Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

PTTC tổng quan về phân tích kế toán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.11 KB, 21 trang )

Chương 3: TỔNG QUAN VỀ PHÂN TÍCH KẾ TOÁN
Mục đích của phân tích kế toán là để đánh giá mức độ mà kế toán của một công ty nắm bắt
thực tế kinh doanh cơ bản của công ty đó. Bằng cách nhận dạng những chỗ như chính sách
và sự ước lượng kế toán của công ty, các nhà phân tích có thể đánh giá độ tin cậy của
những con số kế toán của một công ty. Sau khi xác định bất kỳ sự thay đổi về cách hạch
toán kế toán, các nhà phân tích có thể điều chỉnh số liệu kế toán của công ty bằng cách sử
dụng dòng tiền và thông tin thuyết minh để đưa về cùng cách thức so sánh. Phân tích kế
toán có cơ sở cải thiện độ tin cậy của các kết luận từ phân tích tài chính, bước tiếp theo
trong phân tích báo cáo tài chính.
I.

KHUNG THỂ CHẾ CỦA BÁO CÁO TÀI CHÍNH

Thường có sự tách biệt giữa quyền sở hữu và quản lý trong các công ty đại chúng. Báo cáo
tài chính nhằm mục đích báo cáo cho chủ sở hữu để theo dõi tình hình tài chính của công
ty. Trên cơ sở định kỳ, các doanh nghiệp thường đưa ra ba báo cáo tài chính gồm các báo
cáo sau:
(1) Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh
(2) Bảng cân đối kế toán
(3) Báo cáo lưu chuyển tiền tệ
Những báo cáo này được đính kèm theo thuyết minh báo cáo tài chính – cung cấp thêm
chi tiết về các dòng tiền, khoản mục trên báo cáo tài chính, cũng như bằng thảo luận tường
thuật cách quản lý của công ty.
Để đánh giá một cách hiệu quả chất lượng dữ liệu báo cáo tài chính của một công ty, nhà
phân tích trước tiên cần hiểu các đặc trưng cơ bản của báo cáo tài chính và kết cấu báo cáo,
như được thảo luận trong các phần sau.
1.1

Kế toán dồn tích

Một trong những đặc trưng cơ bản của báo cáo tài chính doanh nghiệp là chúng được


chuẩn bị bằng cách sử dụng dồn tích hơn là kế toán tiền mặt. Không giống như kế toán tiền
mặt, kế toán dồn tích phân biệt giữa việc ghi nhận chi phí và lợi nhuận gắn liền với hoạt
động kinh doanh và việc thu chi tiền mặt thực tế. Thu nhập ròng là chỉ số hoạt động định
kỳ cơ bản theo kế toán dồn tích. Để ước tính thu nhập ròng, sự ảnh hưởng của các giao
dịch kinh tế được ghi nhận trên cơ sở dự kiến, không nhất thiết phải thực tế, việc thu và chi
tiền mặt. Việc thu tiền mặt dự kiến từ việc phân phối hàng hóa hoặc dịch vụ được ghi nhận
là doanh thu và khoản tiền mặt dự kiến chi ra gắn liền với doanh thu này được ghi nhận là
chi phí.
Trong khi có nhiều nguyên tắc và quy ước chi phối việc chuẩn bị báo cáo tài chính của một
công ty, nhưng chỉ có một vài khối xây dựng dựa trên các khái niệm được thiết lập trên nền
tảng của kế toán dồn tích. Các định nghĩa sau đây rất quan trọng đối với báo cáo kết quả
hoạt động kinh doanh để tổng kết doanh thu và chi phí của công ty:
1


• Doanh thu là các nguồn lực kinh tế kiếm được trong một khoảng thời gian. Việc ghi
nhận doanh thu được quản lý theo nguyên tắc thực tế, xác định rằng doanh thu phải được
ghi nhận khi (a) công ty đã cung cấp tất cả hoặc về cơ bản là tất cả, hàng hóa hoặc dịch vụ
được giao cho khách hàng và (b) khách hàng đã trả tiền mặt hoặc là dự kiến sẽ trả bằng
tiền mặt với mức độ chắc chắn có cơ sở.3
 Chi phí là các nguồn lực kinh tế được tận dụng hết trong một khoảng thời gian. Việc
ghi nhận chi phí được quản lý bởi các nguyên tắc phù hợp và nguyên tắc thận trọng. Theo
các nguyên tắc này, chi phí là chi phí sản xuất (a) liên quan trực tiếp đến doanh thu được
ghi nhận trong cùng kỳ, (b) liên quan đến lợi nhuận được tiêu thụ trong khoảng thời gian
này hoặc (c) có lợi ích tương lai không chắc chắn một cách có cơ sở.
 Lợi nhuận là sự khác biệt giữa doanh thu và chi phí của một công ty trong một
khoảng thời gian.4
Do đó, mối quan hệ theo nguyên tắc cơ bản sau được phản ánh trong báo cáo kết quả
hoạt động kinh doanh của một công ty:
Lợi nhuận = Doanh thu – Chi phí

Ngược lại, bảng cân đối kế toán là một bản tóm tắt tại một điểm thời gian. Các nguyên
tắc xác định tài sản, nợ phải trả và vốn chủ sở hữu của một công ty như sau:
 Tài sản là nguồn lực kinh tế thuộc sở hữu của một công ty (a) có khả năng tạo ra các
lợi ích kinh tế trong tương lai và (b) có thể đo lường được với mức độ chắc chắn hợp lý.
 Nợ phải trả là các nghĩa vụ kinh tế của một công ty phát sinh từ các lợi ích nhận
được trong quá khứ mà (a) được yêu cầu phải gắn với mức độ chắc chắn hợp lý và (b) thời
gian được xác định một cách có cơ sở.
 Vốn chủ sở hữu là sự khác biệt giữa tài sản của công ty và các khoản nợ phải trả của
công ty đó.
Các định nghĩa về tài sản, nợ phải trả và vốn chủ sở hữu dẫn đến mối quan hệ theo
nguyên tắc cơ bản chi phối bảng cân đối kê toán của một công ty:
Tài sản = Nợ phải trả + Vốn chủ sở hữu
1.2

Sự ủy quyền của việc báo cáo tới Ban Quản trị

Mặc dù các định nghĩa cơ bản về các yếu tố của báo cáo tài chính của công ty rất đơn giản,
nhưng ứng dụng của chúng trong thực tế thường liên quan đến các phán đoán phức tạp. Ví
dụ, doanh thu nên được ghi nhận như thế nào khi một công ty bán đất cho khách hàng và
cũng cung cấp tài chính cho khách hàng? Nếu doanh thu được ghi nhận trước khi thu tiền
mặt, thì sự vỡ nợ tiềm năng nên được ước tính như thế nào? Có phải các chi phí liên quan
đến hoạt động nghiên cứu và phát triển, mà các khoản chi trả không chắc chắn, tài sản hoặc
chi phí khi phát sinh? Các cam kết bằng hợp đồng dưới hình thức thỏa thuận cho thuê BĐS
hoặc các khoản nợ kế hoạch sau khi nghỉ hưu? Nếu vậy, chúng nên được đánh giá như thế
nào?
2


Bởi vì các nhà quản lý doanh nghiệp có kiến thức sâu sắc qua kinh nghiệm về việc kinh
doanh của công ty họ, họ được giao nhiệm vụ chính là đưa ra các phán đoán thích hợp

trong việc mô tả vô số các giao dịch kinh doanh bằng cách sử dụng khung kế toán dồn tích
cơ bản. Các quyết định kế toán được cấp cho người quản lý có giá trị tiềm năng vì nó cho
phép họ phản ánh thông tin bên trong báo cáo tài chính được báo cáo. Tuy nhiên, vì các
nhà đầu tư xem lợi nhuận là thước đo hiệu suất của người quản lý, người quản lý có động
cơ để sử dụng quyết toán kế toán của họ để bóp méo lợi nhuận được báo cáo bằng cách
đưa ra giả định thiên lệch. Hơn nữa, việc sử dụng các con số kế toán trong hợp đồng giữa
công ty và bên ngoài cung cấp một động lực cho việc quản lý sự thao túng những con số kế
toán.
Việc quản lý lợi nhuận này bóp méo dữ liệu kế toán tài chính, khiến cho chúng kém giá trị
đối với người dùng báo cáo tài chính bên ngoài. Do đó, sự ủy quyền các quyết định báo
cáo tài chính cho người quản lý có cả chi phí và lợi ích. Những quy tắc kế toán và kiểm
toán là các cơ chế được thiết kế để giảm chi phí và duy trì lợi ích của việc ủy quyền báo
cáo tài chính cho các nhà quản lý doanh nghiệp. Đạo luật Sarbanes-Oxley tăng sự dính líu
của ủy ban kiểm toán của ban giám đốc của công ty và yêu cầu chứng nhận cá nhân của
Giám đốc điều hành và Giám đốc tài chính về tính phù hợp của báo cáo tài chính như một
cách để giảm chi phí của sự ủy quyền này. Hệ thống pháp lý được sử dụng để phân xử sự
bất đồng giữa các nhà quản lý, kiểm toán viên và nhà đầu tư.

