Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

ĐẶC ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ, TRUNG ĐẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (73.19 KB, 9 trang )

ĐẶC ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ, TRUNG ĐẠI
1. Hoàn cảnh ra đời của triết học Trung Quốc cổ, trung đại.
Trung Quốc là một trong những cái nôi của văn minh nhân loại. Trung Quốc
đất đai rộng lớn, có hai con sông lớn Hoàng Hà và Trường Giang, là một trong
những nước có nền văn minh hình thành sớm nhất và rực rỡ nhất trong lịch sử.
Triết học Trung Quốc suy cho cùng là sự phản ánh xã hội Trung Quốc. Triết học
Trung Quốc có mầm mống từ lâu, nhưng thực sự nở rộ vào khoảng thế kỷ VI đến
thế kỷ III TCN. Đây là thời kỳ biến đổi dữ dội, chuyển biến từ chế độ chiếm hữu
nô lệ sang chế độ phong kiến kiểu phương Đông – thời kỳ Đông Chu Liệt Quốc
hay Xuân Thu Chiến Quốc với chiến tranh liên miên, tàn khốc, trật tự xã hội cũng
như luân lý đạo đức sụp đổ, cái cũ đã qua, cái mới chưa đến, lòng người chao đảo
không biết đi về đâu.
Trung Hoa cổ đại có lịch sử lâu đời từ cuối thiên niên kỷ III TCN kéo dài tới
tận thế kỷ III TCN với sự kiện Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Hoa mở đầu cho
thời kỳ phong kiến. Trong hơn 2000 năm lịch sử ấy, lịch sử Trung Hoa được phân
chia làm 2 thời kỳ lớn: Thời kỳ từ thế kỷ IX TCN trở về trước và thời kỳ từ thế kỷ
VIII TCN đến cuối thế kỷ III TCN.
1.1. Thời kỳ thứ nhất: Có các triều đại nhà Hạ, nhà Thương và nhà Tây
Chu. Theo các văn bản cổ, nhà Hạ ra đời vào khoảng thế kỷ XXI TCN, đánh dấu sự
mở dầu cho chế độ chiếm hữu nô lệ ở Trung Hoa. Khoảng nửa đầu thế kỷ XVII
TCN, người đứng đầu bộ tộc Thương là Thành Thang đã lật đổ nhà Hạ, lập ra nhà
Thương, đóng đô ở đất Bạc (Hà Nam hiện nay). Đến thế kỷ XVI TCN, Bàn Canh
rời đô về đất Ân nên nhà Thương còn gọi là nhà Ân. Vào khoảng thế kỷ XI TCN,
Chu Vũ Vương đã giết vua Trụ nhà Ân lập ra nhà Chu (giai đoạn đầu là Tây Chu),
đưa chế độ nô lệ ở Trung Hoa lên đỉnh cao. Nhà Chu đã thực hiện quốc hữu hóa về
tư liệu sản xuất (gồm ruộng đất và sức lao động) rất nghiêm ngặt, tất cả đều thuộc
quyền quản lý của vua nhà Chu . Đồng thời, thành lập những đô thị lớn tạo nên sự
đối lập rất lớn giữa thành thị và nông thôn.
Trong thời kỳ này, thế giới quan thần thoại, tôn giáo và chủ nghĩa duy tâm
thần bí thống trị trong đời sống tinh thần. Những tư tưởng triết học đã xuất hiện,



