Đặc điểm của triết học cổ điển Đức
MỤC LỤC
MỤC LỤC 1
I. Điều kiện kinh tế - xã hội, khoa học 2
II. Một số học thuyết triết học !êu biểu 2
1.Immanuen Cantơ (1724 – 1804) 2
1.1. Quan niệm về đối tượng và nhiệm vụ của triết học 3
1.2. Quan niệm về thế giới 3
1.3. Quan niệm về nhận thức 4
1.4. Quan niệm về con người 6
1.5. Quan niệm về chính trị xã hội 7
1.6. Quan niệm về thẩm mỹ 8
2. Giooc Vinhem Phridrich Heghen (1770 - 1831) 8
2.1. Kết cấu của hệ thống triết học Hêghen 9
2.2. Quan niệm về thế giới 9
2.3. Quan điểm về nhận thức 10
2.4. Quan điểm về con người và chính trị xã hội 11
3. Lutvich Phoiobac (1804 - 1872) 12
3.1. Sự phê phán triết học Hêghen 12
3.2. Quan niệm về thế giới 13
3.3. Quan niệm về nhận thức 13
3.4. Quan niệm về con người 14
3.5. Quan niệm về xã hội 14
III. Đặc điểm triết học cổ điển Đức 15
1
Đặc điểm của triết học cổ điển Đức
I. Điều kiện kinh tế - xã hội, khoa học
Triết học cổ điển Đức ra đời trong điều kiện lịch sử hết sức đặc biệt. Nước
Đức vào cuối thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX vẫn còn là một quốc gia phong
kiến điển hình, với gần 300 cát cứ phong kiến với quân đội và hàng rào thuế
quan riêng trong đó nước Phổ là lớn nhất. Triều đình vua Phổ Phriđrich Vin
Hem vẫn tăng cường quyền lực duy trì chế độ quân chủ, cản trở đất nước phát
triển theo con đường tư bản chủ nghĩa. Kinh tế không phát triển, chính trị - xã
hội rối ren. Cả đất nước bao trùm bầu không khí bất bình của đông đảo quần
chúng.
Trong khi đó ở nước Pháp đã tiến hành cuộc cách mạng tư sản, ở nước Anh
thực hiện cuộc cách mạng công nghiệp làm rung chuyển châu Âu, đưa châu Âu
bước vào nền văn minh công nghiệp. Tấm gương của các nước Tây Âu đã thức
tỉnh tinh thần cách mạng của giai cấp tư sản Đức và những bộ phận tiến bộ khác
của xã hội Đức. Nhưng vì giai cấp tư sản Đức và những lực lượng tiến bộ khác
nằm rải rác ở những vương quốc nhỏ tách rời nhau, nhỏ bé về số lượng, yếu kém
về kinh tế và chính trị nên không thể tiến hành cách mạng tư sản trong thực tiễn,
mà chỉ tiến hành cách mạng về phương diện tư tưởng. Họ muốn thỏa hiệp với
tầng lớp phong kiến quý tộc Phổ, giữ lập trường cải lương trong việc giải quyết
những vấn đề phát triển đất nước.
Trước đòi hỏi của quá trình phát triển phương thức sản xuất tư bản ở các
nước Tây Âu, khoa học tự nhiên đã đạt nhiều thành tựu lớn: phát hiện ra điện,
phát hiện ra ôxy và bản chất sự cháy của Lavoadie; việc phát hiện ra tế bào của
Lơvenhuc; học thuyết về dưỡng khí của Pritski và Sielo Những thành tựu đó
chứng tỏ sự hạn chế của phương pháp tư duy siêu hình trong việc lý giải bản
chất của các hiện tượng tự nhiên và thực tiễn xã hội đang diễn ra. Nó đòi hỏi cần
có cách nhìn mới, phương pháp mới, quan niệm mới về vai trò và khả năng của
con người. Triết học cổ điển Đức ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu đó.
II. Một số học thuyết triết học tiêu biểu
1. Immanuen Cantơ (1724 – 1804)
Cantơ sinh năm 1724 trong một gia đình quý tộc Phổ. Thời trẻ từng theo
học trường đại học Tổng hợp Kenixbéc. Sau khi tốt nghiệp ông được giữ lại và
giảng dạy ở đây. Ông quan tâm chủ yếu đến những vấn đề triết học và bỏ nhiều
2
Đặc điểm của triết học cổ điển Đức
công sức để viết các tác phẩm triết học; trong đó có những tác phẩm chủ yếu
như: “Lịch sử tự nhiên đại cương và thuyết bầu trời” (1755), “Phê phán lý tính
thuần túy” (1781), “Phê phán lý tính thực tiễn” (1788), “Phê phán khả năng suy
diễn” (1790).
Triết học của Cantơ phát triển qua hai thời kỳ chính; thời kỳ từ năm 1746
đến 1770, gọi là “thời kỳ tiền phê phán” bộc lộ quan điểm duy vật gắn với khoa
học tự nhiên. Từ năm 1770 trở đi gọi là “thời kỳ phê phán” bộc lộ nhiều quan
điểm triết học khó hiểu. Vì vậy để nắm được nội dung triết học của ông, chúng
ta nghiên cứu một số vấn đề chủ yếu sau:
1.1. Quan niệm về đối tượng và nhiệm vụ của triết học
Cantơ coi đối tượng của triết học là phải xác định bản chất của con người;
ông cho rằng cho đến nay các khoa học vẫn chưa có được một nền tảng vững
chắc bởi vì khoa học về con người vẫn chưa được chú trọng và phát triển đúng
mức. Do đó, triết học phải hướng vào việc giải quyết những vấn đề cuộc sống và
hoạt động thực tiễn của con người. Triết học cần đem lại cho con người một cơ
sở và nền tảng thế giới quan mới, vạch ra những nguyên tắc cơ bản của cuộc
sống. Để làm được điều đó, triết học phải giải quyết các vấn đề sau:
“Tôi có thể biết được cái gì?