3


1.3

Các Nguyên tắc kế toán chấp nhận chung (GAAP)

Thật là khó cho các nhà đầu tư bên ngoài xác định được liệu các nhà quản lý có sử dụng
tính linh hoạt của kế toán để ra hiệu thông tin độc quyền của họ hay chỉ đơn thuần để che
giấu thực tế, một số quy tắc kế toán đã phát triển để giảm thiểu vấn đề. Ví dụ, ở hầu hết các
quốc gia, báo cáo tài chính được chuẩn bị bằng cách sử dụng quy ước giá gốc, trong đó tài
sản và nợ phải trả được ghi nhận theo tỷ giá hối đoái gốc thay vì giá trị hợp lý, giá trị thay

thế hoặc giá trị đang sử dụng. Điều này làm giảm khả năng của người quản lý để phóng đại
giá trị của các tài sản mà họ đã có được hoặc phát triển hoặc để giảm đi giá trị của nợ phải
trả. Tất nhiên, giá gốc cũng giới hạn thông tin có sẵn cho nhà đầu tư về tiềm năng của các
tài sản của công ty, vì giá hối đoái trước đây thường khác với giá trị hợp lý hoặc giá trị
đang được sử dụng. Để công nhận điều này, những người đặt ra chuẩn mực chính của thế
giới ngày càng yêu cầu sử dụng kế toán giá trị thị trường theo các chuẩn mực tương ứng.
Giới Thiệu Về Kế Toán Giá Trị Hợp Lý
Các chuẩn mực kế toán của Hoa Kỳ và quốc tế yêu cầu các công ty sử dụng kế toán giá trị
hợp lý (FVA) để đánh giá các tài sản tài chính chắc chắn. Các quy tắc xác định loại tài sản
nào sẽ được ghi nhận theo các giá trị hợp lý, và loại tài sản nào phải được đánh giá theo giá
gốc. Họ cũng xác định cách ghi nhận các khoản lãi và lỗ chưa thực hiện từ việc sử dụng
các giá trị hợp lý và cách đo lường các giá trị hợp lý.
Theo các quy tắc, chứng khoán có thể mua bán được và chứng khoán phái sinh được
yêu cầu phải được định giá theo giá trị hợp lý của chúng. Các công cụ tài chính (như chứng
khoán nợ) được báo cáo theo giá trị hợp lý nếu sự quản lý dự đoán trước rằng chúng sẽ
được giao dịch trong tương lai hoặc nếu chúng có khả năng được giao dịch. Ngược lại, các
công cụ nợ mà các nhà quản lý dự đoán nắm giữ đến ngày đáo hạn được báo cáo theo giá
gốc.
Các chuẩn mực cũng chỉ rõ liệu lãi hoặc lỗ từ các sửa đổi trong các giá trị hợp lý có
xuất hiện trong báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh hay được đưa vào vốn chủ sở hữu
trực tiếp hay không. Lãi và lỗ chưa thực hiện trên chứng khoán có thể mua bán được, công
cụ tài chính được giao dịch và các chứng khoán phái sinh không phải là được nắm giữ cho
các mục đích bảo hiểm rủi ro được bao gồm trong thu nhập ròng. Đối với các công cụ tài
chính có sẵn để bán hoặc chứng khoán phái sinh được giữ như là một phần của thỏa thuận
bảo hiểm rủi ro, mọi khoản lãi hoặc lỗ chưa thực hiện được chuyển trực tiếp đến nguồn
vốn chủ sở hữu và không thông qua báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh.
Cuối cùng, người đặt ra các chuẩn mực đã nhận ra rằng việc báo cáo tài sản tài chính
theo giá trị hợp lý của chúng liên quan đến mức độ biến đổi của tính chủ quan tùy thuộc
vào tính thanh khoản và tính minh bạch của thị trường tài sản được đề cập. Các chuẩn mực
đã thiết lập một hệ thống phân cấp để đo lường giá trị hợp lý của tài sản tài chính. Các

công cụ được giao dịch trong một thị trường có tính thanh khoản cao và có trật tự được gọi
là công cụ cấp một và được định giá bằng cách sử dụng giá thị trường gần nhất. Tài sản tài
chính không được giao dịch trên thị trường có tính thanh khoản cao, nhưng có thể được
4


định giá bằng các mô hình tài chính mà đầu vào của nó sẵn sàng từ thị trường có tính thanh
khoản cao, được gọi là tài sản cấp hai và được định giá bằng mô hình tài chính và giá đầu
vào của thị trường. Cuối cùng, một số công cụ có thể được đánh giá bằng cách sử dụng các
mô hình tài chính nhưng yêu cầu người quản lý ước tính đầu vào. Chúng được gọi là tài
sản cấp ba và yêu cầu sự phán đoán quản lý đáng kể để ước tính giá trị hợp lý của chúng.
Cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 đã chứng minh những thách thức trong việc ước
tính giá trị hợp lý của các công cụ tài chính khi thị trường chứng khoán được đề cập là rất
kém thanh khoản. Đó là trường hợp cho các chứng khoán được đảm bảo bằng tài sản thế
chấp (MBS), là những tuyên bố về dòng tiền từ các khoản cho vay thế chấp nhà ở được tạo
ra thông qua một quá trình được gọi là chứng khoán hóa. Nhiều trong số các chứng khoán
này thuộc sở hữu của các tổ chức tài chính trên toàn thế giới. Do sự không chắc chắn về tỷ
lệ vỡ nợ các khoản cho vay thế chấp và sự giảm giá trị tài sản ưu đãi tăng, thị trường chứng
khoán được đảm bảo bằng tài sản thế chấp trở nên kém thanh khoản và có nhiều biến động
về giá trị của chúng trên bảng cân đối kế toán của ngân hàng và công ty đầu tư sở hữu
chứng khoán.
Các chuẩn mực và quy tắc kế toán cũng hạn chế khả năng của việc quản lý lạm dụng sự
phán đoán kế toán bằng cách quy định cách ghi nhận các loại giao dịch cụ thể. Ví dụ, các
chuẩn mực kế toán về quy định hợp đồng cho thuê, cách thức các công ty phải ghi lại các
thỏa thuận bằng hợp đồng cho thuê tài nguyên. Tương tự như vậy, lương hưu và các tiêu
chuẩn lợi ích sau khi làm việc khác mô tả cách thức các công ty phải ghi lại các cam kết
cung cấp lương hưu và các quyền lợi hưu trí khác cho nhân viên. Những chuẩn mực kế
toán này, được thiết kế để truyền tải thông tin định lượng về hiệu suất của doanh nghiệp,
được bổ sung bởi một bộ nguyên tắc tiết lộ công khai. Những nguyên tắc tiết lộ công khai
này hướng dẫn số lượng và loại thông tin được tiết lộ và yêu cầu một công ty cung cấp

thông tin định tính liên quan đến các giả định, chính sách và sự không chắc chắn để đáp
ứng các dữ liệu định lượng được trình bày.
Tại Hoa Kỳ, Ủy ban Chứng khoán và Sàn Giao dịch (SEC) có thẩm quyền pháp lý để
thiết lập các chuẩn mực kế toán. SEC thường dựa vào các hội đồng kế toán khu vực tư
nhân để thực hiện nhiệm vụ này. Từ năm 1973 chuẩn mực kế toán tại Hoa Kỳ đã được thiết
lập bởi Hội đồng chuẩn mực Kế toán Tài chính (FASB); Nguyên tắc kế toán được chấp
nhận chung (GAAP) biểu thị các chuẩn mực, quy ước, nguyên tắc và thủ tục mà FASB yêu
cầu các công ty áp dụng trong việc chuẩn bị báo cáo tài chính của họ.
Các hội đồng thiết lập chuẩn mực kế toán khu vực công hoặc khu vực tư nhân tương tự
đã phát triển cục bộ các tiêu chuẩn kế toán dựa trên nhiều quốc gia khác. Gần đây hơn, Hội
đồng chuẩn mực Kế toán Quốc tế (IASB) và người tiền nhiệm của nó, Ủy ban chuẩn mực
Kế toán Quốc tế (IASC), đã thúc đẩy các chuẩn mực kế toán toàn cầu. Những chuẩn mực
này, Chuẩn mực báo cáo tình hình tài chính quốc tế (IFRS), đang ngày càng được chấp
nhận trên toàn thế giới.
Sự Hội Tụ U.S GAAP/ IFRS5

5


Các chuẩn mực kế toán địa phương phát sinh độc lập theo thời gian ở các thị trường
vốn lớn với ít sự quan tâm, hoặc cần, sự nhất quán xuyên biên giới. Khái niệm sự hội tụ
của các chuẩn mực đa dạng này lần đầu tiên xuất hiện vào giữa thế kỷ XX khi sự hội nhập
kinh tế sau thế chiến thứ hai và tăng dòng vốn quốc tế bắt đầu tạo ra nhu cầu về khả năng
so sánh thông tin tài chính lớn hơn.
IASC (Ủy ban chuẩn mực kế toán quốc tế), được thành lập năm 1973, là cơ quan sắp
đặt các chuẩn mực quốc tế đầu tiên và ban hành chuẩn mực đầu tiên vào năm 1974. IASC
được tổ chức lại vào năm 2001 và đổi tên thành IASB (Hội đồng chuẩn mực kế toán quốc
tế). Mục tiêu của nó là “phát triển, vì lợi ích công cộng, một bộ chuẩn mực kế toán toàn
cầu chất lượng cao.” 6 Vào năm 2011, các chuẩn mực IASB, được gọi là IFRS (Chuẩn mực
báo cáo tình hình tài chính quốc tế) được yêu cầu hoặc cho phép ở hầu hết 120 quốc gia.