nhưng chưa đạt tới mức là một hệ thống. Nó đã gắn chặt thần quyền với thế quyền,
lý giải sự liên hệ mật thiết giữa đời sống chính trị - xã hội với lĩnh vực đạo đức
luân lý. Lúc này cũng đã xuất hiện những quan niệm có tính chất duy vật mộc mạc,
những tư tưởng vô thần tiến bộ.
Về khoa học, họ đã phát minh ra chữ viết và dựa vào sự quan sát vận hành
của mặt trăng, các vì sao, tính chất chu kỳ của nước sông và quy luật sinh trưởng
của cây trồng mà họ đã biết làm ra lịch (am lịch)
1.2. Thời kỳ thứ hai: là thời kỳ Đông Chu (còn gọi là thời kỳ Xuân Thu Chiến Quốc), thời kỳ chuyển biến từ chế độ chiếm hữu nô lệ sang chế độ phong
kiến. Sự phát triển của sức sản xuất đã tác động mạnh mẽ đến hình thức sở hữu
ruộng đất và kết cấu giai tầng của xã hội. Nếu dưới thời Tây Chu, đất đai thuộc sở
hữu của nhà vua thì nay thuộc về tầng lớp địa chủ mới lên và chế độ sở hữu tư
nhân về ruộng đất hình thành.Từ đó, sự phân hóa sang hèn dựa trên cơ sở tài sản
xuất hiện. Xã hội lâm vào cảnh loạn lạc, rối ren và chiến tranh xảy ra liên miên.
Đây chính là điều kiện lịch sử đòi hỏi giải thể chế độ nô lệ thị tộc nhà Chu, hình
thành chế độ phong kiến; đòi hỏi giải thể nhà nước của chế độ gia trưởng, xây dựng
nhà nước phong kiến nhằm giải phóng lực lượng sản xuất, mở đường cho xã hội
phát triển.
Sự phát triển sôi động của xã hội đã đặt ra và làm xuất hiện những tụ điểm,
những trung tâm của những "kẻ sĩ" luôn tranh luận về trật tự xã hội cũ và đề ra
những mẫu hình của một xã hội trong tương lai. Lịch sử gọi đây là thời kỳ "Bách
gia chư tử" (trăm nhà trăm thầy), "Bách gia tranh minh" (trăm nhà đua tiếng).
Chính trong quá trình ấy đã sản sinh ra những nhà tư tưởng lớn và hình thành nên
các trường phái triết học khá hoàn chỉnh. Đặc điểm của các trường phái này là lấy
con người và xã hội làm trung tâm của sự nghiên cứu, có xu hướng chung là giải
quyết những vấn đề thực tiễn chính trị - đạo đức của xã hội. Theo Lưu Hâm (đời
Tây Hán), Trung Hoa thời kỳ này có chín trường phái triết học chính (gọi là Cửu
lưu hay Cửu gia) là: Nho gia, Mặc gia, Đạo gia, Âm dương gia, Danh gia, Pháp gia,
Nông gia, Tung hoành gia, Tạp gia (có thuyết còn cho có thêm trường phái Tiểu
thuyết gia). Trừ Phật giáo được du nhập từ ấn Độ sau này, các trường phái triết học



được hình thành vào thời kỳ này được bổ sung và hoàn thiện qua nhiều giai đoạn
lịch sử và tồn tại cho tới thời kỳ cận đại.
Có thể khái quát một số đặc điểm của lịch sử xã hội Trung Quốc như sau:
Một là, công xã nông thôn được bảo tồn lâu dài trong suốt thời kỳ lịch sử cổ
- trung đại, với hạt nhân của nó là chế độ đại gia đình phụ quyền (tông pháp) được
xác lập vững chắc. Địa vị của người con trưởng quan trọng nhất trong nhà, trách
nhiệm cũng lớn nhất, được hưởng gia tài, giữ việc hương khói.
Hai là, ở Trung Quốc, nhà nước ra đời trên cơ sở trình độ kỹ thuật còn non
kém (đồ sắt chưa được sử dụng phổ biến); trong xã hội, mức độ phân hóa giai cấp
chưa sâu sắc. Hình thức bóc lột là hình thức cống nạp; tô và thuế nhập làm một.
Mối quan hệ của các thành viên trong xã hội đối với nhà nước là quan hệ của thần
dân đối với vua chứ không phải là mối quan hệ của công dân đối với nhà nước.
Ba là, ruộng đất công, trên nguyên tắc, toàn bộ đất đai trong toàn quốc là
thuộc quyền sở hữu của nhà vua, mọi người dân chỉ có quyền sử dụng đất. Chỉ
bằng một quyết định, nhà nước có thể tịch thu ruộng đất của bất cứ ai.
Bốn là, cho đến trước khi bị chủ nghĩa thực dân tư bản phương Tây xâm
lược, trên đất nước Trung Quốc chưa hề có một cuộc cách mạng xã hội theo đúng
nghĩa. Trong lòng xã hội, các kết cấu mới – cũ đan xen lẫn nhau, cùng cộng sinh
bên nhau trong suốt quá trình lịch sử. Thế kỷ VIII TCN phân tầng xã hội đã bắt đầu
biến đổi sâu sắc, kết cấu giai tầng phức tạp, xung đột đã gay gắt.
Năm là, Trung Quốc được gọi là một trong những nước có nền văn minh
sớm nhất và rực rỡ nhất trong lịch sử, cho đến năm 1911, lịch sử Trung Quốc trải
qua ba thời kỳ kế tiếp nhau: thời kỳ thượng cổ, cổ đại, trung cổ. Tuy nhiên, tư
tưởng triết học Trung Quốc chỉ nở rộ ở nửa cuối thời kỳ cổ đại (vào thời Đông
Chu) và được duy trì phát triển ít nhiều ở thời kỳ Trung cổ.
2. Đặc điểm của triết học Trung Quốc cổ, trung đại
Xuất hiện và phát triển trong điều kiện như vậy, triết học Trung Quốc có một
số đặc điểm cơ bản sau:

