuẩn mực đạo đức có sẵn.

Đối lập với Mạnh Tử coi tính người là Thiện, Tuân Tử lại coi bản tính
con người vốn là ác (Nhân chi sơ, tính bản ác). Mặc dù vậy, nhưng có thể giáo
hóa trở thành thiện (Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí....). Xuất phát từ quan niệm đó về

6


tính người, Tuân Tử chủ trương đường lối trị nước kết hợp giữa Nho gia và
Pháp gia. Người sáng lập ra Nho gia là Khổng Tử (551 - 479 tr.CN)
Trong quan niệm về thế giới, tư tưởng của Khổng Tử luôn có những
mâu thuẫn. Một mặt, khi chống lại chủ nghĩa thần bí, tôn giáo đương thời,
ông thừa nhận sự vật, hiện tượng trong tự nhiên luôn luôn tự vận động,biến
hóa không phụ thuộc vào mệnh lệnh của Trời. “ Trời có nói gì đâu mà bốn
mùa vận hành, vạn vật sinh hóa mãi mãi” (Luận ngữ, Dương Hóa, 18); hay “
cũng như dòng nước chảy, mọi vật đều trôi đi, ngày đêm không ngừng, không
nghỉ” (Luận ngữ, Tử Hãn, 16). Đó là yếu tố duy vật chất phác và tư tưởng
biện chứng tự phát của ông. Mặt khác, ông lại cho rằng Trời có ý chí và có thể
chi phối vận mệnh của con người (Thiên mệnh). Đó là yếu tố duy tâm khách
qua trong quan điểm của ông. Ông nói: “Đạo của ta thi hành ra được cũng do
mệnh Trời, mà bị bỏ phế cũng là do mệnh Trời” (Luận ngữ, Hiến vấn, 38);
“làm sao có thể cải được mệnh Trời”. Hiểu biết mệnh Trời là một điều kiện tất
yếu để trở thành con người hoàn thiện là người quân tử. Cũng như thế, một
mặt Khổng Tử tuyên truyền sức mạnh của quỷ thần; nhưng mặt khác ông lại
nhấn mạnh vai trò quan trọng của hoạt động con người trong đời sống.
Quan niệm về nhận thức trong học thuyết của Khổng Tử không phát
triển, không đặt ra vấn đề chân lý mà chỉ dừng lại ở vấn đề “tri thức luận” (tri
thức do đâu mà có). Theo ông, tri thức có hai loại là “thượng trí” (không học
cũng biết) và “hạ ngu”(học cũng không biết). Nghĩa là ông đã thừa nhận có tri
thức tiên thiên, có trước sự nhận thức của con người. Đối tượng để dạy dỗ,
giáo hóa nằm giữa “trí” và “ngu”, nếu chịu khó học tập có thể vươn tới

thượng trí. Còn không học thì rơi xuống hạ ngu. Ưu điểm của ông là chủ
trương “hữu giáo vô loại” (học thì không phân loại). Khổng Tử cũng nêu ra
một số phương pháp học tập có ý nghĩa như: học phải đi đôi với luyện tập;
học phải kết hợp với suy nghĩ; phải ôn cũ để biết mới; học phải nắm được cái
cốt yếu”Tuy nhiên, hạn chế của Khổng Tử là ở quan niệm học theo lối “hoài
cổ”, coi thường tri thức về sản xuất, lao động chân tay.
7


