Tải bản đầy đủ (.docx) (49 trang)

CƠ sở lí LUẬN về GIÁO dục DINH DƯỠNG CHO TRẺ ở các TRƯỜNG mầm NON

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (248.63 KB, 49 trang )

CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ GIÁO DỤC DINH
DƯỠNG CHO TRẺ Ở CÁC TRƯỜNG MẦM NON


Lịch sử đề nghiên cứu vấn đề
Các nghiên cứu về giáo dục dinh dưỡng cho trẻ em
trên thế giới
Ngay từ thời cổ đại con người đã nhận thức rằng, cách ăn
uống rất cần thiết để duy trì sức khỏe. Đại danh y Hyprocrat
(460 -377 TCN), Sidengai (người Anh) đánh giá cao vai trò của
ăn uống đối với sức khỏe và bệnh tật. Hacvay đã rất chú ý đến
chế độ ăn nhằm bồi dưỡng và cung cấp đầy đủ chất dinh dưỡng
cho cơ thể và đã xây dựng lên một số thực đơn về ăn uống
nhằm chữa bệnh [6].
Vào thế kỷ XVII khoa học giải phẫu và sinh lý phát triển
nhanh. Các công trình nghiên cứu của Lavoidie (1743 - 1794)
và những người kế tục đã cho thấy vấn đề ăn ngày càng được
các nhà khoa học chú ý nổi bật là vấn đề tiêu hao năng lượng.
Bên cạnh đó công trình của Bughe và Hoopman đã nghiên cứu
vai trò của muối khoáng trong dinh dưỡng bằng các thí nghiệm
trên chuột bạch. Lunin (1853 - 1937) nghiên cứu vai trò của
hợp chất cần thiết cho sự sống ngoài Protein, gluxit, Lipid,
nước, muối khoáng còn có một số hợp chất khác nữa, tuy ít


nhưng rất cần thiết cho sự sống và sau hơn 30 năm, A. Funck
phát hiện ra đó là các vitamin [9].
Bước vào thế kỷ XX, nhiều Viện nghiên cứu, ban ngành
về nhân học đã được thành lập và có rất nhiều các công trình
nghiên cứu về vấn đề DD và GDDD. Các công trình nghiên cứu
này đã vượt xa các giai đoạn trước đó cả về chất lượng và số


lượng. Trong các nghiên cứu trên rất chú ý sự ảnh hưởng của
các điều kiện xã hội đến sự tăng trưởng và phát triển của cơ thể,
đặc biệt là cơ thể trẻ nhỏ. Tổ chức y tế thế giới đã nghiên cứu về
mối quan hệ giữa DD và sức khỏe cộng đồng năm 1925 [8].
Như vậy, trong nhiều thập kỷ qua đã có nhiều hội nghị
quan trọng bàn về vai trò của dinh dưỡng đối với cơ thể con
người và tìm ra các giải pháp nhằm nâng cao vấn đề DD. Đặc
biệt GDDD trong các cấp học nhất là giáo dục bậc học Mầm
non (MN) luôn được quan tâm. Như vậy, vấn đề DD và GDDD
đã và đang được các nhà giáo dục nói chung và các nhà nghiên
cứu nói riêng quan tâm đúng đắn và trở thành trung tâm của
mọi kế hoạch, chiến lược phát triển ở từng quốc gia.
Các nghiên cứu về GDDD cho trẻ em tại Việt Nam


Người Việt Nam từ xưa đã biết quan tâm đến thức ăn và
biết dùng thức ăn để chữa bệnh. Đặc điểm nổi bật mà cho đến
nay vẫn được lưu giữ đó là trong các món ăn dân tộc Việt
Nam là hỗn hợp nhiều loại thức ăn trong cùng một món, Mỗi
loại thức ăn trong các món ăn gồm một số chất DD với các tỷ
lệ khác nhau. Khi hỗn hợp lại thì chất thừa ở thức ăn này có
thể bổ sung cho chất thiếu ở thức ăn khác làm giá trị của món
ăn tăng lên.
Cũng như các dân tộc khác, từ ngàn đời xưa Ông cha ta đã
dày công nghiên cứu về các loại thức ăn và mối liên hệ của
chúng đối với sức khỏe con người. Khi nói đến Y học cổ truyền
và dinh dưỡng thì không thể không nhắc đến Lương y Tuệ Tĩnh
(thế kỷ XIV) và Hải Thượng Lãn Ông (hế kỷ XVIII). Cả hai vị
Danh y này có thể được coi là những nhà dinh dưỡng học đầu
tiên của Việt Nam, các công trình nghiên cứu của các Ông đều