- Thứ nhất, triết học Trung Quốc nhấn mạnh mặt thống nhất trong mối quan
hệ giữa con người và vũ trụ. Đây là tư tưởng xuyên suốt nhiều trường phái, học


thuyết khác nhau. Trong những kinh điển chủ yếu của Nho giáo (Kinh dịch, Đại
học, Trung dung, Luận ngữ, Mạnh tử...) đều nhất quán tư tưởng “biết đến cùng cái
tính của con người thì cũng có thể biết đến cùng cái tính của vạt vật trời đất”.
Ngoài ra, các trường phái, học thuyết khác cũng thể hiện rõ quan điểm này, Trang
Chu cho rằng, trời đất với ta cùng sinh, vạn vật với ta là một...
- Thứ hai, triết học Trung Quốc cổ, trung đại luôn nhấn mạnh tinh thần nhân
văn, xuất phát từ con người, chú trong đến các tư tưởng triết học liên quan đến con
người, lấy con người làm vấn đề trung tâm. Nghiên cứu thế giới cũng chỉ nhằm làm
rõ vấn đề con người. Tuy nhiên con người không được chú ý trên tất cả các mặt mà
chỉ chú ý trên khía cạnh luân lý, đạo đức. Vấn đề bản thể luận trong triết học Trung
Quốc rất mờ nhạt, còn trong triết học phương Tây lại đặt trọng tâm vào nghiên cứu
thế giới, vấn đề con người cũng chỉ được bàn tới nhằm giải thích thế giới. Do đó,
khác với triết học Trung Quốc, trong triết học phương Tây, vấn đề bản thể luận rất
đậm nét.
Về bản chất con người (tính người, Khổng Tử cho gần nhau (giống nhau),
nhưng do tập quán, phong tục mà xa nhau (khác nhau) (“Tính tương cận, tập tương
viễn”); Mạnh Tự cho tính người (nhân tính) vốn thiện; Tuân Tử cho tính người vốn
ác; Cáo Tử cho tính không thiện cũng không bất thiện. Đổng Trọng Thư đưa ra tính
tam phẩm, còn Hàn Dũ đưa ra có tính ba bậc. Quan niệm về bản chất con người,
đường đời, số phận, quan hệ chính trị, chuẩn mực đạo đức tạo thành đạo làm người
Triết học Trung Quốc cổ, trung đại để lại nhiều triết lý về đạo làm người, nhưng có
hạn chế trong việc vượt ra thế giới để chinh phục. Điều này giải thích cho khoa học
kỹ thuật của Trung Quốc không phát triển, không cổ vũ cho phát triển sản xuất. Họ
đưa ra triết lý về học: nhân – nghĩa – trí – học, tu thân – trị gia – tề quốc. Học để
làm người quân tử, nhưng người quân tử không biết sản xuất.
Về số phận con người, Nho giáo quy tất cả là do mệnh trời; Tuân Tử cho

rằng con người có thể thắng được trời. Từ đó triết học Trung Quốc hướng đến mẫu
người lý tưởng như sĩ, quân tử, đại trượng phu, thánh nhân.
Triết học Trung Quốc cổ, trung đại chú trọng đến lĩnh vực chính trị - đạo đức
của xã hội, coi việc thực hành đạo đức là hoạt động thực tiễn căn bản nhất của một