Tư tưởng về luân lý, đạo đức, chính trị - xã hội là một trong những vấn
đề cốt lõi trong học thuyết Khổng Tử. Những nguyên lý đạo đức cơ bản nhất
trong học thuyết đạo đức của Khổng Tử là : Nhân, lễ, trí, dũng...cùng với một
hệ thống quan niệm về chính trị- xã hội như “nhân trị”,“chính danh”,“thượng
hiền”,“quân tử”,tiểu nhân.Khổng Tử lấy chữ “Nhân” làm nguyên lý đạo đức
cơ bản trong triết học của mình. Nhân có ý nghĩa rất rộng, bao hàm nhiều mặt
trong đời sống con người, có lúc trừu tượng, có lúc cụ thể, tuỳ theo trình độ,
hoàn cảnh mà ông giảng giải về nhân với nội dung khác nhau. “Sửa mình theo
lẽ là nhân”, “ Điều gì mình không muốn, đừng đem nó làm cho người khác là
nhân”, “yêu thương người là nhân”...Tư tưởng bao trùm của Nhân là yêu
thương con người, là đạo làm người.
Để điều nhân có thể thực hiện được thì phải bằng “lễ”. Lễ ở Khổng Tử
là những phong tục, tập quán, những quy tắc, quy định trật tự xã hội và cả thể
chế pháp luật Nhà nước như: sinh, tử, tang, hôn tế lễ, triều sính, luật lệ, hình
pháp...Lễ được coi là hình thức biểu hiện của nhân. Mặc dù kiên trì bảo vệ lễ
của nhà Chu , nhưng Khổng Tử cũng đưa thêm những nội dung mới và phát
triển nó lên, biến lễ thành một phạm trù có ý nghĩa xã hội và nhân văn sâu
sắc.
Mục đích của Khổng Tử là xây dựng một xã hội có tôn ty trật tự, kỷ
cương. Để làm đươc điều đó cần phải có “lễ” và “chính danh”. “Chính danh là
làm mọi việc cho ngay thẳng”(Luận ngữ, Nhan Uyên,1); “Chính danh thì

người nào có địa vị, bổn phận chính đángcủa người ấy, trên dưới, vua tôi, cha
con trật tự phân minh, vua lấy lễ mà khiến tôi, tôi lấy trung mà thờ vua”(Luận
ngữ, Bát Dật, 19)...Theo Khổng Tử, muốn trị nước trước tiên phải sửa mình
cho chính danh, vì “danh không chính thì lời nói không thuận; lời nói không
thuận thì sự việc không thành công; sự việc không thành công thì lễ nhạc
không hưng thịnh; lễ nhạc không hưng thịnh thì hình phạt không đúng; hình
phạt không đúng thì dân không biết theo ai?” (Luận ngữ, Tử Lộ, 3). Xuất phát
từ tình hình loạn lạc của xã hội Trung Quốc thời Xuân Thu, Khổng Tử đã nêu
8


lên thuyết “chính danh”, nhưng trên thực tế, học thuyết này mang tính bảo
thủ, bảo vệ cho lợi ích của quý tộc nhà Chu.
Để thực hiện mục đích của mình,Khổng Tử chống việc duy trì ngôi vua
theo huyết thống và chủ trương “thượng hiền”,dùng người không phân biệt
đẳng cấp xuất thân của họ.Trong việc chính trị, vua phải biết “trọng dụng
người hiền đức, tài cán và rộng lượng với những kẻ cộng sự”(Luận ngữ, Tử
Lộ, 2).Việc ông mở trường dạy học chính là nhằm mục đích đào tạo ra những
người có tài,đức tham gia
Toàn bộ học thuyết về nhân, lễ, chính danh... của Khổng Tử là nhằm
phục vụ mục đích chính trị là “Đức trị”. Ông phản đối việc dùng hình phạt để
trị dân vì làm như vậy, dân sợ mà phải theo chứ không phục. Theo ông, làm
chính trị mà dùng đức cảm hóa người thì giống như sao Bắc Đẩu ở một nơi
mà các sao khác đều chầu đến.
Tóm lại: So với các học thuyết khác, Nho gia có nội dung phong phú và
mang tính hệ thống hơn cả; hơn thế nữa, nó còn là hệ tư tưởng chính thống
của giai cấp thống trị Trung Hoa suốt hơn hai ngàn năm của xã hội phong
kiến. Để trở thành hệ tư tưởng chính thống, Nho gia đã được bổ sung và hoàn
thiện qua nhiều giai đoạn lịch sử trung đại: Hán, Đường, Tống, Minh, Thanh,
nhưng tiêu biểu hơn cả là dưới triều đại nhà Hán và nhà Tống, gắn liền với tên

tuổi của các bậc danh Nho như Đổng Trọng Thư (thời Hán), Chu Đôn Di,
Trương Tải, Trình Hạo, Trình Di, Chu Hy (thời Tống). Quá trình bổ sung và
hoàn thiện Nho gia thời trung đại được tiến hành theo hai xu hướng cơ bản:
Một là, hệ thống hóa kinh điển và chuẩn mực hóa các quan điểm triết
học của Nho gia theo mục đích ứng dụng vào đời sống xã hội, phục vụ lợi ích
thống trị của giai cấp phong kiến; vì thế Đổng Trọng Thư đã làm nghèo nàn đi
nhiều giá trị nhân bản và biện chứng của Nho gia cổ đại. Tính duy tâm thần bí
của Nho gia trong các quan điểm về xã hội cũng được đề cao. Tính khắc
nghiệt một chiều trong các quan hệ Tam cương, Ngũ thường thường được
nhấn mạnh.
9


