1
PHÒNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO THÀNH PHỐ PLEIKU
Đề tài:
MỘT SỐ KINH NGHIỆM
GIÁO DỤC DINH DƯỠNG CHO TRẺ
24 - 36 THÁNG
MÃ SKKN: 3KA
Họ và tên người viết: Hồ Thị Thái
Chuyên môn: Trung cấp mầm non
Đơn vị : Trường Mầm Non 19/8 - TP.Pleiku
NĂM HỌC 2010- 2011
PHÒNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO THÀNH PHỐ PLEIKU
Đề tài:
MỘT SỐ KINH NGHIỆM
GIÁO DỤC DINH DƯỠNG CHO TRẺ
24 - 36 THÁNG
NĂM HỌC 2010- 2011
2
MỘT SỐ KINH NGHIỆM GIÁO DỤC DINH DƯỠNG
CHO TRẺ 24-36 THÁNG
I. ĐẶT VẤN ĐỀ:
Dinh dưỡng là nhu cầu sống hàng ngày của mỗi con người nói
chung và trẻ em nói riêng. Trẻ em cần dinh dưỡng để phát triển về
thể lực và trí lực. Trẻ em nếu được nuôi dưỡng tốt sẽ mau lớn,
khoẻ mạnh, thông minh và học giỏi. Ngược lại, nếu nuôi dưỡng
không đúng cách, trẻ sẽ bị còi cọc, chậm lớn, chậm phát triển và
dễ dàng mắc bệnh.
Dinh dưỡng không hợp lýù, kể cả thiếu hay thừa đều ảnh hưởng
đến sức khoẻ và sự phát triển của trẻ. Khi thiếu dinh dưỡng, cơ thể
của trẻ phát triển chậm lại và sẽ ảnh hưởng nhiều đến việc học
hành, trẻ dễ buồn chán, lười hoạt động, cáu bẳn, không hoà đồng
với bạn bè. Do đó, việc quan tâm đến chế độ dinh dưỡng cho trẻ là
việc làm hết sức cần thiết và được thể hiện ở chế độ dinh dưỡng
hợp lý, vì vậy khẩu phần ăn hàng ngày phải đủ về số lượng và cân
đối, hợp lý về chất lượng cho từng độ tuổi.
Năm học 2010-2011, tôi được nhà trường phân công giảng dạy
nhóm trẻ 24-36 tháng. Trong quá trình thực hiện việc chăm sóc
giáo dục dinh dưỡng cho trẻ, tôi đã có những thuận lợïi như sau:
-Chiến lược quốc gia về dinh dưỡng giai đoạn 2001-2010 cũng
đã đề cập đến nhiệm vụ của Bộ Giáo dục & đào tạo trong việc đưa
nội dung giáo dục dinh dưỡng vào trường học, đặc biệt quan tâm
giáo dục dinh dưỡng cho trẻ bậc học mầm non.
3
-Tôi đã được tiếp thu chuyên đề Giáo dục dinh dưỡng cho trẻ
mầm non do Phòng Giáo dục & đào tạo TP.Pleiku triển khai nên
nắm bắt được nội dung cơ bản cộng với kinh nghiệm qua nhiều
năm giảng dạy nhóm trẻ, vì vậy cũng là điểm thuận lợi cho quá
trình thực hiện chuyên đề.
-Trường tôi được xây dựng mới, các phương tiện phục vụ hoạt
động nuôi-dạy đảm bảo điều kiện tối thiểu nhất. Nhà trường thực
hiện ứng dụng phần mềm dinh dưỡng Nutrikids tính toán khẩu
phần ăn cho trẻ nên chất lượng bữa ăn được nâng lên rõ rệt.
-Đa số phụ huynh làm trong cơ quan Nhà nước chỉ có 1-2 con
nên rất quan tâm đến các cháu, đặc biệt là chế độ ăn uống. Điều
đó cũng tạo điều kiện thuận lợi để tôi làm tốt công tác phối kết hợp
nhằm thực hiện chuyên đề Giáo dục dinh dưỡng có hiệu quả.