đời người. Có thể nói, đây cũng chính là nguyên nhân dẫn đến sự kém phát triển về
nhận thức luận và sự lạc hậu về khoa học thực chứng của Trung Hoa. Bởi đây là
thời kỳ đảo lộn của xã hội lúc bấy giờ nên triết học đã đặc biệt quan tâm, suy tư,
tìm cách lý giải và tìm ra những triết lý, những biện pháp nhằm khắc phục hiện
tượng xã hội biến động trong lịch sử chính trị, cai trị của các triều đại. Từ đó làm
xuất hiện nhiều học thuyết chính trị, tư tưởng, đạo đức khác nhau như Nho gia,
Mặc gia và Pháp gia. Ngay cả những học thuyết mà theo tôn chỉ mục đích của nó là
xa rời chính trị nhưng thực tế vẫn bàn về chính trị và đạo đức như phái Đạo gia của
Lão Tử và Trang Tử thời cổ đại. Học thuyết Âm dương – Ngũ hành vốn là học
thuyết của chủ trương luận và những vấn đề nguyên lý biến đổi của trời đất, vạn vật
cũng được vận dụng để lý giải những vấn đề chính trị, đạo đức của xã hội, con
người.
- Thứ ba, triết học Trung Quốc ít tồn tại dưới dạng triết học thuần túy mà
thường được trình bày xen kẽ hoặc ẩn giấu đằng sau với những vấn đề cấu trúc xã
hội, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật. Vì vậy, ở Trung Quốc ít khi có triết gia và các
phần triết học độc lập. Cho nên, nếu ở phương Đông nói chung, Trung Quốc nói
riêng triết học ẩn giấu đằng sau các khoa học khác thì ở phương Tây ngay từ đầu,
triết học đã là một khoc học độc lập, các khoa học khác lại ẩn giấu ở đằng sau triết
học ở vào buổi bình minh của nó.
- Thứ tư, về mặt nhận thức, triết học Trung Quốc bàn nhiều về vấn đề trực
giác tâm linh, những vấn đề phi lý tính. Phương pháp nhận thức này, xét về góc độ
nào đó nó phù hợp với đối tượng mà nó đặt ra để nghiên cứu. Nó thường không
được trình bày dưới dạng hình thức hệ thống lý luận lôgic như các tác phẩm triết
học hiện đại. Nhìn chung, lý luận nhận thức trong triết học Trung Quốc là phiến

diện, không xem giới tự nhiên là đối tượng nhận thức, mà chỉ nhận thức chủ yếu về
mặt luân lý đạo đức. Đặc điểm nổi bật của phương thức tư duy của triết học Trung
Quốc cổ, trung đại là nhận thức trực giác, coi trọng tác dụng của cái "Tâm", coi đó
là gốc rễ của nhận thức.
- Thứ năm, triết học Trung Quốc vừa thống nhất vừa đa dạng. Thống nhất ở
chỗ, mặc dù phong phú, đa dạng nhưng nhìn chung các học thuyết triết học tập


trung vào các vấn đề: (1) làm thế nào để thống nhất đất nước; (2) làm thế nào để ổn
định xã hội và (3) các chuẩn mực đạo đức mà con người phải tuân thủ. Tuỳ theo lập
trường chính trị khác nhau và lợi ích giai cấp khác nhau mà có cách giải đáp khác
nhau về 1 vấn đề chính trị đạo đức. Do đó nó tạo nên tính vừa phong phú và vừa
sâu sắc của triết học Trung Hoa cổ đại. Chẳng hạn, vấn đề triết lý về bản tính con
người. Khổng Tử và Mạnh Tử theo xu hướng khẳng định bản tính thiện của con
người. Ngược lại, Tuân Tử và Hàn Phi Tử lại chủ trương biện luận về bản tính bất
thiện của con người; còn Lão Tử, Trang Tử lại đưa ra luận thuyết về bản tính tự
nhiên của con người. Với những quan niệm khác nhau về bản tính người như thế
lại là điểm xuất phát cho một tư duy triết lý về những phương cách coi trọng giáo
dục hay pháp trị trong đạo trị quốc của các học thuyết khác nhau. Chẳng hạn, Nho
gia đưa ra đường lối chính danh, đức trị; Pháp gia đưa ra đường lối pháp trị; Mặc
gia đưa ra đường lối kiêm ái; Đạo gia đường lối vô vi... Nó đa dạng ở chỗ có rất
nhiều trường phái, khuynh hướng tư tưởng, với 9 trường phái và đặc biệt nổi bật
hơn cả là 6 trường phái lớn có ảnh hưởng mạnh mẽ trong đời sống, trong lịch sử xã
hội là: Nho gia, Mặc gia, Đạo gia, Pháp gia, Âm Dương gia, Danh gia. Mỗi nhà
đều có chủ trương, đường lối riêng của mình.
Triết học Trung Quốc cổ, trung đại nhấn mạnh sự thống nhất hài hòa giữa tự
nhiên và xã hội, phản đối sự "thái quá" hay "bất cập". Trong các trào lưu triết học
Trung Quốc cổ đại, thường đan xen các yếu tố duy vật và duy tâm, biện chứng và
siêu hình. Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm không gay
gắt quyết liệt như ở phương Tây, không có đấu tranh biện chứng giữa các học