Tôi cần phải làm gì?
Tôi có thể hy vọng cái gì ”
Ba vấn đề trên phản ánh ba khía cạnh cơ bản nhất, trong mối quan hệ giữa
con người với thế giới, đó là: Nhận thức - Thực tiễn. Vấn đề thứ nhất mang tính
thế giới quan và nhận thức luận được nghiên cứu trong triết học lý luận. Vấn đề
thứ hai mang tính thực tiễn được nghiên cứu trong triết học thực tiễn. Vấn đề
thứ ba mang cả tính thực tiễn, cả tính lý luận được nghiên cứu trong thẩm mỹ
học. Vì vậy, triết học của Cantơ chứa đựng đầy tính nhân đạo, đem lại cho con
người một cách nhìn mới về thế giới và chính bản thân mình, đưa con người tới
tự do và hạnh phúc.
1.2. Quan niệm về thế giới
Quan niệm về thế giới của Cantơ được biểu hiện chủ yếu qua tác phẩm:
“Lịch sử tự nhiên đại cương và thuyết bầu trời”, “Phê phán lý tính thuần tuý”.
Xuất phát từ luận điểm: “Hãy cho tôi vật chất, tôi sẽ chỉ cho các anh thấy thế
giới ra đời từ vật chất nhưng thế nào”. Ông khái quát định luật vạn vật hấp dẫn
3
Đặc điểm của triết học cổ điển Đức
của Niutơn và nghiên cứu bầu trời, trái đất, đại dương; từ đó đưa ra quan niệm
sau:
Tất cả các hành tinh, vũ trụ không phải ngay từ đầu đã có được trạng thái
tồn tại như hiện nay. Từ thời xa xưa nhất, cả thế giới đều nằm trong trạng thái
hỗn độn. Nhờ lực hấp dẫn mà các hạt vật chất khuếch tán khắp không gian đã
dần dần tụ lại thành đám mây lớn. Thông qua lực hút và lực đẩy, trong lòng đám
mây xuất hiện những luồng gió xoáy làm cho các hạt vật chất kết lại theo hình
cầu. Do ma sát khi va chạm nên chúng ở nhiệt độ cao. Vì lực hút chiếm ưu thế
nên các hạt vật chất liên kết với nhau tạo thành mặt trời và các hành tinh có độ
nóng khác nhau tuỳ theo mức độ ma sát. Nhưng vì khoảng không vũ trụ quá lớn
và do có lực đẩy nên lực hấp dẫn không đủ sức hút tất cả lượng vật chất của vũ
trụ thành một khối, mà tạo thành nhiều hành tinh độc lập với nhau. Do lực hấp
dẫn tỉ lệ thuận với khối lượng, nên những hành tinh ở gẫn mặt trời thì nặng hơn
so với các hành tinh ở xa. Trái đất cũng hình thành như vậy. Lúc đầu nhiệt độ rất
cao, sau do có sự tỏa nhiệt nên nhiệt độ bề mặt hạ thấp dần, đông cứng lại tạo
thành lớp bên ngoài. Nhiệt độ tiếp tục hạ thấp đến mức độ phù hợp thì các loại
sinh vật hình thành. Còn lớp ruột bên trong vẫn ở dạng nóng chảy. Như vậy,
không chỉ mọi sự vật mà cả toàn bộ vũ trụ nói chung đều nằm trong quá trình
phát sinh, phát triển và diệt vong như một quy luật “sắt đá của tự nhiên”.
Quan điểm duy vật trên được ông phát triển thêm trong khi bàn đến “vật tự
nó”. Ông cho rằng trong thế giới luôn tồn tại “vật tự nó” một cách khách quan
độc lập bên ngoài con người, chính nó tác động tới con người tạo ra kinh
nghiệm cảm tính.
Quan niệm về thế giới của Cantơ chứa đựng nhiều tư tưởng duy vật và
hoàn chỉnh hơn so với các giả thuyết về vũ trụ trước đó, nó đem lại cho con
người một cách nhìn mới – cách nhìn phát triển về thế giới; bước đầu xây dựng
nền tảng cho quan niệm phát triển biện chứng về tự nhiên.
1.3. Quan niệm về nhận thức
Quan niệm nhận thức của Cantơ được trình bày chủ yếu trong tác phẩm
“phê phán lý tính thuần túy”, nhằm trả lời câu hỏi “Tôi có thể biết được cái gì”.
Theo Cantơ trước khi nhận thức phải xác định rõ đối tượng và nghiên cứu giới
hạn của tri thức con người. Ông khẳng định đối tượng nhận thức là các sự vật
trong thế giới và nó tồn tại khách quan. Nhưng do còn bị ảnh hưởng của quan
niệm siêu hình nên ông chia đối tượng nhận thức thành hai phần: Hiện tượng
(phênomen) và “Vật tự nó” (numen). Ở đây hiện tượng bao gồm hình vẻ bề
4
Đặc điểm của triết học cổ điển Đức
ngoài, các thuộc tính bề ngoài của đối tượng. Còn “Vật tự nó” bao gồm các mặt
cơ bản, bản chất bên trong và các quy luật vận động nội tại của đối tượng. Hiện
tượng và “Vật tự nó” phân định tuyệt đối không có mối liên hệ.
Về tri thức của loài người ông chia thành hai loại: “Tri thức kinh nghiệm
cảm tính” và “ Tri thức tiên nghiệm” . “Tri thức kinh nghiệm cảm tính” chỉ nắm
bắt được những hiện tượng riêng biệt hỗn độn. “Tri thức tiên nghiệm” có sẵn
trong ý thức của mỗi người có khả năng sắp đặt lại tri thức kinh nghiệm theo
một trình tự liên kết chặt chẽ với nhau thành mối liên hệ có tính tất yếu, phổ
quát. Như vậy, một mặt Cantơ thừa nhận đối tượng nhận thức (các sự vật) tồn tại
khách quan, mặt khác lại cho rằng quy luật của thế giới là sản phẩm của ý thức
con người. Đây là một biểu hiện của quan điểm nhị nguyên luận.