nhấn mạnh tầm quan trọng của ăn uống trong phòng, điều trị
bệnh và nâng cao sức khỏe con người [4].
Thời kỳ Pháp thuộc việc nghiên cứu DD tập trung ở
Viện Pasteur Hà Nội. Trong đó, giáo sư M.Autret đã có nhiều
đóng góp cho ngành dinh dưỡng Việt Nam cụ thể năm 1941


ông đã cùng với Nguyễn Văn Mậu cho xây dựng “Bảng thành
phần thức ăn Đông dương” gồm 200 loại thức ăn khác nhau.
Cũng trong thời gian này, các công trình nghiên cứu về
DD ngày càng nhiều, đặc biệt các công trình về điều tra khẩu
phần ăn của các lứa tuổi, cách chế biến thức ăn cho trẻ tại các
trường Mầm non…. Bên cạnh đó, việc giáo dục các kiến thức
về dinh dưỡng và vệ sinh dinh dưỡng, vệ sinh về thực phẩm
cho nhân dân ở các địa phương qua các cuộc vận động ăn
chín, uống sôi, sạch sẽ, đảm bảo vệ sinh an toàn cũng được
coi trọng. Mặt khác, nhà nước bắt đầu xây dựng các chính
sách vĩ mô về dinh dưỡng như: năm 1964, Thủ Tướng Chính
phủ đã phê duyệt việc thành lập chương trình nghiên cứu cải
tiến cơ cấu bữa ăn.
Ngoài ra, còn có một số các công trình nghiên cứu của
trung tâm nghiên cứu giáo dục MN, Viện nghiên cứu trước
tuổi học cũng có các công trình nghiên cứu về mức độ phát
triển thể lực, trí tuệ và các yếu tố liên quan như: DD, chăm
sóc, giáo dục… Các kết quả nghiên cứu này đã được triển
khai và được lấy làm cơ sở khoa học để xây dựng chương
trình chăm sóc, giáo dục trẻ MN hiện hành. Hiện nay, chương
trình giáo dục Mầm non có đề cập đến vấn đề GDDD cho trẻ



mẫu giáo nhưng còn rất chung chung, đơn giản và sơ sài, chỉ
lướt qua trong chương trình thông qua các hoạt động khác,
như thông qua một số môn học, chế độ sinh hoạt hàng ngày,
chưa đề ra các mục tiêu, nội dung, phương pháp cụ thể. Vì
vậy trong thực tế vấn đề GDDD thông qua việc tổ chức bữa
ăn trưa ở trường Mầm non và thông qua một số hoạt động
khác còn gặp nhiều khó khăn và kém hiệu quả.
“ Thế kỷ XXI với những thách thức và đòi hỏi của sự
phát triển của đất nước thì chiến lược về dinh dưỡng được
coi là một thành tố quan trọng của chiến lược phát triển bền
vững” [5]. Chiến lược này mang tính toàn diện và đã đề cập
đến việc đưa nội dung giáo dục dinh dưỡng vào trường học,
đặc biệt ở bậc học Mầm non với nhiệm vụ: “Hoàn thiện mục
tiêu chương trình giáo dục dinh dưỡng ở cấp học từ MN đến
Đại học. Củng cố và nâng cao chất lượng hệ thống nhà trẻ
(đặc biệt là khu vực nông thôn) và các nhà ăn tập thể ở trường
học”[5]. Để đẩy mạnh hoạt động DD cho trẻ Mầm non vụ
GDMN đã triển khai nhiều chuyên đề nhằm nâng cao chất
lượng GDDD và VSATTP, đồng thời mở các lớp tập huấn về
phòng chống suy dinh dưỡng trẻ từ 0 - 5 tuổi tại TP. HCM,
các hội nghị phòng chống suy dinh dưỡng và chăm sóc sức


khỏe cho trẻ em tại Hà Nội, lớp tập huấn phát triển mô hình
phòng chống suy dinh dưỡng ở trẻ em bậc học MN các tỉnh
miền trung và Tây nguyên… nhằm đẩy mạnh các hoạt động
trong chiến lược dinh dưỡng quốc gia, góp phần nâng cao
chất lượng sức khỏe trẻ em.
Bên cạnh các công trình nghiên cứu của Bộ y tế và các
Vụ, Viện còn có nhiều các công trình nghiên cứu về mức độ