Hai là, hoàn thiện các quan điểm triết học về xã hội của Nho gia trên cơ
sở bổ sung bằng các quan điểm triết học của thuyết Âm Dương - Ngũ hành,
những quan niệm về bản thể của Đạo gia, tư tưởng về pháp trị của Pháp gia
v.v. Vì vậy, có thể nói: Nho gia thời trung đại là tập đại thành của tư tưởng
Trung Hoa. Nho gia còn có sự kết hợp với cả tư tưởng triết học ngoại lai là
Phật giáo. Sự kết hợp các tư tưởng triết học của Nho gia với những tư tưởng
triết học ngoài Nho gia đã có ngay từ thời Hán và ít nhiều có cội nguồn từ
Mạnh Tử. Tuy nhiên, sự kết hợp đạt tới mức nhuần nhuyễn và sâu sắc chỉ có
dưới thời nhà Tống (960 - 1279).
2.3: Phép biện chứng trong tư tưởng triết học của Đạo gia
Đạo Lão ( Lão Tử, Dương Chu, Trang Chu ) với tư tưởng coi đạo là
nguyên lý duy nhất và tuyệt đối trong sự vận hành của vũ trụ, hiện tượng cũng
đã thể hiện những tư tưởng biện chứng, tư tưởng phản phục nói lên nguyên lý
vận hành phi phát triển của hiện hữu. Tư tưởng biện chứng của Lão tử được
thể hiện ngay trong quan niệm về “đạo”. “Đạo” là khởi nguyên, là con đường
sinh thành, biến hóa của vạn vật. Sự thay đổi của mọi vật là do quy luật quân
bình và phản phục quy định. Luật quân bình luôn giữ cho vận động được

thăng bằng, không thái quá, không bất cập (cái khuyết sẽ tròn, cong sẽ thẳng,
ít sẽ nhiều, được sẽ mất,...). Luật phản phục quy định cái gì phát triển đến tột
đỉnh sẽ chuyển thành cái đối lập với nó, tạo thành một vòng tuần hoàn biến
đổi bất tận. Lão Tử đã phỏng đoán về quy luật mâu thuẫn. Ông đưa ra thuyết
“Vô danh”, theo đó sự vật có hai mặt đối lập dựa vào nhau mà chuyển hóa
đến tận cùng thì quay ngược lại (trong dương có âm, âm cực sinh dương;
trong phúc có họa, họa cực phúc đến;...), sự chuyển hóa là liên tục, nên mọi
khái niệm (danh) chỉ là tương đối, hữu hạn, tên gọi là sự so sánh, quy định lẫn
nhau (tốt là so với xấu; thiện là so với ác;...). Theo ông, cái tên nói ra được thì
không phải vĩnh hằng, cái tên không nói ra được mới là vĩnh hằng. Sự đấu
tranh của các mặt đối lập trong sự vật đến cực điểm sẽ chuyển hóa giữa chúng
bằng con đường dung hòa, mà không phải bằng đấu tranh giữa các mặt
10


đối lập. Ngoài ra. trong Đạo Đức Kinh còn có những tư tưởng biện chứng trực
quan, như bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng đều là thể thống nhất của hai
mặt đối lập vừa xung khắc nhau, vừa nương tựa vào nhau, vừa bao hàm lẫn
nhau. Nhưng điều hạn chế của tư tưởng này là ở chỗ do các nhà biện chứng
nhấn mạnh nguyên tắc quân bình và phản phục trong biến dịch, cho nên họ
không đề cao tư tưởng đấu tranh để giải quyết mâu thuẫn mà nhấn mạnh điều
hoà của các mặt đối lập.
2.4. Mặc gia
Phái Mặc gia do Mặc Tử, tức Mặc Địch (khoảng từ 479 -381 tr.CN)
sáng lập thời Xuân Thu. Sang thời Chiến Quốc dã phát triển thành phái Hậu
Mặc. Đây là một trong ba học thuyết lớn nhất đương thời (Nho - Đạo - Mặc).
Tư tưởng triết học trung tâm của Mặc gia thể hiện ở quan niệm về "Phi thiên
mệnh". Theo quan niệm này thì sự giàu, nghèo, thọ, yểu...không phải là do
định mệnh của Trời mà là do người. Nếu người ta nỗ lực làm việc, tiết kiệm
tiền của thì ắt giàu có, tránh được nghèo đói. Đây là quan niệm khác với quan