Tuy nhiên ở độ tuổi này, sức khoẻ của trẻ hoàn toàn phụ thuộc
vào sự quan tâm chăm sóc của người lớn. Nhưng chính nhiều khi
sự quan tâm chưa đúng mức, cộng với sự thiếu hiểu biết về kiến
thức dinh dưỡng của một số phụ huynh, dẫn đến trẻ trong lớp phát
triển thể lực chưa đồng đều. Qua kiểm tra sức khoẻ 40 trẻ trong
lớp, nhiều trẻ phát triển thể lực chậm so vớùi độ tuổi, có trẻ thì béo
qúa (béo phì), ngượïc lại có trẻ lại gầy gò quá (suy dinh dưỡng);
100% trẻ lần đầu tiên được đi học, thay đổi môi trường, thay đổi
chế độ sinh hoạt, ăn ngủ ,… tuần đầu tiên, tôi rất vất vả để ổn định
nề nếp lớp nhưng kết quả vẫn là con số “O” tròn trĩnh. Giờ ăn thật
lộn xộn, cứ nhốn nháo cả lên, có cháu không ăn thịt, cháu thì nhả
rau,… đến giờ ngủ mới thật là nan giải: cháu chưa quen ngủ đúng
4
giờ, cứ lồm cồm bò, chạy, mếu máo,…Tôi rất băn khoăn lo lắng, vì
trẻ quá nhỏ, chưa biết tự phục vụ bản thân, giáo dục bằng lời nói
như giáo huấn thì trẻ khó tiếp thu. Cứ tình trạng này kéo dài, chắc
chắn sức khoẻ của trẻ sẽ giảm sút. Vậy biết làm sao đâây ?
Trẻ mầm non rất nhạy cảm và mau chóng tiếp thu những điều
học được và hình thành dấu ấn lâu dài. Vì vậy tiến hành giáo dục
dinh dưỡng-sức khoẻ cho trẻ mầm non sẽ góp phần quan trọng
trong chiến lược con người, tạo ra một lớp người mới có sự hiểu
biết đầy đủ về vấn đề dinh dưỡng và sức khoẻ, biết lựa chọn ăn
uống đúng cách để đảm bảo sức khoẻ của mình. Việc đưa các nội
dung giáo dục dinh dưỡng vào chương trình chăm sóc giáo dục trẻ
lứa tuổi mầm non là một việc làm rất cần thiết, tạo ra sự liên thông
về giáo dục dinh dưỡng - sức khoẻ cho trẻ từ lứa tuổi mầm non
đến tuổi học đường.
Nhận thức sâu sắc được tầm quan trọng của dinh dưỡng đối với
sự phát triển của trẻ em, tôi quyết tâm tìm ra biện pháp để khắc
phục những khó khăn ban đầu của lớp và từng bước đưa nội dung
dinh dưỡng vào giáo dục trẻ. Và kết quả thật bất ngờ ! Chỉ hơn 1
tháng sau, trẻ lớp tôi đã có những chuyển biến rõ nét. Và đến thời
điểm này của năm học, nề nếp sinh hoạt ăn, ngủ, nghỉ,… của trẻ
đã quy củ, đâu vào đấy. Tôi thật sự phấn khởi và xin được mạnh
dạn cùng trao đổi với các đồng nghiệp về “Một số kinh nghiệm
giáo dục dinh dưỡng cho trẻ ở nhóm 24-36 tháng” như sau:
II. NHỮNG BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
5
1/ Chăm sóc bữa ăn hàng ngày ở lớp cho trẻ:
Trướùc tiên, để giáo dục trẻ vệ sinh trước bữa ăn. Khi cho trẻ
tập trung lại để cô rửa tay, tôi liền hát:
“Nào bé ngoan ơi !
Giờ ăn đến rồi
Đứng lên rửa tay
Cho thêm sạch sẽ!”
Sau đó, tôi dạy trẻ bài hát: “Tay thơm tay ngoan”, “Khám
tay”, Và dạy trẻ đọc bài thơ: “Rửa tay sạch”:
“Cô dặn bé:
Trước giờ ăn
Khi tay bẩn
Phải rửa tay,
Với xà phòng
Bé ghi lòng
Lời cô dạy!”
Thế là các bé hứng khởi đứng dậy cùng cô đọc thơ khi ra rửa
tay.