phát triển thể lực, các yếu tố liên quan đến dinh dưỡng của trẻ,
các biện pháp chăm sóc, giáo dục sức khỏe cho trẻ của các
trung tâm giáo dục và các trường Đại học và Cao đẳng trong cả
nước như “Khảo sát kiến thức, thái độ, thực hành của giáo viên
Mầm non về dinh dưỡng, sức khỏe trẻ em tại Hà Nội của
Nguyễn Thị Quyên, 1997”; “Một số biện pháp phòng chống suy
dinh dưỡng cho trẻ em 2 - 3 tuổi ở huyện Chương Mỹ, Hà Tây”
của Nguyễn Thị Huệ; “Một số biện pháp giáo dục dinh dưỡng
cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi thông qua hoạt động làm quen với
môi trường xung quanh” của Nguyễn Thị Thu Trang, 2007…
Các đề tài này của các tác giả đã nêu trên đều đề cập đến vấn đề
dinh dưỡng với lứa tuổi Mầm non. Tuy nhiên chưa đề cập sâu
về vấn đề GDDD cho trẻ ở lứa tuổi MN. Tác giả Nguyễn Thị
Thu Trang nghiên cứu về vấn đề GDDD nhưng thông qua một


vấn đề đó là hoạt động làm quen với môi trường xung quanh và
cũng chỉ dừng lại ở khóa luận tốt nghiệp.
Từ những nghiên cứu nêu trên cho thấy, vấn đề dinh
dưỡng đã được quan tâm ở nhiều cấp ngành, đã có nhiều biện
pháp can thiệp dinh dưỡng nói chung và định hướng giáo dục
dinh dưỡng nói riêng. Vấn đề GDDD cũng đã được quan tâm
và mở rộng ở nhiều tầng lớp nhân dân trong xã hội với nhiều
biện pháp khác nhau nhưng phần lớn nội dung hướng tới các
đối tượng trực tiếp chăm sóc nuôi dậy trẻ như giáo viên MN
và các bậc cha mẹ. Gần đây, vấn đề GDDD cho trẻ mẫu giáo
mới thực sự được đặt ra và quan tâm thỏa đáng. Vì vậy, đã có
thêm các công trình nghiên cứu nhằm xây dựng nội dung
GDDD cho trẻ. Trong các chương trình giáo dục trẻ MN trước
đây như: Chương trình 26 tuần, chương trình cải cách mẫu

giáo đã đề cập đến nội dung GDDD nhưng chưa cụ thể, chưa
rõ ràng, chưa hoàn thiện, chưa rõ nét về cả nội dung lẫn
chương trình, mục tiêu, phương pháp và thiếu sự xuyên suốt
liên tục giữa nhà trẻ và mẫu giáo.
Thông qua các nghiên cứu được nêu trên, chúng tôi nhận
thấy chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập đến bện pháp
giáo dục dinh dưỡng cho trẻ mầm non một cách tổng thể, nhất


là đối với trẻ MN khu vực thành phố Hải Phòng. Vì vậy,
chúng tôi lựa chọn đề tài này làm đề tài nghiên cứu của mình
để góp phần vào cuộc cải cách DD cho trẻ cũng như phòng
chống suy dinh dưỡng ở trẻ hiện nay mà đang được Đảng,
Chính phủ và toàn dân quan tâm.
Một số khái niệm cơ bản của đề tài
Khái niệm về dinh dưỡng
“Dinh dưỡng là nhu cầu sống hàng ngày của con người,
trẻ em cần dinh dưỡng để phát triển thể lực và trí lực, người
lớn cần dinh dưỡng để duy trì sự sống và làm việc, hay nói
cách khác dinh dưỡng quyết định sự tồn tại và phát triển của
cơ thể”. Mà các đặc trựng cơ bản của sự sống là sinh trưởng,
phát triển, sinh sản, cảm ứng, trao đổi chất và năng lượng
[11].
Có rất nhiều khái niệm khác nhau về DD. Trong từ điển
tiếng Việt: “DD là một quá trình các tế bào, cơ quan trong cơ
thể hấp thu và sử dụng các chất cần thiết cho việc cấu tạo và
hoạt động của cơ thể”[10].