Ông cho rằng mục đích của con người là nhận thức “vật tự nó”, muốn thế
phải trải qua quá trình phát triển lần lượt qua ba giai đoạn sau:
Giai đoạn trực quan cảm tính: Sự vật bên ngoài tác động vào giác quan
của con người một cách đơn lẻ, riêng biệt cho nên con người chỉ thu nhận được
một mớ cảm giác hỗn độn, kết quả đó chưa phản ánh đúng sự vật. Sau đó, nhờ
có hai hình thức tiên nghiệm là không gian và thời gian (là hai hình thức có sẵn
từ trước trong ý thức) mà mớ cảm giác được xếp đặt lại theo một trình tự trở
thành tri giác. Những tri giác này còn mang tính chủ quan và đơn lẻ chưa phổ
quát vì nó phụ thuộc vào độ nhạy cảm của cơ quan cảm giác ở mỗi con người.
Trực quan cảm tính mới giúp con người hiểu những gì sự vật biểu hiện ra bên
ngoài, tức hiện tượng; chưa nhận biết được “vật tự nó”.
Giai đoạn giác tín: Để khách quan hóa, phổ quát hóa kết quả trực quan
cảm tính thì phải chuyển lên giai đoạn giác tính. Giác tính là hoạt động của tư
duy quy tụ sự đa dạng của các tri giác cảm tính thông qua các khái niệm và
phạm trù. Giác tính biến các tri giác cá nhân thành các tri thức khách quan được
mọi người công nhận. Trong giai đoạn này con người thường phải sử dụng 12
phạm trù được chia thành bốn nhóm: phạm trù lượng (thống nhất, nhiều vẻ,
chỉnh thể); phạm trù chất (hiện thực, phủ định, hạn chế); phạm trù quan hệ (phụ
thuộc, độc lập, nhân, quả, tác động); phạm trù trạng thái (khả năng, tồn tại, tất
nhiên, ngẫu nhiên). Theo Cantơ nguồn gốc của phạm trù là tiên nghiệm. Các
phạm trù lúc đầu mới chỉ là các hình thức tư tưởng chưa có nội dung. Vì thế các
phạm trù phải được vận dụng vào kinh nghiệm cảm tính nhờ phép suy diễn
thông qua thời gian hình thành các lược đồ. Đây là những quy tắc hình thành
trong tư duy. Nhờ các lược đồ mà các lý luận khoa học được hình thành; từ đây
5
Đặc điểm của triết học cổ điển Đức
mới có cơ sở để sáng tạo ra các quy luật của tự nhiên. Ông kết luận: “Quy luật tự
nhiên cần được tìm trong chính chúng ta, nghĩa là trong giác tính của chúng ta”.
Như vậy, nguồn gốc của mọi tri thức con người xuất phát từ giác tính;
chúng là kết quả của phép suy diễn tiên nghiệm các phạm trù của giác tính vào
kinh nghiệm cảm tính. Kết quả của giác tính đã tạo ra cơ sở để nhận thức “vật tự
nó”.
Giai đoạn lý tín: Theo Cantơ, lý tính là giai đoạn cao nhất trong quá trình
nhận thức. Nó không nghiên cứu các quan niệm cụ thể như giác tính mà chuyên
nghiên cứu các quy tắc, nguyên tắc liên kết giác tính thành các nguyên lý chung
để nhận thức “vật tự nó”. Thế nhưng lúc này tư duy con người gặp phải những
mâu thuẫn (antinomic) không thể vượt qua được:
- Chỉnh đề: Thế giới có một điểm đầu trong thời gian, có một giới hạn
trong không gian; phản đề: thế giới không có điểm đầu trong thời gian và không
có giới hạn trong không gian.
- Chỉnh đề: Bất cứ sự vật phức tạp nào cũng đều do vật đơn giản, bộ phận
đơn giản hợp thành; phản đề: Trên thế giới không có cái gì đơn giản cả, mọi cái
đều phức tạp.
- Chỉnh đề: Trên thế giới ngoài tính nhân quả và tính tất nhiên ra, còn có tự
do; phản đề: Trên thế giới không có cái gì tự do cả.
- Chỉnh đề: Trên thế giới có một thực thể tuyệt đối; phản đề: Trên thế giới
không có một thực thể tuyệt đối nào cả.
Trong quá trình giải quyết “Tôi có thể biết được cái gì?” Cantơ vừa bộc lộ
quan điểm nhị nguyên luận, vừa biểu hiện quan điểm của thuyết không thể biết.
Một mặt thừa nhận các sự vật tồn tại khách quan, mặt khác lại khẳng định các
quy luật của thế giới là sản phẩm của tư duy. Một mặt thừa nhận khả năng nhận
thức của con người không ngừng vươn lên, mặt khác lại khẳng định con người
không thể nhận biết được “vật tự nó” tức bản chất, quy luật vận động bên trong
của các sự vật.
1.4. Quan niệm về con người
Khác hẳn với các nhà triết học Anh, Pháp, Cantơ không chỉ bàn đến lĩnh
vực bản thể luận, nhận thức luận mà còn bàn đến con người với tính cách là một
chủ thể hoạt động. Trong tác phẩm “Phê phán lý tính thực tiễn” Cantơ đã đưa ra
quan điểm như sau: Con người là chủ thể hoạt động là nền tảng và là điểm xuất
phát của mọi vấn đề triết học. Con người vừa là chủ thể, đồng thời là kết quả
6
Đặc điểm của triết học cổ điển Đức
quá trình hoạt động của chính mình. Bản thân lịch sử là phương thức tồn tại của
con người. Mỗi cá nhân hoàn toàn làm chủ vận mệnh của mình và tự ý thức về
mình. Bên cạnh quan điểm tiến bộ đó, Cantơ cùng bộc lộ hạn chế ở chỗ, đề cao
sự mạnh trí tuệ của con người tới mức cực đoan: sáng tạo ra các quy luật của thế
giới. Thần thánh hóa con người tới mức coi bản thân thế giới tự nhiên phải hoạt
động theo ý chí con người.