Khi chia thức ăn cho trẻ, tôi kết hợp giới thiệu tên các món ăn
để trẻ biết. Đối vớùi cháu độ tuổi này, cô không thể nào cung cấp
cho trẻ một cách rập khuôn như cháu mẫu giáo, đại loại như: “Cà
rốt chứa vitamin A rất bổ mắt”, “Cá thịt cung cấp cho ta nhiều
chất đạm”, Tôi tìm cách nói thật đơn giản để nói với trẻ vì cháu
độ tuổi này tư duy cũng hết sức giản đơn. Trẻ không thể nhớ ngay
được, nhưng tôi tiến hành thường xuyên, đều đặn hàng ngày nên
6
dần dần trẻ đã biết tên tất cả các món ăn trong thực đơn của
trường.
Ví dụ : “Các bé yêu của cô, hôm nay các con ăn cơm vớùi
trứng vịt chiên và canh rau mồng tơi nấu cua đồng đấy !”, hay:
“Món phở bò chiều nay ngon ơi là ngon, bạn nào ăn cũng
giỏi !”, hoặc: “Các con ăn trứng là da hồng hào, ai thấy cũng
đều yêu!”, “Ăn cà rốt là mắt sáng long lanh đó các con!”,…
Đối với trẻ độ tuổi này thì “Ăn” không phải là chuyện nhỏ. Ăn
đem lại niềm vui cho trẻ này nhưng lại là áp lực đối với trẻ khác. Để
tất cả trẻ đều hứng thú khi ăn, tôi thống nhất với giáo viên dạy cùng
lớp, không nên tách trẻ ăn chậm, suy dinh dưỡng riêng mà sắp xếp
những trẻ đó ngồi chung với trẻ ăn khoẻ để trẻ nhìn nhau, kích
thích sự thi đua cùng nhau, đồng thờøi tôi luôn bao quát, lưu tâm
đều hết tất cả các cháu. Đối với trẻ biếng ăn, tôi động viên khuyến
khích:
- “Con hãy ăn thi vớùi bạn … xem ai ăn nhanh hết chén
nhé !”, đồng thời nhắc nhở trẻ ăn nhanh: “Con hãy nhai kỹõ
rồi mớùi nuốt không bị đau bụng đấy !”, hoặc: “Con chờø bạn
cùng ăn vớùi nhé !”.
Khi lấy cơm và thức ăn cho trẻ, tôi luôn thực hiện “chiến
thuật”: “Thà làm cá nhỏ trong ao lớùn, còn hơn làm cá lớùn
trong ao nhỏ” - một kinh nghiệm nho nhỏ mà tôi đã đọc đượïc
trong báo. Đó là: tôi múc ít cơm, thức ăn để trong bát nhằm đánh
lừa thị giác của trẻ. Nhờø cảm giác “ít ỏi” của khẩu phần ăn này
làm cho trẻ thấy dễ “xử” hơn là một bát cơm đầy ngất ngưởûng,
7
cứ như thế, chịu khó lấy nhiều lần cho trẻ ăn và trẻ luôn ăn hết
một cách hứng thú, thoải mái.
Ở lớp, có một số bé khó ăn, hay “kén cá chọn canh”, thích
ăn thịt mà không thích ăn cá là chuyện thường tình. Tôi nghĩ ra
cách “nguỵ trang” một loại thức ăn nào đó dưới vỏ bọc khác. Đôi
khi, một tên gọi mới để “thổi hồn” vào món ăn cũ cũng thật cần
thiết.
Ví dụ: Đối với món “Cá thu chiên”, tôi chế biến thành món
“Cá thu xối mỡõ” hoặc “Chả cá nhúng dầu”. Dựa vào màu sắc
đặc trưng của món canh súp tôi “chế tác” thành món “Canh mây
hồng”,… khiến trẻ rất thích thú và ăn thật ngon miệng.
Đôi khi tôi còn cho trẻ “Đoán mùi thức ăn” (đồ nấu): Trước
khi chia thức ăn cho trẻ, tôi mở hé vung nồi thức ăn cho trẻ ngửi
mùi và đoán. Cô giới thiệu nhanh những thực phẩm dùng để nấu
món ăn đó qua tranh ảnh, cách chế biến:
-“Ai đoán được hôm nay chúng ta ăn món gì ?