Thêm vào đó, vào năm 2011 tất cả các nền kinh tế lớn còn lại đã thiết lập các mốc thời
gian và các chương trình để hội tụ hoặc thông qua IFRS.7
Năm 2002, FASB tại Hoa Kỳ và IASB đã ban hành “Hiệp định Norwalk”, trong đó hai
nhà đặt ra các chuẩn mực cam kết hội tụ GAAP và IFRS của Hoa Kỳ. Hiệp định này mô tả
mục tiêu chung của việc phát triển các chuẩn mực kế toán có thể được sử dụng cho cả báo
cáo tài chính trong nước và xuyên biên giới và điều đó sẽ làm giảm sự phức tạp và chi phí
kinh doanh trên thị trường vốn toàn cầu. Kể từ đó, đã có một số bước quan trọng hướng tới
sự hội tụ. Trong năm 2007, SEC đã loại bỏ yêu cầu các tổ chức phát hành nước ngoài sử
dụng IFRS và được liệt kê ở Hoa Kỳ cung cấp báo cáo tài chính được điều chỉnh cho
GAAP của Hoa Kỳ. Trong cùng năm đó, FASB và IASB đã hoàn thành dự án chung đầu
tiên và ban hành các chuẩn mực hội tụ về các kết hợp kinh doanh. Các cuộc thảo luận tiếp
theo giữa FASB, IASB và SEC đã khẳng định lại cam kết hội tụ chuẩn mực và đặt ra năm
2011 như là đường chân trời để xác định liệu các công ty Mỹ có sử dụng IFRS hay không.
Trong Chương Bốn, chúng tôi thảo luận về một số khác biệt quan trọng còn lại giữa
GAAP và IFRS của Hoa Kỳ và cách so sánh hiệu suất của các công ty bằng cách sử dụng
hai phương pháp tiếp cận.
Các chuẩn mực kế toán thống nhất cố gắng giảm khả năng của các nhà quản lý để ghi
lại các giao dịch kinh tế tương tự theo những cách không giống nhau, theo thời gian hoặc
giữa các công ty. Do đó, họ tạo ra một ngôn ngữ kế toán thống nhất và tăng độ tin cậy của
các báo cáo tài chính bằng cách hạn chế khả năng một công ty làm biến dạng chúng .Tuy
nhiên, đi kèm với việc giảm chi phí linh hoạt cho người quản lý để phản ánh sự khác biệt
trong kinh doanh chính hãng trong quyết định kế toán của công ty. Các chuẩn mực kế toán
cứng nhắc hoạt động tốt nhất cho các giao dịch kinh tế mà việc xử lý kế toán không được
dựa trên thông tin độc quyền của người quản lý. Tuy nhiên, khi có những đánh giá kinh
doanh đáng kể liên quan đến việc đánh giá hậu quả kinh tế của một giao dịch, các chuẩn
mực cứng nhắc có thể gây bất thường cho một số công ty vì họ ngăn cản người quản lý sử
dụng kiến thức cao cấp của họ về doanh nghiệp để xác định cách tốt nhất để báo cáo kinh
tế về các sự kiện kinh doanh chính. Hơn nữa, nếu các chuẩn mực kế toán quá cứng nhắc,
chúng có thể khiến các nhà quản lý phải chi tiêu các nguồn lực kinh tế để cơ cấu lại các
6



giao dịch kinh doanh để đạt được kết quả kế toán mong muốn hoặc từ bỏ các giao dịch có
thể khó báo cáo.
1.4

Kiểm toán độc lập (External Auditing)

Kiểm toán độc lập, kiểm tra và xác minh tính toàn vẹn của báo cáo tài chính được báo cáo
bởi một bên khác, đảm bảo rằng người quản lý sử dụng quy tắc và quy ước kế toán một
cách nhất quán theo thời gian và ước tính kế toán của họ là hợp lý. Trong tất cả các thị
trường, các công ty niêm yết đều được yêu cầu phải có báo cáo tài chính được kiểm toán
bởi một kế toán viên độc lập. Tại Hoa Kỳ, các tiêu chuẩn và thủ tục được theo dõi bởi các
kiểm toán viên độc lập được gọi là Tiêu chuẩn Kiểm toán được chấp nhận chung (GAAS).
Theo Đạo luật Sarbanes-Oxley, nhằm đưa ra trách nhiệm giám sát các công ty kiểm toán và
đảm bảo rằng họ tuân thủ theo GAAS với Ban Giám sát Kế toán Công ty Công cộng
(PCAOB), một cơ quan pháp lý được thành lập theo Đạo luật. Tất cả các công ty kế toán
công phải đăng ký với PCAOB, để có quyền kiểm tra và xác minh công việc kiểm toán, và
— nếu cần – họ có thể kỷ luật các kiểm toán viên.
Đạo luật Sarbanes-Oxley cũng xác định cụ thể mối quan hệ giữa công ty và kiểm toán bên
ngoài, yêu cầu kiểm toán báo cáo và được giám sát bởi ban kiểm toán của công ty chứ
không phải quản lý của công ty. Ngoài ra, Đạo luật cấm các công ty kế toán công khai
cung cấp các dịch vụ không kiểm toán, chẳng hạn như sổ kế toán, thiết kế và triển khai hệ
thống thông tin, định giá và một loạt các dịch vụ tư vấn khác cho một công ty mà chính họ
kiểm toán. Cuối cùng, Đạo luật cũng yêu cầu các công ty kiểm toán xoay vòng và xem xét
đối tác kiểm toán sau mỗi năm năm.
Khi kiểm toán đưa ra ý kiến về các báo cáo tài chính được công bố, điều quan trọng cần
nhớ là trách nhiệm chính đối với các báo cáo vẫn thuộc về các nhà quản lý doanh nghiệp.
Kiểm toán cải thiện chất lượng và độ tin cậy của dữ liệu kế toán bằng cách hạn chế khả
năng bóp méo các báo cáo tài chính của công ty cho phù hợp với mục đích riêng của công

ty. Tuy nhiên, khi những kiểm toán thất bại tại các công ty như Enron và WorldCom, và
các vụ kiện gần đây cho rằng các thất bại kiểm toán tại các công ty như AIG, Bear Stearns,
Countrywide Financial Corp, Lehman Brothers, Washington Mutual, New Century
Financial là do một số kiến nghị và kiểm toán không hoàn hảo. Kiểm toán không thể xem
xét tất cả giao dịch của công ty. Họ cũng có thể gặp thất bại vì chất lượng kém hoặc các
kiểm toán viên bị đánh giá không cập nhật xu hướng (Challenge Management), hoặc vì họ
sợ mất khách hàng trong tương lai.
Kiểm toán của bên thứ ba cũng có thể làm giảm chất lượng báo cáo tài chính vì nó có thể
hạn chế các loại quy tắc và quy ước kế toán phát triển theo thời gian. Ví dụ, FASB xem xét
quan điểm của kiểm toán viên trong quy trình thiết lập tiêu chuẩn. Kiểm toán viên rất có
thể tranh luận chống lại các tiêu chuẩn kế toán mà đưa ra các con số khó kiểm toán, ngay
cả khi các quy tắc được đề xuất cung cấp thông tin liên quan cho các nhà đầu tư.
1.5

Trách nhiệm pháp lý (Legal Liability)

7


Môi trường pháp lý trong đó tranh chấp kế toán giữa các nhà quản lý, kiểm toán viên và
nhà đầu tư được xét xử cũng có thể có ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng của các con số
được báo cáo. Mối đe dọa của các vụ kiện và các hình phạt có hiệu quả tác dụng của việc
cải thiện tính chính xác trong việc tiết lộ. Tuy nhiên, khả năng chịu trách nhiệm pháp lý
cũng có thể ngăn cản các nhà quản lý và kiểm toán viên hỗ trợ các đề xuất kế toán, trong
đó đánh giá quản lý và kiểm toán và tăng tính phức tạp hoặc sắc thái. Ngoài ra, Đạo luật
SarbanesOxley được ban hành năm 2002 có các điều khoản có khả năng làm tăng nguy cơ
này: người quản lý phải chính mình xác nhận kết quả tài chính, và kiểm toán viên có thể bị
giám sát nâng cao và các hình phạt rình rập từ PCAOB (Ban Giám sát Kế toán Công ty) do
SOX tạo ra. Ngoài ra, có thể thấy từ rất nhiều vụ kiện chống lại các công ty kiểm toán và
quản lý trong bối cảnh khủng hoảng tài chính toàn cầu, khả năng chịu trách nhiệm pháp lý

thể hiện rủi ro rất lớn và thực sự đối với cả công ty quản lý và công ty kiểm toán.
II.

CÁC NHÂN TỐ LÀM ẢNH HƯỞNG TỚI CHẤT LƯỢNG KẾ TOÁN
(FACTORS INFLUENCING ACCOUNTING QUALITY)

Chính các cơ chế điều đó làm hạn chế khả năng của người quản lý dẫn tới làm sai lệch
thêm dữ liệu kế toán, nó không phải là tối ưu để sử dụng quy chế kế toán để loại bỏ hoàn
toàn tính linh hoạt của quản lý. Do đó, các hệ thống kế toán thế giới thực có nhiều chỗ
(considerable room for) cho các nhà quản lý làm sai lệch dữ liệu báo cáo tài chính. Lợi
nhuận ròng là thông tin trong báo cáo tài chính doanh nghiệp là số liệu sai lệch (noisy and
biased), ngay cả trong sự hiện diện của quy chế kế toán và kiểm toán bên ngoài. Mục tiêu
của phân tích kế toán là đánh giá mức độ kế toán của doanh nghiệp nắm bắt được thực tế
kinh doanh cơ bản của nó và “ hoàn tác ” bất cứ biến dạng kế toán nào. Khi tiềm ẩn sai
lệch lớn, phân tích kế toán có thể tăng thêm giá trị đáng kể.
Có 3 nguồn gây sai lệch trong dữ liệu kế toán: (1) độ sai lệch được giới thiệu bởi độ cứng
nhắc trong quy tắc kế toán, (2) lỗi dự báo ngẫu nhiên, và (3) lựa chọn báo cáo có hệ thống
của các nhà quản lý doanh nghiệp để đạt được mục tiêu cụ thể. Mỗi yếu tố này được thảo
luận dưới đây.
2.1 Độ sai lệch từ quy tắc kế toán (Noise from Accounting Rules)
Các quy tắc kế toán đưa ra độ sai lệch vì thường khó hạn chế quyền quản lý mà không làm
giảm nội dung thông tin của dữ liệu kế toán. Ví dụ, Báo cáo các Chuẩn mực Kế toán Tài
chính (SFAS) số 2 do FASB ban hành yêu cầu các công ty phải bỏ tiền ra chi tiêu cho
nghiên cứu và phát triển khi có phát sinh. Rõ ràng, có một số chi phí có giá trị tương lai
trong khi những chi phí khác thì không. Tuy nhiên, vì SFAS 2 không cho phép các công ty
phân biệt giữa hai loại chi phí, điều này dẫn đến sự biến dạng có hệ thống các số kế toán
được báo cáo. Điều thú vị là IASB cho phép các công ty tận dụng các chi phí phát triển,
được cho là có giá trị kinh tế trong tương lai, và giống như FASB đòi hỏi các chi phí cho
nghiên cứu phải được mở rộng (IAS 38). Do đó, nói chung, mức độ biến dạng được giới
thiệu bởi các tiêu chuẩn kế toán phụ thuộc vào các tiêu chuẩn kế toán thống nhất tốt như

thế nào nào nắm bắt được bản chất của các giao dịch của một công ty.