1.5. Quan niệm về chính trị xã hội
Quan niệm về đạo đức: Để trả lời câu hỏi “Tôi cần phải làm gì?” Cantơ đã
xây dựng một số quan niệm về đạo đức, những quan niệm đó chứa đựng trong
tác phẩm “Phê phán lý tính thực tiễn”. Ông cho rằng, trong xã hội cần phải có
các quy tắc đạo đức. Các quy tắc đó không thể xuất phát từ yếu tố cảm tính nhất
thời mà phải xuất phát từ lý tính. “Lý tính là nguồn gốc duy nhất sinh ra các
nguyên lý và chuẩn mực đạo đức” bởi vì các khát vọng cảm tính chỉ đưa con
người tới ích kỷ, phi đạo đức.
Cantơ đưa ra nguyên lý cơ bản của đạo đức, gọi là mệnh lệnh tuyệt đối.
Mệnh lệnh đòi hỏi mọi người sống phù hợp với tự nhiên, tôn trọng mình, tôn
trọng người khác, sống theo lẽ phải, tôn trọng sự thật, sống bình đẳng trong cộng
đồng. Người này có quyền nào đó, thì mọi người khác phải có quyền như thế,
tạo điều kiện để họ thực hiện được quyền đó. Mọi người cần phải ngăn chặn
những hành động trái với mệnh lệnh tuyệt đối.
Ông còn cho rằng: Tự do là phạm trù trung tâm của đạo đức, là lý tưởng
cao cả nhất của nhân loại, là cái cao quý nhất trên trần gian.
Quan điểm đạo đức tuy có nhiều điểm không tưởng phi lịch sử, phi giai
cấp, thiếu cơ sở hiện thực nhưng chứa đựng nhiều tư tưởng nhân đạo sâu sắc vì
nó góp phần xóa bỏ quan niệm ích kỷ hẹp hòi, giải phóng tư tưởng con người
khỏi gông cùm của ý thức hệ phong kiến.
Quan niệm về lịch sử: Ông cho rằng lịch sử là phương thức tồn tại của con
người như một chủ thể, trong đó bằng hoạt động của mình con người ngày càng
phát triển những khả năng và bản chất của mình. Bản thân lịch sử là một quá
trình thống nhất, phát triển theo quy luật nội tại của nó, chứ không phải do chúa
trời hay lực lượng siêu nhiên nào tạo. Vì thế, các cuộc xung đột giữa các giai
cấp khác nhau là một điều hoàn toàn phù hợp với quy luật khách quan của lịch
sử. Quan điểm về lịch sử trên biểu hiện Cantơ đang tiếp cận dần với tư tưởng
biện chứng.
7
Đặc điểm của triết học cổ điển Đức
Quan niệm về nhà nước: Thừa nhận và phát triển tư tưởng về khế ước xã
hội, Cantơ cho rằng: Nhà nước là sự liên kết của mọi người trong khuôn khổ
pháp luật nhằm giám sát và bảo đảm bình đẳng cho mọi công dân. Nhà nước ra
đời không phải là ngẫu nhiên, mà do mâu thuẫn của xã hội nhằm giải quyết
những đối kháng xã hội, điều hoà sự phát triển của xã hội theo hướng ngày càng
hoàn thiện. Cantơ mong muốn giải quyết mâu thuẫn đó bằng hòa bình, ông
muốn xóa bỏ chiến tranh vì theo ông, chiến tranh phá hoại các chuẩn mực đạo
đức của con người.
Mặc dù quan niệm về chính trị xã hội của Cantơ còn hạn chế ở chỗ chưa
nhận thấy nền tảng kinh tế làm nảy sinh các mặt khác nhau của xã hội, nhưng nó
đã bao hàm nhiều giá trị tư tưởng quý báu. Nó đặt nền móng cho quan điểm duy
vật lịch sử sau này.
1.6. Quan niệm về thẩm mỹ
Để trả lời câu hỏi “Tôi có thể hy vọng cái gì?” Cantơ xây dựng một số quan
niệm về thẩm mỹ. Những quan niệm đó được biểu hiện qua nội dung của tác
phẩm “Phê phán năng lực phán đoán”.
Ông quan niệm: Vươn lên cái đẹp là khát vọng của con người, chỉ có trong
con người mới có lý tưởng của cái đẹp. Con người tự tạo cho mình khả năng
đánh giá và thưởng thức cái đẹp. Cái đẹp là phạm trù trung tâm của thẩm mỹ
học. Nhưng ông lại cho rằng, quan niệm về cái đẹp cũng có mâu thuẫn. Một mặt
cái đẹp mang tính phổ quát tất yếu; mặt khác cái đẹp mang tính cá biệt bởi vì nó
là kết quả thưởng thức của từng cá nhân.
Immanuen Cantơ là một trong những nhà triết học của nước Đức thời kỳ
thế kỷ XVIII-XIX, những quan điểm triết học của ông cả thời kỳ “tiền phê
phán” và “thời kỳ phê phán”” đã đặt nền móng cho quan niệm biện chứng tự
nhiên, lịch sử; đồng thời đặt ra nhiều vấn đề sâu sắc cho sự phát triển của triết
học phương Tây hiện đại.