-Ồ, cô ngửi thấy mùi Súp ! Đúng rồi ! Mùi rất thơm
ngon. Thế món súp được nấu từ những loại thực phẩm gì ?
-À: Có thịt bò này, khoai tây này, cà rốt này, cả trứng gà
nữa ! Ăn rất ngon và bổ”.
(Cô múc một thìa súp và chỉ cho trẻ xem từng thứ, khuyến
khích trẻ gọi tên thực phẩm).
Qua hình thức này, tôi thấy trẻ có thể nhận biết mùi thức ăn
quen thuộc, mùi thức ăn mới và kích thích hứng thú ăn.
8
Ngoài thức ăn và các loại thực phẩm nuôi dưỡng cơ thể thì
nước là thứ không thể thiếu đối với sự sống. Tầm quan trọng của
nước đối với cơ thể không thua kém prôtêin và các chất dinh
dưỡng khác. Nướùc là một trong những chất dinh dưỡõng trọng
yếu giúùp duy trì hoạt động sinh lý bình thường của cơ thể, là
phương tiện để hoàn thành sự hấp thu, vận chuyển và bài tiết các
chất cặn bã có trong cơ thể. Các chất dinh dưỡng bao giờøø cũng
phải hoà tan vào nướùc, sau đó mớùi có thể thông qua các loại thể
dịch để chuyển đến các tổ chức và tế bào khắp cơ thể, phát huy
tác dụng của chúng. Tất cả các hoạt động sinh lý đó đều không thể
thiếu nước. Trẻ nhỏ hàng ngày đều phải uống nước (kể cả ăn
nước canh) để có đủ nước. Do đó, tôi luôn chú ý nhắc nhở trẻ và
cho trẻ uống nước vì trẻ lứa tuổi này có nhu cầu uống nước rất
nhiều nhưng đa số trẻ chưa có ý thức tự giác uống. Khi nhắc trẻ
uống nước, tôi hát: “Nào bạn ăn, ăn cho mau lớn! Nào bạn
uống, uống nước cho mịn da !”
Thế là trẻ nhớ, rồi hát theo và hào hứng tự đi lấy ly, xếp hàng
uống nước.
Trẻ ăn xong, tôi nhắc trẻ dùng khăn mặt riêng của mình lau
miệng, lau tay (trước đó, tôi đã giặt khăn, vắt ẩm để sẵn), súc
miệng bằng nước muối, sau đó uống nước, đi vệ sinh trước khi
ngủ. Quá trình trẻ thực hiện, tôi đều bao quát, hướng dẫn và trợ
giúp trẻ, không làm thay trẻ hoàn toàn vì từng bước tôi rèn cho trẻ
thói quen tự phục vụ bản thân.
9
2/ Giáo dục dinh dưỡng cho trẻ bằng hình thức lồng ghép
các nội dung vào tiết học và hoạt động vui chơi cho trẻ:
Giáo dục dinh dưỡng không được tổ chức thành một tiết học
riêng biệt, mà đối với trẻ độ tuổi này nếu giáo dục đơn thuần là lời
nói mang tính giáo huấn thì sẽ không đem lại kết quả. Nắm bắt
được đặc điểm tâm sinh lý của trẻ, tôi đã đưa các nội dung giáo
dục vào tiết học cũng như các hoạt động khác cho trẻ bằng cách
sưu tầm các bài hát, bài thơ, ca dao, cââu đố để lồng ghép vào các
tiết học và các hoạt động khác của trẻ cho phù hợp. Tôi tiến hành
dưới hình thức: “Học mà chơi, chơi mà học”.