thuyết triết học. Điều này tạo nên đặc điểm tính thiếu triệt để, tính thiếu nhất quán.
Chẳng hạn như:
- Nho giáo về cơ bản là duy tâm, nhưng vẫn có những luận điểm duy vật,
nhất là ở thời kỳ đầu. Thế giới quan của Khổng Tử dao động, giữa chủ nghĩa duy
vật và chủ nghĩa duy tâm, giữa chủ nghĩa vô thần và chủ nghĩa hữu thần. Một mặt
ông xem trời (thiên) là giới tự nhiên, có sự vận hành của tự nhiên, ông nói “Trời
nói lên tất cả? Bốn mùa vận hành, trăm vật sinh ra”. Nhưng mặt khác, ông lại cho
rằng trời một lực lượng vô hình chi phối vận mệnh của xã hội và con người, “sống


chết có mệnh, giàu sang tại trời”. Ông chủ trương thờ phụng quỷ thần, kính trọng
quỷ thần, nhưng lại xa lánh quỉ thần “quỉ thần thì đáng kính, nhưng có chớ gần”.
- Đạo gia, Mặc gia, Âm Dương ngũ hành gia bên cạnh những luận điểm duy
vật lại có cả những luận điểm duy tâm.
Trong suốt chiều dài hơn 2.000 năm phong kiến Trung Hoa, các học thuyết
cổ đại thường được các nhà tư tưởng phong kiến kế thừa, tự nhận thuộc về trường
phái đã có nào đó từ thời cổ đại mà không lập ra học thuyết mới cho nên sự phát
triển của triết học Trung Quốc chủ yếu theo hướng từ từ thay đổi về lượng mà ít
thấy có sự nhảy vọt về chất.
-

Thứ 6: Phép biện chứng trong triết học Trung Quốc thể hiện trong học thuyết biến
dịch (Kinh dịch); sự tương tác giữa âm dương, ngũ hành; trong học thuyết Lão Tử.
Nhìn chung, biện chứng trong triết học Trung Quốc vẫn còn thô sơ, đơn giản, biện
chứng vòng tròn, tuần hoàn khép kín.
Nho giáo, Đạo giáo và Phật giáo là ba dòng tư tưởng chính kiến tạo nên hệ
tư tưởng phong kiến Trung Quốc. Song trên thực tế, Nho giáo vẫn là dòng chủ đạo,
đóng vai trò cốt yếu trong triết học Trung Quốc mở đầu cho thời kì phong kiến.
3. Một số học thuyết tiêu biểu của triết học Trung Quốc cổ, trung đại
- Thuyết Âm - Dương, Ngũ hành

Ở Trung Hoa, những quan niệm triết lý về "âm - dương", "ngũ hành" đã
được lưu truyền từ rất sớm. Tới thời Xuân thu - Chiến quốc, những tư tưởng về Âm
dương - Ngũ hành đã đạt tới mức là một hệ thống các quan niệm về bản nguyên và
tính biến dịch của thế giới.
- Tư tưởng triết học về Ngũ hành
Tư tưởng triết học về Ngũ hành có xu hướng đi vào phân tích cấu trúc của
vạn vật và quy nó về những yếu tố khởi nguyên với những tính chất khác nhau,
những tương tác (tương sinh, tương khắc) với nhau. Đó là năm yếu tố: Kim - Mộc Thủy - Hỏa - Thổ. Kim tượng trưng cho tính chất trắng, khô, cay, phía Tây, v.v.;
Thủy tượng trưng cho tính chất đen, mặn, phía Bắc, v.v.; Mộc tượng trưng cho tính
chất xanh, chua, phía Đông, .v.v.; Hỏa tượng trưng cho tính chất đỏ, đắng, phía
Nam,.v.v.;

Thổ

tượng

trưng

cho

tính

chất

vàng,

ngọt,




giữa,.v.v.