niệm Thiên mệnh có tính chất thần bí của Nho giáo dòng Khổng - Mạnh.
Học thuyết "Tam biểu" của Mặc gia mang tính cách là một học thuyết
về nhận thức, có xu hướng duy vật và cảm giác luận, đề cao vai trò của kinh
nghiệm. Thuyết "Kiêm ái" là một chủ thuyết chính trị - xã hội mang đậm tư
tưởng tiểu nông. Mặc Địch phản đối quan điểm của Khổng Tử về sự phân biệt
thứ bậc, thân sơ...trong học thuyết "Nhân". Ông chủ trương mọi người yêu
thương nhau, không phân biệt thân sơ, đẳng cấp...
Phái Hậu Mặc đã phát triển tư tưởng của Mặc gia sơ kỳ chủ yếu trên
phương diện nhận thức luận.
2.5. Pháp gia
Là một trường phái triết học lớn của Trung Hoa cổ đại, chủ trương
dùng những luật lệ, hình pháp của nhà nước là tiêu chuẩn để điều chỉnh hành
vi đạo đức của con người và củng cố chế độ chuyên chế thời Chiến quốc.
Là tiếng nói đại diện cho tầng lớp quý tộc mới, đấu tranh kiên quyết chống lại
11


tàn dư của chế độ công xã gia trưởng truyền thống và tư tưởng bảo thủ, mê tín
tôn giáo đương thời.
Đại diện của phái Pháp gia là Hàn Phi Tử (280 - 233 tr. CN). Tư tưởng
Pháp trị của Hàn Phi Tử dựa trên những luận cứ triết học cơ bản sau:
Về tự nhiên:
Ông giải thích sự phát sinh, phát triển của vạn vật theo tính quy luật
khách quan mà ông gọi là Đạo. Đạo là quy luật phổ biến của giới tự nhiên
vĩnh viễn tồn tại và không thay đổi. Còn mỗi sự vật đều có "Lý" của nó. "Lý"
là sự biểu hiện khác nhau của Đạo trong mỗi sự vật cụ thể và là cái luôn luôn
biến hóa và phát triển. Từ đó, ông yêu cầu mọi hành động của con người
không chỉ dựa trên quy luật khách quan, mà còn phải thay đổi theo sự biến
hóa của "Lý", chống thái độ cố chấp và bảo thủ.
Về lịch sử:

Ông thừa nhận sự biến đổi của đời sống xã hội, khẳng định rằng không
thể có chế độ xã hội nào là không thay đổi. Do đó không thể có khuôn mẫu
chung cho mọi xã hội. Ông đã phân chia sự tiến triển của xã hội làm 3 giai
đoạn chính, mỗi giai đoạn đó xã hội có những đặc điểm và tập quán riêng ứng
với trình độ nhất định của sản xuất và văn minh. Đó là:
+ Thời Thượng cổ: Con người biết lấy cây làm nhà và phát minh ra lửa
để nấu chín thức ăn.
+ Thời Trung cổ: Con người đã biết trị thủy, khắc phục thiên tai.
+ Thời Cận cổ: Bắt đầu xuất hiện giai cấp và xảy ra các cuộc chinh phạt
lẫn nhau.
Động lực căn bản của sự thay đổi xã hội được ông quy về sự thay đổi
của dân số và của cải xã hội.
Về thuyết "Tính người":
Ông theo quan niệm của Tuân Tử coi tính người là ác, đưa ra học
thuyết luân lý cá nhân vị lợi, luôn có xu hướng lợi mình hại người, tránh hại