+ Vớùi môn “Nhận biết tập nói”:
Ví dụ: Đề tài “Một số loại rau”. Ngoài kiến thức cần cung
cấp cho trẻ như tên gọi, đặc điểm, tôi nhấn mạnh: “Các chất dinh
dưỡõng có trong từng loại rau củ như: rau muống, rau cải, rau
ngót,…có vitamin C, khi ăn vào làm cho da các con mịn màng,
hồng hào, trông thật đáng yêu”; “Khi các con ăn cà chua, cà
rốt, bí đỏ,…có vitamin A thì mắt các con sáng long lanh và học
giỏi lắm đấy!”,…
Tôi đọc cho trẻ nghe và hướng dẫn trẻ làm điệu bộ hưởng
ứng theo nhịp điệu của bài thơ: “Họ rau”:
“Rềnh rềnh ràng ràng
Đi chợïï mua hàng
Có các loại rau
Nấu có vị ngọt
10
Là anh rau ngót
Có thêm tí bọt
Là bác rau đay
Đi chợï cho hay
Là anh rau má
Nấu với tôm cá
Là bác cải xanh
Nấu canh rất lành
Là lá mồng tơi, ”
Hoặc bài “Họ đậu”:
“Nấu canh rất mát
Là bác đậu xanh
Ăn chè lớn nhanh
Nhà anh đậu đỏ
Cho ly sữa nhỏ
Nhà cô đậu nành
Tất cả đều lành
Cho ta lớn nhanh
Là nhà họ đậu”.
+ Đề tài: “Các con vật sống dướùi nước”: Ngoài kiến thức
cần thiết cung cấp cho trẻ như biết tên, đặc điểm, môi trường sống,
… tôi giải thích cho các cháu: “Các loại cá, tôm, cua, ốc,…cho ta
nhiều chất bổ và canxi các con ăn vào sẽ cứng xương, cao
lớn, chạy giỏi để đá banh”.
11
Tôi đọc cho trẻ nghe bài thơ: “Nu na nu nống”
“Nu na nu nống
Cá bống kho khô
Cá rô đánh vẩy
Tôm tép đang nhảy
Rang ăn mới ngon
Cá chép cả con
Bỏ lò thật tuyệt
Nhưng làm vỡ mật
Thì có… “Trời ăn”
Lươn nấu chuối xanh
Chẳng tanh tí nào
Cá mè đem xào
Xin đừng cho nước
Cá quả luộc trước
Gỡ nạc nấu canh”.
+Môn Giáo dục ââm nhạc: Đề tài “Con gà trống”
“Con gà trống
Có mào đỏ
Chân có cựa
Gà trống gáy
Ò ó o !
Gà trống gáy
Ò ó o !”
12
Ngoài yêu cầu cháu thuộc bài hát, hát đúng nhạc, biết nhún
nhảy theo giai điệu bài hát, tôi còn khéo léo khai thác khía cạnh
khác để giáo dục dinh dưỡng cho trẻ theo “đường vòng”. Vì nếu
giớùi thiệu cho trẻ gà trống còn là món ăn bổ dưỡõng thì e rằng trẻ
sẽ khó chấp nhận (mặc dù đúng là như thế), vì trẻ đang coi gà
trống như “Bạn”. Tôi nói: “Gà trống có nhiệm vụ đánh thức bé
ngoan dậy đi học, gà trống đố các bé nếu giải đượïc câu đố
này thì sẽ tặng cho bé món quà trong câu đố:
“Quả gì lòng đỏ
Không kết từ hoa
Mẹ nó là gà
Cho nhiều chất đạm?”
(Trứng gà ăn rất ngon và bổ, các con nhớ ăn đều để mắt sáng,
tóc mượt nhé!).
+ Hoạt động vui chơi:
Khi trẻ đã nhận biết được cơ bản một số loại rau, củ, quả,
con vật,…tôi cho trẻ chơi trò chơi đơn giản như “Đố bạn biết”, “Ai
có tranh giống tranh của cô”, “Chọn thực phẩm”,
Ví dụ: Trò chơi “Ai có tranh giống tranh của cô”:
Tôi phát cho mỗi trẻ một số quân lôtô (có nội dung phù hợp vớùi
nội dung bài dạy của cô). Trẻ cầm tranh vừa đi vừa hát, khi tôi đưa
từng quân lôtô lên đố: “Các con ơi? Đây là tranh vẽ con (rau, củ,
quả,…) gì?”. Trẻ nói tên con vật (hoặc rau, củ, quả) vẽ trên quân
lôtô ấy. Những lần chơi sau tôi nói về ích lợïi, đặc điểm để trẻ suy
nghĩ và tìm tranh phù hợp theo đúng ý nghĩa câu hỏi cô vừa nêu
13
ra. Qua trò chơi này đã giúp trẻ nhận biết và nói nhanh tên các con
vật, rau, củ, quả, gần gũi với trẻ.