Còn theo Lê Doãn Diên, Vũ Thị Thư cho rằng “DD là

chức năng mà các cá thể sử dụng thức ăn để duy trì sự sống,
nghĩa là thực hiện các hoạt động sống như: sinh trưởng, phát
triển, vận động” [6].
Theo Nguyễn Kim Thanh, “DD học là một ngành khoa
học nghiên cứu ảnh hưởng của các chất DD đối với cơ thể con
người và xác định nhu cầu của cơ thể về chất DD nhằm giúp
con người phát triển khỏe mạnh, sinh sản và duy trì nòi giống”
[25].
Vậy “DD là một quá trình phức hợp bao gồm việc đưa
vào cơ thể thức ăn cần thiết qua quá trình tiêu hóa và hấp thụ
để bù đắp hao phí năng lượng trong quá trình hoạt động sống
của cơ thể và để tạo ra sự đổi mới các tế bào và mô cũng như
điều tiết các chức năng của cơ thể” [11].
DD chiếm một vị trí rất quan trọng đối với con người
đặc biệt là trẻ em vì cơ thể trẻ em đang ở giai đoạn phát triển
mạnh mẽ vì vậy nhu cầu DD cho cơ thể là rất lớn. Trong khi
đó bộ máy tiêu hóa lại chưa hoàn chỉnh do bất cứ sai lầm nhỏ
nào về DD cung gây ra rối loạn tiêu hóa cho trẻ. Nếu cung
cấp DD không hợp lý sẽ ảnh hưởng lớn tới sức khỏe của trẻ.


Khái niệm về Giáo dục dinh dưỡng:
“GDDD là một hoạt động giáo dục của con người nhằm
truyền đạt những các kiến thức khoa học về ăn uống, những
kinh nghiệm rút ra từ cuộc sống hằng ngày, được truyền lại từ
thế hệ này sang thế hệ khác” [11]; “Là sự tác động của khoa
học đến nhận thức của con người giúp con người có thể tự
giác chăm lo ăn uống và sức khỏe cho bản thân mình” [9].
Theo Lê Mai Hoa và Lê Trọng Sơn thì: “ GDDD là một
quá trình tác động có mục đích, có kế hoạch đến tình cảm, lý

trí của con người nhằm thay đổi nhận thức, thái độ và hành
động để đi đến tự giác chăm lo vấn đề ăn uống và sức khỏe
của cá nhân, tập thể và cộng đồng” [9].
Mỗi khái niệm tiếp cận dưới một góc độ khác nhau
nhưng đều giống nhau ở mục đích cuối cùng là nâng cao chất
lượng và sức khỏe cho con người. Dưới góc độ sư phạm,
chúng tôi nhận thấy khái niệm: “GDDD là một quá trình tác
động có mục đích, có kế hoạch, đến tình cảm, lý trí của con
người làm thay đổi nhận thức, thái độ và hành động về DD để
đi đến tự giác chăm lo vấn đề ăn uống và sức khỏe của cá


nhân, tập thể và cộng đồng” là phù hợp với đề tài nghiên cứu
[19].
Như vậy “GDDD là biện pháp can thiệp nhằm thay đổi
những tập quán thói quen và các hành vi liên quan đến DD,
nhằm cải thiện tình trạng DD trong quá trình GDDD phát
triển kinh tế xã hội. Bản thân quá trình GDDD trong nhà
trường nói chung và với trẻ MN nói riêng phải nằm trong một
chiến lược phát triển của toàn xã hội mà nó là một quá trình
liên tục, không ngừng. GDDD đòi hỏi một sự tham gia của
toàn xã hội đặc biệt là các ngành giáo dục, truyền thông,
ngành sức khỏe cộng đồng và DD” [27].
Khái niệm về Giáo dục dinh dưỡng cho trẻ 3 – 5 tuổi
GDDD là việc làm rất cần thiết và là trách nhiệm của cả
xã hội không phải của riêng một cá nhân nào. “ GDDD đóng
vai trò quan trọng trong việc giáo dục trẻ nhất là trẻ mầm
non. Bởi lứa tuổi này nhu cầu DD rất lớn mà nhận thức, kỹ
năng của trẻ còn hạn chế. Việc GDDD giúp cho trẻ MN nói
chung và trẻ 3 – 5 tuổi nói riêng nhận thức đúng đắn về vấn