2. Giooc Vinhem Phridrich Heghen (1770 - 1831)
Heghen sinh năm 1770 ở Stuttgart là con một công chức cao cấp. Hồi còn
trẻ theo học trường đại học Tubingue. Sau khi tốt nghiệp ông làm giáo sư dạy tư
trong các gia đình, làm hiệu trưởng trường trung học Nuremberg, rồi làm giáo
sư trường đại học Heldeberg. Trong quá trình giảng dạy ông để nhiều thời gian
nghiên cứu và viết các tác phẩm triết học như: “Hiện tượng học tinh thần”
(1807), “Khoa học logic” (1812-1814), “Bách khoa toàn thư các khoa học triết
8
Đặc điểm của triết học cổ điển Đức
học” (1817), Hêghen là một nhà biện chứng lỗi lạc, nội dung triết học bao
quát nhiều lĩnh vực. Do vậy chúng ta không thể có điều kiện nghiên cứu tất cả
mà chỉ nghiên cứu một số vấn đề chủ yếu sau:
2.1. Kết cấu của hệ thống triết học Hêghen
Hệ thống triết học của ông gồm ba phần:
- Lôgic học, đây là học thuyết về các quy luật phổ biến của vận động và
phát triển, về các nguyên tắc lý tính dùng làm cơ sở cho mọi dạng tồn tại. Lôgic
học bao gồm ba bộ phận: Tồn tại, bản chất, khái niệm.
- Triết học về tự nhiên, đây là học thuyết về sự phát triển của giới tự nhiên
dưới hình thức duy tâm. Triết học tự nhiên bao gồm cả ba bộ phận: Thuyết máy
móc, thuyết hóa học, thuyết hữu cơ.
- Triết học về tinh thần, đây là học thuyết về lịch sử của con người và sự
nhận thức của con người, nguồn gốc tạo thành mọi dạng tồn tại. Phần này được
chia thành ba bộ phận: Tinh thần chủ quan, tinh thần khách quan, tinh thần tuyệt
đối.
2.2. Quan niệm về thế giới
Quan niệm về thế giới của ông được thể hiện trong tác phẩm “Hiện tượng
học tinh thần” và “Lôgic học”.
Theo Hêghen thì đầu tiên có tinh thần tuyệt đối tồn tại, bên trong chứa
đựng các mặt đối lập; hai mặt đối lập vừa thống nhất, vừa đấu tranh với nhau
làm cho nó luôn vận động phát triển khi đạt tới dạng hoàn thiện thì “Tha hóa”
(biến thành cái khác nó, nhưng chính là nó ở trạng thái khác và hình thức khác)
biểu hiện thành giới tự nhiên. Trong giới tự nhiên cũng chứa đựng các mặt đối
lập chúng vừa thống nhất và đấu tranh với nhau cho nên tạo ta động lực thúc đẩy
giới tự nhiên phát triển từ vô cơ đến hữu cơ rồi đến con người. Vì trong con
người chứa đựng các mặt đối lập cho nên, luôn nằm trong quá trình hoàn thiện,
nhưng không phải là hoàn thiện mặt thể xác mà hoàn thiện, phát triển về mặt
tinh thần ý thức. Khi phát triển đến mức độ hoàn thiện nhất con người không
những nhận thức được thế giới tự nhiên, tự nhận thức được mình mà nhận thức
được tinh thần tuyệt đối biểu hiện qua hình thức tôn giáo, nghệ thuật, triết học.
Ở đây điểm khởi đầu là “tinh thần” điểm kết thúc của sự phát triển cũng là
“tinh thần”, chỉ có khác lúc đầu là “tinh thần thế giới”, còn điểm kết thúc là
“tinh thần tuyệt đối” tồn tại ở mỗi cá nhân con người. Do đó, triết học của
Hêghen xét theo hệ thống là triết học duy tâm khách quan. Bởi vì, ông thừa nhận
9
Đặc điểm của triết học cổ điển Đức
tinh thần có trước, giới tự nhiên (vật chất) có sau phụ thuộc và phát sinh từ tinh
thần tuyệt đối.
Hêghen còn cho rằng, khi các dạng tồn tại được “tinh thần tuyệt đối” tạo ra
thì không ngừng biến đổi theo các nguyên lý:
- Một là: mỗi dạng tồn tại không những khác nhau mà còn làm “trung giới
cho nhau” tức có liên hệ với nhau.
- Hai là: Mỗi dạng tồn tại đều trải qua quá trình vận động, phát triển; quá
trình đó được thực hiện trên cơ sở của ba nguyên tắc:
Nguyên tắc thứ nhất: Chất và lượng quy định lẫn nhau. Những chuyển
hóa về lượng dẫn đến những biến đổi về chất và người lại.
Nguyên tắc thứ hai: Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập với tư
cách là nguồn gốc và động lực của sự phát triển tạo ra sự chuyển hóa giữa nội
dung với hình thức, bản chất và hiện tượng, nguyên nhân và kết quả, khả năng
và hình thức, v.v.
Nguyên tắc thứ ba: Phủ định của phủ định với tính cách là sự phát triển
diễn theo hình thức xoáy ốc.
Những nguyên lý và nguyên tắc trên là nội dung chủ yếu của phép biện
chứng mà Hêghen xây dựng. Phép biện chứng này tuy có hạn chế ở chỗ trình
bày trên cơ sở của quan điểm duy tâm nhưng nó đã phản ánh đầy đủ quá trình
vận động và phát triển chúng; trong nó đã chứa đựng hạt nhân hợp lý: không có
cái gì nhất thành bất biến, mọi cái luôn biến đổi. Đây là một giá trị lý luận chủ
yếu của triết học Hêghen.
2.3. Quan điểm về nhận thức
Quan điểm nhận thức của Hêghen được trình bày trong tác phẩm “Hiện
tượng học tinh thần” và “Lôgic học”.