12


cầu lợi...Kẻ thống trị phải nương theo tâm lý vị lợi của con người để đặt ra
pháp luật, trọng thưởng, nghiêm phạt để duy trì trật tự xã hội.
Tư tưởng về pháp trị.
Trên cơ sở những luận điểm triết học cơ bản ấy, Hàn Phi Tử đã đề ra
học thuyết Pháp trị, nhấn mạnh sự cần thiết phải cai trị xã hội bằng luật pháp.
Ông cũng phản đối thuyết nhân trị, đức trị của Nho giáo, phép "vô vi trị" của
Đạo gia. Phép trị quốc của Hàn Phi Tử bao gồm 3 yếu tố tổng hợp là pháp, thế
và thuật, trong đó pháp là nội dung của chính sách cai trị, thế và thuật là
phương tiện để thực hiện chính sách đó.
+ "Pháp" là một phạm trù của triết học Trung Hoa cổ đại. Theo nghĩa
hẹp, là quy định, luật lệ có tính chất khuôn mẫu mà mọi người trong xã hội

phải tuân thủ; theo nghĩa rộng, pháp được coi là một thể chế, chế độ chính trị
và xã hội. Vì vậy, pháp được coi là tiêu chuẩn, căn cứ khách quan để định rõ
danh phận, giúp cho mọi người thấy rõ được bổn phận, trách nhiệm của mình.
+ "Thế" là địa vị, thế lực, quyền uy của người cầm đầu chính thể.
+ "Thuật" cũng là chính danh, là phương sách trong thuật lãnh đạo của
nhà vua nhằm lấy danh mà tránh thực.
Vậy, tư tưởng biện chứng trong triết học Trung Quốc cổ đại đã nhận
thức đúng về tính biện chứng của thế giới nhưng không phải dựa trên thành
tựu của khoa học mà bằng trực kiến thiên tài, bằng trực quan chất phác, là kết
quả của sự quan sát trực tiếp. Do đó, chưa đạt tới trình độ phân tích giới tự
nhiên, chưa chứng minh được mối liên hệ phổ biến nội tại của giới tự nhiên.
3. Ảnh hưởng của phép biện chứng tự phát trong triết học đến đời
sống xã hội Trung Quốc thời cổ đại
Người Trung Quốc coi trọng, đề cao sự hài hòa âm dương trong cơ thể
và sự hài hòa trong giới tự nhiên. Từ việc xem con người là “tiểu vũ trụ”,
người Trung Quốc cổ đại đã vận dụng mô hình nhận thức về vũ trụ vào nhận
thức con người. Đó là, con người cũng được tạo thành bởi sự kết hợp âm
dương, có cấu tạo theo ngũ hành. Nhận thức trên về vũ trụ và về con người
13


được ứng dụng trong mọi thành tố văn hóa dân gian Trung Quốc cổ đại, từ tổ
chức đời sống tập thể, tổ chức đời sống cá nhân đến ứng xử với môi trường tự
nhiên và môi trường xã hội:
+ Trong thành tố văn hóa đời sống: trong tổ chức gia đình, sự quân bình
âm dương thiên về âm tính thể hiện ở việc chú trọng sự hòa thuận, đề cao vai
trò tề gia của người phụ nữ, cùng với quá trình vận động trong sự đối lập các
mặt: trọng nam, trọng trưởng / trọng nữ; tôn ty trật tự / tình cảm, cộng đồng,
hòa thuận; tập trung tài sản, sở hữu cộng đồng / phân tán tài sản, sở hữu cá
nhân. Trong tổ chức làng xã, triết lý âm dương biểu hiện ở tính tự trị và