Khi chơi trò chơi “bán hàng”, lần chơi đầu tôi cho trẻ đóng
vai người bán hàng, tôi là người mua hàng; ngoài việc giúp trẻ biết
công việc của người bán hàng và người mua hàng, qua vui chơi tôi
khéo léo lồng ghép nội dung về dinh dưỡng vào hình thức giải câu
đố tương ứng với “rau, củ , qủa, thực phẩm cần mua”.
Ví dụ: Tôi nói: “Củ gì đo đỏ
Con thỏ thích ăn”- Trẻ đưa cho tôi củ cà rốt.
Tôi nói: “Cảm ơn bác, ăn cà rốt rất sáng mắt đấy ạ !”
Tôi nói: “Quả gì không thiếu không thừa,
Ăn vào ngon ngọt cho vừa lòng nhau” - Trẻ đưa
quả đu đủ, tôi nói: “À, đu đủ ăn rất ngọt và bổ đấy !”
Tôi nói: “Con gì có vẩy có vây
Không đi trên cạn mà bơi dưới hồ
Mẹ thường đem rán, đem kho
Ăn vào mau lớn giúp cho khoẻ ngườøi ?”
Trẻ đưa con cá. Tôi nói: “ À, đúng rồi, đó là con cá, ăn cá rất
ngon và bổ giúp chúng ta thông minh, học giỏi đó các con!”.
Khi trẻ đã nắm bắt được, tôi cho trẻ đổi vai chơi – Và dĩ
nhiên, trẻ diễn tả món hàng theo sự quan sát, hiểu biết đơn giản
của trẻ, tôi giúp trẻ bổ sung cho đủ ý cần diễn đạt theo yêu cầu của
trò chơi.
Từ những hình thức như thế, mỗi ngày, tôi cung cấp cho trẻ
từng tí một các kiến thức đơn giản về dinh dưỡng phù hợp với lứa
14
tuổi, trẻ tiếp thu một cách rất tự nhiên và hứng thú. Khi dạy trẻ, bao
giờ tôi cũng chú ý chuẩn bị giáo cụ trực quan: Bộ tranh lôtô hoặc
rau, củ, quả, con vật thật,… để trẻ quan sát và dễ nhớ. Đặc biệt khi
dạy về “Quả”, tôi còn cho trẻ sờ, ngửi, nếm,… để trẻ biết mùi vị
của chúng,…giúp trẻ rất thích thú và nhớù lâu hơn.
Để trẻ lĩnh hội kiến thức về dinh dưỡng ở các hoạt động một
cách hứng thú, tôi luôn tìm tòi các băng đĩa, hình ảnh chiếu lên
màn hình, ti vi tạo hình ảnh sống động. Từ đó thu hút được sự chú
ý của trẻ đối với những kiến thức cần truyền tải và trẻ rất hào hứng
tiếp nhận, đạt kết quả cao hơn.
3/ Phối kết hợp với cha mẹ trẻ:
Ngay cuộc họp phụ huynh đầu năm học, tôi đã tuyên truyền
cho phụ huynh nhận thức được tầm quan trọng của việc chăm sóc
trẻ: Chế độ ăn uống của trẻ phải đảm bảo các nhóm thực phẩm là:
Đạm, bột đường, chất béo (chủ yếu chất béo thực vật), sinh tố -
muối khoáng và nước. Nếu được chăm sóc tốt thì trẻ sẽ khoẻ
mạnh. Ngoài chế độ dinh dưỡng hợp lý, cha mẹ cần lưu tâm đến
vệ sinh cá nhân và giờ giấc sinh hoạt của trẻ điều độ. Tôi xây dựng
góc tuyên truyền dinh dưỡng ở lớp với nội dung phong phú, hình
thức đẹp, hấp dẫn. Và kết quả thật bất ngờ: Nhiều phụ huynh đã
viết bài, vẽ tranh, sưu tầm thơ ca, câu đôù, mẩu chuyện có nội
dung giáo dục dinh dưỡng và chăm sóc trẻ như: cách nuôi con,
cách chọn mua thực phẩm, cách chế biến món ăn cho trẻ,…
15
Tôi thường xuyên trao đổi với phụ huynh những vấn đề hàng
ngày của trẻ. Ví dụ:
“Chị ơi ! Hôm nay bé rất biếng ăn, cháu kêu đau răng, chị
đưa cháu đi khám răng nhé !”, hoặc “Tháng này cháu ăn uống
bình thường nhưng không tăng cân, ở nhà chị cho cháu uống
thêm sữa nhé !”.