Nếu như Cantơ cho rằng đối tượng nhận thức là sự vật thì Hêghen lại cho
rằng đối tượng của nhận thức là nguyên nhân tạo thành các dạng tồn tại tức “tinh
thần tuyệt đối”. Trong “Lôgic học” ông khẳng định nhận thức của con người là
sự tự nhận thức “tính thần tuyệt đối”.
Với quan điểm biện chứng Hêghen cho rằng, nhận thức là một quá trình
phát triển, tự hoàn thiện; quá trình này gắn với lịch sử phát triển của xã hội.
Trong thời kỳ thượng cổ con người chỉ mới có ý thức cảm tính, người thượng cổ
nhìn thế giới một cách trực tiếp. Đến giữa thời kỳ chiếm hữu nô lệ theo ông, con
người mới tự ý thức được sự tồn tại của chính mình. Thời trung cổ, ý thức con
10
Đặc điểm của triết học cổ điển Đức
người bước vào bất hạnh vì chỉ biết tuân theo ý chúa. Chỉ đến thời kỳ khoa học
phát triển thì khả năng trí tuệ của con người mới đạt tới trình độ lý tính, mới
mang tính xã hội. Lúc đó con người sử dụng khái niệm để tư duy do vậy mới
nhận thức được “tinh thần tuyệt đối”.
Mặt khác ông còn cho rằng, sự phát triển của khả năng nhận thức cá nhân
như là sự lặp lại và thu gọn toàn bộ tiến trình lịch sử mà nhận thức con người đã
trải qua.
Như vậy, Hêghen bộc lộ quan điểm có thể biết trên cơ sở thế giới quan duy
tâm.
2.4. Quan điểm về con người và chính trị xã hội
Quan điểm về con người và chính trị xã hội được Hêghen trình bày trong
tác phẩm “Triết học về pháp quyền” và “Triết học lịch sử”.
Khi bàn đến vấn đề con người, ông không giống như các nhà triết học Anh
và Pháp thế kỷ XVI - XVIII chia tách con người thành hai phần mà ông quan
niệm con người là chỉnh thể thống nhất. Con người là chủ thể đồng thời là kết
quả của quá trình hoạt động của chính mình, chính qua quá trình hoạt động mà ý
thức pháp quyền, ý thức đạo đức và ý chí tự do của con người mới phát triển. Do
đó, con người mới hoàn thiện. Như vậy, ở đây Hêghen không bàn đến con người
cụ thể mà bàn đến con người trìu tượng, lý tính phi lịch sử.
Quan niệm con người trong triết học Hêghen thường gắn với quan điểm về
nhà nước và pháp quyền. Theo ông “luận điểm khẳng định mọi người về bản
tính vốn bình đẳng là không đúng , cần phải nói ngược lại rằng con người về
bản tính vốn bất bình đẳng”. Từ đây dẫn tới quan điểm: mọi sự bất công trong
xã hội là hiện tượng tất yếu xuất phát từ bản tính con người. Vì thế trong xã hội
thường xuyên xảy ra những mẫu thuẫn, xung đột giữa các tầng lớp, đẳng cấp xã
hội khác nhau. Chính từ đó nhà nước xuất hiện. Theo Hêghen, nhà nước ra đời
nhằm dung hòa các mẫu thuẫn giữa các đẳng cấp nhằm định hướng sự phát triển
của xã hội. Nhà nước không chỉ là cơ quan hành pháp mà là tổng thể các quy
chế, kỷ cương, chuẩn mực về mọi lĩnh vực đạo đức, pháp quyền, văn hóa. Vì thế
nhà nước tồn tại trên bất kỳ giai đoạn nào của lịch sử.
Nhà nước theo ông là hiện thân của ý niệm tuyệt đối trong đời sống xã hội
nó có quá trình phát triển. Nhà nước Phổ là đỉnh cao của sự phát triển đó, vì nó
là đại biểu cho công lý, đạo đức; nhà nước đó sẽ tồn tại mãi. Bởi vì, “Cái gì hợp
11
Đặc điểm của triết học cổ điển Đức
lý, thì sẽ hiện thực và cái gì hiện thực thì hợp lý”; ở đây, Hêghen đã lập luận để
bảo vệ sự tồn tại của nhà nước phong kiến Phổ.
Khi bàn đến chiến tranh, Hêghen cho rằng, chiến tranh là một hiện tượng
vĩnh viễn và tất yếu trong lịch sử, nhờ có chiến tranh mà thể trạng đạo đức của
dân tộc được bảo tồn; chiến tranh bảo vệ các dân tộc tránh khỏi sự thối nát.
Hêghen cho rằng, lịch sử là sự thống nhất giữa tính khách quan và tính chủ
quan trong hoạt động của con người. Nhưng lịch sử không diễn ra theo ý muốn
chủ quan của con người mà phát triển theo xu hướng tất yếu trải qua các thời
đại. Sự phát triển tự do của con người là chuẩn mực, ưu việt của thời đại này so
với thời đại khác. Nhưng ông hiểu tự do một cách duy tâm: tự do còn thể hiện
trong sự hiểu biết và làm theo ý chúa.
Tóm lại, vai trò lịch sử của triết học Hêghen là ở chỗ đã xây dựng được
phép biện chứng, những vấn đề cốt lõi nhất của phép biện chứng hiện đại đã
được ông đề cập đến một cách bao quát và sâu sắc. Vì vậy, ông được Ph. Ăng
ghen đánh giá rất cao "ông không chỉ là một thiên tài sáng tạo, mà còn là một
nhà bác học có tri thức bách khoa, nên trong mọi lĩnh vực ông xuất hiện ra là
một người vạch thời đại".