đề ăn uống và sức khỏe của bản thân mình. Qua đó giúp trẻ
hình thành ý thức tự giác thực hiện vấn đề ăn uống và chăm


lo sức khỏe cho bản thân”. Vì vậy, chúng tôi xin đưa ra khái
niệm GDDD cho trẻ 3 – 5 tuổi như sau: “GDDD cho trẻ 3 – 5
tuổi là quá trình tác động có mục đích, có kế hoạch của nhà
giáo dục đến trẻ 3 – 5 tuổi nhằm hình thành cho trẻ nhận
thức, kỹ năng, thái độ để trẻ có thể tự giác thực hiện vấn đề
ăn uống và chăm lo cho sức khỏe bản thân mình” [20].
Việc “GDDD cho trẻ ở lứa tuổi này góp phần giúp trẻ
có nhận thức, kỹ năng, thái độ đúng đắn về DD. Là cơ sở để
phát triển ở các giai đoạn tiếp theo, góp phần phát triển toàn
diện nhân cách cho trẻ”.
Trẻ mầm non và giáo dục dinhdưỡng cho trẻ mầm
non
Mục tiêu của giáo dục dinh dưỡng cho trẻ mầm non
Mục tiêu giáo dục thể hiện ở 3 mặt: Kiến thức, kỹ năng và
thái độ. Do đó, mục tiêu GDDD ở trẻ MN cũng cần xác định ở 3
mặt: Kiến thức, kỹ năng và thái độ.


Phát triển thái độ
+ Hứng thú với vấn đề ăn uống
+ Chấp nhận và thử các thức ăn mới, không kén chọn
các loại thức ăn.
+ Hăng say, hào hứng với việc chế biến các món ăn
+ Thích thú tìm hiểu về DD.
+ Biết yêu quý và tôn trọng sản phẩm của lao động


Chương trình giáo dục dinh dưỡng cho trẻ mầm non
Chương trình cải cách giáo dục mầm non
Chương trình cải cách giáo dục MN được nghiên cứu từ
những năm 80 của thế kỉ XX và được ban hành thực hiện trên
toàn quốc vào năm 1994.
Chương trình được xây dựng dựa trên lý thuyết hoạt
động, coi hoạt động chăm sóc - GDDD cho trẻ là một trong
những hoạt động quan trọng có vai trò quyết định tới việc
phát triển toàn diện thể chất, tinh thần cho trẻ. Nội dung


chương trình được xây dựng theo những phương hướng cơ
bản: Bảo vệ sức khỏe cho trẻ, đảm bảo sự tăng trưởng và phát
triển, hình thành các chức năng tâm sinh lý, thói quen và nếp
sống văn minh trong ăn uống phù hợp với từng độ tuổi, trau
dồi những tình cảm, tri thức, thói quen, thái độ cần thiết trong
cuộc sống.
Nội dung chương trình được xây dựng phù hợp theo
từng độ tuổi, luôn hướng đến mục tiêu giáo dục toàn diện. Nội
dung gồm 2 phần:
Nội dung chăm sóc sức khỏe: Cân đo, theo dõi biểu đồ
tăng trưởng, chế độ dinh dưỡng phù hợp với độ tuổi.
Nội dung giáo dục được cấu trúc theo những hoạt động
cơ bản: Vui chơi, lao động, học tập với những môn học cơ bản
như: “Toán, môi trường xung quanh, âm nhạc, thể dục, tạo
hình, làm quen văn học và chữ cái”.
Chương trình cải cách không đưa ra mục tiêu cụ thể về
giáo dục dinh dưỡng và sức khỏe cho trẻ. Nội dung GDDD
nằm trong lĩnh vực chăm sóc và bảo vệ sức khỏe, đề cập đến
các nội dung sau:



Dạy trẻ làm quen với một số thực phẩm thông thường và
lợi ích của nó đối với sức khỏe.
Giáo dục ý thức trong ăn uống: Trong bữa ăn chỉ cần
trẻ ăn no, ăn ngon miệng, ăn hết suất, giáo dục một số thói
quen, nề nếp ăn uống, giáo dục trẻ biết ăn đủ chất để có sức
khỏe và cách thực hiện để đạt được điều đó.
Hình thức tổ chức: Nội dung GDDD cho trẻ được tổ
chức thực hiện trong giờ ăn và thông qua các tiết học có liên
quan như: Làm quen với môi trường xung quanh, làm quen
tác phẩm văn học, tạo hình...
Như vậy, chương trình cải cách giáo dục đã có những
bước phát triển mới so với các loại chương trình trước đó,
nhưng chương trình chưa đề ra được mục tiêu, cách thức triển
khai một cách cụ thể về GDDD cho trẻ và cũng chưa đề cập
và xây dựng được hệ thống các phương pháp, phương tiện,
biện pháp tổ chức, các tiêu chí và thang đánh giá hiệu quả
GDDD cho trẻ. Vì thế khi thực hiện giáo viên gặp quá nhiều
khó khăn trong việc tổ chức, đánh giá nên chất lượng GDDD
cho trẻ đạt chất lượng chưa cao.
Chương trình đổi mới


Chương trình đổi mới hình thức hoạt động giáo dục
trẻ mầm non
Đứng trước yêu cầu đổi mới GDMN, trong đó có đổi
mới chương trình (1997), các Chương trình chăm sóc GDMN của các nước Nga, Anh, NewZealand, Hàn Quốc,
Israel, Singapore đã được dịch để nghiên cứu xây dựng
chương trình mới. Năm 1998, Vụ GDMN kết hợp với Trung

tâm Nghiên cứu GDMN đã tiến hành thử nghiệm đổi mới
hình thức tổ chức giáo dục trẻ mẫu giáo 5 tuổi.
Lĩnh vực GDDD được đề cập một cách tương đối cụ thể
ngay từ mục tiêu giáo dục. GDDD và sức khỏe nằm trong lĩnh
vực phát triển thể chất, được phân theo độ tuổi và có một số
tiêu chí đánh giá trẻ về lĩnh vực này. Nhiệm vụ của giáo viên
được tách ra một mục riêng, có hướng dẫn cụ thể để thực hiện
chăm sóc dinh dưỡng, bảo vệ sức khỏe và GDDD - sức khỏe
cho trẻ.
Chương trình đổi mới hình thức đã đưa ra mục tiêu
GDDD như sau:
Dạy trẻ biết cần ăn no, ăn ngon miệng, ăn hết suất hàng
ngày.


Dạy trẻ biết một số thực phẩm và lợi ích của chúng theo
ba nhóm thực phẩm: Thực phẩm giàu chất đạm; Thực phẩm
giàu chất đường, chất béo và năng lượng; Thực phẩm giàu
sinh tố, muối khoáng.
Dạy trẻ biết ăn đủ chất để có sức khỏe.
Dạy trẻ có thói quen, nề nếp ăn uống sạch sẽ, văn minh,
lịch sự.
Trong chương trình đổi mới hình thức, nội dung giáo dục
được cấu trúc theo chủ đề. Một chủ đề lớn bao gồm nhiều chủ
đề nhỏ. Kiến thức một chủ đề thường mang tính tích hợp. Điều
đó rất thuận lợi cho giáo viên lồng ghép các nội dung GDDD.
Từ mục đích yêu cầu và nội dung cụ thể của các chủ điểm nhỏ
sẽ xác định nội dung GDDD cho trẻ MN. Tuy nhiên, hiệu quả
hay không còn tùy thuộc vào năng lực sư phạm của giáo viên
MN. Nội dung GDDD bao gồm:

Nhận biết 4 nhóm thực phẩm (đạm, tinh bột, béo,
vitamin và muối khoáng)
Biết lợi ích của thực phẩm đối với cơ thể con người.
Biết ăn nhiều loại thức ăn khác nhau, ăn uống đầy đủ,


hợp lí và đủ chất.
Hình thức giáo dục dinh dưỡng:
GDDD được lồng ghép hầu hết trong tất cả các hoạt
động của trẻ ở trường mầm non như: Hoạt động học có chủ
đích, hoạt động vui chơi, trong chế độ sinh hoạt hàng ngày...
Như vậy, chương trình đổi mới hình thức tổ chức hoạt
động giáo dục trẻ mẫu giáo đã đề cập khá chi tiết đến mục tiêu,
nội dung, hình thức GDDD cho trẻ. Tuy nhiên, chương trình
vẫn chưa đề cập đến các phương pháp, biện pháp GDDD cho
trẻ, vì vậy giáo viên sẽ gặp khó khăn khi tổ chức GDDD cho
trẻ.
Chương trình đổi mới toàn diện hoạt động giáo dục trẻ
mầm non:
Tháng 10 năm 2005 chương trình GDMN được đổi mới
toàn diện (đổi mới mục tiêu, nội dung, phương pháp, hình
thức....). Chương trình thử nghiệm năm 1998 chính là bước
đệm để tiến tới đổi mới toàn diện chương trình chăm sóc giáo dục trẻ MN. Cấu trúc của chương trình đổi mới này cần
đảm bảo đủ các thành tố: “Mục tiêu, nội dung, phương pháp,