tính cộng đồng, tính tôn ty và tính dân chủ, trong đó tính tự trị và tính dân chủ
vừa là nền (trên cở sở nông nghiệp lúa nước) vừa luôn có xu thế lấn lướt
(quân bình âm dương nhưng thiên về âm tính);
+ Nghệ thuật ăn uống của người Trung Quốc, đặc biệt trong các bữa ăn
truyền thống hết sức tinh tế dựa trên cơ sở của thuyết Âm Dương Ngũ Hành:
Bảo đảm sự hài hòa Âm Dương của thức ăn;
Bảo đảm sự hài hòa Âm Dương trong cơ thể;
Bảo đảm sự hài hòa Âm Dương giữa con người và môi trường sống.
+ Trong vấn đề ăn mặc, người Trung Quốc đề cao hai yếu tố “âm tính”
và “dương tính”. Trong trang phục của người Trung Quốc thời kỳ cổ đại, mùa
ưa thích là các “màu âm tính” phù hợp với phong cách tế nhị, kín đáo của
truyền thống dân tộc
+ Trong vấn đề ở, người Trung Quốc đặc biệt chú trọng đến vấn đề
“phong thủy”. Phong thủy có nguồn gốc từ Kinh Dịch. “Phong” tượng trưng
cho động, “thủy” tượng trưng cho tịnh (động và tịnh ở đây hiểu theo nghĩa
tương đối.) Hiểu rộng Phong thủy là hơi thở và nguồn sống của con người.
Người Đông phương đặc biệt là Trung Quốc cổ đại đã góp nhặt kinh nghiệm
sống trong vũ trụ thành khoa phong thủy hiểu như nghệ thuật phối trí
môi trường sống để đạt trạng thái hài hoà giữa con người và trời đất.

14


+ Với tín ngưỡng sùng bái tự nhiên, người Trung Quốc coi trọng tín
ngưỡng đa thần, lấy chất âm tính làm căn bản. Chất âm tính của văn hóa nông
nghiệp dẫn đến lối sống tình cảm, trọng nữ, theo đó mà các nữ thần thường
chiếm ưu thế (tục thờ Mẫu).
+ Với tín ngưỡng sùng bái con người, người Trung Quốc đặc biệt coi
trọng mối liên hệ giữa âm và dương. Với niềm tin chết là về với tổ tiên, nên
họ rất coi trọng tín ngưỡng thờ cúng trong các dịp lễ, Tết…

+ Với quan niệm vạn vật hữu linh thì con người với tư cách là một sinh
vật có nhận thức thì thể xác là hữu hình, linh hồn là vô hình theo ý nghĩa hết
sức trìu tượng. Linh hồn là bất diệt. Khi người ta chết là cơ thể chuyển từ
trạng thái động sang trạng thái tĩnh theo triết lý âm dương thì cõi dương sang
cõi âm. Tục thờ cúng tổ tiên mang đặc thù của người Trung Quốc cổ đại là cả
một quá trình phát triển rất lâu đời và bị chi phối bởi nhiều yếu tố khác nhau
nổi bật là yếu tố hoàn cảnh sống, môi trường sống, lịch sử hình thành. Tất cả
những yếu tố này hoạt động, chi phối, ảnh hưởng qua lại góp phần tạo nên tục
thờ cúng tổ tiên tương đối định hình như ngày nay trong đời sống tâm linh.

15


KẾT LUẬN
Như vậy,triết học phương Đông nói chung, các nền triết học Trung
Quốc và Ấn Độ cổ, trung đại nói riêng ra đời vào thời kỳ quá độ từ chế độ
chiếm hữu nô lệ lên phong kiến, Trong bối cảnh lịch sử ấy, mối quan tâm
hàng đầu của các nhà triết học là là những vấn đề thuộc về đời sống thực tiến
chính trị- xã hội, đạo đức, âm linh. Nhìn chung họ đã đứng trên lập trường
duy tâm để giải thích và đưa ra những kiến giải nhằm hiến kế, mong muốn
giải quyết các vấn đề xã hội. Vì vậy, tư tưởng của họ có giá trị thực tiễn rất
cao trong việc xác lập một trật tự xã hội theo những chuẩn mực chính trị- xã
hội, nhân sinh, triế học phương Đông còn để lại cho lịch sử nhân loại những
thành quả tư duy quan niệm biện chứng sâu sắc và tư tưởng duy vật tiến bộ.
Mặc dù còn mộc mạc, chất phác nhưng nó đã ảnh hưởng to lớn đến nhãn quan
triết học sau này trong các nền triết học khác cả phương Đông và phương Tây.
Các trường phái triết học Trung quốc cổ có những giá trị nhất định
rong việc cai trị về chính trị, phát triển xã hội trong ổn định, hài hòa . Những
nước “ con rồng châu Á” đều tiếp thu những mặt tích cực này để đưa nước họ
tiến lên.


16



×