8


2.2 Lỗi dự báo (Forecast Errors)
Một nguồn độ sai lệch khác trong dữ liệu kế toán phát sinh từ lỗi dự báo thuần túy, bởi vì
các nhà quản lý không thể dự đoán hậu quả trong tương lai của các giao dịch hiện tại một
cách hoàn hảo. Ví dụ, khi một công ty bán sản phẩm theo tín dụng, kế toán lũy kế yêu cầu
người quản lý đưa ra phán quyết về xác suất thu tiền của khách hàng. Nếu các khoản thanh
toán được coi là "hợp lý nhất định", công ty xử lý các giao dịch dưới dạng bán hàng, tạo
các khoản phải thu trên bảng cân đối kế toán của mình. Người quản lý sau đó ước tính tỷ lệ
các khoản phải thu sẽ không thu được. Vì người quản lý không có tầm nhìn xa hoàn hảo,
vỡ nợ (default) thực tế của khách hàng có thể khác với vỡ nợ ước tính, dẫn đến lỗi dự báo.
Mức độ sai sót trong dự báo kế toán của người quản lý phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác
nhau bao gồm sự phức tạp của giao dịch kinh doanh, khả năng dự đoán môi trường của
công ty và những thay đổi không lường trước được trong toàn nền kinh tế.
2.3 Lựa chọn kế toán của người quản lý (Managers’ Accounting Choices)
Các nhà quản lý doanh nghiệp cũng giới thiệu độ sai lệch vào dữ liệu kế toán thông qua
các quyết định kế toán của riêng họ. Các nhà quản lý có nhiều sự khuyến khích để thực
hiện quyết định kế toán của mình để đạt được các mục tiêu nhất định.



Các giao ước nợ dựa trên số kế toán. Người quản lý có thể đưa ra quyết định kế
toán để đáp ứng các nghĩa vụ hợp đồng nhất định trong các giao ước nợ của họ. Ví
dụ, thỏa thuận cho vay của các công ty với các ngân hàng và các chủ nợ khác yêu
cầu họ phải đáp ứng các giao ước liên quan đến bảo hiểm, tỷ lệ vốn lưu động và giá
trị ròng, tất cả được xác định theo số kế toán. Vi phạm các thỏa thuận này có thể
tốn kém bởi vì người cho vay có thể sử dụng ngay hình phạt bao gồm cả yêu cầu trả

nợ ngay lập tức các khoản vay của họ. Người quản lý của các công ty gần vi phạm
các giao ước nợ có động cơ để lựa chọn chính sách kế toán và ước tính để giảm khả
năng vi phạm giao ước. Động cơ giao ước nợ cho các quyết định kế toán của các
nhà quản lý đã được phân tích bởi một số nhà nghiên cứu kế toán.



Bồi thường quản lý. Một động cơ khác cho sự lựa chọn kế toán của người quản lý
đến từ thực tế là việc bồi thường và bảo đảm việc làm của họ thường gắn liền với
lợi nhuận được báo cáo. Ví dụ: nhiều người quản lý hàng đầu nhận được tiền
thưởng nếu họ vượt quá một số mục tiêu lợi nhuận được chỉ định trước. Điều này
tạo động lực cho các nhà quản lý lựa chọn chính sách kế toán và dự toán để tối đa
hóa mức bồi thường dự kiến của họ. Giải thưởng tùy chọn chứng khoán cũng có thể
khiến các nhà quản lý xoay xở kiếm thu nhập. Các tùy chọn đưa ra cho người quản
lý các ưu đãi để giảm thu nhập trước khi tùy chọn thực hiện để giảm giá cổ phiếu
hiện tại của công ty và do đó, giá tùy chọn thực hiện (exercise price) và thổi phồng
thu nhập và giá cổ phiếu tại thời điểm thực hiện quyền chọn.



Cuộc đua kiểm soát doanh nghiệp. Trong các cuộc đua kiểm soát của công ty, bao
gồm cả việc thâu tóm và tranh quyền đại diện (hostile takeover and proxy fights),
các nhóm quản lý cạnh tranh cố gắng giành được các cổ đông của công ty. Số kế
toán được sử dụng rộng rãi trong việc tranh luận về hiệu suất của các nhà quản lý
9


trong các cuộc đua này. Do đó, các nhà quản lý có thể đưa ra quyết định kế toán để
tác động đến nhận thức của nhà đầu tư trong các cuộc đua kiểm soát doanh nghiệp.




Xem xét thuế. Người quản lý cũng có thể đưa ra các lựa chọn báo cáo để giao dịch
giữa báo cáo tài chính và xem xét thuế. Ví dụ: các công ty Hoa Kỳ bắt buộc phải sử
dụng phương pháp kiểm kê LIFO để báo cáo cổ đông cũng sử dụng để báo cáo thuế
luôn. Theo LIFO, khi giá tăng, các công ty báo cáo lợi nhuận thấp hơn, do đó làm
giảm các khoản thanh toán thuế. Một số doanh nghiệp có thể từ bỏ việc giảm thuế
để báo cáo lợi nhuận cao hơn trong báo cáo tài chính của họ.



Xem xét quy định. Vì số kế toán được sử dụng bởi các nhà quản lý trong nhiều bối
cảnh khác nhau, các nhà quản lý của một số công ty có thể đưa ra các quyết định kế
toán ảnh hưởng đến kết quả qui định. Ví dụ về các tình huống pháp lý trong đó các
số kế toán được sử dụng bao gồm các hành động chống độc quyền, thuế nhập khẩu
để bảo vệ các ngành công nghiệp trong nước và chính sách thuế.



Xem xét thị trường vốn. Người quản lý có thể đưa ra quyết định kế toán để tác động
đến nhận thức của thị trường vốn. Khi có thông tin bất đối xứng giữa người quản lý
và người ngoài, chiến lược này có thể thành công trong việc ảnh hưởng đến nhận
thức của nhà đầu tư, ít nhất là tạm thời.



Các bên liên quan mật thiết. Các nhà quản lý cũng có thể đưa ra quyết định kế toán
để tác động đến nhận thức của các bên liên quan quan trọng của công ty. Ví dụ, kể
từ khi công đoàn có thể sử dụng lợi nhuận lành mạnh làm cơ sở để đòi hỏi tăng
lương, người quản lý có thể đưa ra quyết định kế toán để giảm thu nhập khi họ phải

đối mặt với các cuộc đàm phán hợp đồng. Ở các nước như Đức, nơi mà các liên
đoàn lao động mạnh mẽ, những cân nhắc này dường như đóng một vai trò quan
trọng trong chính sách kế toán của doanh nghiệp. Các bên liên quan quan trọng
khác mà các công ty có thể muốn ảnh hưởng thông qua các báo cáo tài chính của
họ bao gồm các nhà cung cấp và khách hàng.



Xem xét cạnh tranh. Động lực cạnh tranh trong ngành cũng có thể ảnh hưởng đến
các lựa chọn báo cáo của công ty. Ví dụ: quyết định tiết lộ phân đoạn của một công
ty có thể bị ảnh hưởng bởi lo ngại rằng việc tiết lộ phân tách có thể giúp các đối thủ
cạnh tranh trong quyết định kinh doanh của họ. Tương tự, các công ty có thể không
tiết lộ dữ liệu về lợi nhuận của họ theo dòng sản phẩm vì sợ mất thông tin độc
quyền. Cuối cùng, các doanh nghiệp có thể không khuyến khích người mới tham
gia bằng cách đưa ra lựa chọn kế toán giảm thu nhập.

Ngoài các lựa chọn chính sách kế toán và ước tính, mức độ tiết lộ cũng là yếu tố quyết
định quan trọng đối với chất lượng kế toán của doanh nghiệp. Các nhà quản lý doanh
nghiệp có thể chọn các chính sách tiết lộ khiến cho người bên ngoài sử dụng báo cáo
tài chính phải bỏ ra ít nhiều chi phí mới hiểu được bức tranh kinh tế thực sự của doanh
nghiệp họ. Các quy định kế toán thường quy định các yêu cầu tiết lộ tối thiểu, nhưng
chúng không hạn chế các nhà quản lý tự nguyện cung cấp thêm các tiết lộ. Người quản
10


lý có thể sử dụng các phần khác nhau của báo cáo tài chính, bao gồm thư cho cổ đông,
thảo luận và phân tích quản lý và chú thích, để mô tả chiến lược của công ty, chính
sách kế toán và hiệu suất hiện tại của công ty. Có nhiều biến thể trên các công ty trong
cách các nhà quản lý sử dụng tính linh hoạt tiết lộ của họ.
III. CÁC BƯỚC THỰC HIỆN TRONG PHÂN TÍCH KẾ TOÁN