3. Lutvich Phoiobac (1804 - 1872)
Ông là nhà duy vật nổi tiếng của triết học cổ điển Đức, sinh năm 1804
trong một gia đình luật sư ở Đức. Ông theo học trường đại học tổng hợp Beclin,
tham gia nhóm Hêghen trẻ. Về sau tách khỏi nhóm này trở thành người phê
phán Hêghen, xây dựng hệ thống triết học, duy vật của mình. Ông viết nhiều tác
phẩm triết học, trong đó có những tác phẩm lớn như: "Phê pháp triết học
Hêghen" (1839); "Bản chất của đạo đức thiên chúa", "Luận cương sơ bộ về cải
cách triết học" (1842), "Những nguyên lý của triết học tương lai" (1843), "Bản
chất của tôn giáo", v.v. Học thuyết triết học của ông thể hiện qua những nội
dung chủ yếu sau:
3.1. Sự phê phán triết học Hêghen
Sau khi Hêghen mất thì lực lượng kế tục có sự phân chia thành hai phái,
phái Hêghen già ủng hộ sự thống trị của "tinh thần tuyệt đối" đối với thế giới
hiện thực; phái Hêghen trẻ coi sự thống trị đó là những xiềng xích trói buộc con
người. Do chịu ảnh hưởng của các nhà duy vật Pháp thế kỷ XVIII và sự phát
triển khoa học đầu thế kỷ XIX, Phoi Ơ Bắc đã nhận thấy những mặt rất hạn chế
của cả hai phái và bắt đầu thực hiện phê phán toàn bộ triết học Hêghen. Theo
12
Đặc điểm của triết học cổ điển Đức
ông, triết học Hêghen mắc sai lầm ngay từ khởi điểm xuất phát và cả trong việc
giải quyết mối quan hệ giữa vật chất với tinh thần, giữa con người với thế giới.
Hạn chế cơ bản nhất của Hêghen là ở chỗ dựa trên lập trường của chủ nghĩa duy
tâm để xây dựng học thuyết triết học. Cho nên triết học Hêghen không tạo ra
được bức tranh trung thực về thế giới. Ông cho rằng muốn xây dựng được một
học thuyết triết học đúng đắn phải dựa trên lập trường duy vật. Ông nhận xét
"Triết học Hêghen là chỗ ẩn náu cuối cùng, chỗ dựa hợp lý của thần học".
3.2. Quan niệm về thế giới
Xuất phát từ luận điểm: "Quan hệ thực sự của tư duy với tồn tại là: tồn tại,
chủ thể; tư duy, thuộc tính" Phoiơbắc bảo vệ và chứng minh những nguyên lý
duy vật của mình. Ông quan niệm, vật chất có trước, ý thức có sau, tự nhiên tự
nó tồn tại và người ta chỉ có thể giải thích tự nhiên xuất phát từ bản thân nó. Ý
thức không tự nó tồn tại được vì nó chỉ là sản phẩm của một dạng vật chất.
Nếu như Cantơ quan niệm không gian và thời gian là hình thức "tiên nhiên"
thì Phoiơbắc quan niệm, không gian và thời gian tồn tại khách quan, không có
vật chất tồn tại vận động bên ngoài không gian và thời gian. Ông thừa nhận sự
tồn tại khách quan của các quy luật tự nhiên, của quan hệ nhân quả; thừa nhận
sự vận động và phát triển của giới tự nhiên diễn ra một cách khách quan, từ đó
dẫn tới sự xuất hiện của đời sống hữu cơ, con người.
Ở đây, Phoiơbắc chưa khắc phục được hạn chế của duy vật siêu hình, coi
vật chất như là một cái gì thuần nhất. Tuy thừa nhận vật chất vận động nhưng
chưa lý giải được nguồn gốc, động lực, hình thức của vận động.
3.3. Quan niệm về nhận thức
Phoiơbắc phê phán hệ thống duy tâm khách quan của Hêghen ở chỗ, coi
đối tượng tư duy không có gì khác với bản chất của tư duy. Từ đó ông khẳng
định, đối tượng nhận thức nói chung và của triết học nói riêng là giới tự nhiên
và con người. Ông kêu gọi: Hãy quan sát giới tự nhiên đi, hãy quan sát con
người đi! Bạn sẽ thấy ở đấy, trước mắt bạn, những bí mật của triết học. Phoi Ơ
Bắc cho rằng, chủ thể nhận thức không phải trìu tượng mà là con người cụ thể,
con người có khả năng nhận thức được giới tự nhiên, một người thì không thể
nhận thức được hoàn toàn thế giới tự nhiên, nhưng toàn bộ loài người thông qua
các thế hệ thì có thể nhận thức được. Con người nhận thức được thế giới trước
hết thông qua cảm giác; "Bí quyết của sự hiểu biết trực tiếp tập trung trong tính
cảm giác".
13
Đặc điểm của triết học cổ điển Đức
Phoiơbắc cũng đã xác định được mối quan hệ giữa hình thức nhận thức
cảm tính với lý tính, nhưng khi tiến lên giai đoạn tư duy lý tính thì ông không
rút ra được kết luận rõ ràng.
Như vậy, Phoiơbắc đã xây dựng quan điểm duy vật về nhận thức; đã khẳng
định, con người có khả năng nhận thức. Nhưng trong lý luận nhận thức đã bộc lộ
hạn chế ở chỗ, chưa hiểu được quá trình phát triển biện chứng của nhận thức, vai
trò của hoạt động thực tiễn đối với nhận thức. Cho nên, quan điểm nhận thức
của Phoiơbắc vẫn nằm trong khuôn khổ của những phương pháp suy nghĩ siêu
hình.
3.4. Quan niệm về con người
Phoiơbắc phê phán Hêghen đã quan niệm con người một cách trìu tượng và
thần bí coi đó như một lực lượng siêu tự nhiên; đây là một quan niệm sai. Do
vậy, theo ông phải xây dựng một quan niệm mới về con người.