Năm yếu tố này không tồn tại biệt lập tuyệt đối mà trong một hệ thống ảnh hưởng
sinh - khắc với nhau.
-

Nho gia (thường gọi là Nho giáo)
Nho gia xuất hiện vào khoảng thế kỷ VI TCN dưới thời Xuân Thu, người
sáng lập là Khổng Tử (551 - 479 TCN). Đến thời Chiến Quốc, Nho gia đã được
Mạnh Tử và Tuân Tử hoàn thiện và phát triển theo hai xu hướng khác nhau: duy
vật và duy tâm, trong đó dòng Nho gia Khổng - Mạnh có ảnh hưởng rộng và lâu
dài nhất trong lịch sử Trung Hoa và một số nước lân cận.
Kinh điển chủ yếu của Nho gia gồm Tứ Thư (Luận ngữ, Đại học, Trung
Dung, Mạnh Tử) và Ngũ Kinh (Thi, Thư, Lễ, Dịch và Xuân Thu). Các kinh sách
này hầu hết đều viết về xã hội, về kinh nghiệm lịch sử Trung Hoa. Điều này cho
thấy rõ xu hướng biện luận về xã hội, về chính trị - đạo đức là những tư tưởng cốt
lõi của Nho gia.
- Đạo gia (hay học thuyết về Đạo)
Người sáng lập ra Đạo gia là Lão Tử (khoảng thế kỷ VI TCN). Học thuyết
của ông được Dương Chu và Trang Chu thời Chiến quốc hoàn thiện và phát triển
theo hai hướng ít nhiều khác nhau. Những tư tưởng triết học của Đạo gia được
khảo cứu chủ yếu qua Đạo đức kinh và Nam hoa kinh.
Tư tưởng cốt lõi của Đạo gia là học thuyết về "Đạo" với những tư tưởng biện
chứng, cùng với học thuyết "Vô vi" về lĩnh vực chính trị - xã hội.
Về bản thể luận, tư tưởng về Đạo là nội dung cốt lõi trong bản thể luận của
Đạo gia.
- Mặc gia
Phái Mặc gia do Mặc Tử, tức Mặc Địch (khoảng từ 479 -381 TCN) sáng lập
thời Xuân Thu. Sang thời Chiến Quốc dã phát triển thành phái Hậu Mặc. Đây là

một trong ba học thuyết lớn nhất đương thời (Nho - Đạo - Mặc).
Tư tưởng triết học trung tâm của Mặc gia thể hiện ở quan niệm về "Phi thiên
mệnh". Theo quan niệm này thì sự giàu, nghèo, thọ, yểu...không phải là do định
mệnh của Trời mà là do người. Nếu người ta nỗ lực làm việc, tiết kiệm tiền của thì


ắt giàu có, tránh được nghèo đói. Đây là quan niệm khác với quan niệm Thiên
mệnh có tính chất thần bí của Nho giáo dòng Khổng - Mạnh.
- Pháp gia
Là một trường phái triết học lớn của Trung Hoa cổ đại, chủ trương dùng
những luật lệ, hình pháp của nhà nước là tiêu chuẩn để điều chỉnh hành vi đạo đức
của con người và củng cố chế độ chuyên chế thời Chiến quốc.
Là tiếng nói đại diện cho tầng lớp quý tộc mới, đấu tranh kiên quyết chống lại tàn
dư của chế độ công xã gia trưởng truyền thống và tư tưởng bảo thủ, mê tín tôn giáo
đương thời.
Đại diện của phái Pháp gia là Hàn Phi Tử (280 - 233 TCN).
4. Một số nhận định về triết học Trung Hoa cổ, trung đại
Nền triết học Trung Hoa cổ đại ra đời vào thời kỳ quá độ từ chế độ chiếm
hữu nô lệ lên chế độ phong kiến. Trong bối cảnh lịch sử ấy, mối quan tâm hàng đầu
của các nhà tư tưởng Trung hoa cổ đại là những vấn đề thuộc đời sống thực tiễn
chính trị - đạo đức của xã hội. Tuy họ vẫn đứng trên quan điểm duy tâm để giải
thích và đưa ra những biện pháp giải quyết các vấn đề xã hội, nhưng những tư
tưởng của họ đã có tác dụng rất lớn trong việc xác lập một trật tự xã hội theo mô
hình chế độ quân chủ phong kiến trung ương tập quyền theo những giá trị chuẩn
mực chính trị - đạo đức phong kiến phương Đông.
Bên cạnh những suy tư sâu sắc về các vấn đề xã hội, nền triết học Trung Hoa
thời cổ còn cống hiến cho lịch sử triết học thế giới những tư tưởng sâu sắc về sự
biến dịch của vũ trụ. Những tư tưởng về Âm dương - Ngũ hành tuy còn có những
hạn chế nhất định, nhưng đó là những triết lý đặc sắc mang tính chất duy vật và
biện chứng của người Trung Hoa thời cổ, có ảnh hưởng lớn đến thế giới quan triết

học sau này ở Trung Hoa và một số nước khác trong khu vực.



×