Trong phần này, chúng ta thảo luận một loạt các bước mà một nhà phân tích có thể làm
theo để đánh giá chất lượng kế toán của một công ty.
Bước 1: Nhận diện và đánh giá các chính sách kế toán chủ yếu
Như đã thảo luận trong chương về phân tích chiến lược kinh doanh, đặc điểm ngành và
chiến lược cạnh tranh riêng của một công ty sẽ xác định các yếu tố quan trọng tạo nên
thành công và rủi ro có thể gặp phải của một công ty. Một trong những mục tiêu của phân
tích báo cáo tài chính là đánh giá xem các yếu tố tạo nên thành công như thế nào và các rủi
ro này được quản trị như thế nào. Do đó, trong phân tích kế toán, nhà phân tích nên xác
định và đánh giá được các chính sách và ước lượng kế toán mà công ty sử dụng để đo
lường các yếu tố cũng như rủi ro nghiêm trọng của những lựa chọn này.
Các yếu tố tạo nên thành công chủ yếu trong ngành ngân hàng bao gồm lãi suất và quản trị
rủi ro tín dụng; trong ngành bán lẻ thì quản trị hàng tồn kho là quan trọng. Đối với một nhà
sản xuất thì những lĩnh vực quan tâm chủ yếu là cạnh tranh về chất lượng sản phẩm, đổi
mới, nghiên cứu và phát triển, chế độ hậu mãi đối với các sản phẩm lỗi sau bán hàng. Một
yếu tố tạo nên thành công đáng kể trong kinh doanh cho thuê là để đưa ra dự báo chính xác
những giá trị còn lại của trang thiết bị cho thuê vào cuối thời hạn thuê. Đối với mỗi trường
hợp, nhà phân tích phải xác định các tiêu chuẩn đo lường kế toán mà công ty sử dụng để
nắm bắt các cấu trúc kinh doanh này. Các chính sách kế toán xác định cách thực hiện các
tiêu chuẩn đo lường và các ước tính kế toán quan trọng được đưa vào.
Ví dụ, tiêu chuẩn đo lường kế toán mà ngân hàng sử dụng để đo lường rủi ro tín dụng là
trích lập dự phòng của khoản vay và tiêu chuẩn đo lường kế toán để đánh giá chất lượng
sản phẩm cho nhà sản xuất là chi phí bảo hành và dự phòng. Đối với một công ty trong
ngành công nghiệp cho thuê thiết bị, một trong những chính sách kế toán quan trọng nhất
là cách ghi nhận các giá trị còn lại. Giá trị còn lại ảnh hưởng đến lợi nhuận được công bố
và là cơ sở tài sản của công ty. Nếu thặng dư giá trị được đánh giá quá cao, công ty sẽ phải
chịu rủi ro phải thực hiện xóa bỏ các khoản nợ xấu lớn trong tương lai.
Bước 2: Đánh giá mức độ linh hoạt của kế toán
Không phải tất cả các công ty đều có sự linh hoạt như nhau trong việc lựa chọn các chính
sách và ước tính kế toán cho họ. Một số lựa chọn kế toán của các công ty bị hạn chế
nghiêm trọng bởi các tiêu chuẩn và quy ước kế toán. Ví dụ, mặc dù nghiên cứu và phát

triển là một yếu tố tạo nên sự thành công quan trọng cho các công ty công nghệ sinh học,
các nhà quản lý ở các công ty Mỹ thiếu đi sự thận trọng về kế toán trong báo cáo đến các
hoạt động này. Tương tự, mặc dù marketing và xây dựng thương hiệu là rất cần thiết cho
sự thành công của các công ty hàng tiêu dùng, họ được yêu cầu phải chi tiêu tất cả các
11


khoản chi tiêu marketing của mình. Ngược lại, quản trị rủi ro tín dụng là một trong những
yếu tố tạo nên thành công quan trọng đối với các ngân hàng và các nhà quản lý ngân hàng
có quyền tự do ước tính các khoản dự phòng mặc định cho các khoản vay. Tương tự như
vậy, các nhà phát triển phần mềm có sự linh hoạt để quyết định, tại những thời điểm nào
trong chu kỳ phát triển thì các khoản chi tiêu có thể bị lợi dụng.
Nếu những nhà quản lý có ít sự linh hoạt trong việc chọn chính sách và ước lượng kế toán
liên quan đến các yếu tố tạo ra thành công chủ yếu của họ, dữ liệu kế toán có thể ít thông
tin hơn để hiểu về việc quản trị kinh doanh của công ty. Đây có thể là trường hợp của các
công ty công nghệ sinh học của Mỹ được yêu cầu chi phí cho nghiên cứu và phát triển.
Ngược lại, nếu người quản trị có tính linh hoạt trong việc chọn chính sách và ước lượng
(như trong trường hợp ngân hàng báo cáo rủi ro tín dụng) thì những con số kế toán có khả
năng là nguồn thông tin hữu ích, tùy thuộc vào cách người quản trị linh hoạt mức nào.
Bất kể mức độ linh hoạt đối với kế toán mà các nhà quản trị đo lường các yếu tố quan
trọng tạo nên thành công và rủi ro của công ty, họ có những sự linh hoạt liên quan với các
chính sách kế toán khác. Ví dụ, các công ty phải lựa chọn đối với phương pháp khấu hao
(phương pháp đường thẳng hoặc tăng tốc), phương pháp kế toán hàng tồn kho (LIFO cho
các công ty Mỹ, FIFO hoặc Chi phí trung bình) và các phương pháp liên quan đến việc ước
tính lương hưu và các khoản tiền công sau khi nghỉ việc khác (lợi nhuận kỳ vọng trên tài
sản dự kiến, tỷ lệ chiết khấu cho các khoản nợ và tỷ lệ tăng lương và chi phí chăm sóc sức
khỏe). Vì tất cả các lựa chọn phương pháp này có thể có tác động đáng kể đến kết quả báo
cáo của một công ty, cung cấp cơ hội cho công ty quản lý số liệu được báo cáo và nên là
trọng tâm của việc phân tích trong bước này.
Bước 3: Xác định chiến lược lập báo cáo

Khi những nhà quản trị có sự linh hoạt về kế toán, họ có thể sử dụng điều đó để truyền đạt
tình hình kinh tế của công ty hoặc để che giấu kết quả thực sự của công ty. Một số câu hỏi
mà người ta có thể hỏi trong việc kiểm tra cách các nhà quản trị thực hiện tính linh hoạt
trong kế toán của họ bao gồm:
• Các chính sách kế toán của công ty so sánh với các chuẩn mực trong ngành như thế nào?
Nếu chúng không giống nhau, có phải vì chiến lược cạnh tranh của công ty là duy nhất
không? Ví dụ, xem xét một công ty công bố mức trợ cấp bảo hiểm thấp hơn mức trung
bình của ngành. Một giải thích là công ty cạnh tranh trên cơ sở chất lượng cao và đã đầu tư
nguồn lực đáng kể để giảm tỷ lệ sản phẩm lỗi. Một giải thích khác là công ty chỉ đơn thuần
là nói giảm đi các khoản bảo hiểm nợ phải trả.
• Các nhà quản lý đối mặt với những sự tác động mạnh mẽ trong việc sử dụng tùy tiện kế
toán để quản lý thu nhập hay không? Ví dụ, là công ty gần với vi phạm các điều khoản trái
phiếu? Hay các nhà quản lý gặp khó khăn trong việc đạt được các mục tiêu tiền thưởng
dựa trên kế toán? Ban quản trị có sở hữu cổ phiếu đáng kể không? Là công ty ở giữa một
cuộc đấu tranh hay những sự dàn xếp công đoàn? Các nhà quản lý cũng có thể đưa ra các
12


quyết định kế toán để giảm các khoản thanh toán thuế hoặc ảnh hưởng đến nhận thức của
các đối thủ cạnh tranh của công ty.
• Công ty có thay đổi bất kỳ chính sách hoặc ước lượng kế toán nào hay không? Giải thích
cho sự thay đổi đó là gì? Tác động của những thay đổi này là gì? Ví dụ, nếu chi phí bảo
hiểm giảm, có phải vì công ty đã đầu tư đáng kể để cải thiện chất lượng không?
• Các chính sách và ước lượng kế toán của công ty có thực tế trong quá khứ không? Ví dụ:
các công ty có thể chi tiêu quá mức so với doanh thu của họ và giảm chi phí trong năm
bằng cách điều chỉnh các báo cáo hàng quý mà không phải chịu kiểm toán toàn diện bên
ngoài. Tuy nhiên, quá trình kiểm toán vào cuối năm tài chính buộc các công ty phải thực
hiện các điều chỉnh nhiều vào quý, miễn là, để đúng lúc đó nhà phân tích đánh giá chất
lượng báo cáo tạm thời của công ty. Tương tự như vậy, các công ty khấu hao tài sản cố
định quá chậm sẽ bị buộc phải xóa sổ các khoản vay lớn sau đó. Do đó, lịch sử của các lần

xóa sổ các khoản vay đó có thể là dấu hiệu của việc quản lý thu nhập từ trước đó.
• Để có thể đạt được các mục tiêu kế toán nhất định công ty có cơ cấu bất kỳ giao dịch kinh
doanh quan trọng nào không? Ví dụ, theo tiêu chuẩn kế toán hiện hành, các công ty cho
thuê có thể thay đổi thời hạn thuê (thời hạn của hợp đồng thuê hoặc lựa chọn thỏa thuận
vào cuối thời hạn thuê) để các giao dịch đủ điều kiện để cho thuê bên bán. Lehman
Brothers đã sử dụng các thỏa thuận mua lại được gọi là "Repo 105" giao dịch để làm đẹp
bảng cân đối kế toán của ngân hàng này. Theo những thỏa thuận này, Lehman đã “bán” các
khoản vay ngắn hạn ngay trước khi kết thúc năm cuối cùng và sử dụng số tiền thu được để
trả nợ, làm cho tỉ lệ sử dụng đòn bẩy tài chính thấp hơn. Sau cuối năm, ngân hàng này đã
vay tiền và mua lại khoản vay. Các hành vi như vậy cho thấy rằng các nhà quản lý của
công ty sẵn sàng chi tiêu các nguồn lực kinh tế chỉ để đạt được mục tiêu kế toán.
Bước 4: Đánh giá chất lượng của việc công bố
Những nhà quản trị có thể giúp nhà phân tích đánh giá chất lượng kế toán của công ty dễ
dàng hơn hoặc ít hơn và sử dụng báo cáo tài chính để hiểu thực tế kinh doanh của doanh
nghiệp. Trong khi đó, quy tắc kế toán yêu cầu công bố một số tiền tối thiểu nhất định, nhà
quản trị có sự lựa chọn đáng kể trong vấn đề này. Do đó, chất lượng việc công bố là một
thước đo quan trọng đối với chất lượng kế toán của công ty.
Khi đánh giá chất lượng về việc công bố của một công ty, một nhà phân tích có thể hỏi các
câu hỏi sau đây:
• Công ty có cung cấp thông tin công bố đầy đủ để đánh giá chiến lược kinh doanh của
công ty và hậu quả kinh tế không? Ví dụ, một số công ty sử dụng Thư gửi đến các Cổ đông
trong báo cáo thường niên của họ để nêu rõ các điều kiện ngành, lợi thế cạnh tranh và các
kế hoạch quản trị của công ty trong tương lai. Những người khác sử dụng lá thư này để làm
nổi bật hiệu quả tài chính của công ty và che đậy những khó khăn cạnh tranh mà công ty có
thể phải đối mặt.
13