Ở lớp tôi có trường hợp cháu Thanh Thảo, nhìn hình thức
bên ngoài: thể trạng cháu không gầy lắm, cân nặng vẫn ở kênh A,
nhưng da dẻ xanh xao và đặc biệt, cháu lúc nào cũng buồn rầu,
ánh mắt nhìn không linh hoạt, vận động chậm chạp, uể oải,…mặc
dù ởûû lớùp cháu vẫn ăn không bỏ bữa, ngủ ngon . Tôi tranh thủ
đến nhà gặp phụ huynh vì hàng ngày cha mẹ cháu nhờ người đưa
đón là chủ yếu. Sau khi tiếp xúc, trao đổi, được biết hoàn cảnh kinh
tế gia đình không khó khăn nhưng thời gian chăm sóc con cái rất ít
vì cha mẹ cháu bận buôn bán cả ngày. Ở nhà, cháu ăn theo chế độ
như người lớn, cháu không chịu ăn canh, tối đi ngủ muộn. Sau khi
tìm hiểu rõ nguyên nhân, tôi động viên phụ huynh sắp xếp thời gian
hợp lý để chăm sóc cháu: buổi sáng cho cháu ăn cháo dinh dưỡng
hoặc ăn súp nhẹ nhàng; cả ngày ăn ở lớp, tối về cho cháu ăn vào
lúc 18h-18h30’, cố gắng cho cháu đi ngủ trước 21h00 vì lứa tuổi
của cháu cần ngủ nhiều hơn; trước khi đi ngủ cho cháu uống 1 ly
sữa nóng vừa giúp cháu no bụng, vừa giúp cháu dễ ngủ (đừng sợ
cháu đái dầm). Còn ở lớp, tôi chú ý đến cháu nhiều hơn, bằng các
hình thức động viên khuyến khích như đã nêu ở trên. Cứ như vậy,
với sự phối kết hợp giữa gia đình và giáo viên phụ trách lớp, chỉ
16
trong thời gian ngắn, cháu đã khỏe mạnh, hồng hào, linh lợi hoạt
bát hẳn lên, gia đình cháu rất mừng.
Hàng ngày giờ trả trẻ, tôi luôn trao đổi với phụ huynh biết các
món ăn từng ngày trên lớp để phụ huynh biết và bổ sung món ăn
khác ở nhà cho trẻ không trùng lặp, giúp trẻ ăn ngon miệng, ăn đủ
về số lượng và đảm bảo về chất lượng.
III.KẾT QUẢ VÀ VIỆC PHỔ BIẾN ỨNG DỤNG NỘI DUNG
VÀO THỰC TIỄN:
Qua việc thực hiện lồng ghép nội dung giáo dục dinh dưỡng
cho trẻ 24-36 tháng và có sự phối kết hợp chăm sóc nuôi dưỡng
giữa gia đình và nhà trường. Đến nay, về sức khoẻ của các cháu
lớp tôi đã chuyển biến một cách rõ rệt. Qua đợt kiểm tra sức khoẻ
định kỳ học kỳ I, số lượng học sinh suy dinh dưỡng giảm so với
đầu năm. Cụ thể: Đầu năm học, trẻ nằm ở kênh bình thường (+2)
là 32 cháu trên +3 là 02 cháu, dưới -2 là 01 cháu . Đến nay, số trẻ
trên +3 là 01 cháu, dưới -2 là 01 cháu.