các điều kiện thực hiện chương trình và các hình thức tổ chức
các hoạt động giáo dục, cách thức đánh giá...”.
Mục tiêu GDDD được đề cập trong mục tiêu phát triển
thể chất cho trẻ:

Trẻ biết lợi ích của sức khỏe, lợi ích của việc ăn uống đủ
chất, vệ sinh trong ăn uống. Cung cấp cho trẻ một số hiểu biết
sơ đẳng về các chất dinh dưỡng và ăn những thực phẩm an
toàn. Chuẩn bị tốt về sức khỏe để trẻ bước vào hoạt động học
tập có hiệu quả.
Nội dung GDDD:
Biết các nhóm thực phẩm, ích lợi của thực phẩm, cách
chế biến đơn giản, và ăn uống đầy đủ, hợp lí đảm bảo sức
khỏe.
Tập làm một số công việc đơn giản tự phục vụ.
Dạy trẻ có thói quen, nề nếp ăn uống sạch sẽ, văn minh,
lịch sự.
Hình thức tổ chức GDDD:
Nội dung GDDD cho trẻ MN được cấu trúc theo chủ đề.


Kiến thức chủ đề thường mang tính tích hợp. Hình thức "mở"
này giúp giáo viên thấy rõ mối liên quan giữa các nội dung,
khái niệm và các hoạt động mang tính tích hợp trong phạm vi
chủ đề và với các chủ đề khác. Như vậy, chương trình này hỗ
trợ rất nhiều cho giáo viên MN trong việc GDDD cho trẻ mẫu
giáo nói chung. Giáo viên có thể xác định, lựa chọn và tổ
chức nhiều hoạt động một cách linh hoạt để giúp trẻ tim hiểu,
khám phá DD theo nhiều cách, phù hợp với điều kiện cụ thể.
Giáo viên có thể lồng ghép, đan cài các hoạt động để trẻ có
thể "học" qua chơi, "học" qua thực hành, nhờ đó trẻ có thể
lĩnh hội kiến thức và kĩ năng liên quan đến chủ đề, cũng như
kiến thức và kĩ năng về DD một cách tự nhiên và có được
những kinh nghiệm manh tính tích hợp cần cho cuộc sống của
trẻ. Hơn nữa, điểm ưu việt của chương trình đổi mới này là

khuyến khích giáo viên MN áp dụng sáng tạo các phương
pháp dạy học khác nhau, tạo điều kiện cho giáo viên đổi mới
phương pháp dạy học, khuyến khích giáo viên tận dụng các
điều kiện sẵn có tại địa phương, của trường/lớp và gia đình.
Mặt khác, chương trình đổi mới toàn diện nhấn mạnh vào quá
trình giáo dục - dạy học (chứ không phải là sản phẩm). Đặc
điểm này rất thuận lợi cho việc giáo viên đánh giá thường


xuyên hoạt động dạy - học dựa trên các mục tiêu, yêu cầu đề
ra trong từng chủ đề. Nhưng trên thực tế, còn rất nhiều giáo
viên MN bỡ ngỡ trước sự thay đổi này, điều đó ảnh hướng đến
hiệu quả của công tác GDDD cho trẻ MN.
Chương trình giáo dục mầm non mới:
Chương trình này đã được nghiên cứu, xây dựng trên cơ
sở của các cách tiếp cận, những định hướng xây dựng chương
trình phù hợp với thực tiễn GDMN của Việt Nam và tiếp thu
những đổi mới về GDMN ở các nước trong khu vực và trên
thế giới. Ngày 19-09-2006, chương trình đã được lãnh đạo Bộ
GD&ĐT ký Quyết định số 5204/QĐ-BGĐT ban hành chương
trình thí điểm. Ngày 25/07/2009 Bộ trưởng Bộ GD&ĐT đã kí
và kèm theo thông tư số 17/2009/TT-BGDĐT, chương trình
GDMN chính thức được ban hành là chương trình khung.
Mục tiêu GDDD được để cập trong mục tiêu phát triển
thể chất:
Có khả năng nhận biết, phân biệt được những loại thực
phẩm thông thường và cách chế biến đơn giản.
Trẻ biết lợi ích của việc ăn uống và luyện tập đối với sức