• Các chú thích có giải thích đầy đủ các chính sách kế toán và giả định chính cũng như
logic của các chính sách kế toán đó không? Ví dụ: nếu các phương pháp ghi nhận doanh

thu và chi phí của doanh nghiệp khác với các chỉ tiêu của ngành, công ty có thể giải thích
các lựa chọn đó trong phần chú thích. Tương tự, khi có những thay đổi đáng kể trong chính
sách của công ty, chú thích cuối trang có thể được sử dụng để làm rõ cho lý do.
• Công ty có giải thích đầy đủ về kết quả hiện tại hay không? Phần Thảo luận và Phân tích
Quản trị (MD & A) của báo cáo hàng năm cung cấp cơ hội giúp các nhà phân tích hiểu
được lý do đằng sau kết quả thay đổi của công ty. Một số công ty sử dụng phần này để liên
kết hiệu quả tài chính với các điều kiện kinh doanh. Ví dụ, nếu lợi nhuận giảm xuống trong
một giai đoạn, đó có phải là do cạnh tranh về giá hay do tăng chi phí sản xuất? Nếu chi phí
bán hàng và chi phí quản lý chung tăng lên, đó có phải là do công ty đang đầu tư vào một
chiến lược đa dạng hóa, hoặc tổng chi phí phi sản xuất đang tăng lên? Dựa trên đánh giá
của các công ty trong danh sách Fortune 500, năm 2003 SEC đã công bố một thông tư cho
thấy rằng các công ty nên thảo luận thêm về MD & A về các chính sách kế toán quan trọng
trong số các khuyến nghị khác.
* Nếu các quy tắc và quy ước kế toán hạn chế công ty đo lường các yếu tố tạo nên thành
công chính một cách thích hợp, công ty có cung cấp thông tin bổ sung đầy đủ để giúp
người ngoài hiểu được các yếu tố này đang được quản lý như thế nào không? Ví dụ, nếu
một công ty đầu tư vào chất lượng sản phẩm và dịch vụ khách hàng, các quy tắc kế toán
không cho phép người quản lý lợi dụng những khoản chi tiêu này, ngay cả khi các khoản
lợi nhuận trong tương lai chắc chắn đi chăng nữa. MD & A của công ty có thể được sử
dụng để làm nổi bật cách mà các khoản chi tiêu này được quản lý và tầm quan trọng của
việc thực hiện chúng. Ví dụ, công ty có thể công bố các chỉ số vật lý về tỷ lệ sản phẩm lỗi
và sự hài lòng của khách hàng để người ngoài có thể đánh giá tiến độ được thực hiện trong
các lĩnh vực này và kết quả dòng tiền trong tương lai của những tác động này.
• Nếu một doanh nghiệp nằm trong nhiều phân đoạn kinh doanh, chất lượng việc công bố
phân đoạn là gì? Một số công ty cung cấp thảo luận rất tốt về kết quả của họ trong phân
đoạn sản phẩm và phân đoạn địa lý. Những người khác gộp nhiều doanh nghiệp khác nhau
thành một phân khúc rộng. Mức độ cạnh tranh trong ngành công nghiệp và sự sẵn lòng
trong việc quản trị để chia sẻ số liệu kết quả được phân tách, ảnh hưởng đến chất lượng
công bố phân đoạn của công ty.
• Mức độ sẵn sàng trong việc quản trị đối với tin xấu gặp phải như thế nào? Chất lượng

công bố của một công ty được tiết lộ rõ ràng nhất bằng cách việc quản trị giải quyết đối với
các tin xấu. Liệu nó có giải thích đầy đủ lý do cho kết quả kém đi? Công ty có nêu rõ chiến
lược của mình, nếu có, để giải quyết các vấn đề về tính hiệu quả của công ty hay không?

14


• việc tạo lập mối quan hệ gắn kết của công ty với nhà đầu tư như thế nào? Công ty có
cung cấp tài liệu thực tế với số liệu chi tiết của mình và kết quả hoạt động của doanh
nghiệp không? Ban quản lý có thể tiếp cận được với các nhà phân tích không?
Bước 5: Nhận diện và đánh giá các mối đe dọa
Ngoài các bước trên, một cách tiếp cận phổ biến để phân tích chất lượng kế toán là tìm
kiếm “red flags” những điểm mà số liệu kế toán đáng nghi ngờ. Những chỉ số này cho thấy
rằng các nhà phân tích nên kiểm tra một số khoản mục chặt chẽ hơn hoặc thu thập thêm
thông tin về chúng. Một số điểm đang nghi ngờ phổ biến như sau:
• Những thay đổi không giải thích được trong kế toán, đặc biệt khi kết quả hoạt động kinh
doanh kém. Điều này có thể cho thấy rằng các nhà quản lý đang sử dụng kế toán một cách
tùy tiện để làm đẹp báo cáo tài chính của họ.
• Các thương vụ giao dịch làm tăng lợi nhuận mà không rõ nguyên nhân. Ví dụ, các công
ty có thể thực hiện các nghiệp vụ bảng cân đối kế toán, chẳng hạn như bán tài sản hoặc nợ
cho các nghiệp vụ hoán đổi vốn chủ sở hữu, để có lợi nhuận trong các khoảng thời gian khi
hoạt động kinh doanh kém.
• Sự tăng bất thường trong các khoản phải thu liên quan đến việc tăng doanh thu. Điều này
có nghĩa rằng công ty đang muốn nới lỏng chính sách bán hàng trả chậm (credit policy)
hoặc công ty sẽ đẩy thêm hàng hóa tới các đại lý phân phối của mình rồi ghi nhận lại
doanh thu tăng lên trong giai đoạn hiện tại, một thực tế thường được gọi là nhồi kênh phân
phối (“channel stuffing"). Nếu chính sách chính sách bán hàng trả chậm được nới lỏng quá
mức, công ty có thể phải đối mặt với việc xóa bỏ các khoản phải thu trong các giai đoạn
tiếp theo do các kết quả của việc thiếu hụt khách hàng. Nếu công ty đẩy nhanh các hàng
hóa đến các nhà phân phối của mình thì công ty cũng có thể phải đối mặt với một trong hai

sản phẩm trả về hoặc giảm các lô hàng trong các kì kinh doanh tiếp đó.
• Tăng bất thường về hàng tồn kho để làm tăng doanh thu. Nếu việc tăng tồn kho là do sự
gia tăng hàng tồn kho thành phẩm, điều này có thể là dấu hiệu cho thấy nhu cầu tiêu thụ
đối với các sản phẩm của công ty đang chậm lại, công ty có thể buộc phải giảm giá (và do
đó kiếm được lợi nhuận thấp hơn) hoặc ghi nhận thêm hàng tồn kho. Việc tích lũy hàng tồn
kho đang dẫn hướng đến những thông tin tốt hơn mức bình quân, có thể là dấu hiệu cho
thấy các nhà quản lý kỳ vọng doanh thu tăng. Nếu việc ghi nhận vào là nguyên liệu thô,
đấy có thể là hàm ý sản xuất hoặc chi phí nguồn nguyên liệu không hiệu quả, dẫn đến tăng
giá vốn hàng bán (và do đó lợi nhuận thấp hơn).
• Mức chênh lệch giữa thu nhập mà công ty công bố và dòng tiền tăng lên từ hoạt động
kinh doanh. Mặc dù số liệu kế toán dồn tích hợp lý khác với các dòng tiền, nhưng thường
có mối quan hệ ổn định giữa hai trường hợp nếu các chính sách kế toán của công ty vẫn ổn
định. Do đó, bất kỳ thay đổi nào về mối quan hệ giữa lợi nhuận được công bố và dòng tiền
hoạt động có thể cho thấy những thay đổi nhỏ trong ước tính tích lũy của công ty. Ví dụ:
15


một công ty thực hiện các hợp đồng xây dựng lớn có thể sử dụng phương pháp tỷ lệ phần
trăm hoàn thành để ghi nhận doanh thu. Trong khi thu nhập và dòng tiền hoạt động kinh
doanh có thể khác nhau như vậy,chúng phải có một mối quan hệ ổn định với nhau. Bây giờ
giả sử công ty tăng doanh thu trong một khoảng thời gian bằng cách áp dụng tích cực
phương pháp hoàn thành theo phần trăm tiến độ. Sau đó, thu nhập của công ty sẽ tăng lên,
nhưng dòng tiền thì vẫn không bị ảnh hưởng. Sự thay đổi về chất lượng kế toán sẽ được
thể hiện bằng sự thay đổi về mối quan hệ giữa thu nhập và dòng tiền của công ty.
• Mức chênh lệch giữa thu nhập mà công ty công bố và thu nhập chịu thuế của doanh
nghiệp. Một lần nữa, điều này là khá hợp lý để thực hiện theo các chính sách kế toán khác
nhau cho báo cáo tài chính và kế toán thuế miễn là luật thuế cho phép. Tuy nhiên, mối
quan hệ giữa sổ sách kế toán của một công ty và kế toán thuế có khả năng vẫn ổn định theo
thời gian, trừ khi có những thay đổi đáng kể trong các quy tắc về thuế hoặc các chuẩn mực
kế toán. Như vậy, mức chênh lệch ngày càng tăng giữa thu nhập mà công ty công bố và thu