Nhìn chung, trong lớp các cháu khoẻ mạnh, nhanh nhẹn, đi
học chuyên cần, kể cả thời gian này đang là mùa đông. Các cháu
đã thích nghi với chế độ sinh hoạt tại nhà trẻ, thích nghi với chế độ
ăn ở trường với các loại thức ăn khác nhau. Các cháu ăn hết khẩu
phần của mình, ăn được các loại thực phẩm do nhà bếp nấu,
không bỏ rau, bỏ thịt, chỉ thích ăn cá như một số trẻ đầu năm học;
trẻ có thói quen xếp hàng để cô giáo rửa tay trước khi ăn, sau khi
đi vệ sinh; trong khi ăn không nói chuyện riêng, không làm rơi vãi
17
thức ăn. Đa số trẻ đã biết tự xúc ăn, sau khi ăn biết tự lau miệng
bằng khăn sạch cô chuẩn bị sẵn, có nhu cầu uống nước khi khát,…
Trẻ biết chơi một số trò chơi có nội dung giáo dục dinh dưỡng
đơn giản, qua đó trẻ nhận biết tên một số loại rau, củ, quả, con vật,
…cung cấp dinh dưỡng cho cơ thể.
Trẻ thuộc một số bài hát, bài thơ, giải được câu đố,…có nội
dung giáo dục dinh dưỡng mà tôi hay hát, đọc cho trẻ nghe hoặc
đố trẻ.
IV. BÀØI HỌC KINH NGHIỆM:
Sau khi tìm tòi, vận dụng một số biện pháp, lồng ghép nội dung
giáo dục dinh dưỡng vào các hoạt động nuôi và dạy trẻ đạt được
những kết quả đáng kể, tôi rút ra cho bản thân mình một số bài học
kinh nghiệm như sau:
Sức khoẻ là vốn quý nhất của con người, việc chăm sóc sức
khoẻ ban đầu cho trẻ là trách nhiệm của cả gia đình và nhà trường.
Giáo dục dinh dưỡng và sức khoẻ là một trong những biện pháp
tích cực đem lại hiệu quả lâu dài trong “chiến lượïc” phòng chống
suy dinh dưỡng của toàn xã hội.
Chăm sóc sức khoẻ và dinh dưỡng cho trẻ có vai trò rất quan
trọng, nó là nền tảng giúp trẻ phát triển toàn diện về mọi mặt. Có
sức khoẻ, trẻ mới tích cực tham gia vào các hoạt động. Nếu trẻ suy
dinh dưỡng thì sức khoẻ trẻ sẽ yếu ớt, trí tuệ sẽ chậm phát triển.
Muốn đảm bảo các yêu cầu trên thì giáo viên mầm non chúng ta
phải thực tâm yêu nghề, mến trẻ, tận tuỵ với các cháu như
18
“Ngườøi mẹ hiền thứ 2”, phải nắm vững được đặc điểm tâm sinh
lý của trẻ để có biện pháp phù hợp, thiết thực trong việc chăm sóc
và giáo dục dinh dưỡng cho các cháu.
Giáo dục dinh dưỡng phải lồng ghép vào các môn học và hoạt
động vui chơi, mọi lúc mọi nơi một cách có chọn lọc, dưới hình
thức các trò chơi, câu đố, bài hát, thơ ca, hò vè,…hấp dẫn, phù
hợp với lứa tuổi nhà trẻ, có hiệu quả mà không ảnh hưởng đến
trọng tâm tiết dạy. Khi giáo dục trẻ, không chỉ bằng lời nói suông
mà cần có giáo cụ trực quan sinh động kèm theo: vật thật để trẻ
quan sát, nhìn ngắm, sờ mó, nếm ngửi,…hoặc mô hình nhưng phải
giống như vật thật.
Giáo viên phải lưu ý đêán vấn đề vệ sinh cá nhân trẻ, nhất là vệ
sinh ăn uống, vệ sinh lớp học, … tạo môi trường trong sạch, lành
mạnh cho trẻ.
Phối kết hợp chặt chẽ với phụ huynh dưới mọi hình thức: trực
tiếp gặp gỡ, trao đổi, thông qua bảng tin tuyên truyền của lớp,… để
có biện pháp giáo dục cho thích hợp và đạt hiệu quả.
Trên đây là một số kinh nghiệm của tôi về nội dung giáo dục
dinh dưỡng cho trẻ 24-36 tháng mà tôi đã tìm tòi, vận dụng và trải
nghiệm. Rất mong được sự giúp đỡõ của đồng nghiệp để tôi có
thêm những kinh nghiệm quý báu cho việc giáo dục trẻ được tốt
hơn.
Xin chân thành cảm ơn !
19
20