khỏe, có ý thức ăn uống đầy đủ hợp lý.
Có một số nề nếp, thói quen, hành vi tốt chăm sóc và
bảo vệ sức khỏe.
Hình thức tổ chức GDDD:
Chú trọng việc kết hợp hài hoà giữa giáo dục trẻ trong
nhóm bạn với giáo dục cá nhân. Tổ chức các hình thức hoạt
động cá nhân một cách hợp lí, theo nhóm và lớp, phù hợp với
tứng độ tuổi của nhóm lớp, phù hợp với hứng thú của trẻ và với
điều kiện thực tế.
Phương pháp GDDD:
Cũng xuất phát từ yêu cầu chung, phương pháp giáo dục
phải tạo điều kiện cho trẻ được tìm tòi, trải nghiệm, khám phá
theo phương châm "chơi mà học, học bằng chơi". “Chú trọng
đổi mới tổ chức môi trường giáo dục nhằm kích thích và tạo cơ
hội cho trẻ tích cực khám phá, thử nghiệm khu vực hoạt động
một cách vui vẻ” [10].
- Phương pháp giáo dục dinh dưỡng cho trẻ mầm non:
GDDD thực chất là tác động của việc học nói chung và
khoa học ăn uống nói riêng, đến sự nhận thức của con người


để biết tự giác ăn uống và chăm lo đến sức khỏe của bản thân
và cộng đồng.
Phương pháp GDDD cho trẻ MN là cách thức làm việc
của giáo viên và trẻ có sự hướng dẫn và tổ chức của giáo viên,
từ đó giúp trẻ tiếp thu những kiến thức, kỹ năng hình thành
thái độ đúng đắn về DD và trẻ có nhu cầu ăn các chất DD.
Để GDDD cho trẻ mẫu giáo đạt hiệu quả cao, giáo viên
cần sử dụng hợp lí và kết hợp nhiều phương pháp dạy học
khác nhau. Các nhóm phương pháp có thể sử dụng trong

GDDD cho trẻ MN như sau:
Nhóm phương pháp dùng lời nói:
“ Phương pháp dùng lời nói là phương pháp sử dụng lời
nói để truyền đạt, tiếp nhận phân tích và lưu trữ thông tin, ở
đây kiến thức mang đến cho trẻ thông qua lời nói của giáo
viên. Trong GDDD, phương pháp dùng lời nói có thể coi như
một phương pháp hỗ trợ cho các phương pháp khác. Phương
pháp dùng lời nói thường gắn với phương pháp trực quan,
hoạt động thực tiễn, trò chơi...”.
Nhóm phương pháp dùng lời nói gồm 2 phương pháp


chủ yếu:
Phương pháp trò chuyện:
Được dùng nhiều trong GDDD thông qua TCHT cho trẻ.
“Là sự giao tiếp giữa cô giáo và trẻ về các vấn đề của DD
trong quá trình tham gia TCHT nhằm GDDD cho trẻ. Đây là
phương pháp rất linh hoạt, có thể tổ chức ở mọi lúc, mọi nơi,
cô giáo có thể tận dụng mọi cơ hội để trò chuyện với trẻ.
Trong TCHT phương pháp này được tận dụng tối đa khi cô
giáo vận dụng để cung cấp kiến thức về DD cho trẻ trước khi
chơi”.
Phương pháp kể chuyện:
“Kể chuyện là một hình thức truyền đạt tri thức rất hiệu
quả đối với trẻ MN, những câu chuyện giáo viên sử dụng kể
cho trẻ thường chứa đựng những nội dung giáo dục được đưa
ra dưới dạng những hình ảnh sinh động, hấp dẫn gần gũi với
trẻ”.
Trong GDDD thông qua TCHT, phương pháp này chính
là cách thức giáo viên sử dụng những câu chuyện chứa đựng

những kiến thức về DD như tên gọi, đặc điểm, nguồn gốc,


×