nhập chịu thuế của công ty có thể cho thấy báo cáo tài chính gửi tới các cổ đông đã trở nên
tích cực hơn. Ví dụ, chi phí bảo hành được ước tính trên cơ sở dồn tích trong báo cáo tài
chính, nhưng chúng được ghi nhận trên cơ sở tiền mặt để báo cáo thuế. Trừ khi có sự thay
đổi lớn về chất lượng sản phẩm của công ty, hai con số này có mối quan hệ nhất quán với
nhau. Do đó, thay đổi trong mối quan hệ này có thể là dấu hiệu cho thấy chất lượng sản
phẩm đang thay đổi đáng kể hoặc các ước tính báo cáo tài chính đang thay đổi.
• Một xu hướng sử dụng các cơ chế tài chính như quan hệ đối tác nghiên cứu và phát triển,
các công ty con được thành lập để thực hiện một nhiệm vụ đặc biệt và bán các khoản phải
thu khó đòi. Trong khi đó, các thỏa thuận này nghe có vẻ là khoản kinh doanh hợp lý,
chúng cũng có thể giúp cho ban quản trị làm giảm đi nợ phải trả của công ty hoặc thổi
phồng tài sản công ty tăng lên.
• Không mong muốn xóa sổ các tài sản. Điều này có thể nói rằng do việc quản lý không bắt
kịp cùng với các tình huống kinh doanh thay đổi đưa vào các ước tính kế toán. Xóa sổ tài
sản cũng có thể là kết quả của những thay đổi bất ngờ trong hoàn cảnh kinh doanh.
• Điều chỉnh lớn vào quý 4. Báo cáo thường niên của công ty được kiểm toán bởi các kiểm
toán viên bên ngoài, nhưng báo cáo tài chính định kỳ thường mới được xem xét lại. Nếu
ban giám đốc của công ty không muốn đưa ra các ước tính kế toán thích hợp (như các điều
khoản cho các khoản phải thu không thể thu hồi) trong báo cáo định kỳ, công ty buộc phải
điều chỉnh vào cuối năm do áp lực từ các kiểm toán viên bên ngoài. Do đó, một kiểu nhất
quán về việc điều chỉnh quý 4 có thể cho thấy sự linh hoạt của ban quản trị trong báo cáo
định kỳ.
• Các ý kiến hạn chế của kiểm toán hoặc những thay đổi trong các kiểm toán viên
độc lập thì không tốt. Điều này cho thấy quan điểm linh hoạt của công ty hoặc một
khuynh hướng “opinion shop.”
16


• Các thương vụ giao dịch hoặc giao dịch của bên liên quan giữa các đơn vị liên quan trong
tập đoàn. Các nghiệp vụ này có thể thiếu tính khách quan và các ước tính kế toán của
người quản trị liên quan đến các thỏa thuận giao dịch này có thể chủ quan hơn và để tự

phục vụ để đạt được mục đích đặt ra.
• Các khoản dự phòng và các giao dịch ngoại bảng cân đối kế toán không được giải thích
rõ ràng. Các loại giao dịch này có thể thế hiện sự cố gắng của ban quản trị nhằm làm đẹp
bảng cân đối kế toán của công ty.
Trong lúc danh sách trước cung cấp một số dấu hiệu nguy hiểm tiềm ẩn chất lượng kế toán
kém, điều quan trọng là phải phân tích thêm nữa trước khi đưa ra được kết luận cuối cùng.
Mỗi dấu hiệu nguy hiểm có nhiều cách diễn giải. Một số cách giải thích dựa trên lý do
quan điểm kinh doanh và một số khác cho thấy kế toán có vấn đề. Do đó, tốt nhất là sử
dụng phân tích các dấu hiệu nguy hiểm làm điểm bắt đầu để xem xét thêm nữa.
Như chúng ta đã thảo luận trong chương trước, điều quan trọng là phải duy trì một cái nhìn
có tính chiến lược rộng về thị trường, khách hàng, nhà cung cấp và xu hướng kinh tế vĩ mô
chung mà có thể ảnh hưởng đến kết quả hoạt động của công ty. Giữ theo quan điểm này
khi xác định dấu hiệu "đỏ" trong báo cáo tài chính của công ty có thể giúp nhà phân tích
hướng đến các vị trí có khả năng liên quan và cho thấy phạm vi quan trọng để phân tích
sâu hơn.
Bước 6: Điều chỉnh các báo cáo tài chính
Nếu phân tích kế toán cho thấy số liệu được báo cáo của công ty gây hiểu lầm, các nhà
phân tích nên cố gắng khôi phục số liệu được báo cáo để giảm sự méo mó ở mức có thể.
Dĩ nhiên, hầu như không thể hoàn toàn khôi phục sự méo mó bằng cách tự sử dụng thông
tin bên ngoài. Tuy nhiên, một số trường hợp có thể tiến hành theo hướng này bằng cách sử
dụng báo cáo lưu chuyển tiền tệ và chú thích báo cáo tài chính.
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ của công ty đưa ra một sự thống nhất về hiệu quả hoạt động của
công ty dựa trên kế toán dồn tích và kế toán dòng tiền. Nếu nhà phân tích không chắc chắn
về chất lượng của kế toán trên cơ sở dồn tích của công ty, báo cáo lưu chuyển tiền tệ cung
cấp một tiêu chuẩn thay thế về hiệu quả của nó. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ cũng cung cấp
thông tin chi tiết các đơn hàng riêng lẻ trong báo cáo thu nhập phân kỳ từ các dòng tiền cơ
bản. Ví dụ, nếu một nhà phân tích lo ngại rằng công ty đang tận dụng linh hoạt một số chi
phí nhất định thì thông tin trong báo cáo lưu chuyển tiền tệ sẽ là cơ sở để thực hiện điều
chỉnh cần thiết.
Các chú thích báo cáo tài chính cũng cung cấp thông tin có khả năng hữu ích trong việc

khôi phục các số liệu kế toán được công bố. Ví dụ, khi một công ty thay đổi chính sách kế
toán, công ty đó sẽ đưa ra lý giải cho thấy ảnh hưởng của thay đổi đó nếu là cần thiết.
Tương tự như vậy, một số công ty cung cấp thông tin chi tiết về các ước tính dồn tích như
khoản trích lập dự phòng cho các khoản nợ xấu. Phần chú thích thuế thường cung cấp
17


thông tin về sự khác biệt giữa chính sách kế toán của công ty trong báo cáo cổ đông và báo
cáo thuế. Vì báo cáo thuế thường có sự thận trọng hơn so với báo cáo cổ đông, thông tin
trong phần chú thích thuế có thể được sử dụng để ước tính lợi nhuận trong báo cáo cho cổ
đông sẽ theo các chính sách thận trọng hơn.
IV.

PHÂN TÍCH BẪY KẾ TOÁN

Có một số bẫy ngầm và quan niệm sai lầm phổ biến trong phân tích kế toán mà một nhà
phân tích nên tránh.
4.1

Kế toán bảo thủ không phải là kế toán “tốt”

Một số công ty có cách tiếp cận bằng cách trả tiền để bảo thủ trong báo cáo tài chính và để
dành phần nhiều nhất cho dự phòng. Logic này thường được sử dụng để biện minh cho
việc mở rộng R&D và quảng cáo và ghi lại nhanh chóng tài sản vô hình. Nó cũng được sử
dụng để hỗ trợ dự trữ tổn thất lớn cho các công ty bảo hiểm, cho chi phí sáp nhập và cho
các khoản chi phí cơ cấu lại.
Từ quan điểm của người sử dụng báo cáo tài chính, điều quan trọng là phải thừa nhận rằng
kế toán thận trọng không giống như kế toán “tốt”. Người dùng báo cáo tài chính muốn
đánh giá mức độ kế toán của một doanh nghiệp để nắm bắt hiệu quả kinh doanh một cách
không thiên vị và kế toán thận trọng có thể chỉ gây hiểu lầm như kế toán tích cực trong

khía cạnh này.
Điều chắc chắn đúng là khó có thể ước tính lợi ích kinh tế từ nhiều vật vô hình. Tuy nhiên,
tính chất phi vật thể của một số tài sản không có nghĩa là chúng không có giá trị. Thật vậy,
đối với nhiều công ty, các loại tài sản này có giá trị nhất. Ví dụ, hai tài sản quý giá nhất cho
các công ty dược phẩm, như Pfizer, Merck, và Novartis, là những khả năng nghiên cứu cho
phép họ tạo ra các loại thuốc mới và lực lượng bán hàng cho phép họ bán những loại thuốc
này cho bác sĩ. Tuy nhiên, chỉ tiêu không được ghi trên bảng cân đối kế toán của họ. Theo
quan điểm của các nhà đầu tư, giá trị các tài sản vô hình của các kế toán miễn cưỡng không
làm giảm tầm quan trọng của chúng. Nếu không có trong báo cáo tài chính, nhà đầu tư phải
xem xét các nguồn thông tin thay thế về các tài sản này.
Hơn nữa, kế toán bảo thủ thường cung cấp cho người quản lý cơ hội “làm mịn thu nhập”,
điều này có thể ngăn các nhà phân tích nhận ra hiệu suất kém một cách kịp thời. Cuối
cùng, theo thời gian, các nhà đầu tư có thể tìm ra các công ty bảo thủ và có thể giảm giá
tiết lộ và thông tin liên lạc của ban quản lý.
4.2

Không phải tất cả kế toán bất thường đều có vấn đề

Rất dễ nhầm lẫn giữa kế toán bất thường với kế toán có vấn đề. Mặc dù các lựa chọn kế
toán bất thường có thể khiến hiệu suất của một công ty khó so sánh với hiệu suất của các
công ty khác, việc lựa chọn kế toán như vậy có thể được biện minh nếu tình hình của công
ty là bất thường. Ví dụ, các công ty theo các chiến lược khác nhau hoặc các công ty mà
tiến hành cấu hành hoạt động kinh doanh của họ một cách sáng tạo để tận dụng lợi thế của
các tình huống thị trường cụ thể có thể đưa ra các lựa chọn kế toán bất thường để phản ánh
18


đúng quy mô kinh doanh của họ. Do đó, điều quan trọng là đánh giá lựa chọn kế toán của
công ty dựa trên bối cảnh chiến lược kinh doanh của công ty.
Tương tự, điều quan trọng là không tự động phân bổ tất cả các thay đổi trong chính sách kế

toán của công ty và số tiền tích luỹ cho động cơ quản lý thu nhập. Thay đổi kế toán cũng
có thể phản ánh hoàn cảnh kinh doanh đã thay đổi. Ví dụ, như đã thảo luận, một công ty
cho thấy sự gia tăng bất thường trong hàng tồn kho có thể đang chuẩn bị cho một giới thiệu
sản phẩm mới. Tương tự, tăng bất thường về các khoản phải thu có thể chỉ là do những
thay đổi trong chiến lược bán hàng của doanh nghiệp. Giảm bất thường trong các khoản
phải thu không thể thu hồi có thể phản ánh trọng tâm khách hàng của công ty đã thay đổi.
Do đó, điều quan trọng là một nhà phân tích xem xét tất cả các giải thích có thể cho các
thay đổi kế toán và điều tra chúng bằng cách sử dụng thông tin định tính có sẵn trong báo
cáo tài chính của công ty.
V.