Phoiơbắc quan niệm con người như một thực thể sinh vật có cảm giác, biết
tư duy, có ham muốn, có ước mơ, có tình yêu thương; lòng yêu thương vốn là
bản chất của con người. Trong con người có sự thống nhất giữa cơ thể với tư
duy. Con người không phải là nô lệ của thượng đế hay tinh thần tuyệt đối mà là
sản phẩm của tự nhiên, là kết quả phát triển của tự nhiên.
Thế nhưng trong xã hội con người bị kìm hãm trói buộc bởi giáo lý tôn
giáo và bởi các quy định của xã hội. Cho nên, cần phải giải phóng con người
khỏi sự ràng buộc đó; nhằm đem lại cho con người một quan niệm mới về chính
mình, tạo điều kiện để con người trở nên hạnh phúc. Theo ông, đây cũng là
nhiệm vụ của các nhà triết học.
Xác định vấn đề con người giữ vị trí trung tâm của triết học Phoiơbắc trở
thành đại biểu tiêu biểu của chủ nghĩa duy vật nhân bản. Đây là mặt tiến bộ so
với các nhà trước học trước ông. Tuy nhiên ông đã không thấy được phương
diện xã hội của con người. Con người mà ông quan niệm là con người bị tách
khỏi điều kiện kinh tế - xã hội và lịch sử. Do vậy về lĩnh vực này ông chưa
thoát khỏi ảnh hưởng của quan điểm duy tâm.
3.5. Quan niệm về xã hội
Trong quan niệm về tự nhiên, Phoiơbắc là nhà duy vật; còn trong quan
niệm về xã hội ông lại thể hiện quan điểm duy tâm. Ông khẳng định những thời
kỳ lịch sử loài người sở dĩ khác nhau chỉ do những thay đổi các hình thức tôn
giáo; thay thế tôn giáo cũ bằng tôn giáo mới sẽ làm cho xã hội tiến lên. Ở đây,
14
Đặc điểm của triết học cổ điển Đức
Phoiơbắc chưa thấy được vai trò của thực tiễn xã hội quyết định sự vận động
phát triển của xã hội loài người.
Khi bàn đến tôn giáo, Phoiơbắc cho rằng, tôn giáo là sản phẩm tất yếu của
tâm lý cá nhân và của sự tưởng tượng của con người. Tôn giáo thể hiện sự mềm
yếu, bất lực của con người trước sức mạnh tự nhiên và điều kiện của xã hội.
Chính con người đã bày đặt ra thần thánh bằng cách trìu tượng hóa bản chất con
người. Do vậy, cần thay thế tôn giáo cũ bằng thứ tôn giáo mới không cần có
thần thánh, chúa trời mà lấy tình yêu giữa người với người làm nền tảng.
Những quan điểm trên đây của Phoiơbắc về cơ bản vạch ra được nguồn gốc
tâm lý con người đối với tôn giáo. Tuy nhiên, ông chưa chỉ rõ nguồn gốc thực sự
của tôn giáo, chưa đề cập đến những cơ sở kinh tế - xã hội của vấn đề.
Mặc dù còn những hạn chế siêu hình trong quan điểm về tự nhiên duy tâm
trong quan điểm về xã hội, chưa có quan điểm duy vật triệt để về con người
nhưng Phoiơbắc đã có công lao trong việc khôi phục và phát triển chủ nghĩa duy
vật chống lại quan điểm duy tâm và tôn giáo; vì thế, quan điểm duy vật của
Phoiơbắc cùng với tư tưởng biện chứng của Cantơ và phép biện chứng của
Hêghen trở thành tiền đề lý luận hình thành triết học Mác - Lênin.
III. Đặc điểm triết học cổ điển Đức
- Triết học cổ điển Đức nói chung mang tính chất duy tâm thần bí trừ triết
học của Phoiơbắc. Nhìn chung, triết học cổ điển Đức xuất hiện, tồn tại trong tình
hình nước Đức, khi nhà nước quân chủ phong kiến, giáo hội vẫn đóng vai trò
quan trọng trong đời sống xã hội. Trên nền của điều kiện kinh tế, chính trị - xã
hội như vậy, triết học khó mà theo xu hướng duy vật được.
- Triết học cổ điển Đức có tính thỏa hiệp nửa vời rõ nét. Đây chính là sự
phản ánh vị thế của giai cấp tư sản Đức và tình hình xã hội Đức khi ấy.
- Đề cao vai trò tích cực của hoạt động con người, coi con người là một
thực thể hoạt động, là nền tảng và điểm xuất phát của mọi vấn đề triết học. Con
người là chủ thể đồng thời là kết quả của quá trình hoạt động của chính mình; tư
duy và ý thức của của con người chỉ có thể phát triển trong quá trình con người
nhận thức và cải tạo thế giới.
- Tiếp thu tư tưởng biện chứng trong triết học cổ đại, triết học Đức xây
dựng phép biện chứng trở thành phương pháp luận triết học độc lập với phương
pháp tư duy siêu hình trong lĩnh vực nghiên cứu các hiện tượng tự nhiên và xã
15
Đặc điểm của triết học cổ điển Đức
hội. Giả thuyết hình thành vũ trụ của Cantơ; việc phát hiện ra những quy luật và
phạm trù của Hêghen đã làm cho phép biện chứng trở thành một khoa học thực
sự mang ý nghĩa cách mạng trong triết học. Đây là một đặc điểm nổi bật của
triết học cổ điển Đức.
- Với cách nhìn bao quát, biện chứng, nhiều nhà triết học Đức có tham
vọng xây dựng một hệ thống triết học vạn năng không những làm nền tảng cho
thế giới quan của con người mà còn trở thành một thứ khoa học của các khoa
học. Do vậy, trong học thuyết triết học của Cantơ, Duyrinh, Hêghen thường bàn
đến nhiều vấn đề như: khoa học tự nhiên, pháp quyền, lịch sử, luân lý, mỹ học.
16