GIÁ TRỊ DỮ LIỆU KẾ TOÁN VÀ PHÂN TÍCH KẾ TOÁN

Giá trị của thông tin kế toán và phân tích kế toán là gì? Với các ưu đãi và cơ hội cho các
nhà quản lý để tác động đến số liệu kế toán của công ty họ, một số cho rằng dữ liệu kế toán
và phân tích kế toán không có khả năng hữu ích cho các nhà đầu tư.
Các nhà nghiên cứu đã kiểm tra giá trị thu nhập và lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE)
bằng cách so sánh lợi nhuận chứng khoán có thể kiếm được bởi một nhà đầu tư giả định, là
một người có tầm nhìn xa hoàn hảo về thu nhập của doanh nghiệp, lợi nhuận trên vốn chủ
sở hữu (ROE) và dòng tiền cho năm sau. Để đánh giá tầm quan trọng của thu nhập, nhà
đầu tư giả định được giả định mua cổ phiếu của các công ty có thu nhập tăng trong năm
tiếp theo và bán cổ phiếu của các công ty với thu nhập tiếp theo giảm. Nếu chiến lược này
được tuân thủ một cách nhất quán, nhà đầu tư giả định sẽ kiếm được trong khoảng thời
gian 40 năm, lợi nhuận trung bình là 37,5% mỗi năm. Nếu một chiến lược đầu tư tương tự
được theo sau bằng cách sử dụng ROE, việc mua cổ phiếu với ROE tăng tiếp theo và việc
bán cổ phiếu với ROE giảm, lợi nhuận hàng năm kiếm được thậm chí sẽ cao hơn là 43%.
Ngược lại, dữ liệu dòng tiền dường như ít có giá trị hơn thu nhập hoặc thông tin ROE. Lợi
nhuận hàng năm được tạo ra từ việc mua cổ phiếu với dòng tiền tiếp theo tăng từ hoạt động
và bán cổ phiếu với dòng tiền giảm sẽ chỉ là 9%. Điều này cho thấy thu nhập của kỳ tiếp
theo và hiệu suất ROE là thông tin có liên quan hơn cho nhà đầu tư so với hiệu suất dòng

tiền.
Nhìn chung, nghiên cứu này cho thấy rằng sự sắp xếp thể chế và các công ước được tạo ra
để giảm thiểu việc lạm dụng tiềm năng kế toán của các nhà quản lý nói chung có hiệu quả
trong việc cung cấp sự đảm bảo cho các nhà đầu tư. Nghiên cứu chỉ ra rằng các nhà đầu tư
không xem quản lý thu nhập quá phổ biến để làm cho dữ liệu thu nhập hoàn toàn không
đáng tin cậy.
Một số nghiên cứu đã xem xét liệu phân tích kế toán có phải là một hoạt động có giá trị
hay không. Thực tế thì, bằng chứng này chỉ ra rằng có những cơ hội cho các nhà phân tích
cấp cao kiếm được lợi nhuận chứng khoán khả quan. Các nghiên cứu cho thấy rằng các
công ty bị chỉ trích trong các tờ báo tài chính vì việc sai lệch báo cáo tài chính sai lệch sau
19


đó đã bị giảm giá cổ phiếu trung bình 8%. Các công ty nơi người quản lý xuất hiện để tăng
doanh thu báo cáo trước khi phát hành cổ phiếu và sau đó báo cáo hiệu suất thu nhập kém
có hiệu suất cổ phiếu tiêu cực nhiều hơn sau đợt chào bán so với các công ty không có
quản lý thu nhập rõ ràng. Cuối cùng, các công ty chịu sự điều tra của SEC về quản lý thu
nhập cho thấy mức giảm giá cổ phiếu trung bình là 9% khi công ty quản lý thu nhập được
công bố lần đầu tiên và họ tiếp tục có hiệu suất cổ phiếu kém trong hai năm.
Những phát hiện này ngụ ý rằng các nhà phân tích có thể xác định các công ty có tính toán
sai lệch có thể tạo ra giá trị cho các nhà đầu tư. Các phát hiện cũng chỉ ra rằng thị trường
chứng khoán cuối cùng nhìn thấy thông qua quản lý thu nhập. Trong hầu hết các trường
hợp, quản lý thu nhập cuối cùng không được phát hiện và giá cổ phiếu phản ứng tiêu cực
với bằng chứng cho thấy các công ty đã tăng thu nhập trước đây thông qua kế toán sai lệch.
VI.

TÓM LƯỢC

Tóm lại, phân tích kế toán là một bước quan trọng trong quá trình phân tích báo cáo tài
chính doanh nghiệp. Mục đích của phân tích kế toán là đánh giá mức độ mà kế toán của

một công ty nắm bắt được thực tế kinh doanh cơ bản của nó. Phân tích kế toán cải thiện độ
tin cậy của các kết luận từ phân tích tài chính, là bước tiếp theo trong phân tích báo cáo tài
chính.
Có sáu bước chính trong phân tích kế toán. Việc phân tích bắt đầu bằng cách xác định các
chính sách và ước tính kế toán chính cho ngành công nghiệp và chiến lược kinh doanh của
công ty. Bước thứ hai là để đánh giá mức độ linh hoạt có sẵn cho các nhà quản lý đưa ra
các quy tắc và quy ước kế toán. Tiếp theo, nhà phân tích đánh giá cách các nhà quản lý
thực hiện tính linh hoạt trong kế toán của họ và các động cơ có khả năng đằng sau chiến
lược kế toán của người quản lý. Bước thứ tư liên quan đến việc đánh giá độ sâu và chất
lượng công bố của một công ty. Bước phân tích tiếp theo sẽ xác định bất kỳ dấu hiệu nguy
hiểm nào, cho thấy cần phải điều tra thêm. Bước cuối cùng trong phân tích kế toán là để
khôi phục số kế toán để loại bỏ bất kỳ tiếng ồn và thiên vị nào được đưa ra bởi các quy tắc
kế toán và quyết định quản lý.
Chương tiếp theo thảo luận về cách triển khai các khái niệm này và cho thấy cách thực
hiện một số loại điều chỉnh phổ biến nhất.
VII. CÂU HỎI THẢO LUẬN
1. Một sinh viên tài chính nói, "Tôi không hiểu tại sao bất cứ ai chú ý đến số thu nhập
kế toán, cho rằng một số" sạch "như tiền mặt từ các hoạt động có sẵn." Bạn có đồng
ý không? Tại sao hay tại sao không?
2. Fred lập luận: “Các tiêu chuẩn mà tôi thích nhất là những tiêu chuẩn loại bỏ tất cả
các quyết định quản lý trong báo cáo — theo cách đó tôi nhận được số đồng nhất
trên tất cả các công ty và không phải lo lắng về phân tích kế toán.” Bạn có đồng ý
không? Tại sao hay tại sao không?

20


3. Bill Simon nói: “Chúng ta nên loại bỏ FASB và SEC vì các lực lượng thị trường tự
do sẽ đảm bảo rằng các công ty báo cáo thông tin đáng tin cậy. ”Bạn có đồng ý
không? Tại sao hay tại sao không?

4. Nhiều doanh nghiệp nhận ra doanh thu tại thời điểm giao hàng. Điều này tạo động
lực thúc đẩy doanh thu bằng cách vận chuyển hàng hóa vào cuối quý. Xem xét hai
công ty, một trong số đó vận chuyển sản phẩm của mình đồng đều trong suốt quý
và thứ hai, vận chuyển tất cả các sản phẩm của mình trong hai tuần cuối cùng của
quý. Mỗi khách hàng của công ty thanh toán 30 ngày sau khi nhận được lô hàng.
Sử dụng tỷ lệ kế toán, làm thế nào bạn có thể phân biệt các công ty này?
5. a. Nếu báo cáo quản lý trung thực, những sự kiện kinh tế nào có khả năng nhắc
những thay đổi kế toán sau đây?


Tăng tuổi thọ tài sản khấu hao ước tính



Giảm khoản trợ cấp không thu hồi được theo tỷ lệ phần trăm của khoản phải
thu gộp



Ghi nhận doanh thu tại điểm giao hàng thay vì nhận tiền mặt tại điểm



Viết hoa phần trăm chi phí R & D phần mềm cao hơn

b. Những tính năng của kế toán, nếu có, sẽ làm cho nó tốn kém cho các nhà quản lý
không trung thực để thực hiện những thay đổi tương tự mà không có bất kỳ thay
đổi kinh tế tương ứng?
6. Nguyên tắc bảo thủ phát sinh do những lo ngại về các ưu đãi của ban quản lý nhằm
đánh giá cao hiệu suất của công ty. Joe Banks lập luận: “Chúng tôi có thể loại bỏ

chủ nghĩa bảo thủ và làm cho số kế toán hữu ích hơn nếu chúng tôi ủy quyền báo
cáo tài chính cho các kiểm toán viên độc lập thay vì quản lý doanh nghiệp.” Bạn có
đồng ý không? Tại sao hay tại sao không?
7. Một nhà quản lý quỹ nói, "Tôi từ chối mua bất kỳ công ty nào thực hiện thay đổi kế
toán tự nguyện, vì đó chắc chắn là trường hợp quản lý cố giấu tin xấu." Bạn có thể
nghĩ ra bất kỳ giải thích thay thế nào không?
8. Giá trị hợp lý kế toán cố gắng để làm cho thông tin tài chính phù hợp hơn với người
sử dụng báo cáo tài chính, có nguy cơ chủ quan lớn hơn. Bạn sẽ kiểm tra những yếu
tố nào để đánh giá độ tin cậy của các tài sản có giá trị hợp lý?

21



×